Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này. Sự
vận dụng của Đảng ta.
Đáp án
Sự gắn kết giữa nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn luôn là một đòi hỏi cấp bách và là một
phương thức để mang đến thành công cho hoạt động của mỗi cá nhân, của tổ chức và của một chính đảng.
Nhận thức đúng và giải quyết hợp lý mối quan hệ biện chứng tác động qua lại của lý luận và thực tiễn,
dùng lý luận làm kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, thực tiễn
phải là cơ sở, động lực của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý ... luôn là chìa khóa để để giải quyết mọi
vướng mắc trên con đường đi đến mục tiêu đã định. Ngược lại, nhận thức không đúng và giải quyết không
tốt mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, kinh viện và chủ nghĩa kinh
nghiệm hoặc chủ quan duy ý chí, tất nhiên sẽ dẫn đến những thất bại mà đối với một chính đảng, sự thất
bại đó có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
Trước hết, ta đi vào các khái niệm cơ bản:
1- Thực tiễn là gì?
Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản không chỉ của lý luận nhận thức mácxít
mà còn của toàn bộ triết học Mác – Lênin nói chung.
* Quan điểm của triết học trước Mác:
- Điđơrô (nhà triết học Pháp): hiểu chưa đầy đủ về thực tiễn, cho rằng thực tiễn là hoạt động thực
nghiệm khoa học trong phòng thí nghiệm.
- Phoiơbắc (nhà triết học duy vật siêu hình người Đức): thực tiễn chỉ là những hoạt động bẩn thỉu
của các con buôn.
- Hêghen (nhà triết học duy tâm khách quan người Đức): thực tiễn chỉ là khái niệm, tư tưởng thực
tiễn chứ không phải bản thân thực tiễn với tư cách là hoạt động vật chất.
* Quan điểm triết học mácxít:
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người
nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Hoạt động thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động vật chất của con người mà chỉ là
những hoạt động vật chất (để phân biệt với hoạt động tinh thần, hoạt động lý luận), hay nói theo thuật ngữ
của Mác là hoạt động vật chất "cảm tính" của con người.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động đặc trưng và bản chất của con người, được thực hiện một cách tất
yếu khách quan và được tiến hành trong các quan hệ xã hội, là hoạt động mang tính năng động, sáng tạo,
là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xa hội loài người.
Hoạt động thực tiễn có ba dạng cơ bản, đó là:
+ Hoạt động sản xuất vật chất: là hình thức hoạt động cơ bản đầu tiên của thực tiễn, có vai trò
quyết định đối với các dạng hoạt động khác của thực tiễn. Vì: nó là hoạt động nguyên thủy nhất và tồn tại
một cách khách quan, thường xuyên nhất trong đời sống con người và nó tạo ra những điều kiện, của cải
thiết yếu có tính quyết định đến sự sinh tồn và phát triển của con người và xã hội loài người.
+ Hoạt động chính trị - xã hội: là hoạt động của các cộng đồng người khác nhau trong xã hội
nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học: là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, được tiến hành trong
những điều kiện do con người tạo ra gần giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm
xác định các qui luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu.
2- Lý luận là gì?
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, là sự tổng hợp
những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử.
1
Xét về bản chất: lý luận là một hệ thống tri thức chặt chẽ mang tính trừu tượng khái quát, đúc kết
từ thực tiễn, được diễn đạt thông qua các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật ... phản ánh bản chất
của sự vận động, biến đổi, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, được hình thành trong mối quan hệ với
thực tiễn.
3 – Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn:
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ với nhau, tác động qua lại nhau, trong đó thực tiễn giữ
vai trò quyết định.
• Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận:
Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, của lý luận đồng thời là tiêu chuẩn để kiểm
tra nhận thực, lý luận. Thực tiễn là nguồn gốc cơ sở sinh ra lý luận, nến không có thực tiễn thì không có lý
luận, thực tiễn cao hơn lý luận không những ở tính phổ biến mà còn ở tính hiện thực trực tiếp.
Sự phản ánh vượt trước của lý luận qua nỗ lực sáng tạo của những thiên tài ở những giai đoạn lịch
sử nhất định xét cho đến cùng thì cái làm nên sự vượt trước ấy cũng đã được nảy mầm từ mảnh đất thực
tiễn sinh động, đều do thực tiễn gợi ý mách bảo
Chỉ có thông qua thực tiễn con người mới vật chất hóa dược lý luận vào đời sống hiện thực. Lý
luận không có sức mạnh tự thân mà chỉ có thông qua thực tiễn thì lý luận mới phát huy tác dụng, mới
tham gia vào quá trình biến đổi hiện thực.
Đánh giá vai trò của thực tiễn đối với lý luận, Lênin viết: "Thực tiễn cao hơn nhận thức, lý
luận. Vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà còn của tính hiện thực trực tiếp".
• Vai trò tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn:
Lý luận có thể thúc đẩy tiến trình phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận khoa học và ngược lại
có thể kìm hãm sự phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận phản khoa học, phản động, lạc hậu.
Lý luận khoa học sẽ trở thành kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn. Nó hướng dẫn, chỉ đạo, soi
sáng cho thực tiễn, vạch ra phương pháp giúp hoạt động thực tiễn đi tới thành công. Hồ Chí Minh đã chỉ
ra rằng: "Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi". Lý luận đem lại cho thực tiễn những
tri thức đúng đắn về những quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan, giúp con người xác
định đúng mục tiêu để hành động có hiệu quả hơn, tránh được những sai lầm, vấp váp.
Lý luận khoa học thâm nhập vào hoạt động của quần chúng tạo nên sức mạnh vật chất, điều chỉnh
hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động của con người trở nên tự giác, chủ động, tiết kiệm được thời gian,
công sức, hạn chế những mò mẫm, tự phát.
Lý luận khoa học dự kiến sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng trong tương lai, từ đó
chỉ ra phương hướng mới cho sự phát triển. Con người ngày càng đi sâu khám phá giới tự nhiên vô cùng
vô tận bằng những phương tiện khoa học hiện đại thì càng cần có những dự báo đúng đắn. Nếu dự báo
không đúng sẽ dẫn đến những sai lầm, hậu quả xấu không thể lường được trong thực tiễn. Vì thế, chức
năng dự báo tương lai là chức năng quan trọng của lý luận.
Lý luận cách mạng có vai trò to lớn đối với thực tiễn cách mạng. Lênin cho rằng: "Không có lý
luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng". Mác thì nhấn mạnh: "Lý luận khi thâm
nhập vào quần chúng thì nó biến thành lực lượng vật chất".
Vai trò của lý luận khoa học ngày càng tăng lên, đặc biệt trong giai đoạn mới của thời đại ngày
nay, thời đại của cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc diễn ra gay go, phức tạp, cùng với sự phát triển mạnh
mẽ, nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Ph. Ăngghen chỉ ra rằng: một dân tộc muốn
đứng trên đỉnh cao khoa học thì không thể không có tư duy lý luận.
Sự lạc hậu, giáo điều về lý luận dẫn đến sự khủng hoảng về lý luận của chủ nghĩa xã hội trong thời
gian qua là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội nói chung, cụ thể
là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu trước đây.
2
• Nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
Theo quan điểm mácxít, lý luận và thực tiễn không tách rời nhau mà giữa chúng có sự liên hệ, xâm
nhập và tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn
bản của triết học Mác – Lênin.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là tiêu biểu cho sự gắn bó mật thiết giữa lý luận và thực tiễn trong qúa
trình hình thành và phát triển của nó. Lý luận Mác – Lênin là sự khái quát thực tiễn CM và lịch sử xã hội,
là sự đúc kết những tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh vực khác nhau. Sức mạnh của nó
là ở chỗ gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã hội, được kiểm nghiệm, bổ sung trong thực tiễn. Chính vì vậy mà
nó có vai trò cải tạo thế giới chứ không chỉ giải thích thế giới. Chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và triết
học Mác – Lênin nói riêng đã tìm thấy ở giai cấp vô sản vũ khí vật chất của mình và giai cấp vô sản đã tìm
thấy ở triết học Mác – Lênin vũ khí tinh thần của mình.
Lênin từng nhắc nhở những người cộng sản ở các nước phải biết cụ thể hóa chủ nghĩa Mác –
Lênin cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc, từng nơi. Lý luận cần phải được bổ sung bằng
những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn sinh động.
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: "Thống nhất lý luận với thực tiễn là nguyên tắc căn bản của triết
học Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà
không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông" hoặc "Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như
một mắt sáng một mắt mờ".
4- Ý nghĩa phương pháp luận:
Việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa rất quan trọng, giúp
chúng ta tránh được bệnh kinh nghiệm cũng như bệnh giáo điều và rút ra được những quan điểm đúng đắn
trong nhận thức và cuộc sống.
Trước hết, cần phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải
xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, sâu sát thực tiễn, tổ chức hoạt động thực tiễn để triển khai
lý luận, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung phát triển lý luận. Việc nghiên cứu lý luận
phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành, tránh tình trạng quan liêu, bàn giữaấy, sách vở, xa rời thực
tiễn.
Đồng thời cần phải phát huy vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Phát huy vai trò của lý luận yêu
cầu phải nâng cao trình độ tư duy lý luận, đổi mới phương pháp tư duy cho toàn Đảng, toàn dân nghĩa là
chuyển từ tư duy kinh nghiệm sang tư duy lý luận, từ tư duy siêu hình, duy tâm sang tư duy biện chứng
duy vật; đổi mới công tác lý luận, hướng công tác lý luận vào những vấn đề do cuộc sống đặt ra, làm rõ
những căn cứ khách quan của đường lối chính sách của Đảng.
Nếu coi thường thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn thì sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh kinh
nghiệm và bệnh giáo điều.
+ Bệnh kinh nghiệm: là căn bệnh tuyệt đối hóa kinh nghiệm, nhận thức và hành động chỉ dựa vào
kinh nghiệm, đề cao vai trò thực tiễn, hạ thấp lý luận, không chịu học hỏi để vương lên, không coi trọng
việc tổng kết thực tiễn để khái quát thành lý luận. Thể hiện ở chỗ tuyệt đối hoá kinh nghiệm, coi thường lý
luận, “chỉ biết tối ngày vùi đầu vào công tác sự vụ”, ít đào sâu suy nghĩ, nhất là đối với những người trình
độ văn hoá kém, ít quen đọc sách và suy nghĩ, áp dụng kinh nghiệm một cách thiếu sáng tạo.
+ Bệnh giáo điều: là căn bệnh tuyệt đối hóa lý luận, nhận thức và hành động chỉ dựa vào lý luận,
coi lý luận là "chìa khóa vạn năng" cho tư duy và hành động, bất chấp điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Thể
hiện ở chỗ: coi tri thức là chân lý tuyệt đối, là cứng nhắc, tách lý luận khỏi thực tiễn, rơi vào bệnh lý luận
suông, không biết cụ thể hóa lý luận cách mạng cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng lúc, từng
nơi, không biết bổ sung lý luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động và vận dụng một cách máy móc,
rập khuôn, cứng nhắc, thiếu sáng tạo vào hoạt động nhận thức cũng như hoạt động cải tạo hiện thực mà
không chú ý đến điều kiện lịch sử cụ thể đối tượng, mang lại hiệu quả xấu cho hoạt động lý luận và thực
3
tiễn. Xét từ khía cạnh trình độ nhận thức thì bệnh giáo điều có nguồn gốc từ sự yếu kém về tư duy lý luận,
nhất là lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Để khắc phục hai căn bệnh trên cần phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, thường xuyên
tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận, đồng thời phải coi trọng lý luận, nâng cao trình độ tư duy
lý luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu “phải học tập tinh thần chủ nghĩa Mác-Lênin, học tập lập trường
quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế
trong công tác cách mạng của chúng ta”. Từ nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giưa lý luận và
thực tiễn, Hồ Chí Minh đã phê phán sai lầm của chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều. Khi đặt
vấn đề phải học tập lý luận theo Người, học lý luận không phải để thuộc lòng từng câu từng chữ, cũng
không phải học lý luận để đem loà thiên hạ, để kiêu ngạo, để mặc cả với Đảng, để trở thành những người
lý luận suông. Mà mục đích học tập lý luận để tự cải tạo mình, để tránh mò mẫm, để đỡ phạm sai lầm
trong công tác, để hoàn thành tốt hơn các nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và nhân dân giao phó. Học tập lý
luận là cốt áp dụng vào thực tế và khi vận dụng thì bổ sung, làm phong phú thêm lý luận bằng những lý
luận mới sinh ra từ trong thực tiễn.
5- Sự vận dụng của Đảng ta:
• Trước đổi mới:
Do chưa nhận thức đầy đủ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường, chưa gắn lý luận với thực tế
điều kiện, hoàn cảnh ở nước ta nên đã chủ quan, nóng vội, bỏ qua những bước đi cần thiết.
Một trong những sai lầm trong chính sách của Đảng trong thời kỳ trước đổi mới là xuất phát từ
căn bệnh giáo điều, xuất phát từ sự lạc hậu, yếu kém về lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự yếu kém
về lý luận làm cho chúng ta tiếp thu lý luận Chủ nghĩa Mác Lênin một cách giản đơn, phiến diện, cắt xén
sơ lược, không đến nơi đến chốn, CNXH được hiểu một cách giản đơn, ấu trĩ. Trong thời kỳ này, đã có
lúc ta bắt chước rập khuôn mô hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ máy nhà
nước. Hoặc áp dụng máy móc theo học thuyết của Mác về kinh tế là phải xóa bỏ tư hữu, do đó khi áp
dụng vào nước ta, Đảng đã có biểu hiện nóng vội trong việc tiến hành cải tạo XHCN nhằm xóa tất cả các
thành phần kinh tế mà không thấy được vai trò quan trọng của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở nước ta. Đảng ta cũng vấp phải những sai lầm trong việc đề ra chủ trương, đường lối, chính
sách phát triển đất nước: Chủ trương tập trung cho công nghiệp hóa đất nước mà chủ lực là phát triển
công nghiệp nặng mà không chú ý đến điều kiện vật chất và lực lượng sản xuất của ta còn chưa tương
xứng, với xuất phát điểm còn rất thấp từ một nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nông nghiệp là chính, trình độ
lực lượng sản xuất không cao, sản xuất thủ công là chủ yếu. Có thể nói việc bố trí cơ cấu kinh tế trước hết
là sản xuất và đầu tư, chúng ta thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính đến điều
kiện khả năng thực tế. Sự nhận thức giản đơn, yếu kém trong việc vận dụng xơ cứng lý luận vào trong còn
thể hiện ở việc hiểu và vận dụng chưa đúng các quy luật khách quan đang tác động trong thời kỳ quá độ ở
nước ta (quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, các quy luật sản xuất hàng hoá, quy luật thị trường...), quá nhấn mạnh một chiều vai trò của quan hệ
sản xuất, của chế độ công hữu, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực
lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ.
Mặt khác, duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, quá tập trung quyền lực nhà
nước, dùng kế hoạch pháp lệnh để chỉ huy toàn bộ nền kinh tế đất nước, bao cấp trong phân phối ... làm
cản trở sự sáng tạo, tạo nên sự bảo thủ trì trệ của đời sống xã hội. Cũng trong thời kỳ này chúng ta đồng
nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, coi nhẹ những giá trị, những thành tựu mà nhân loại đạt được
trong chủ nghĩa tư bản; muốn nhanh chóng xoá bỏ sản xuất hàng hoá, xoá bỏ sở hữu tư nhân và kinh tế tư
nhân trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xem kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa đối lập
với CNXH là do căn cứ một cách cứng nhắc vào luận điểm của Mác và Ăngghen rằng chủ nghĩa cộng sản
4
là xóa bỏ buôn bán; cùng với việc xã hội nắm lấy những tư liệu sản xuất thì sản xuất hàng hóa cũng bị
loại trừ và do đó sự thống trị của hàng hóa đối với những người sản xuất cũng bị loại trừ. Thực ra những
luận điểm của CácMác và Ăngghen chỉ là những dự đoán về giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa cộng
sản chứ không phải nói về giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản : giai đoạn chủ nghĩa xã hội. Ngược lại,
trong giai đoạn chủ nghĩa xã hội, Mác đã nhấn mạnh : đó là một xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ
nghĩa, vì vậy về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần nó vẫn còn mang những dấu vết của xã hội
cũ, nói cách khác, hệ thống kinh tế – xã hội của CNXH còn mang nhiều dấu ấn của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Như vậy, làm sao xóa ngay được cái “dấu vết” đặc trưng của chủ nghĩa tư bản là
kinh tế hàng hóa cũng như không thể xóa bỏ chế độ tư hữu ngay lập tức mà chỉ có thể cải tạo xã hội hiện
nay một cách dần dần.
Hậu quả của những sai lầm xuất phát sự nhận thức yếu kém về lý luận và xa rời thực tiễn đã làm
cho đường lối chính sách của Đảng ta đề ra không phù hợp với thực tiễn nên đất nước lâm vào tình trạng
khủng hoảng kinh tế xã hội : Nnhiều vấn đề mấu chốt và thiết yếu nhất của cuộc sống nhân dân (ăn, mặc,
ở) vẫn chưa được giải quyết đầy đủ; đất nước chưa có những thay đổi sâu sắc và triệt để trong phương
thức phát triển; tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế ngày càng trầm trọng; nhiệt tình lao động và năng
lực sáng tạo của nhân dân, tài nguyên và các nguồn lực chưa được khai thác, phát huy đầy đủ, thậm chí bị
xói mòn. Nhìn tổng quát, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế Việt Nam vận động thiếu năng
động và kém hiệu quả. Những mất cân đối và nguy cơ bất ổn định tiềm tàng trong đời sống kinh tế - xã
hội bị tích nén lại Tình trạng thiếu hụt kinh niên làm gia tăng các căng thẳng trong đời sống xã hội. Lòng
tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước giảm sút. Trên thực tế,
đến cuối những năm 70, đất nước đã thực sự lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Vấn đề cấp bách
đặt ra cho Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam lúc này là tìm kiếm cách thức phát triển mới có khả
năng đáp ứng các mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó quan trọng nhất là phải tháo
gỡ các ràng buộc về cơ chế và thể chế để giải phóng các nguồn lực phát triển của đất nước.
Đại hội IV chưa xác định được những mục tiêu của chặng đường đầu tiên. Cụ thể là trong 5 năm
1976 – 1980, đảng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết,
chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cụ thể là đã đề ra những chỉ tiêu kế hoạch quá cao về xây dựng cơ
bản và phát triển sản xuất, không coi trọng đúng mức việc khôi phục và sắp xếp lại nền kinh tế, chỉ thiên
về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết căn bản
vấn đề lương thực, thực phẩm, phát triển hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Đại hội V đã cụ thể hóa một bước đường lối kinh tế trong chặng đường trước mắt, đề ra những
mục tiêu tổng quát, các chính sách lớn về kinh tế, xã hội nhưng trong chỉ đạo thực hiện đã không quán
triệt đầy đủ các quy luật khách quan, chưa kiên quyết khắc phục tư tưởng nóng vội chủ quan và bảo thủ
thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lý kinh
tế. Cụ thể là đã chưa thật sự coi trọng phát triển nông nghiệp, coi nhẹ về tổ chức, đầu tư, chính sách đối
với công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, kể cả tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp. Về xây dựng cơ bản,
vẫn thiên về xây dựng các công trình quy mô lớn nhưng chưa thật cấp bách, kém hiệu quả dẫn đến sự
phân tán về tiền vốn và vật tư.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, đi đôi với việc ra sức xây dựng những cơ sở và lực lượng kinh
tế mới, phải rất coi trọng cải tạo và sử dụng tốt các cơ sở và lực lượng kinh tế sẵn có bằng những hình
thức và bước đi thích hợp. Nhưng chúng ta chưa xác định rõ ràng, nhất quán những quan điểm, chủ trương
chính sách chỉ đạo công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, đã có những biều hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay
các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh. Đối với
kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, ít chú ý đến những đặc điểm. tính chất của từng ngành, từng nghề, không
tính đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực cán bộ, có xu hướng muốn tổ chức ngay
các hợp tác xã quy mô lớn. Nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không coi
trọng giải quyết các vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối.
5