Chủ đề 1
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUAN HỆ VẬT CHẤT
VỚI Ý THỨC VÀ VẬN DỤNG VÀO VIỆT NAM.
♥
I. VẬT CHẤT VÀ CÁC HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT
1. Định nghĩa vật chất
Theo Lênin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Đây là định nghĩa khoa học nhất , hoàn chỉnh nhất về vật chất của V.I.Lênin. Định
nghĩa bao gồm các nội dung sau:
- Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý
thức bất kể sự tôn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được
-Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác
động lên giác quan của con người.
- Cảm giác, ý thức, tư duy chỉ là sự phản ánh của vật chất lên con người, tức con
người có khả năng nhận thức được vật chất, thực tại khách quan
2. Các hình thức tồn tại của vật chất:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng vật chất tồn tại bằng vận động, và vận
động của vật chất diễn ra trong không gian và thời gian. Vì vậy, vận động, không gian
và thời gian là các hình thức tồn tại của vật chất.
2.1. Vận động:
- Quan điểm siêu hình: vận động là sự di chuyển vị trí cả vật thể trong không gian, thời
gian, nguồn gốc của sự vận động là ở bên ngoài sự vật hiện tượng.
- Quan điểm duy vật biện chứng: vận động là mọi sự biến đổi nói chung. Xét về bản
chất, vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuốc tính cố hữu của vật chất,
vận động không do ai sáng tạo ra và cũng không mất đi mà nó tồn tại vĩnh viễn.
Nguồn gốc vận động là do bản thân sự vật hiện tượng quy định.
- Các hình thức cơ bản của vận động bao gồm: vận động cơ học, vật lý, hóa học, sinh
học và xã hội.
2.2 Không gian và thời gian
Không gian và thời gian là một thuộc tính khách quan của vật chất, gắn liền với
sự vận động của vật chất.
Không gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động về mặt vị trí, quảng tính,
kết cấu.
Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động về mặt độ dài diễn biến, sự
kế tiếp nhau của quá trình.
Không gian và thời gian có những tính chất sau đây:
-Tính khách quan: không gian và thời gian là một thuộc tính của vật chất, tồn tại
gắn liền với vật chất vận động. Vật chất tồn tại khách quan, do đó không gian và thời
gian cùng tồn tại khách quan.
-Tính vĩnh cữu của thời gian và tính vô tận của không gian
-Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian, tính ba chiều của
không gian là chiều dài, chiều rộng và chiều cao. Tính một chiều của thời gian là
chiều từ quá khứ đến tương lai.
II. NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC:
1. Nguồn gốc của ý thức:
1.1 Nguồn gốc tự nhiên:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là một thuộc tính của vật
chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật
chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức.
Ý thức là chức năng của bộ óc người
Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ nảy sinh ở
giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của con người. Ý
thức là ý thức của con người, nằm trong con người, không thể tách rời con người.
Ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất – thuộc tính phản ánh – phát
triển thành. Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật
chất, nội dung của nó là thông tin về thế giới bên ngoài, về vật được phản ánh
1.2 Nguồn gốc xã hội:
Ý thức chỉ được hình thành thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ
tác động vào thế giới mà con người khám phá ra những bí mật của thế giới, ngày càng
làm phong phú và sâu sắc ý thức của mình về thế giới.
Ngôn ngữ, theo C. Mác là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư
tưởng, không có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động , là thực tiển xã hội.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người thông qua lao
động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng
xã hội.
2. Bản chất của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, song đây là sự
phản ảnh đặc biệt – phản ảnh trong quá trình con người, cải tạo thế giới. Quá trình ý
thức là quá trình thống nhất của 3 mặt sau đây :
- Một là trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này
mang tính chất hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết.
- Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực
chất đây là quá trình “Sáng tạo lại” hiện tượng của ý thức, theo nghĩa mã hóa các đối
tượng vật chất thành các ý thức tinh thần phi vật chất.
- Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện
thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiển biến cái quan niệm thành cái thực
tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực.
Trong giai đoạn này con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công cụ để
tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình. Điều đó càng
nói lên tính năng động sáng tạo của ý thức.
III. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT (VC) VÀ Ý THỨC (YT)
• Theo duy tâm thì ý thức quyết định vật chất
• Theo duy vật thì vật chất quyết định ý thức
• Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa xã hội khoa học nên trong
nhận thức của chúng ta phải là vật chất quyết định ý thức.
1. Vai trò của vật chất đối với ý thức
Trong mối quan hệ với YT, VC là cái có trước, YT là cái có sau; VC là nguồn gốc
của YT; VC quyết định YT, YT là sự phản ánh đối với VC.
- YT là sản phẩm của một dạng VC có tổ chức cao, là bộ óc người nên chỉ khi có
con người thì mới có YT. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới VC thì con
người là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của thế giới VC, là sản phẩm của thế
giới VC. Kết luận này đã được chứng minh bở sự phát triển hết sức lâu dài của khoa
học về giới tụ nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: VC là
cái có trước, YT là cái có sau.
- Các yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của YT (bộ óc con
người, thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiên tượng phản ánh, lao
động, ngôn ngữ) đều, hoặc là chính bản thân thế giới VC (thế giới khách quan), hoặc
là những dạng tồn tại của VC (bộ óc người, hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ)
nên VC là nguồn gốc của YT.
- YT là sự phản ánh thế giới VC, là hình ảnh chủ quan về thế giới VC nên nội
dung của YT được quyết định bởi VC. Sự vận động và phát triển của YT, hình thức
biểu hiện của YT bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi
trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực VC nên VC không chỉ quyết
định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của
YT.
2. Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với VC, YT có thể tác động trở lại VC thông qua hoạt động
thực tiễn của con người.
- Vì YT là YT của con người nên khi nói đến vai trò của YT là nói đến vai trò
của con người. Bản thân YT tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực.
Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động VC. Song, mọi
hoạt động của con người đều do YT chỉ đạo, nên vai trò của YT không phải trực tiếp
tạo ra hay thay đổi VC mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tai khách quan,
trên cơ sở đó, con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch,
lựa chọn phương pháp, biện pháp, phương tiện, công cụ…để thực hiện mục tiêu của
mình. Ở đây, YT đã thể hiện sự tác động của mình đối với VC thông qua hoạt động
thực tiễn của con người.
- Sự tác động trở lại của YT đối với VC diễn ra theo 2 hướng: tích cực hoặc tiêu
cực. Nếu con người nhận thức đúng, có ý chí hành động, có tri thức khoa học, có tình
cảm cách mạng, có nghị lực của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con
người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của
mình, thế giới được cải tạo – đó là sự tác động tích cực của YT; còn nếu YT của con
người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì
ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan,
hành động ấy có tác dụng tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách
quan.
IV. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ VẬN DỤNG VÀO VIỆT NAM
1. Nguyên tắc khách quan:
Mục tiêu, phương thức hoạt động của con người đều phải xuất phát từ những điều
kiện, hoàn cảnh thực tế, đặc biệt là của điều kiện vật chất, kinh tế. Vì vậy, nguyên tắc
khách quan đòi hỏi con người, trong suy nghĩ và hành động cần xuất phát từ thực tế
khách quan, tôn trọng và tuần theo các quy luật khách quan vốn có của sự vật, hiện
tượng; cần tìm nguyên nhân của các sự vật, hiện tượng ở trong điều kiện vật chất
khách quan của chúng; muốn cải tạo sự vật, hiện tượng phải xuất phát từ bản thân sự
vật, hiện tượng được cải tạo. Chống tư tưởng chủ quan duy ý chí, nôn nóng, thiếu kiên
nhẫn mà biểu hiện của nó là tuyệt đối hóa vai trò, tác dụng của nhân tố con người; cho
rằng con người có thể làm được tất cả những gì mình muốn mà không chú ý đến sự
tác động của quy luật khách quan, của các điều kiện vật chất cần thiết.
2. Nguyên tắc phát huy tính năng động chủ quan:
Phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò của
nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực, năng động, sáng tạo. Nguyên
tắc này đòi hỏi con người tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và
truyền bá vào quần chúng. Ngoài ra, phải tự giác tu dưỡng để hình thành, củng cố tình
cảm, nhân sinh quan cách mạng và nghị lực cách mạng để thông nhất tính hữu cơ giữa
tính khoa học và tính nhân văn trong đinh hướng hành động.
Chống quan điểm duy ý chí: V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý
muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất
phát cho chiến lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí
áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh duy ý chí.
Bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận thức nói chung và sự hạn
chế trong quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói riêng. Do đó, Lênin đã gọi căn
bệnh này "là sự mù quáng chủ quan", là sai lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy
tâm một cách không tự giác. Về lý luận, bệnh chủ quan duy ý chí có nhiều biến thể
phức tạp và trở thành mầm mống cho nhiều căn bệnh mới trong nhận thức. Song vẫn
có khả năng được ngăn ngừa và loại bỏ.
3. Vận dụng vào Việt Nam
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội “Đảng ta đã phạm sai lầm chủ quan
duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan” trong việc xác định mục tiêu, bước đi về xây
dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế dẫn đến việc
đề ra những chỉ tiêu quá cao trong xây dựng cơ bản và phát triền sản xuất.
Trước tình hình nền kinh tế miền Bắc còn bị phá hoại, nền kinh tế miền Nam bị
đảo lộn và suy sụp, lạm phát trầm trọng, Đại hội Đảng lần thứ IV lại đề ra những chỉ
tiêu kế hoạch năm 1976 - 1980 quá cao và phát triển sản xuất quá khả năng của nền
kinh tế, như: năm 1975, phấn đấu đạt 21 triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá biển,1
triệu hecta khai hoang,1triệu 200 hecta rừng mới trồng ,10 triệu tấn than sạch, 2 triệu
tấn xi măng Đến hết năm 1980, nhiều chỉ tiêu kinh tế chỉ đạt khoảng 50-60% mức đề
ra, nền kinh tế tăng trưởng rất chậm chạp, tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân 1,5%,
công nghiệp tăng 2,6%, nông nghiệp giảm 0,15%.
Tại Đại hội Đảng VI, Đảng đã đề ra các định hướng và xác định chủ trương đổi
mới đặc biệt là đổi mới về kinh tế, thực hiện mục tiêu ba chương trình kinh tế: lương
thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Vì vậy, từ lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và từ kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đại hội Đảng lần thứ VII chỉ ra những tồn tại lớn cần giải quyết như vấn đề lạm
phát, thiếu việc làm, trong điều hành quản lý còn nhiều sơ hở, lúng túng. Đặc biệt Đại
hội cũng xác định: “Về quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải tập trung sức
đổi mới kinh tế, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống và làm việc, các
nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là
điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới trong lĩnh vực chính trị”. Đại hội đã rút ra
bài học quan trọng là: ”Mọi đường lối,chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế,
tôn trọng quy luật khách quan và hành động theo quy luật khách quan”.
Đất nước ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa,
Đảng ta chủ trương “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững”, nâng cao trình độ dân trí, trình độ tri thức và tay nghề
cho người lao động. Muốn vậy “phải khơi dậy trong dân lòng yêu nước, ý chí quật
cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà khỏi nghèo nàn,
lạc hậu” - tức phát huy tính năng động của ý thức. Đẩy mạnh đấu tranh trên lĩnh vực
tư tưởng, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tiếp tục làm sang tỏ con đường đi
lên CNXH ở nước ta. Nâng cao công tác tuyên truyền giáo dục lí luận chính trị để tạo
nên sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong Nhân dân.
Để tiến hành triệt để công cuộc đổi mới đất nước và để đổi mới thành công chúng
ta cần phải khắc phục hoàn toàn chủ nghĩa chủ quan bị mắc phải trước Đổi mới, đồng
thời ngăn ngừa không cho nó hồi sinh trở lại bằng cách thật hiện triệt để nguyên tắc
khách quan và nguyên tắc phát huy tính năng động chủ quan. Cụ thể như sau:
Phải tôn trọng hiện thực khách quan, tôn trọng vai trò quyết định của vật chất.
Cụ thể là:
- Xuất phát từ hiện thực khách quan của đất nước, của thời đại để hoạch định các đường
lối, chiến lược, sách lược xây dựng và phát triển đất nước.
- Biết tìm kiếm, khai thác, sử dụng hiệu quả những lực lượng vật chất (từ sức mạnh cá
nhân đến sức mạnh cộng đồng, từ sức mạnh kinh tế đến sức mạnh quân sự, kết hợp
sức mạnh trong nước và ngoài nước,…) để thực hiện hóa cá đường lối, chiến lược,
sách lược xây dựng và phát triển đất nước.
- Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, coi đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực
chủ yếu phát triển đất nước. Biết kết hợp hài hòa các dạng lợi ích khác nhau (lợi ích
kinh tế, lợi ích chính trị; lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần; lợi ích tập thể, lợi ích xã
hội…) thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy công cuộc Đổi mới.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm từ những sai lầm, thất bại trước Đổi mới, Đảng ta
kết luận: “ Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng
quy luật khách quan.
- Khi giải thích các hiện tượng đời sống tinh thần phải giải thích từ điều kiện vật chất ra
đời của nó.
Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của các yếu tố
chủ quan (tri thức, tình cảm, ý chí, lý trí…) tức phát huy vai trò nhân tố con người
trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cải tạo đất nước. Cụ thể là:
- Cần loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội hệ tư tưởng phản khoa học và phong tục tập quán
lỗi thời, lạc hậu.
- Không được coi thường vai trò của đường lối, chính sách, quan điểm; đặc biệt là vai
trò của tri thức khoa học.
- Cần phải xã hội hóa tri thức, nâng cao trình độ tri thức trong quần chúng nhân dân,
biến tri thức khoa học thành tri thức của quần chúng nhân dân.
- Coi sự thống nhất giữa tình cảm, ý chí và tri thức là động lực tinh thần thúc đẩy công
cuộc đổi mới. Chống lại thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ trì trệ chỉ biết làm theo kiểu
cũ, mà không biết tìm kiếm, dũng cảm theo cái mới. Phải phổ biến tri thức khoa học –
công nghệ hiện đại cho đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân; phải biết nâng cao
dân trí, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài.
- Coi trọng công tác tư tưởng, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng, đặc biệt là giáo dục chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho đông đảo người Việt Nam. Phải
nâng cao và đổi mới tư duy lý luận, mà trước hết là tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở VN.
- Kiên quyết khắc phục, ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ, hành
động đơn giản, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng mà bất chấp quy
luật khách quan, coi thường tình hình thực tế đất nước, điều kiện của thời đại.
CHỦ ĐỀ 2
MỘT SỐ NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁO LUẬN
CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀ
VẬN DỤNG CHÚNG VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI
MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I. SO SÁNH PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
1. Định nghĩa về phương pháp:
Phương pháp là một hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ những tri thức về
các quy luật khách quan dùng để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn nhằm thực hiện mục tiêu đã xác định.
2. Định nghĩa về phương pháp luận
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm, các
nguyên tắc chỉ đạo con người tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương
pháp trong nhận thức và thực tiễn.
3. Phân biệt phương pháp và Phương Pháp luận
− Phương pháp là cách thức, biện pháp, là con đường được con người vận dụng một
cách có ý thức nhằm đạt được hiệu quả tối ưu nhất trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn
Ví dụ: Khi giáo viên soạn giảng một tiết dạy trên lớp cùng một chủ đề nhưng đối
tượng học sinh ở 2 lớp có trình độ khác nhau (một lớp là lớp chuyên, một lớp là lớp
chuẩn). Nếu giáo viên đưa ra cùng một phương pháp để giảng dạy thì hiệu quả sẽ
không cao. Do vậy khi giảng dạy ở 2 lớp có trình độ tiếp thu khác nhau, giáo viên phải
thay đổi phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh.
− Phương pháp luận là sự vận dụng những nguyên tắc của thế giới quan vào quá trình
nhận thức và quá trình hoạt động thực tiễn nói chung. Khi được vận dụng như một
định hướng, một nguyên tắc chỉ đạo nhằm đạt được một hiệu quả cao nhất trong hoạt
động nhận thức thì nó trở thành phương pháp luận
− Phương pháp luận đúng sẽ đảm bảo tìm ra các phương pháp nghiên cứu đúng. Ngược
lại, nếu Phương pháp luận sai lầm thì các phương pháp nghiên cứu tìm được để
nghiên cứu đối tượng đó cũng sẽ sai lầm
Ví dụ: Xuất phát từ luận điểm cho rằng, lịch sử phát triển của xã hội là lịch sử đấu
tranh giai cấp, những người mác xít khi nghiên cứu các hiện tượng xã hội cần áp dụng
phương pháp phân tích giai cấp, cần đứng vững trên quan điểm giai cấp. Ngược lại
những người theo trường phái tâm lý trong xã hội học lại xuất phát từ chỗ cho rằng,
kinh nghiệm tâm lý và những xúc cảm của con người tạo nên bản chất của các hiện
tượng và các quá trình xã hội. Vì vậy, họ đòi hỏi phải nghiên cứu các hiện tượng xã
hội bằng các phương pháp của tâm lý học
Như vậy, xuất phát từ những Phương pháp luận khác nhau, người ta đã đi đến
những phương pháp nghiên cứu khác nhau và tính chất đúng đắn hay sai lầm của
phương pháp luận có ảnh hưởng quyết định đến thành công hay thất bại của việc tìm
tòi và vận đụng các phương pháp
II. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN CƠ BẢN VÀ VẬN
DỤNG VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
1. Quan điểm toàn diện
Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong việc nhận thức các sự vật
và hiện tượng, quan điểm toàn diện đòi hỏi để có được nhận thức đúng đắn về sự vật,
chúng ta phải xem xét nó:
− Một là, trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính
khác nhau của chính sự vật đó;
− Hai là, trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác (kể cả trực tiếp và
gián tiếp). Hơn thế nữa, quan điểm toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức được sự vật,
chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Ở mỗi
thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao giờ cũng chỉ phản
ánh được một số lượng hữu hạn những mối liên hệ. Bởi vậy, tri thức đạt được về sự
vật cũng chỉ là tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn.
Ý thức được điều đó, chúng ta sẽ tránh được việc tuyệt đối hoá những tri thức đã
có về sự vật, và tránh xem đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối không thể bổ sung,
không thể phát triển. Để nhận thức sự vật, chúng ta cần phải nghiên cứu tất cả các mối
liên hệ, “cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai
lầm và sự cứng nhắc”.
Từ những điều vừa trình bày trên đây có thể rút ra kết luận rằng, quá trình hình
thành quan điểm toàn diện đúng đắn với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận
để nhận thức sự vật sẽ phải trải qua các giai đoạn cơ bản là đi từ ý niệm ban đầu về
cái toàn thể đến nhận thức một mặt, một mối liên hệ nào đó của sự vật đó; cuối
cùng, khái quát những tri thức phong phú đó để rút ra tri thức về bản chất của sự
vật.
Vận dụng quan điểm toàn diện vào hoạt động thực tiễn cũng đòi hỏi chúng ta
phải kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách dàn đều” và “chính sách có trọng điểm”
(V.I.Lênin). Trong khi khẳng định tính toàn diện, phạm vi bao quát tất cả các mặt, các
lĩnh vực của quá trình đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc là thứ VI của Đảng cũng
đồng thời coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu đột
phá; trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới cả lĩnh vực kinh tế lẫn lĩnh vực
chính trị, Đảng ta cũng xem đổi mới kinh tế là trọng tâm. Thực tiễn 18 năm đổi mới ở
nước ta mang lại nhiều bằng chứng xác nhận tính đúng đắn của những quan điểm nêu
trên. Khi đề cập tới những vấn đề này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng đã khẳng định: “Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi
mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và chính sách đối nội, đối
ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã
đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế,
khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tình thần
để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niệm tin của nhân dân, tạo thuận
lợi để đổi mới các mặt khác nhau của đời sống xã hội”.
Mọi sự vật đều tồn tại trong không- thời gian nhất định và mang dấu ấn của không
- thời gian đó. Do vậy, chúng ta cần có quan điểm lịch sử - cụ thể khi xem xét và giải
quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra.
2. Quan điểm lịch sử - cụ thể
Khi xem xét và giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra đòi hỏi chúng ta phải chú
ý đúng mức tới hoàn cảnh lịch sử - cụ thể đã làm phát sinh vấn đề đó, tới sự ra đời và
phát triển của nó, tới bối cảnh hiện thực - cả khách quan lẫn chủ quan. Khi quan sát
một quan điểm, một luận thuyết cũng phải đặt nó trong những mối quan hệ như vậy.
Chân lý sẽ trở thành sai lầm, nếu nó bị đẩy ra ngoài giới hạn tồn tại của nó.
Chẳng hạn, khi đánh giá vị trí lịch sử của mô hình hợp tác xã nông nghiệp ở miền
Bắc vào những năm 1960 - 1970, nếu chúng ta không đặt nó vào trong hoàn cảnh
miền Bắc, đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, đặc biệt từ giữa những năm
1965 - khi đế quốc Mỹ đã đưa cuộc chiến tranh xâm lược bằng không quân ra miền
Bắc, không đặt nó trong điều kiện chúng ta còn thiếu kinh nghiệm trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội, còn bị ảnh hưởng rất lớn quan niệm về mô hình chủ nghĩa xã hội đã
được xác lập ở một loạt nước xã hội chủ nghĩa đi trước thì chúng ta, một là, sẽ không
thấy được một số giá trị tích cực của mô hình hợp tác xã trong điều kiện lịch sử đó,
hai là, sẽ không thấy hết những nguyên nhân bên trong và bên ngoài dẫn đến việc duy
trì quá lâu cách làm ăn như vậy, khi hoàn cảnh đất nước đã thay đổi.
Khái quát ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến và nguyên lý về sự phát triển, tức là phương pháp biện chứng trong việc nhận
thức và hoạt động thực tiễn, Ph.Ăngghen viết: “Phép biện chứng là phương pháp mà
điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng
trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát
sinh và sự tiêu vong của chúng”. Trong cùng một cách xem xét vấn đề tương tự như
vậy, V.I.Lênin cho rằng, để có tri thức đúng về sự vật, “bản thân sự vật phải được xem
xét trong những quan hệ của nó và trong sự phát triển của nó”.
3. Quan điểm phát triển
Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển cung cấp cho chúng ta phương
pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới là: khi xem xét các sự vật và hiện
tượng phải đặt nó trong sự vận động, trong sự phát triển, phải phát hiện ra các xu
hướng biến đổi, chuyển hoá của chúng.
Quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận thức sự
vật hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt đối hoá một nhận
thức nào đó về sự vật có được trong hoàn cảnh lịch sử phát triển nhất định, ứng với
giai đoạn phát triển nhất định của nó và xem đó là nhận thức duy nhất đúng về toàn bộ
sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm
trọng.
Hơn nữa, quan điểm phát triển cũng đòi hỏi không chỉ thấy sự vật như là cái đang
có, mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển trong tương lai của nó. Trong quá
trình phát triển, sự vật thường đồng thời có những sự biến đổi tiến lên và có cả những
biến đổi thụt lùi. Quan điểm phát triển đúng đắn về sự vật chỉ có được, khi bằng tư
duy khoa học chủ thể khái quát để làm sáng tỏ xu hướng chủ đạo của tất cả những
biến đổi khác nhau đó.
Sự phát triển của các sự vật và hiện tượng trong thực tế là quá trình biện chứng
đầy mâu thuẫn. Do vậy, quan điểm phát triển được vận dụng vào quá trình nhận thức
cũng đòi hỏi chúng ta phải thấy rõ tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như
là một hiện tượng phổ biến. Thiếu quan điểm khoa học như vậy, người ta rất dễ bi
quan, dao động khi mà tiến trình cách mạng nói chung và sự tiến triển của từng lĩnh
vực xã hội cũng như cá nhân nói riêng tạm thời gặp khó khăn, trắc trở. Vận dụng quan
điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận của hoạt động thực tiễn
nhằm thúc đẩy sự vật phát triển theo quy luật vốn có của nó đòi hỏi chúng ta phải tìm
ra mâu thuẫn của chính sự vật, và bằng hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn.
Chỉ bằng cách đó, chúng ta mới góp phần tích cực vào sự phát triển.
Sự phát triển biện chứng của các quá trình hiện thực và của tư duy được thực hiện
bằng con đường thông qua những sự tích luỹ về lượng mà tạo ra sự thay đổi về chất,
thông qua phủ định của phủ định. Do vậy, việc vận dụng quan điểm phát triển vào
hoạt động thực tiễn nhằm cải tạo sự vật đòi hỏi chúng ta phải phát huy nỗ lực của
mình trong việc hiện thực hoá hai quá trình nêu trên.
4. Phương pháp đi tử trừu tượng đến cụ thể:
Các sự vật, hiện tượng của thế giới bao giờ cũng tồn tại dưới dạng cái cụ
thể. Cái cụ thể này được phản ánh vào nhận thức dưới hai hình thức: cái cụ thể
cảm tính và cái cụ thể trong tư duy. Cái cụ thể cảm tính là điều bắt đầu của
nhận thức; cái cụ thể trong tư duy là kết quả của tư duy lý luận, nó phản ánh
cái cụ thể khách quan bằng hệ thống những khái niệm, phạm trù, quy luật.
Cái trừu tượng là kết quả sự trừu tượng hoá một mặt, một mối liên hệ nào
đó trong tổng thể phong phú của sự vật. Vì vậy, cái trừu tượng là một bộ phận
nào đó của cái cụ thể, biểu hiện một mặt nào đó của cái cụ thể, là bậc thang
của sự xem xét cái cụ thể. Từ nhiều cái trừu tượng tư duy tổng hợp lại thành
cái cụ thể trong tư duy.
Phương pháp khoa học tổng hợp cái trừu tượng về từng mặt, từng thuộc tính, từng
mối quan hệ của sự vật, hiện tượng để tái tạo lại cái cụ thể trong tư duy. Cái cụ thể trong
tư duy là sự tái hiện đầy đủ nhất về bản chất cái cụ thể trong thực tế. Đi TTTĐCT là
"phương pháp nhờ đó mà tư duy quán triệt được cái cụ thể và tái tạo nó với tư cách là
một cái cụ thể trong tư duy" (Mac và Enghen). Quá trình biện chứng của nhận thức
chân lí khách quan trải qua hai giai đoạn: trực quan sinh động và tư duy trừu tượng. Đó
chính là quá trình di chuyển cái cụ thể cảm tính vào trong đầu óc con người và cải biến,
xây dựng ở trong đó cái cụ thể tinh thần. Ở giai đoạn thứ nhất, toàn bộ các biểu tượng
biến thành những tính quy định trừu tượng; ở giai đoạn thứ hai, sự tổng hợp những tính
quy định trừu tượng này lại dẫn đến sự tái tạo ra cái cụ thể trong tư duy. Phương pháp đi
TTTĐCT chính là sự khái quát giai đoạn thứ hai. Mac là người đã sử dụng thành công
phương pháp này trong bộ "Tư bản".
“Thực tiễn có vai trò kiểm nghiệm tri thức đã nhận thức được. Do đó, thực tiễn là
tiêu chuẩn của chân lý, là cơ sở động lực, mục đích của nhận thức. Mục đích cuối
cùng của nhận thức không chỉ để giải thích thế giới mà để cải tạo thế giới”.
Chủ nghĩa Mác ra đời nhằm cải tạo thế giới, nhằm tạo ra một thế giới không có
người bóc lột người …, một viễn cảnh tươi đẹp mà ai cũng phải mơ ước! Đó là một
trực quan mà nó muốn xây dựng nên.
5. Phương pháp thống nhất giữa lịch sử và logic:
Lịch sử là phương pháp phản ánh trong tư duy quá trình lịch sử- cụ thể của
sự vật với những chi tiết của nó trong sự vận động phát triển vốn có. Chẳng
hạn việc nghiên cứu chủ nghĩa tư bản bằng phương pháp lịch sử đòi hỏi phải
bắt đầu mô tả quá trình phát sinh, phát triển của chủ nghĩa tư bản trong các
nước riêng lẻ ở châu Âu, châu Mỹ với vô số các chi tiết và các hình thức cụ
thể bao gồm cái phổ biến, tất nhiên, đặc thù, đơn nhất, ngẫu nhiên.
Phương pháp lịch sử có giá trị to lớn và quan trọng nhờ nó con người có thể
nắm bắt tương đối trọn vẹn quá trình đã diễn ra sự vật. Do đó nếu không có
phương pháp lịch sử thì không có khoa học lịch sử. Tuy nhiên phương pháp
lịch sử có hạn chế ở chỗ, phương pháp này chưa chỉ rõ mối liên hệ bản chất,
tất yếu xuyên suốt bên trong một sự vật hay nhiều sự vật.
Lôgíc là phương pháp vạch ra bản chất, tính tất nhiên, tính quy luật của sự
vật dưới hình thức lý luận trừu tượng và khái quát.
So với phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc có nhiệm vụ dựng lại cái
lôgíc khách quan trong sự phát triển của sự vật nên có ưu thế ở chỗ nó không
những phản ánh được bản chất, tất yếu, quy luật phát triển của sự vật mà nó
còn phản ánh được lịch sử phát triển của sự vật ấy (một cách tóm tắt, khái
quát, trên những giai đoạn chủ yếu). Phương pháp lôgíc có khả năng kết hợp
trong bản thân mình hai yếu tố của sự nghiên cứu: Nghiên cứu kết cấu của sự
vật cùng với hiểu biết lịch sử của sự vật trong sự thống nhất chặt chẽ của
chúng.
Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc là hai phương pháp nghiên cứu
khác nhau, nhưng lại gắn bó chặt chẽ với nhau. Bởi vì muốn hiểu biết bản chất
và quy luật của sự vật thì phải hiểu lịch sử phát sinh, phát triển của nó. Mặt
khác có nắm được bản chất và quy luật của sự vật mới nhận thức thức được
lịch sử của nó một cách đúng đắn và sâu sắc. Phương pháp lịch sử cũng phải
nắm lấy cái lôgíc, phải rút ra sợi dây lôgíc chủ yếu của lịch sử thông qua việc
phân tích các sự kiện và hiện tượng cụ thể. Còn phương pháp lôgíc phải dựa
trên các tài liệu lịch sử để khái quát và chứng minh và rốt cuộc phải đem lại
lịch sử trong tính bản chất của nó. Lịch sử mà thiếu lôgíc sẽ mù quáng, còn
lôgíc mà thiếu lịch sử thì không có đối tượng, dễ rơi vào chủ quan, tư biện.
CHỦ ĐỀ 3
I. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN
1. Phạm trù thực tiễn là gì?
a. Định nghĩa
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có tính xã hội - lịch sử của con
người nhằm biến đổi tự nhiên, xã hội và bản thân con người .
b. Các hình thức cơ bản của thực tiễn :
Hoạt động thực tiễn có 3 hình thức cơ bản:
− Lao động sản xuất vật chất là hình thức thực tiễn cơ bản nhất, là hoạt động trực tiếp
tác động vào tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã
hội.
− Hoạt động biến đổi xã hội là hình thức thực tiễn cao nhất, Là hoạt dộng của con người
trong các lĩnh vực chính trị xã hội nhằm phát triển và hoàn thiện các thiết chế xã hội,
các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi cho hoạt động sản xuất và tạo ra những môi
trường xã hội xứng đáng với bản chất con người bằng cách đấu tranh giai cấp và cách
mạng xã hội.
− Thực nghiệm khoa học là hình thức thực tiễn đặc biệt, nhằm mục đích phục vụ nghiên
cứu khoa học và kiểm tra lý thuyết khoa học.
2. Phạm trù lý luận
a. Lý luận là gì
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn phản ánh những
mối liên hệ bản chất, những quy luật của sự vật, hiện tượng.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người ,
là tổng hợp những tri thức về tụ nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”.
Để hình thành lí luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh nghiệm.
Nhận thức kinh nghiệm là quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại diễn biến của các sự vật
hiện tượng. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh
nghiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm thong thường và tri thức kinh nghiệm khoa
học.Tri thức kinh nghiệm tuy là thành tố của tri thức ở trình độ thấp nhưng nó là cơ sở
để hình thành lý luận.
Lý luận có nghững cấp độ khác nhau tùy phạm vi phản ánh và vai trò của nó, cps
thể phân chia lý luận thành lí luận ngành và lí luận triết học.
Lý luận ngành là ly luận khái quát những quy luật hình thành và phát triển của
một ngành. Nó là cơ sở để sáng tạo tri thức cũng như phương pháp luận hoạt động của
ngành đó, như lý luận văn học, lý luận nghệ thuật…
Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới và con
người, là thế giới quan và phương pháp luận nhận thức và hoạt động của con người.
3. Mối quan hệ/ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận và ngược lại
3.1. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận, lý
luận hình thành, phát triển sản xuất từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực
tiễn:
3.1.1 Thực tiễn là cơ sở cuả lý luận:
Xét một cách trực tiếp những tri thức được khái quát thành lý luận là kết quả của
quá trình hoạt động thực tiễn cuả con người. Thông qua kết quả của hoạt động thực
tiễn, kể cả thành công cũng như thất bại, con người phân tích cấu trúc, tích chất và
các mối quan hệ của các yếu tố, các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để hình
thành lý luận. Quá trình hoạt động thực tiễn là cơ sở để bổ sung và điều chỉnh các lý
luận đã được khái quát. Mặt khác, hoạt động thực tiễn của con người làm nảy sinh
những vấn đề mơi đòi hỏi quá trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết. Thông qua đó,
lý luận được bổ sung mở rộng. Chính vì vậy, V.I.Lênin nói: “Nhận thức lý luận phải
trình bày khách thể trong tính tất yếu của nó, trong những quan hệ toàn diện cuả nó,
trong sự vận động mâu thuẫn cuả nó tự nó và vì nó”
3.1.2 Thực tiễn là động lực của lý luận:
Hoạt động của con người không chỉ là nguông gốc để hoàn thiện các cá nhân mà
còn góp phần hoàn thiện các mối quan hệ của con người với tự nhiên, với xã hội. Lý
luận được vận dụng làm phương pháp cho hoạt động thực tiễn,mang lại lợi ích cho
con người càng kích thích cho con người bám sát thực tiễn khái quát lý luận. Quá
trình đó diễn ra không ngừng trong sự tồn tại của con người, làm cho lý luận ngày
càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn. Nhờ vậy hoạt động của con người không bị
hạn chế trong không gian và thời gian. Thông qua đó, thực tiễn đã thúc đẩy một ngành
khoa học mới ra đời – khoa học lý luận
3.1.2 Thực tiễn là mục đích của lý luận
Mặc dù lý luận cung cấp những tri thức khái quát về thế giới để làm thỏa mãn
những nhu cầu hiểu biết của con người nhưng mục đích chủ yếu của lý luận là nâng
cao những hoạt động của con người trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao
hơn, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận không
thể tạo lên những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu cầu đó chỉ được thực
hiện trong hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ biến đổi tự nhiên và xã hội theo
mục đích của con người. Đó thực chất là mục đích của lý luận. Tức lý luận phải đáp
ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người
3.1.4 Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận
Tính chân lý của lý luận chính là sự phù hợp của lý luận với thực tiễn khách quan
và được thực tiễn kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận với hoạt động thực
tiễn của con người. Do đó mọi lý luận phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm.
Chính vì thế mà C. Mác nói : “vấn đề đẻ tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt
đến chân lý của khách quan không, hoàn toàn không phỉa vẫn đề lý luận mà là vấn đề
thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”. Thông qua
lý luận những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào khp tàng chi thức nhân
loại, những kết luận chưa phù hợp thực tiễn thì tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận
thức lại. Giá trị của lý luận nhất thiết phải được chứng minh trong hoạt động thực tiễn.
Tuy thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận, nhưng không phải mọi thực tiễn
đều là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn là tiêu chuẩn chấn lý của lý luận khi thực tiễn
đạt đến mức toàn vẹn của nó. Tính toàn vẹn của thực tiễn là thực tiễn đã trải qua quá
trình tồn tại, hoạt động, phát triển và chuyển hóa. Đó là chu kỳ tất yếu của thực tiễn.
Thực tiễn có nhiều giai cấp phát triển khác nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát một giai
đoạn nào đó của thực tiễn thì lý luận có thể xa rời thực tiễn. Do đó chỉ những lý luận
nào phản ánh được tính toàn vẹn của thực tiễn thì mới đạt đến chân lý. Chính vì vậy
mà V.I.Leenin cho rằng :“Thực tiễn của con người lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần
được in vào ý thức của con người bằng những hình tượng logic. Những hình tượng
này có tính vững chắc của một thiên khiến, có một tính chất công lý, chính vì sự lặp
đi lặp lại hàng nghìn triệu lần ấy”
3.2. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại, lý luận phải được vân
dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn
Lý luận đóng vai trò soi đường cho thực tiễn vì lý luận có khả năng định hướng
mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo
được khả năng phát triển cũng như các mối quan hệ của thực tiễn, dự báo được những
rủi ro đã xảy ra, những hạn chế những thất bại có thể có trong quá trình hoạt động.
Như vậy lý luận không chỉ giúp con người hoạt động hiện quả mà còn là cơ sở để
khắc phục những hạn chế và tăng năng lực hoạt động của con người. Mặt khác, lý
luận còn có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng liên kết các cá nhân thành cộng đồng
tạo thành sức mạnh vô cùng to lớn của quần chúng trong cải tạo tự nhiên và cải tạo xã
hội. Chính vì vậy, C. Mác đã cho rằng: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể
thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng
lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”
Mặc dù lý luận mang tính khái quát cao, song nó còn mang tính lịch sử, cụ thể.
Do đó, khi vận dụng lý luận chúng ta còn phân tích cụ thể mỗi tính hình cụ thể. Nếu
vân dụng lý luận máy móc, giáo điều, kinh viện thì chẳng những hiều sai giá trị của lý
luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch sự thồng nhất tất yếu giữa lý
luận và thực tiễn
Lý luận hình thành là kết quả của quá trình nhận thức lâu dài và khó khăn của
con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn tuy phong phú, đa dạng
nhưng không phải khôn g có tính quy luật. Tính quy luật của thực tiễn được khái quát
dưới hình thức lý luận. Mục đích của lý luận không chỉ là phương pháp mà còn định
hướng cho hoạt động thực tiễn. Đó là định hướng mục tiêu, biện pháp sử dụng lực
lượng, định hướng giải quyết các mối quan hệ trong hoạt động thực tiễn. Không
những thế lý luận còn định hướng mô hình của hoạt động thực tiễn. Vận dụng lý luận
vào hoạt động thực tiễn, trước hết từ lý luận để xây dựng mô hình thực tiễn theo
những mục đích khác nhau của quá trình hoạt động, dự báo các diễn biến các mối
quan hệ, lực lượng tiến hành và những phát sinh của nó trong quá trình phát triển đẻ
phát huy các nhân tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực nhằm đạt kết quả cao.
Lý luận tuy là logic của thực tiễn, song lý luận có thể lạc hậu với thực tiễn. Vận
dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát diễn biến của thực tiễn để kịp
thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý luận, hoặc có thể thay đổi lý luận
cho phù hợp với thực tiễn. Khi vận dụng lý luận vào thực tiễn, chúng có thể mang lại
hiệu quả có thể không, hoặc kết quả chưa rõ ràng. Trong trường hợp đó, giá trị của lý
luân phải do thực tiễn quy định. Tính năng động của lý luận chính là điều chỉnh cho
phù hợp với thực tiễn. Lênin nhận xét rằng: “Thực tiễn cao hơn lý luận, vì nó có ưu
điểm không những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp”
II. VẬN DỤNG NÓ VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức. Đó là
bài học về quán triệt quan điểm thực tiễn - nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin, quan điểm cơ bản và hàng đầu của triết học Mác xít. Sự nghiệp đổi mới với
tính chất mới mẻ và khó khăn của nó đòi hỏi phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự
khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi
mới trong hoạt động thức tiễn. Tuy nhiên, lý luận không bỗng nhiên mà có và cũng
không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về lý luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa,
thực tiễn lại là cơ sở để nhận thức, của lý luận. Phải qua thực tiễn rồi mới có kinh
nghiệm, mới có cơ sở đề khái quát thành lý luận.
Vì vậy, quá trình đổi mới ở nước ta chính là quá trình vừa học vừa làm, vừa
làm vừa tổng kết lý luận, đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi quay trở
lại quá trình đổi mới. Có những điều chúng ta phải mò mẫm trong thực tiễn, phải
trải qua thể nghiệm, phải làm rồi mới biết, thậm chí có nhiều điều phải chờ thực
tiễn. Ví dụ như vấn đè chống lạm phát, vấn đề khoán trong nông nghiệp, vấn đề
phân phối sản phẩm Trong quá trình đó, tất nhiên sẽ không tránh khỏi việc phải
trả giá cho những khuyết điểm, lệch lạc nhất định.
Ở đây, việc bám sát thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ và nhân dân là
rất quan trọng. Trên cơ sở, phương hướng chiến lược đúng, hãy làm rồi thực tiễn sẽ
cho ta hiểu rõ sự vật hơn nữa - đó là bài học không chỉ của sự nghiệp kháng chiến
chống ngoại xâm mà còn là bài học của sự nghiệp đổi mới vừa qua và hiện nay.
Trong khi đề cao vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp, không hề coi
nhẹ lý luận. Quá trình đổi mới là quá trình Đảng ta không ngừng nâng cao trình độ
lý luận của mình, cố gắng phát triển lý luận, đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó được thể hiện qua năm
bước chuyển của đổi mới tư duy phù hợp với sự vận động của thực tiễn cuộc sống
trong những hoàn cảnh và điều kiện mới.
Việc vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thường dẫn đến hai
sai lầm cực đoan là bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều chủ nghĩa. Đây
là hai "căn bệnh" mà cán bộ, đảng viên chúng ta ít nhiều mắc phải trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa qua và đã gây những tác hại nhất định.
1. Bệnh giáo điều :
Chủ nghĩa giáo điều là phương pháp tư duy vận dụng những khái niệm, những
công thức bất biến, không chủ ý đến những tài liệu mới của thực tiễn và của khoa
học, những điều kiện cụ thể của địa điểm và thời gian, tức là coi thường nguyên lý
về tính cụ thể của chân lý. Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hóa
lý luận, coi thường kinh nghiệm, khuyết đại vai trò của lý luận để hạ thấp vai trò
của thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử cụ thể, áp
dụng kinh nghiệm một cách rập khuôn, máy móc.
Biểu hiện của bệnh giáo điều:
Học, nghiên cứu lý luận dừng lại ở câu chữ (tầm thường, trích cú) không tiêu
hóa được kiến thức sách vở, không nắm được thực chất khoa học của lý luận.
Coi lý luận như là một cái gì đã xong xuôi không cần phải bổ sung thêm phát triển
(tôn giáo hóa khoa học).
Vận dụng lý luận và kinh nghiệm đã có rập khuôn máy móc không tính đến
điều kiện lịch sử-cụ thể, không tính đến trình độ của thực tiễn.
2. Bệnh kinh nghiệm :
Bệnh kinh nghiệm là tư tưởng tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi thường lý luận
khoa học, khuyết đại vai trò thực tiễn để hạ thấp vai trò lý luận. Người mắc bệnh
kinh nghiệm thường thỏa mãn với vốn kinh nghiệm bản thân, ngại học lý luận,
không chịu nâng cao trình độ lý luận, coi thường khoa học kĩ thuật, coi thường giới
trí thức, thiếu nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ trì trệ. Nước ta vì tình trạng sản xuất
nhỏ là phổ biến, trình độ dân trí thấp, khoa học kỹ thuật chưa phát triển, tư tưởng
phong kiến còn ảnh hường nhiều trong nhân dân nên đó là những mảnh đất thuận
lợi cho bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa nảy sinh
Biểu hiện của bệnh kinh nghiệm:
Thỏa mãn với vốn liếng kinh nghiệm, chỉ đạo thực tiễn bằng kinh nghiệm, ngộ
nhận kinh nghiệm là lý luận, là quy luật,
Tiếp xúc với lý luận ở trình độ tư duy kinh nghiệm từ đó tầm thường hóa, thô
tục hóa, biến lý luận thành công thức, đơn thuốc cứng nhắc dẫn đến xuyên tạc lý
luận.
Coi thường lý luận, không chịu khó vận dụng lý luận vào thực tiễn, cuộc sống.
Không tin vào lý luận.
Tâm lý ngại vận dụng lý luận.
3. Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bệnh giáo điều :
− Nguyên nhân dẫn đến bệnh giáo điều
Sự xa tời thực tiễn đất nước và thời đại trong quá trinhg xây dựng chủ nghĩa xã
hội, Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bệnh giáo điều. Vì xa rời thực tiễn sẽ
không có cơ sở và khả năng vận dụng lý luận một cách đúng đắn, cũng như phát
triển sáng tạo lý luận. Mặc khác, do không bám sát sự vận động của cuộc soosngs
nên lý luận, chủ trương, chính sách không được kiểm tra và kị thời điều chỉnh, bổ
sung, đổi mới cho phù hợp với hiện thực luôn vận động. Do vậy, xa rời thực tiễn sẽ
không tránh khỏi giáo điều.
Do sự tác động tiêu cực của cơ chết tập trung quan liêu bao cấp kéo dài cũng
dẫn tới chủ nghĩa giáo điều Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hành chính hóa la
fcow chế đối lập với yêu cầu phát triển sáng tạo của sự nghiệp xây dựng xã hội chủ
nghĩa. Nó làm triệt tiêu tính năng động, tích cực sáng tạo cảu cán bộ, làm nảy sinh
tệ quan liêu, xa tời quần chúng do mọi vấn đề hầy như được tiến hành theo pháp
lệnh từ trên xuống dưới, bất chấp thực tiễn có nhấp nhận hay không, coi nhẹ hoạt
động dân chủ, dần dần làm phát sih tệ độc đoán, chueyen quần, gia trưởng, coi
thường kỷ cương pháp luật, coi thường quần chubgs. Cơ chế bao cấp trong công tác
lý luận nói chung và trong nghiên cứu triết học nói riêng cũng là nguyên nhân quan
trọng gây ra tình trạng lý luận xa rời cuộc sống, ngăn cách lý luận với thực tiễn.
Thực chất của cách nghĩ không đúng đắn này có lẽ xuất phát từ nhận thức sai lệch
nguyên nhân thống nhất giữa tính đảng và tỉnh khoa học, nên đã dẫn tới phá vỡ sự
thống nhất lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu lý luận nói chung và triết học nói
riêng.
− Nguyên nhân dẫn tới bệnh kinh nghiệm
Sự yếu kém về lý luận là một nguyên nhân trực tiếp và rất quan trọng của bệnh
kinh nghiệp. Tuy nhiên, sự yếu kém về lý luận không chỉ dẫn đến bệnh kinh
nghiệm mà còn dẫn đến bệnh giáo điều. Bởi vì chính sự y
Yếu kém về lý luận làm cho chúng ta dễ tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mac-Lenin một
cách đơn giản, phiến diện, cắt xén, sơ lược không đến nơi đến chốn. Việc tiếp thu lý
luận từ trình độ tư duy kinh nghiệm đễ dẫn đến làm méo mó lý luận. Trước đây, khi
nói về Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng Đảng ta còn có nhiều nhược điểm mà
một trong những nhược điểm lớn là trình độ lý luận còn thấp kém.
4. Khắc phục bệnh giáo điều và kinh nghiệm :
a. Phải nâng cao trình độ tư duy lý luận khoa học cho đội ngũ cán bộ. Muốn như
vậy cần phải quyết tốt một số vấn đề sau:
Giúp cán bộ Đảng viên thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác-Leenin, tư tưởng Hồ
Chí Minh vận dụng sáng tạo chù nghĩa Mác-Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như
kinh nghiệm lịch sử đã được tích lũy và từ chính tình hình thực tiễn của đất nước để
đổi mới công tác lý luận, nhằm góp phần điều chỉnh, bổ syng, phát triển những quan
điểm mới về CNXH và con đường đi lên CNXH, phù hợp với những biến đổi to lớn
về thực tiễn, nhằm từng bước xây dựng và hoàn chỉnh đường lối mới toàn diện, làm
cho nước ta có bước phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Rèn luyện và phát triển tư duy biện chứng duy vật vì mỗi tri thức triết học là
những tri thức mang ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận. Do đó, nằm vững các
tri thức triết học trong tính hệ thống và nâng cao lên trình độ tư duy hệ thống là điều
kiện để khắc phục tình trạng tách rời giữa lý luận và thực tiễn.
Lấy chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động. Mỗi Đảng viên phải thấm nhuần lý luận trong công tác để
tránh rơi vào tình trạng mò mẫm, tự phát. Lý luận làm cơ sở cho công tác tư tưởng,
cho việc đấu tranh tư tưởng, lý luận phải góp phần xây dựng niềm tin vào CNXH và
con đường đi lên CNXH nước ta, giúp ta có định hướng tư tưởng đúng đắn.
Chống tư tưởng coi lý luận như hệ thống khép kín, bất di bất dịch, vì sức sống cảu
lý luận chân chính nằm ở sự bổ sung thường xuyên cái mới, rút ra sự kháo quát thực
tiễn đa dạng và phong phú. Thực tiễn cũng chính là nguồn gốc sâu xa tiếp them sinh
lực dồi dào, phong phú cho hoạt động lý luận, điều chỉnh nó theo hướng đúng, đưa nó
lên một tầm cao mới. Do đó, phải thường xuyên đổi mới công tác lý luận, làm cho nó
sự sống đọng và thực sự định hướng cho công cuộc đổi mới ở VN
b. Quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
Với VN, để thực hiện thằng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước, chúng ta phải quán
triệt một nguyên tắc hết sức quan trọng là nguyên tắc nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, nói rõ sự thật.
Con đường khắc phục bệnh giáo điều là phải thường xuyên đối chiếu lý luận với
cuộc sống, khắc phục sự lạc hậu của lý luận, thu hẹp khoảng cách giữa lý luận và thực
tiễn. Phải coi trọng tổng kết thực tiễn, qua tổng kết thực tiễn mà sửa đổi, phá triển lý
luận đó đã có bổ sung, hoàn chỉnh, hình thành lý luận mới để chỉ đạo thực tiễn.
c. Xây dựng từng bước nền dân chủ XHCN
Đây là một nhân tố cơ bản để khắc phục, ngăn ngừa bệnh giáo điều, nhằm tránh sự
can thiệp một cách duy ý chỉ vào các quá trình kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật.
Nếu áp đặt ý muốn chủ quan, xa rời thực tế khách quan vào việc hoạch định đường
lối chính sách vào hoạt động thực tiễn sẽ dẫn đến những biến dạng trong các lĩnh vực
của đời sống xã hôi, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng trầm trọng kéo dài.
CHỦ ĐỀ 4
SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM
Trước 1986, LLSX thời kì đó ở trình độ như thế nào? Là cao hay thấp? Là
cá thể hay xã hội hoá? Chứng minh.
Với thực trang LLSX còn thấp thì trước đổi mới VN thiết lập quan hệ SX
như thế nào? Và làm như vậy là đúng hay sai, phù hợp hay không? Nếu đúng thì
kết quả ra sao? Nếu sai thì hậu quả thế nào?
Từ 1986- nay, VN xây dựng 3 mặt QHSX ntn để thúc đẩy sự phát triển? Với
LLSX thấp còn lưu lại thì tại ĐH Đảng lần 6, cta đã thiết lập lại ntn? Phù hợp
chưa, ở mức độ nào? Kết quả/ Hậu quả?
Những năm gần đây, QHSX ntn, LLSX đã phát triển chưa? Nếu chưa phát
triển thì do đâu, QHSX có lỗi gì? Và cta phải làm gì để thúc đẩy phát triển. Đề đạt
những giải pháp cho những năm gần đây và trong tương lai gần?
Bài làm:
Giai đoạn trước năm 1986
Năm 1954 sau khi chiến thắng thực dân Pháp hoà bình lập lại ở miền Bắc ,
Đảng ta đã thực hiện chủ trương đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản
chủ nghĩa .Cùng với việc thay đổi hình thái kinh tế XH mới tất yếu phải do sự thay
đổi của phương thức sản xuất mà trong đó cụ thể là sự thay đổi trên 2 phương diện:
Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất. Tuy nhiên chúng ta cần xem xét rằng liệu lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất giai đoạn này đã phát triển đồng đều hay không?
Xét yếu tố lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất Người lao động Công cụ lđ
Tư liệu sản xuất Tư liệu lao động Phương tiện
SX
Đối tượng lao động
• Người lao động:sau một thời gian dài nước ta phải chịu ách thống trị của thực dân
Pháp với những chính sách thống trị “ngu dân” của chúng đã làm cho con người của
đất nước chúng ta kém phát triển và bị tụt hậu. Làm hạn chế khả năng sáng tạo, phát
triển của lực lượng sản xuất
• Tư liệu sản xuất: cụ thể là công cụ sản xuất còn thô sơ, phương tiện sản xuất lạc hậu.
Lực lượng sản xuất chậm phát triển, ở trình độ còn thấp kém, lạc hậu.
Xét quan hệ sản xuất: ở giai đoạn đóĐảng ta chủ trương đưa cả nước theo con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Cụ thể , Đảng ta đã thiết
lập QHSX như sau:
• Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất:Quốc hữu hoá tư liệu sản xuất. Đồng nhất chế độ
công hữuvới chủ nghĩa xã hội lẫn lộn với đồng nhất giữa hợp tác xã và tập thể hoá.
Nhà nước ta đã ra sức vận động nhân dân đi vào hợp tác xã để mở rộng quy mô nông
trường, nhà máy, xí nghiệp.
• Tổ chức điều hành sản xuất: theo cơ chế tập trung, quan liêu và bao cấp. Nhà nước
quản ly nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu
pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp làm ăn lỗ thì nhà nươc
bù, lãi thì nhà nước thu.Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Bộ máy quản lý cồng kềnh nhiều cấp trung
gian hoat động kém hiệu quả sinh ra quan liệu phong cách cửa quyền.
• Quan hệ phân phối sản phẩm lao động:“xin cho, cấp phát”. Tiêu dùng xã hội thực
hiện theo phân phối định lượng bằng tem phiếu,thang bậc.
Nhận xét:
• 1945-1960
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thời kỳ này trên lý
thuyết là không hợp lý do lực lượng sản xuất ở trình độ quá thấp trong khi quan hệ sản
xuất được xem là tiến bộ. Tuy nhiên, trong tình hình đất nước còn đang bị chia cắt,
miền Nam vẫn đang trong cuộc chiến tranh với đế quốc Mỹ thì nó lại trở nên phù hợp
và đúng đắn. Những chính sách ấy đã góp phần giúp miền Nam giành thắng lợi mùa
xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn đất nước. Do đó có thể thấy rằng bên cạnh việc
xem xét quy luật phát triển khách quan chúng ta cũng cần đặt trong bối cảnh lịch sử
nhất định, bới đó là yếu tố quan trong tác động đến quy luật ấy.
• 1960-1986
Mặc dù phát triển không đồng đều nhưng ở giai đoạn trên LLSX và QHSX vẫn
được xem là phù hợp. Tuy nhiên, sau khi đất nước thống nhất, mọi mối quan tâm của
Đảng và nhà nước ta là phải cái cách kinh tế chính trị xã hội, thì khi đó sự chênh lệch
giữa LLSX và QHSX đã thực sự không còn phù hợp, hình thức nó không phản ánh
đúng nội dung. Và nó đã thể hiện ra những sai lầm của Đảng ta.
Trong khi chúng ta vừa thoát khỏi cuộc chiến tranh,tàn dư chế độ phong kiến
còn tồn tại và hậu quả của chiến tranh rất nặng nề,cơ sở vật chất nghèo nàn,lạc
hậu,trình độ dân trí thấp,khả năng quản lý kinh tế còn yếu, lực lượng sản xuất hết sức
thấp kém.Chúng ta ồ ạt xây dựng một quan hệ sản xuất không tương xứng. Chúng ta
đã tạo ra những quy mô và ngộ nhận là có QHSX XHCN và còn cho rằng mỗi bước
cải tạo QHSX cũ xây dựng QHSX mới đều thúc đẩy sự ra đời và lớn mạnh của LLSX.
QHSX có khả năng “vượt trước”, “ mở đường” cho sự phát triển của LLSX. Nhưng
thực tế đã chứng minh quan điểm đó là sai lầm, sai lầm ở đây không phải chúng ta
duy trì QHSX lạc hậu so với sự phát triển của LLSX mà có những mặt của QHSX bị
đẩy lên quá cao một cách giả tạo, làm cho nó tách rời với trình độ thấp kém của
LLSX. Do đó làm cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất,không khuyến khích
được người lao động và không huy động được nguồn lực trong xã hội.Nhìn chung thời
kỳ này quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất.
Hậu quả:
Kinh tế kiệt quệ,nguy cơ nghèo đói tăng cao. Việc tiến hành tập thể nhanh
chóng tư liệu sản xuất dưới hình thức cá nhân bị tập trung dưới hình thức sở hữu công
cộng, người lao động bị tách khỏi tư liệu sản xuất, không làm chủ được qúa trình sản
xuất, phụ thuộc vào lãnh đạo hợp tác xã, họ cũng không phải là chủ thể sở hữu thực sự
dấn đến tư liệu sản xuất trở thành vô chủ, gây thiệt hại cho tập thể, kinh tế quốc doanh
thiết lập tràn lan trong tất cả các ngành. Về pháp lý tư liệu sản xuất cũng thuộc sở hữu
toàn dân, người lao động là chủ sở hữu có quyền sở hữu chi phối, định đoạt tư liệu sản
xuất và sản phẩm làm ra nhưng thực tế thì người lao động chỉ là người làm công ăn
lương, chế độ lương lại không hợp lý không phản ánh đúng số lượng và chất lượng lao
động của từng cá nhân đã đóng góp…dẫn tới tình trạng đơn vị kinh tế mất dần tính
chủ động, sáng tạo, mất động lực lợi ích, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả nhưng lại
không ai chịu trách nhiệm, không có cơ chế ràng buộc trách nhiệm, nên người lao
động thờ ơ với kết quả hoạt động của mình, sinh ra tiêu cực trong phân phối, chỉ có
một số người có quyền định đoạt phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền đặc lợi.
Giai đoạn sau năm 1986