NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG TRONG
TÁC PHẨM “BIỆN CHỨNG CỦA TỰ NHIÊN” CỦA PH. ĂNG-GHEN.
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN CHỦ
NGHĨA MÁC-LÊNIN Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÁC PHẨM “BIỆN CHỨNG CỦA TỰ
NHIÊN” CỦA PH. ĂNG-GHEN
1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của tác phẩm
Trong “Lời nói đầu” của tác phẩm “Chống đuy-rinh”, ngoài việc chứng minh
sự thống nhất của ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác và phân tích phép biện
chứng duy vật, cũng như chỉ ra sự khác nhau cơ bản giữa phép biện chứng duy vật
với phép siêu hình và phép biện chứng duy tâm của Hê-ghen; Ph. Ăng-ghen đã tóm
tắt sự phát triển của triết học và chỉ ra tính tất yếu của sự hình thành chủ nghĩa
Mác. Ông đã chứng minh tính quy luật của quá trình thay thế các thời kỳ cơ bản
của lịch sử triết học: phép biện chứng tự phát thời cổ đại - phép siêu hình thế kỷ
XVII, XVIII - phép biện chứng duy tâm của triết học cổ điển Đức - phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác. Ngoài ra, ở phần này, Ph. Ăng-ghen cũng đánh
giá sự đóng góp của nhiều thế hệ triết gia vào sự phát triển của t duy triết học nhân
loại và cho rằng, sự phát triển của khoa học tự nhiên và thực tiễn của cuộc đấu
tranh giai cấp là điều kiện của sự phát triển triết học. (tìm xem và trích dẫn - luận
giải cho việc tác động của khoa học tự nhiên vào sự phát triển của triết học)…
Thời cổ đại và cả trung đại, khoa học tự nhiên tập trung nghiên cứu vũ trụ và
các nguyên tố cấu tạo nên vạn vật (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ - thuộc thế giới siêu vĩ
mô), triết học có yếu tố duy vật. Thời cận đại tập trung nghiên cứu thế giới vĩ mô
(các nguyên tố cụ thể, tế bào, năng lượng, nhiệt, nguyên tử…) và thời hiện đại tập
trung nghiên cứu thế giới vi mô (sóng, hạt…).
Ph. Ăng-ghen viết tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” trong bối cảnh lịch sử
có những nét nổi bật là:
1
Do tác động bởi sự thất bại của Công xã Pa-ri (1871) nên phong trào đấu tranh
của giai cấp vô sản có xu hướng chững lại; tuy nhiên, Công xã Pa-ri cũng để lại
nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho giai cấp vô sản và đó cũng là cơ sở thực
tiễn giúp cho C. Mác và Ph. Ăng-ghen khái quát và phát triển lý luận của mình.
Trong những năm thập kỷ 70 của thế kỷ XIX, ở Đức xuất hiện xu hướng tầm
thướng hoá chủ nghĩa duy vật và chống lại phép biện chứng duy vật, xu hướng này
thể hiện rõ nhất ở L. Buy-snơ
(1)
. Trước tình hình đó, Ph. Ăng-ghen đã dự định viết
một tác phẩm có tên là “Chống Buysnơ”, để khắc phục xu hướng nguy hiểm nói
trên và bảo vệ phép biện chứng duy vật, trong đó có vấn đề cốt lõi là chỉ ra sự đối
lập giữa phép biện chứng và phép siêu hình.
Cũng vào thời gian này, khoa học tự nhiên đã đạt được những thành tựu mới
với nhiều phát minh quan trọng lần lượt xuất hiện, góp phần chứng tỏ mọi quá
trình diễn ra trong giới tự nhiên đều có tính biện chứng. Đặc biệt là ba phát minh
có tính “vạch thời đại”: G.R. May-ơ
(2)
và G.P. Giu-lơ
(3)
đã phát minh ra “Định luật
bảo toàn và chuyển hoá năng lượng”, định luật này đã khẳng định và chứng minh
rằng thế giới vật chất và vận động của vật chất là vĩnh viễn, vật chất vận động và
phát triển thông qua quá trình chuyển hoá các dạng năng lượng từ thấp đến cao,
năng lượng không tự nhiên sinh ra và cũng không bao giờ mất đi, nó chỉ chuyển
hoá từ dạng này sang dạng khác và gắn liền với vật chất vận động; S.R. Đác-uyn
(1)
đã xây dựng nên “Học thuyết tiến hoá” - học thuyết khoa học về sự hình thành và
phát triển của động, thực vật học, học thuyết này đã chứng minh quá trình vận
động, biến đổi của động, thực vật từ thấp đến cao, thông qua biến dị, di truyền và
quy luật đấu tranh sinh tồn, đây là cơ sở khẳng định quan điểm duy vật về sự sống,
từ đó khẳng định thế giới thống nhất ở tính vật chất và vận động của vật chất tuân
(1)
Lút-vích Buy-sn (1824-1899) - nhà sinh lý h c và là nhà tri t h c t s n c, đ i bi u tiêu bi u c a ch ngh a duyơ ọ ế ọ ư ả Đứ ạ ể ể ủ ủ ĩ
v t t m th ng.ậ ầ ườ
(2)
Giu-li-út Rô-b c May- (1814-1878) - nhà khoa h c t nhiên l i l c ng i c, m t trong nh ng ng i đ u tiênớ ơ ọ ự ỗ ạ ườ Đứ ộ ữ ườ ầ
tìm ra “ nh lu t b o toàn và chuy n hoá n ng l ng”.Đị ậ ả ể ă ượ
(3)
Giêm-x Brê-xc t Giu-l (1818-1889) - nhà v t lý h c n i ti ng ng i Anh chuyên nghiên c u v đi n t và nhi t.ơ ố ơ ậ ọ ổ ế ườ ứ ề ệ ử ệ
(1)
Sác-l Rô-b c ác-uyn (1809-1882) - nhà khoa h c t nhiên v đ i ng i Anh.ơ ớ Đ ọ ự ĩ ạ ườ
2
theo các quy luật khách quan; M.G. Slai-đen
(2)
và T. Svan-nơ
(3)
đã phát minh ra
“Học thuyết tế bào”, học thuyết này đã chứng minh rằng, tế bào là cơ sở của kết
cấu và sự phát triển của thế giới động, thực vật, từ đó khẳng định tính thống nhất
và tính liên hệ phổ biến trong cấu trúc và phát triển của giới tự nhiên hữu cơ.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên đã làm thay đổi quan niệm siêu
hình về nhận thức giới tự nhiên, đồng thời khẳng định biện chứng khách quan của
mọi quá trình trong sự vận động và phát triển của thế giới. Thế nhưng, vào thời
điểm này, hầu hết các nhà khoa học tự nhiên vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề bởi
phương pháp siêu hình, chưa thấy được tầm quan trọng của phương pháp tư duy
biện chứng, nên họ đã bất lực khi giải thích sự thống nhất, sự phát triển và các mối
quan hệ trong tự nhiên, chưa vượt qua được ranh giới trong nhận thức về giới tự
nhiên vô cơ và giới tự nhiên hữu cơ; điều đó đã dẫn đến cuộc đấu tranh tư tưởng
trong lĩnh vực khoa học tự nhiên diễn ra gay gắt. Vì vậy, cuộc đấu tranh chống lại
chủ nghĩa duy tâm dưới mọi hình thức trong khoa học tự nhiên vào lúc này có ý
nghĩa to lớn đối với việc bảo vệ các nguyên lý triết học cơ bản của chủ nghĩa Mác.
Trên cơ sở tư tưởng về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, Ph. Ăng-ghen đã
phát hiện ra các hình thức vận động của vật chất và đã khắc phục được hạn chế
trong nhận thức của khoa học tự nhiên lúc đó. Nhờ phát hiện này, Ph. Ăng-ghen đã
đặt ra nhiệm vụ cho mình là cần phải nghiên cứu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các
hình thức vận động trong cơ học, vật lý học và hoá học; đặc biệt là nghiên cứu sự
chuyển hoá hình thức vận động hoá học của tự nhiên sang vận động sinh học, tức
là hình thức vận động hoá học đã sản sinh ra sự sống như thế nào. Phát hiện này
thực tế đã vượt ra ngoài khuôn khổ của công trình “Chống Buy-snơ” mà ông dự
định viết trước đây, đồng thời nó có ý nghĩa rất lớn đối với việc nghiên cứu biện
chứng trong sự tiến hoá của giới tự nhiên và chỉ ra con đường nghiên cứu của
những vấn đề cơ bản của phép biện chứng trong khoa học tự nhiên. Kể từ thời
(2)
Mát-ti-át Gia-c p Slai-đen (1804-1881) - nhà th c v t h c l n ng i c, n m 1838 đã nêu ra lý thuy t các t bàoố ự ậ ọ ớ ườ Đứ ă ế ế
m i phát sinh t t bào c .ớ ừ ế ũ
(3)
Tê-ô-đo Svan-n (1810-1882) – nhà sinh v t h c l i l c ng i c, n m 1839 đã nêu ra thuy t c u t o t bào c aơ ậ ọ ỗ ạ ườ Đứ ă ế ấ ạ ế ủ
các c th s ng. ơ ể ố
3
điểm này, Ph. Ăng-ghen bắt đầu xây dựng tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” của
ông.
Mục đích viết tác phẩm là dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng, Ph.
Ăng-ghen khái quát những thành tựu quan trọng nhất của khoa học tự nhiên đã đạt
được trong thế kỷ XIX nhằm chứng minh sự đúng đắn của phương pháp tư duy
biện chứng; phê phán phương pháp tư duy siêu hình, chủ nghĩa duy vật tầm
thường, chủ nghĩa duy vật cơ giới; đấu tranh chống các quan điểm sai lầm của chủ
nghĩa Đác-uyn xã hội, chủ nghĩa cơ hội Đức, chủ nghĩa duy tâm sinh lý học, chủ
nghĩa tiên nghiệm trong toán học, thuyết “sự chết nhiệt của vũ trụ” và tình trạng
mê tín dị đoan đang lan tràn lúc đó…; đồng thời, chống lại sự phản kích của kẻ thù
đối với chủ nghĩa Mác sau thất bại của Công xã Pa-ri.
Quá trình viết tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” của Ph. Ăng-ghen được
chia thành hai thời kỳ: Thời kỳ thứ nhất, từ tháng 5/1873 đến tháng 5/1876, Ph.
Ăng-ghen chủ yếu tập hợp tư liệu, viết các bài báo riêng và “Lời nói đầu”; sau đó,
theo đề nghị của C. Mác, từ tháng 5/1876 đến tháng 7/1878, Ph. Ăng-ghen tạm
dừng công trình này để viết tác phẩm “Chống Đuy-rinh”. Thời kỳ thứ hai, từ tháng
7/1878 đến tháng 3/1883, Ph. Ăng-ghen hoàn thiện đề cương cụ thể của tác phẩm
tương lai, viết phần lớn các đoạn ngắn và hầu hết các chương.
Sau khi C. Mác mất, Ph. Ăng-ghen phải dừng hẳn công trình khoa học này để
tiếp tục hoàn thành nội dung và cho xuất bản các tập II, III và IV của bộ “Tư bản”
mà C. Mác viết còn dang dở, đồng thời thay C. Mác trực tiếp lãnh đạo phong trào
công nhân quốc tế. Vì thế, tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” của Ph. Ăng-ghen
chưa thực sự hoàn chỉnh, nhiều phần vẫn còn là những đoạn ngắn mới tập hợp lại.
Sau khi Ph. Ăng-ghen qua đời vào năm 1895, bản thảo “Biện chứng của tự
nhiên” nằm trong tay các lãnh tụ của Quốc tế cộng sản II, cụ thể là E. Béc-xtanh,
đã lưu giữ tác phẩm suốt 30 năm không cho xuất bản. Mãi tới năm 1925, lần đầu
tiên, tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” được chuyển sang Liên Xô và được xuất
bản bằng tiếng Nga và tiếng Đức.
4
Dựa theo bản in nguyên văn bằng tiếng Đức đã được xuất bản ở Stút-gát năm
1894 như đã đề cập ở trên, những người cách mạng Nga đã dịch sang tiếng của
mình và lần đầu tiên xuất bản tác phẩm “Chống Đuy-rinh” ở Xanh Pê-téc-bua vào
năm 1907. Sau đó, Liên Xô tiếp tục đăng tác phẩm này trong bộ “Toàn tập C. Mác
và Ph. Ăng-ghen”, tập 20, do Nhà xuất bản sách Chính trị quốc gia Liên xô xuất
bản tại Mát-xcơ-va năm 1961.
Theo quyết định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam,
Hội đồng xuất bản toàn tập C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã dựa theo bộ sách nguyên
bản bằng tiếng Nga nói trên, dịch sang tiếng Việt và in trong bộ “Toàn tập C. Mác
và Ph. Ăng-ghen”, tập 20, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 1994,
từ trang 07 đến trang 450.
Tác phẩm “Chống Đuy-rinh” là một trong những tác phẩm quan trọng nhất
của chủ nghĩa Mác. Nội dung của tác phẩm bao gồm cả ba bộ phận cấu thành của
chủ nghĩa Mác: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kinh tế
chính trị học và lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học. Vì thế, quá trình nghiên cứu
triết học Mác không thể thông nghiên cứu tác phẩm cơ bản này. V.I. Lênin - lãnh
tụ vĩ đại của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong những thập kỷ đầu
của thế kỷ XX cho rằng, tác phẩm “Chống Đuy-rinh” của C. Mác và Ph. Ăng-ghen
là “một cuốn sách có nội dung đặc biệt phong phú và bổ ích”, là một trong ba tác
phẩm “gối đầu giường” của người công nhân có tri thức và là tác phẩm kinh điển
đã đi vào kho tàng lý luận của nhân loại.
“Chống Đuy-rinh” là một công trình tổng thể nhưng không dàn trải mà chỉ tập
trung vào những vấn đề cốt lõi, trong đó có những vấn đề được giải quyết một
phần (vấn đề cơ bản của triết học, vấn đề tồn tại, đạo đức, pháp quyền…), có
những vấn đề được trình bày khá hoàn chỉnh, trở thành tư tưởng có tính kinh điển
(phép biện chứng duy vật). Quá trình biên soạn tác phẩm, Ph. Ăng-ghen đã luôn
đứng vững trên lập trường thế giới quan và phương pháp luận khoa học, ông đã
dẫn chứng các chất liệu sống là thành quả của khoa học, nhất là khoa học tự nhiên,
để tăng sức thuyết phục cho quan điểm của mình. Đây là một công việc rất khó
5
khăn và phức tạp đối với Ph. Ăng-ghen, nhưng một khi thực tiễn đã đặt ra thì buộc
ông phải tập trung giải quyết cho kỳ được. Công việc ấy cũng như “ngoạm vào cái
quả chua… mà một khi đã ngoạm vào thì buộc phải nuốt cho kỳ hết. Hơn nữa, nó
không những rất chua mà lại còn rất to”
(1)
. Mặt khác, nội dung đấu tranh chống lại
các quan điểm sai lầm của Đuy-rinh có phạm vi rất rộng, như Ph. Ăng-ghen đã mô
tả: “Hệ thống của ông Đuy-rinh được phê phán trong quyển sách này bao trùm một
lĩnh vực lý luận rất rộng; tôi buộc phải dõi theo ông khắp nơi và đem những quan
điểm của tôi ra đối lập lại những quan điểm của ông ta. Vì vậy, sự phê phán tiêu
cực đã trở thành tích cực; cuộc bút chiến chuyển thành một sự trình bày ít nhiều có
hệ thống về phương pháp biện chứng và thế giới quan cộng sản chủ nghĩa mà Mác
và tôi đã đại biểu - và trình bày như thế trên một loạt khá nhiều lĩnh vực…”
(2)
.
Thông qua tranh luận với Đuy-rinh về hàng loạt vấn đề triết học, kinh tế chính trị,
chủ nghĩa xã hội, tác phẩm đã có tác dụng to lớn trong cuộc đấu tranh vạch trần
các quan điểm sai trái của vị giáo sư này và một số đảng viên Đảng dân chủ - xã
hội Đức. Vì vậy, tác phẩm “Chống Đuy-rinh” không chỉ có ý nghĩa là kết quả trực
tiếp của cuộc đấu tranh tư tưởng - lý luận trong Đảng dân chủ - xã hội Đức mà còn
là sự trình bày chủ nghĩa Mác đầy đủ nhất, rõ ràng nhất. Không những thế, “Chống
Đuy-rinh” còn đóng góp lớn về mặt lý luận trong quá trình tuyên truyền, giác ngộ
chủ nghĩa Mác cho phong trào công nhân quốc tế và các phong trào đấu tranh vì
dân sinh, dân chủ và công bằng xã hội. Những vấn đề được nêu ra và giải quyết
trong tác phẩm không chỉ đóng vai trò định hướng lý luận đối với phong trào công
nhân quốc tế mà còn tạo nên chủ nghĩa lạc quan có cơ sở khoa học trong sinh hoạt
tinh thần của xã hội lúc đó. Lo sợ trước ảnh hưởng to lớn của tác phẩm, chính
quyền Đức đã phải ban hành một đạo lực đặc biệt để ngăn chặn việc xuất bản và
truyền bá cuốn sách “Chống Đuy-rinh” của C. Mác và Ph. Ăng-ghen vào phong
trào công nhân thế giới, đồng thời cấm lưu hành tác phẩm này ở Đức. Song, hành
vi cưỡng bức của chính quyền Đức không những không ngăn cản được ảnh hưởng
to lớn của tác phẩm, mà trái lại, nó càng có sức hút mạnh mẽ, làm tăng thêm sự
(1)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.16.Ă
(2)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.20.Ă
6
quan tâm của nhiều người đọc ở các nước Nga, Thuỵ Sĩ, Pháp và nhiều nước khác
ở châu Âu thời bấy giờ.
2. Kết cấu và những tư tưởng cơ bản của tác phẩm
Tác phẩm “Chống Đuy-rinh” của C. Mác và Ph. Ăng-ghen in trong C. Mác
và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, 444
trang, gồm lời tựa cho ba lần xuất bản (I, II, III), lời mở đầu (I: “Nhận xét chung”.
II: “Ông Đuy-rinh hứa những gì”) và ba phần chính, trình bày ba bộ phận cấu
thành của chủ nghĩa Mác: Triết học, Kinh tế chính trị học và Chủ nghĩa xã hội
khoa học.
Trong “Lời nói đầu”, ngoài việc chứng minh sự thống nhất của ba bộ phận
cấu thành chủ nghĩa Mác và phân tích phép biện chứng duy vật, cũng như chỉ ra sự
khác nhau cơ bản giữa phép biện chứng duy vật với phép siêu hình và phép biện
chứng duy tâm của Hê-ghen; Ph. Ăng-ghen đã tóm tắt sự phát triển của triết học và
chỉ ra tính tất yếu của sự hình thành chủ nghĩa Mác. Ông đã chứng minh tính quy
luật của quá trình thay thế các thời kỳ cơ bản của lịch sử triết học: phép biện chứng
tự phát thời cổ đại - phép siêu hình thế kỷ XVII, XVIII - phép biện chứng duy tâm
của triết học cổ điển Đức - phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác. Đồng
thời, Ph. Ăng-ghen cũng chỉ ra rằng, chính sự mở rộng chủ nghĩa duy vật để tìm
hiểu lịch sử xã hội đã tạo ra cơ sở khoa học cho sự nghiên cứu phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa và nghiên cứu học thuyết về giá trị thặng dư. Hai phát minh
vĩ đại của Mác (chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết về giá trị thặng dư) đã đưa
chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học. Ngoài ra, ở phần này, Ph.
Ăng-ghen cũng đánh giá sự đóng góp của nhiều thế hệ triết gia vào sự phát triển
của tư duy triết học nhân loại và cho rằng, sự phát triển của khoa học tự nhiên và
thực tiễn của cuộc đấu tranh giai cấp là điều kiện của sự phát triển triết học.
Phần thứ nhất: Triết học (từ trang 53 đến trang 206 gồm 12 chương, từ
chương III đến chương XIV). Ph. Ăng-ghen viết phần này từ tháng 9/1876 đến
tháng 01/1877. Tư tưởng chính trong phần này là, song song với việc phê phán
7
quan điểm của Đuy-rinh, Ph. Ăng-ghen đã làm sáng tỏ nội dung chủ yếu của triết
học Mác. Ông đã phân tích vấn đề cơ bản của triết học, tính thống nhất vật chất
của thế giới, các phương thức tồn tại của vật chất, lý luận nhận thức, các quy luật
cơ bản của phép biện chứng duy vật và nêu lên một số quan niệm duy vật về lịch
sử. Cụ thể: trong chương III và IV, Ph. Ăng-ghen viết về Chủ nghĩa tiên nghiệm và
Đồ thức luận vũ trụ. Bốn chương tiếp theo, từ chương V đến chương VIII, ông viết
về triết học tự nhiên. Thông qua phê phán các quan điểm sai lầm của Đuy-rinh về
các vấn đề không gian, thời gian; thiên thể học, vật lý học, hoá học; giới hữu cơ,
Ph. Ăng-ghen đã trình bày quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Các
chương IX, X, XI, Ph. Ăng-ghen tập trung bàn về các vấn đề đạo đức và pháp
quyền, phê phán Đuy-rinh về quan điểm “chân lý vĩnh cửu”, bình đẳng, tự do và
tất yếu. Trong chương XII và XIII, Ph. Ăng-ghen trình bày các quy luật cơ bản của
phép biện chứng duy vật. Trong chương XIV, Ph. Ăng-ghen trình bày khái quát
những kết luận chung.
Hầu hết các chương ở phần Triết học đã được C. Mác và Ph. Ăng-ghen cho
công bố trên tạp chí “Vorwarts” theo hình thức những bài báo, dưới nhan đề: “Ông
Đuy-rinh đảo lộn triết học”
(1)
từ tháng 01 đến tháng 5/1877. Lời mở đầu chung cho
cả ba phần chính của tác phẩm khi nó được xuất bản thành sách riêng, vốn là hai
chương đầu của phần 1, đã được C. Mác và Ph. Ăng-ghen tách ra kể từ lần xuất
bản thứ nhất.
Phần thứ hai: Kinh tế chính trị học (từ trang 207 đến trang 355, gồm 10
chương, từ chương I đến chương X). Ph. Ăng-ghen viết phần này từ tháng 6 đến
tháng 8/1877. Riêng chương X viết về quyển “Lịch sử phê phán” do C. Mác trực
tiếp biên soạn. Tư tưởng chính của phần này là, bên cạnh việc phân tích những vấn
đề cơ bản của kinh tế chính trị học theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, thông qua
đó, C. Mác và Ph. Ăng-ghen còn nêu lên những vấn đề về triết học trong lĩnh vực
xã hội. Các chương của phần này đã được đăng tải dưới nhan đề: “Ông Đuy-rinh
(1)
Nhan đ cu n sách c a C. Mác và Ph. ng-ghen đã m a mai nh i l i nhan đ tác ph m c a uy-rinh đã đ c xu tề ố ủ Ă ỉ ạ ạ ề ẩ ủ Đ ượ ấ
b n Muyn-sen n m 1865 “Kê-ri đ o l n h c thuy t v kinh t qu c dân và khoa h c xã h i”. Trong tác ph m này,ả ở ă ả ộ ọ ế ề ế ố ọ ộ ẩ
uy-rinh đã tán t ng nhà kinh t h c t m th ng Kê-ri, th y c a ông ta trong l nh v c kinh t chính tr h c.Đ ụ ế ọ ầ ườ ầ ủ ĩ ự ế ị ọ
8
đảo lộn kinh tế chính trị học”, làm phụ lục khoa học cho báo “Vorwarts” từ tháng 7
đến tháng 12/1877.
Phần thứ ba: Chủ nghĩa xã hội (từ trang 356 đến trang 450, gồm 05 chương,
từ chương I đến chương V). Ph. Ăng-ghen viết phần này từ tháng 8/1877 đến tháng
4/1878. Tư tưởng chính của phần này là, sau khi tóm tắt lịch sử và lý luận về chủ
nghĩa xã hội khoa học, Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ: chủ nghĩa xã hội khoa học là sự
biểu hiện về lý luận của phong trào vô sản, đồng thời, ông đã phác thảo những đặc
trưng cơ bản của chủ nghĩa cộng sản tương lai. Đứng vững trên quan điểm duy vật
biện chứng về lịch sử, Ph. Ăng-ghen đã phân tích sâu sắc mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất đã được xã hội hoá cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, mâu thuẫn đó biểu hiện về mặt xã
hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản; thông qua sự phân tích
logic đó, ông cho rằng, chỉ có thể giải quyết mâu thuẫn cơ bản này bằng con đường
cách mạng vô sản. Giai cấp vô sản sử dụng bạo lực cách mạng để giành chính
quyền về tay mình, xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Trên cơ sở lực lượng sản xuất
phát triển cao, sự phân chia giai cấp trong xã hội sẽ không còn nữa. Một khi chế
độ tư bản chủ nghĩa bị xoá bỏ và chế độ xã hội chủ nghĩa được xây dựng, thì con
người mới thật sự có tự do, hạnh phúc, mới thật sự làm chủ tự nhiên và xã hội, mới
nhảy vọt từ “vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do”. Các chương của
phần này đã được đăng tải dưới nhan đề: “Ông Đuy-rinh đảo lộn chủ nghĩa xã
hội”, làm phụ lục khoa học cho báo “Vorwarts” từ tháng 5 đến tháng 7/1878.
II. CÁC VẤN ĐỀ VỀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT TRONG TÁC PHẨM
“CHỐNG ĐUY-RINH” CỦA C. MÁC VÀ PH. ĂNG-GHEN
1. Về lịch sử của phép biện chứng duy vật
Như đã nêu trong phần tư tưởng chính của tác phẩm, phép biện chứng là vấn
đề trung tâm của phần “Triết học”. Để chống lại Đuy-rinh, Ph. Ăng-ghen đã nêu và
phân tích phép biện chứng; đồng thời viện dẫn, áp dụng nó vào các lĩnh vực của
triết học, trong đó có chủ nghĩa duy vật lịch sử và những vấn đề triết học của khoa
9
học tự nhiên. Trước hết, Ph. Ăng-ghen coi phép biện chứng là hình thức cao nhất
của tư duy khoa học và khẳng định sự phát triển của nó luôn gắn liền với lịch sử
phát triển của tư duy nhân loại. Trong tác phẩm, Ph. Ăng-ghen đã đề cập đến phép
biện chứng cổ đại, phép siêu hình và phép biện chứng của Hê-ghen.
Đề cập đến phép biện chứng cổ đại, Ph. Ăng-ghen cho rằng: “Những nhà triết
học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng tự phát, bẩm sinh, và A-ri-xtốt bộ
óc bách khoa nhất trong các nhà triết học ấy, cũng đã nghiên cứu những hình thức
căn bản nhất của tư duy biện chứng”
(1)
. Về mặt giá trị, Ph. Ăng-ghen đã chỉ ra tính
tích cực và mặt hạn chế của phương pháp biện chứng trên cơ sở phỏng đoán của
thời kỳ này, ông viết: “Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất
thì đúng đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã
được Hê-ra-clít trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại
không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật
đều không ngừng phát sinh và tiêu vong. Nhưng cách nhìn ấy, dù cho nó có nắm
đúng tính chất chung của toàn bộ bức tranh về các hiện tượng, vẫn không đủ để
giải thích những chi tiết hợp thành bức tranh toàn bộ, và chừng nào chúng ta chưa
biết được các chi tiết ấy thì chúng ta chưa thể hiểu rõ được bức tranh toàn bộ ấy.
Muốn nhận thức được những chi tiết ấy, chúng ta buộc phải tách chúng ra khỏi mối
liên hệ tự nhiên hay lịch sử của chúng, và phải nghiên cứu riêng từng chi tiết một
theo đặc tính của chúng, theo nguyên nhân và kết quả riêng của chúng…”
(2)
.
Song song với việc đánh giá phép biện chứng cổ đại, Ph. Ăng-ghen đã chỉ ra
sự đối lập giữa nó với phép siêu hình. Ông cho rằng, từ nửa cuối thế kỷ XV trở đi
thì nhân loại mới có một nền khoa học tự nhiên thật sự, bốn thế kỷ tiếp theo đó,
nhờ việc phân chia giới tự nhiên ra thành những bộ phận riêng biệt cũng như việc
nghiên cứu cấu tạo bên trong của những vật thể hữu cơ theo các hình thái giải phẫu
nhiều vẻ của nó, là những điều kiện căn bản khiến cho khoa học tự nhiên đã đạt
được những tiến bộ ngày càng nhanh chóng, thu được những thành tựu quan trọng,
đem lại cho con người hệ thống tri thức lớn về giới tự nhiên. Thế nhưng, theo Ph.
(1)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.34.Ă
(2)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.35.Ă
10
Ăng-ghen thì phương pháp nói trên của khoa học tự nhiên cũng đã đem lại cho
người ta một thói quen là xem xét những sự vật và quá trình tự nhiên trong trạng
thái biệt lập, ở ngoài mối liên hệ chung, do đó không xem xét chúng trong trạng
thái vận động mà xem xét trong trạng thái tĩnh, không coi chúng về cơ bản là biến
đổi mà coi chúng là bất biến vĩnh cửu, không xem xét chúng trong trạng thái sống
mà xem xét chúng trong trạng thái chết. Đặc biệt, khi phương pháp nhận thức ấy
được vận dụng từ khoa học tự nhiên vào triết học thì nó sẽ dẫn đến tính hạn chế
đặc thù của triết học duy vật siêu hình trong thế kỷ XVII, XVIII, mà người đầu tiên
có quan niệm theo phương pháp này là Bê-cơn và Lốc-cơ. Ph. Ăng-ghen viết: “Đối
với nhà siêu hình học, thì những sự vật và phản ánh của chúng vào tư duy, tức là
những khái niệm, đều là những đối tượng nghiên cứu riêng biệt, cố định, cứng đờ,
vĩnh viễn, phải được xem xét cái này sau cái kia, cái này độc lập với cái kia”
(1)
.
Việc Ph. Ăng-ghen đề cập đến hạn chế của phép siêu hình cũng chính là để nhấn
mạnh giá trị của tư duy biện chứng.
Khi xem xét phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức, Ph. Ăng-ghen đã
cho rằng, Hê-ghen là người đem đến cách hiểu mới về khái niệm phép biện chứng,
vượt qua giới hạn chủ quan ban đầu, tức nghệ thuật đối thoại mà người Hy Lạp cổ
đại từng nêu ra, để đạt tới ý nghĩa phổ quát của một phương pháp triết học, một
học thuyết xem xét các sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ, tác động, chuyển hoá,
thâm nhập và chế ước lẫn nhau. Ph. Ăng-ghen viết: “Nền triết học mới của Đức đã
đạt tới đỉnh cao của nó trong hệ thống của Hê-ghen, trong đó, lần đầu tiên - và đây
là công lao to lớn của ông - toàn bộ thế giới tự nhiên, lịch sử và tinh thần được
trình bày như là một quá trình, nghĩa là luôn luôn vận động, biến đổi, biến hoá và
phát triển, và ông đã cố vạch ra mối liên hệ nội tại của sự vận động và sự phát triển
ấy. Theo quan điểm ấy, lịch sử loài người […] là một quá trình phát triển của bản
thân loài người, và nhiệm vụ của tư duy hiện nay là phải theo dõi bước tiến tuần tự
của quá trình ấy qua tất cả những khúc quanh co của nó và chứng minh tính quy
luật bên trong của nó qua tất cả những cái ngẫu nhiên bề ngoài. Việc Hê-ghen
(1)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.36.Ă
11
không giải quyết được nhiệm vụ ấy, thì điều đó ở đây đối với chúng ta không quan
trọng gì. Công lao lịch sử của ông ta là đã đề ra nhiệm vụ ấy”
(1)
.
Nhận định trên của Ph. Ăng-ghen về phép biện chứng của Hê-ghen trong triết
học cổ điển Đức, đã cho thấy: C. Mác và Ph. Ăng-ghen đánh giá rất cao công lao
cống hiến của Hê-ghen trong tiến trình lịch sử triết học nói chung, lịch sử phép
biện chứng nói riêng, và trên thực tế, nhiều nội dung thuộc về phép biện chứng
được Hê-ghen trình bày đã trở thành “cái hạt nhân hợp lý” đối với sự phát triển của
tư duy triết học nhân loại, được C. Mác và Ph. Ăng-ghen trực tiếp kế thừa, hoàn
thiện. Bên cạnh đó, do chịu sự quy định của những điều kiện lịch sử thời đại mình,
cho nên trong phép biện chứng Hê-ghen còn tồn tại những hạn chế cần được khắc
phục, nhất là hạn chế về mặt thế giới quan, điều này đã dẫn đến mâu thuẫn giữa hệ
thống và phương pháp triết học của ông. Đề cập đến vấn đề này, Ph. Ăng-ghen
viết: “Mặc dù Hê-ghen, cũng như Xanh-xi-mông, là một khối óc bách khoa nhất
của thời đại bấy giờ, song dù sao ông vẫn bị hạn chế, một là bởi những giới hạn
không thể tránh được của những tri thức của bản thân ông, và hai là bởi những tri
thức và những quan niệm của thời đại ông… Ngoài ra còn có thêm một điều thứ ba
nữa. Hê-ghen là một nhà duy tâm, nghĩa là đối với ông thì những tư tưởng trong
đầu óc của chúng ta không phải là những phản ánh ít nhiều trừu tượng của những
sự vật và quá trình hiện thực, mà ngược lại, những sự vật và sự phát triển của
chúng, đối với Hê-ghen, chỉ là những phản ánh thể hiện cái “ý niệm” nào đó tồn tại
ở một nơi nào đó ngay trước khi có thế giới”
(2)
. Chính vì những hạn chế đó, cho
nên: “Mặc dù Hê-ghen đã nắm được một cách đúng đắn và thiên tài một số mối
liên hệ riêng biệt giữa các hiện tượng… Hê-ghen cũng không tránh khỏi gò ép, giả
tạo, hư cấu, tóm lại là bị xuyên tạc. Hệ thống Hê-ghen, với tính cách là một hệ
thống như vậy, là một cái thai đẻ non khổng lồ, nhưng đó cũng là cái thai đẻ non
cuối cùng trong loại của nó”
(3)
. Mặc dù có mâu thuẫn giữa hệ thống với phương
pháp triết học, song với những công lao cống hiến của Hê-ghen, phép biện chứng
(1)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.39, 40.Ă
(2)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.40, 41.Ă
(3)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.41.Ă
12
của ông cũng thật sự tiêu biểu cho hình thức lịch sử thứ hai của phép biện chứng -
phép biện chứng duy tâm, hay nói như C. Mác trong “Tư bản” thì đó là phép biện
chứng bị đặt lộn ngược đầu xuống đất.
Những nhiệm vụ lịch sử về lĩnh vực triết học mà Hê-ghen vốn chỉ mới đặt ra
trong phép biện chứng, đã được C. Mác và Ph. Ăng-ghen kế thừa và giải quyết.
Trước hết, trong tác phẩm “Logic học” của mình, Hê-ghen đã trực tiếp đem
đối lập phép biện chứng với phép siêu hình, nhất là phép siêu hình của thế kỷ
XVII, XVIII. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hê-ghen lại mang tính chất không
triệt để như đã đề cập ở trên và vẫn chưa loại trừ hết những yếu tố siêu hình trong
hệ thống của mình, điều này có thể nhận thấy ở phần triết học tự nhiên và triết học
lịch sử của ông. Tư tưởng phát triển với tính cách là nguyên lý khởi đầu của phép
biện chứng đã không được Hê-ghen phân tích thấu đáo, đi tới tận cùng của sự
khám phá chân lý. Sau này, trong tác phẩm “Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung
của triết học cổ điển Đức”, Ph. Ăng-ghen đã vạch ra cơ sở xã hội của sự hạn chế
đó
(1)
. Vì thế, điều cần thiết, theo Ph. Ăng-ghen là phải rà soát lại lịch sử phép biện
chứng trong đó có phép biện chứng Hê-ghen, để từ điểm xuất phát này xác lập
hình thức hiện đại của phép biện chứng - phép biện chứng duy vật.
Như vậy, việc chỉ ra bản chất “sai lầm” của chủ nghĩa duy tâm Đức, cũng như
mặt tích cực và mặt hạn chế của nó là con đường đưa C. Mác và Ph. Ăng-ghen đến
với chủ nghĩa duy vật. Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác ra đời có sự kế
thừa “hạt nhân hợp lý” của phép biện chứng duy tâm khách quan của Hê-ghen với
tư cách là một tiền đề lý luận trực tiếp. Tuy nhiên phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác hoàn toàn khác, thậm chí còn đối lập với nó, như C. Mác đã thừa nhận.
Trong tác phẩm này, Ph. Ăng-ghen đã khẳng định: “Có thể nói rằng, hầu như chỉ
có Mác và tôi là những người đã cứu phép biện chứng tự giác thoát khỏi triết học
duy tâm Đức và đưa nó vào trong quan niệm duy vật về tự nhiên và về lịch sử”
(2)
.
(1)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.21, tr.391-451.Ă
(2)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.22.Ă
13
Trong chương XII và chương XIII, tính luận chiến trong sự trình bày các quan
điểm của chủ nghĩa Mác về phép biện chứng có tác dụng mở đường cho việc cụ
thể hoá các nội dung của nó. Ph. Ăng-ghen chỉ rõ, mặc dù Đuy-rinh đã “tái thiết
lại” phép biện chứng Hê-ghen bằng “phương pháp tổng quát” và “loại suy” điển
hình, song sự “tái thiết lại” ấy vẫn không che đậy được tư tưởng chống phép biện
chứng, vốn đặc trưng ở chủ nghĩa máy móc của ông ta, và cùng gắn với nó là
phương pháp siêu hình, nghĩa là “xem xét các sự vật như là đứng im và không có
sinh khí, cái nào riêng cho cái ấy, cái này bên cạnh cái kia và cái này nối tiếp cái
kia… không thấy được một mâu thuẫn nào trong các sự vật cả”
(1)
. Phương pháp đối
chiếu và tách biệt bên ngoài giữa các sự vật tuy có tác dụng nhất định trong đời
sống, song theo Ph. Ăng-ghen, nó sẽ tỏ ra bất lực một khi xem xét đến vấn đề vận
động, biến đổi, sự sống, sự tác động và chuyển hoá của các sự vật. Nói cách khác,
óc suy nghĩ theo cách siêu hình không thể hiểu được rằng “sự sống cũng là một
mâu thuẫn tồn tại trong bản thân các sự vật và các quá trình”. Vì không hiểu điều
đó, nên Đuy-rinh đã từng tuyên bố phép biện chứng là “một điều thuần tuý vô
nghĩa”
(2)
.
Ph. Ăng-ghen cũng phê phán thái độ xuyên tạc của Đuy-rinh đối với phép
biện chứng Mác-xít nói chung, phép biện chứng do C. Mác thể hiện trong việc
nghiên cứu hình thái kinh tế - xã hội (bộ “Tư bản”) nói riêng. Đuy-rinh tỏ ra thiển
cận khi gán cho C. Mác là môn đệ của Hê-ghen
(3)
, mà không hề thấy rằng, chính C.
Mác không chỉ làm sống lại phép biện chứng Hê-ghen, mà còn khắc phục tính chất
tư biện của nó, bóc dần lớp vỏ thần bí, để phép biện chứng, từ đồ thức luận logic
thuần tuý đến hoá thân trong hoạt động thực tiễn của con người và mang ý nghĩa
cải tạo thế giới thật sự. Thái độ vô trách nhiệm ấy của Đuy-rinh đã khiến cho ông
ta không phân biệt được sự khác nhau cơ bản giữa phép biện chứng duy vật với
phép biện chứng duy tâm. Đó là sự “thành kiến triết học”, vì thế mà “gán cho C.
Mác những điều trái với lời C. Mác đã nói”
(4)
.
(1)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.172.Ă
(2)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.132.Ă
(3)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.187.Ă
(4)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.176, 179.Ă
14
Tóm lại, trong tác phẩm “Chống Đuy-rinh”, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã trình
bày một cách có hệ thống về lịch sử của phép biện chứng, xem sự ra đời của phép
biện chứng như là tất yếu khách quan, là sản phẩm của khoa học tự nhiên, khoa
học xã hội và khả năng tư duy con người phát triển đến một mức độ nhất định. Bên
cạnh đó, C. Mác và Ph. Ăng-ghen cũng chỉ rõ sự đối lập giữa phép biện chứng với
phép siêu hình, nêu lên sự khác nhau, thậm chí đối lập nhau giữa phép biện chứng
duy vật của chủ nghĩa Mác với phép biện chứng duy tâm khách quan của Hê-ghen;
đồng thời, các ông đã chỉ ra bản chất của phép biện chứng duy vật và khẳng định
đó là phương pháp tư duy khoa học, có khả năng đem lại cho con người tính tự
giác cao trong hoạt động thực tiễn.
2. Về nội dung của phép biện chứng duy vật
Song song với việc phân tích về lịch sử của của phép biện chứng, chỉ rõ bản
chất của phép biện chứng duy vật… Trong tác phẩm “Chống Đuy-rinh”, C. Mác và
Ph. Ăng-ghen đã tập trung phân tích làm nổi bật những nguyên lý, quy luật của
phép biện chứng duy vật; đồng thời, chỉ ra tính khách quan và tính phổ biến của
những quy luật đó. Cụ thể là:
a) Nguyên lý về mối liên hệ và phát triển
Trong tác phẩm “Chống Đuy-rinh”, thông qua việc phê phán các quan điểm
sai lầm, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã đề cập nhiều đến mối liên hệ phổ biến, về vận
động và phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Quá trình
đề cập nội dung này, các ông đã chỉ ra những vấn đề bản chất của nó.
Theo quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen thì, phép biện chứng duy vật là
sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phương pháp tư duy biện
chứng và giữa lý luận nhận thức với logic biện chứng. Sự ra đời của phép biện
chứng duy vật là cuộc cách mạng trong phương pháp tư duy triết học, là phương
pháp khác về chất so với các phương pháp tư duy trước đó; Ph. Ăng-ghen viết “…
đối với phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự
vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn
15
nhau giữa chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của
chúng”
(1)
. Nguyên lý về phát triển của phép biện chứng duy vật cũng phản ánh đặc
trưng phổ quát nhất của thế giới. Xét về bản chất, phép biện chứng duy vật không
chỉ khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới, mà còn xem xét các sự vật,
hiện tượng trong sự vận động và phát triển không ngừng theo những quy luật vốn
có của chúng, hơn thế nữa, các sự vật và hiện tượng không chỉ đơn giản vận động,
mà còn có sự thay đổi, phát triển về chất và về phương diện bản chất của mọi sự
vận động, biến đổi của thế giới có xu hướng phát triển. Chính vì thế, Ph. Ăng-ghen
đã gọi phép biện chứng là khoa học về sự phát triển. Ông viết tiếp và khẳng định:
“Như vậy, một quan niệm đúng đắn về vũ trụ, về sự phát triển của vũ trụ và sự
phát triển của loài người, cũng như về sự phản ánh của sự phát triển ấy vào trong
đều óc con người chỉ có thể có được bằng con đường biện chứng, với sự chú ý
thường xuyên đến những tác động qua lại phổ biến giữa sự phát sinh và sự tiêu
vong, giữa sự biến đổi tiến bộ và sự biến đổi tụt lùi”
(2)
.
Phép biện chứng duy vật xem xét các sự vật, hiện tượng trong những mối liên
hệ lẫn nhau của chúng, nó khái quát bức tranh toàn cảnh chằng chịt những mối liên
hệ của thế giới khách quan. Tính chất vô hạn của thế giới, cũng như tính chất có
hạn của mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình chỉ có thể giải thích được trong mối liên
hệ phổ biến và được quyết định bởi rất nhiều loại mối liên hệ có vị trí và vai trò
khác nhau. Sự liên hệ phổ biến là đặc trưng phổ quát nhất của thế giới. Vì thế,
quán triệt quan điểm toàn diện là nguyên tắc phương pháp luận chung nhất, chỉ đạo
mọi hoạt động và tư duy của con người. Theo nghĩa này, phép biện chứng được
hiểu như là khoa học về mối liên hệ phổ biến. Nghiên cứu những mối liên hệ, phép
biện chứng vạch ra những quy luật phổ biến, mà theo đó, mọi vận động và phát
triển được thực hiện, bởi lẽ, các quy luật trước hết là những mối liên hệ nhất định.
Ph. Ăng-ghen còn nhìn nhận phép biện chứng như là khoa học về các quy luật
chung nhất của vận động và ông cho rằng, các quy luật của phép biện chứng khác
với các quy luật của các khoa học cụ thể; các quy luật chung nhất của sự vận động
(1)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.38.Ă
(2)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.39.Ă
16
thể hiện ở tất cả các lĩnh vực của thực tiễn, các hình thức vận động của vật chất,
cũng như các quá trình nói chung.
Trong tác phẩm này, lần đầu tiên, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã trình bày các
quy luật cơ bản của phép biện chứng: quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập, quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng thành những biến đổi về
chất và ngược lại, quy luật phủ định của phủ định (sẽ trình bày cụ thể ở phần sau).
Các quy luật này không chỉ phổ biến trong tự nhiên và xã hội, mà còn được phổ
biến cho cả quá trình nhận thức và tư duy. Sự nhận thức và tư duy luôn phản ánh
sự phát triển biện chứng của tự nhiên và xã hội. Bởi thế, Ph. Ăng-ghen đã đưa ra
định nghĩa về phép biện chứng như sau: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn
khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự
nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”
(1)
.
a) Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Trong tác phẩm “Chống Đuy-rinh”, Ph. Ăng-ghen chưa phân tích nội dung cụ
thể của quy luật này, mà chỉ mới đưa ra tư tưởng về tính khách quan và tính phổ
biến của mâu thuẫn. Ông viết: “Như vậy là ở đây chúng ta có một mâu thuẫn tồn
tại một cách khách quan ở trong bản thân các sự vật và các quá trình và có thể bộc
lộ ra dưới một hình thức hữu hình”
(2)
. Để chứng minh cho tính khách quan và phổ
biến của mâu thuẫn, Ph. Ăng-ghen đã nêu bật luận điểm xuất phát, nền tảng đại ý
là: mọi sự vật đều hàm chứa mâu thuẫn bên trong, và dù nhà triết học siêu hình có
thừa nhận hay không, thì mâu thuẫn vẫn là một lực lượng có thực, khách quan;
cũng với mục đích đó, ông đã minh hoạ bằng nhiều ví dụ trong những lĩnh vực
khác nhau của quá trình nhận thức giới tự nhiên như cơ học, toán học, sinh vật
học….
Ph. Ăng-ghen còn coi vận động cũng có đặc trưng mâu thuẫn - thường xuyên
nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn, ông đã trình bày quan điểm của mình:
“Chừng nào chúng ta xem xét các sự vật như là đứng im và không có sinh khí, cái
(1)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.201.Ă
(2)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.173.Ă
17
nào riêng cho cái ấy, cái này bên cạnh cái kia và cái này nối tiếp cái kia, thì chắc
chắn là chúng ta không thấy được một mâu thuẫn nào trong các sự vật cả”
(1)
. Với
quan điểm đó, Ph. Ăng-ghen cho rằng, điều này, ông Đuy-rinh không thể hiểu nổi
do ông ta bị hạn chế bởi thế giới quan siêu hình, nên “không thể từ quan niệm tĩnh
mà chuyển sang quan niệm động được”
(2)
. Cũng theo Ph. Ăng-ghen, mâu thuẫn
biện chứng trong vận động thể hiện ở sự đối lập và chuyển hoá giữa vận động và
đứng im, sử dụng điệp ngữ “theo quan điểm biện chứng” để nhấn mạnh nội dung
này, ông viết: “Theo quan điểm biện chứng, khả năng biểu hiện vận động bằng cái
đối lập với nó, tức thể tĩnh, hoàn toàn không phải là một điều gì khó khăn cả. Theo
quan điểm biện chứng, tất cả sự đối lập ấy, như chúng ta đã thấy, đều chỉ là tương
đối; không có thể tĩnh tuyệt đối, không có sự thăng bằng vô điều kiện. Vận động
riêng biệt thì có xu hướng thăng bằng, song vận động toàn thể thì lại loại trừ sự
thăng bằng. Cho nên, thể tĩnh và thể thăng bằng ở nơi nào chúng diễn ra thì đều là
kết quả của một vận động có hạn nào đó, và hiển nhiên là vận động ấy có thể đo
được bằng kết quả của nó… và đi từ kết quả ấy có thể được phục hồi lại nó dưới
hình thức này hay hình thức khác”
(3)
.
Cũng xét về đặc trưng mâu thuẫn của sự vận động, khi phác thảo chương XII,
có tên gọi “Phép biện chứng. Lượng và chất”, Ph. Ăng-ghen cho rằng, bản thân
vận động - thuộc tính cố hữu và phương thức tồn tại của vật chất – vốn đã là một
mâu thuẫn. Ông viết: “Bản thân sự vận động đã là một mâu thuẫn; ngay như sự di
động một cách máy móc và đơn giản sở dĩ có thể thực hiện được, cũng chỉ là vì
một vật trong cùng một lúc vừa ở nơi này lại vừa ở nơi khác, vừa ở cùng một chỗ
lại vừa không ở chỗ đó. Sự nảy sinh thường xuyên và việc giải quyết đồng thời
mâu thuẫn này - đó cũng chính là sự vận động”
(4)
.
Ph. Ăng-ghen cho rằng, không chỉ vận động mới có đặc trưng mâu thuẫn, mà
bản thân sinh vật cũng có đặc trưng mâu thuẫn. Trên cơ sở lý giải, sự sống trước
hết chính là ở chỗ một sinh vật trong mỗi lúc vừa là nó nhưng lại vừa là một cái
(1)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.172.Ă
(2)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.173.Ă
(3)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.93.Ă
(4)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.172-173.Ă
18
khác, ông đi đến kết luận rằng: “Như vậy, sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại
trong bản thân các sự vật và các quá trình, một mâu thuẫn thường xuyên nảy sinh
và tự giải quyết, và khi mâu thuẫn chấm dứt thì sự sống cũng không còn nữa và cái
chết xảy đến”
(1)
.
Mặt khác, khi bàn đến cái vô tận trong không gian và thời gian, khác với Đuy-
rinh, khi ông ta cho rằng, vô tận là cái thuật đếm chuỗi số; Ph. Ăng-ghen lại quan
niệm “vô tận” không phải là một trừu tượng trống rỗng và ông cũng đã chỉ ra mâu
thuẫn đặc trưng của nó. Ph. Ăng-ghen viết: “Cái vô tận là một mâu thuẫn và nó
chứa đầy những mâu thuẫn. Cái vô tận chỉ gồm những đại lượng có hạn cộng thành
cũng đã là một mâu thuẫn rồi, và đúng là như thế. Tính có hạn của thế giới vật chất
cũng dẫn đến nhiều mâu thuẫn chẳng kém gì tính vô tận của nó, và như ta đã thấy,
bất kỳ mưu toan nào gạt bỏ những mâu thuẫn đó đều dẫn đến những mâu thuẫn
mới và nghiêm trọng hơn. Chính vì cái vô tận là một mâu thuẫn nên nó là một quá
trình vô tận, diễn ra vô tận trong thời gian và trong không gian”
(2)
.
Cũng theo Ph. Ăng-ghen, nếu như mâu thuẫn là phổ biến trong hiện thực
khách quan, thì tính phổ biến đó của mâu thuẫn đương nhiên cũng diễn ra trong tư
duy. Ông cho rằng: “trong lĩnh vực tư duy, chúng ta không thể thoát khỏi mâu
thuẫn; chẳng hạn như mâu thuẫn giữa năng lực nhận thức vô tận ở bên trong của
con người với sự tồn tại thực tế của năng lực ấy trong những con người bị hạn chế
bởi hoàn cảnh bên ngoài, và bị hạn chế, trong những năng lực nhận thức, mâu
thuẫn này được giải quyết trong sự nối tiếp của các thế hệ, sự nối tiếp đó ít ra đối
với chúng ta trên thực tiễn, cũng là vô tận và được giải quyết trong sự vận động đi
lên vô tận”
(3)
.
Tính khách quan và tính phổ biến của mâu thuẫn đã được Ph. Ăng-ghen
chứng minh bằng sự phát triển lâu dài, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp,
từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn; nó diễn ra trong tự nhiên, trong đời sống và
trong tư duy như đã nêu trên. Điều đó chứng tỏ rằng, mâu thuẫn là điều kiện tiên
(1)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.173-174.Ă
(2)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.77.Ă
(3)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.174.Ă
19
quyết của vận động và phát triển, nếu không có mâu thuẫn thì sẽ không có sự vật
nào tồn tại. Nói tóm lại, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong
tác phẩm “Chống Đuy-rinh” của C. Mác và Ph. Ăng-ghen chưa nêu lên nội dung
cụ thể mà mới chỉ làm sáng tỏ tính khách quan và tính phổ biến của mâu thuẫn.
Sau này, trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Ph. Ăng-ghen đã làm sâu sắc
thêm. Tiếp theo đó, V.I. Lênin trong “Bút ký triết học” đã phân tích quy luật này
như là hạt nhân của phép biện chứng.
b) Quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng thành những biến đổi
về chất và ngược lại.
Ph. Ăng-ghen bắt đầu nêu ra quy luật này trong tác phẩm “Chống Đuy-rinh”
bằng các ví dụ trong các lĩnh vực khoa học khác nhau, tiêu biểu là ví dụ cụ thể
được rút ra từ sự phân tích của C. Mác trong “Tư bản”. Chẳng hạn, khi nghiên cứu
quá trình hình thành tư bản, C. Mác rút ra kết luận rằng, không phải bất kỳ số tiền
nào cũng có thể chuyển thành tư bản, mà tiền đề của sự chuyển hoá đó là một số
tiền hoặc giá trị trao đổi tối thiểu nhất định trong tay người sở hữu tiền, hoặc hàng
hoá. Cũng chính từ điểm này, Ph. Ăng-ghen phê phán sự xuyên tạc của Đuy-rinh
đối với C. Mác, mà thực chất là tầm thường hoá cách hiểu về sự chuyển hoá lượng
thành chất
(1)
.
Đối lập với Đuy-rinh, Ph. Ăng-ghen không chỉ đánh giá cao sự phân tích của
Hê-ghen về “quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng thành những biến đổi
về chất và ngược lại” trong cuốn “Logic học”, mà còn nhấn mạnh rằng phép biện
chứng do C. Mác và ông xây dựng đã kế thừa và phát triển những mặt tích cực của
phép biện chứng ông ta, đã giải thích một cách duy vật nội dung đó và đưa nó vào
các quá trình hiện thực. Theo C. Mác và Ph. Ăng-ghen thì, cũng như sự thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập, quá trình chuyển hoá lượng - chất cũng mang tính
khách quan và tính phổ biến. Đề cập về vấn đề này, Ph. Ăng-ghen viết: “Chúng ta
còn có thể rút ra trong giới tự nhiên và trong đời sống xã hội loài người hàng trăm
(1)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.178-180.Ă
20
những sự việc tương tự như thế để chứng minh cho quy luật này”
(1)
. Cho nên, dù
ông Đuy-rinh có cho rằng quá trình này là một quan niệm mù mịt và mơ hồ như
thế nào đi nữa
(2)
, thì quy luật đó vẫn đang diễn ra với tất cả sự phong phú của nó ở
khắp mọi nơi, cả trong tự nhiên lẫn trong xã hội và trong tư duy. Ph. Ăng-ghen dẫn
lại ý của C. Mác: “Ở đây cũng như trong khoa học tự nhiên, tính chất đúng đắn của
cái quy luật do Hê-ghen phát hiện trong cuốn “Logic học” của ông ta cũng được
xác minh, quy luật đó là: Những thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ
nhất định, sẽ chuyển hoá thành những sự khác nhau về chất”
(3)
.
Theo Ph. Ăng-ghen, sự biến đổi về chất, tức bước nhảy, diễn ra khác nhau
trong những điều kiện khác nhau, với những sự vật, hiện tượng khác nhau, song
đều biểu thị gián đoạn của tính tiệm tiến bởi các thay đổi về lượng trước đó; đây
chính là điều kiện cần thiết và cũng là phương thức kết hợp chuyển hoá lẫn nhau
giữa lượng và chất. Chứng minh cho quan điểm này, Ph. Ăng-ghen đã đưa ra hàng
loạt ví dụ, tiêu biểu như: “… dưới áp suất của không khí bình thường, ở 0 độ C,
nước từ trạng thái lỏng chuyển sang trạng thái rắn, và ở 100 độ C thì từ trạng thái
lỏng chuyển sang trạng thái hơi, thành ra ở hai điểm ngoặt đó, sự thay đổi giản đơn
về lượng của nhiệt độ đưa tới sự thay đổi về chất trạng thái của nước”
(4)
. Ph. Ăng-
ghen cũng dẫn ra cách hiểu của Hê-ghen về điểm nút các mối quan hệ của độ, các
bước nhảy, và thông qua các ví dụ đơn giản để chứng minh cho Đuy-rinh thấy
rằng, dù Hê-ghen là nhà duy tâm, nhưng nhà duy tâm này đã xác lập cách tiếp cận
thực sự nghiêm túc và khoa học về các quá trình của thế giới dưới hình thức triển
khai các khái niệm logic. Sự tác động ngược lại của chất, làm cho lượng thay đổi,
được ví như sự tác động của một “sức mới” nào đó lên chính những yếu tố cấu
thành. Ph. Ăng-ghen viết tiếp: “… lĩnh vực sản xuất máy móc và đại công nghiệp
bàn đến vô số trường hợp thay đổi về lượng làm cho chất của sự vật biến đổi, cũng
như thay đổi về chất làm cho lượng của sự vật biến đổi”
(1)
.
(1)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.181.Ă
(2)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.183.Ă
(3)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.179.Ă
(4)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.181.Ă
(1)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.181.Ă
21
Quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng thành những biến đổi về chất
và ngược lại đã chỉ rõ các thay đổi căn bản giữa lượng và chất diễn ra theo hình
thức bước nhảy, còn các bước nhảy, về phần mình, lại được chuẩn bị và được kích
thích bởi những thay đổi từ từ trước đó. Nếu đem vận dụng vào sự phát triển của
xã hội thì điều này cũng dễ nhận thấy, chẳng hạn, những biến đổi sâu sắc của chế
độ xã hội chỉ có thể xảy ra bằng con đường cách mạng xã hội - sự thay đổi theo
hình thức bước nhảy trong tiến trình lịch sử. Quy luật này cũng chứng tỏ, sự phát
triển gồm có hai mặt - sự thay đổi về lượng và sự biến đổi về chất chi phối lẫn
nhau, nó không thể chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng hoặc về chất, mà là sự
thống nhất biện chứng của hai sự thay đổi này. Để chứng minh cho quan điểm này,
Ph. Ăng-ghen đã lấy một ví dụ là dẫn lại lời mô tả của Na-pô-lê-ông về cuộc chiến
đấu của đội kỵ binh Pháp tuy kém về tài nghệ nhưng có kỷ luật, với kỵ binh Ma-
me-lúc, đội kỵ binh giỏi nhất thời bấy giờ về chiến đấu đơn độc nhưng lại thiếu kỷ
luật: “Hai người lính Ma-me-lúc thì trội hơn hẳn ba người lính Pháp; 100 người
lính Ma-me-lúc và 100 người lính Pháp thì ngang nhau; 300 người lính Pháp thì
thường thường trội hơn 300 người lính Ma-me-lúc; và 1.000 người lính Pháp thì
bao giờ cũng đánh bại được 1.500 người lính Ma-me-lúc”
(2)
.
Tóm lại, khi phân tích, chứng minh quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về
lượng thành những biến đổi về chất và ngược lại để chống lại Đuy-rinh, Ph. Ăng-
ghen đã chỉ ra cách thức, con đường của sự phát triển. Quá trình chuyển hoá từ
chất này sang chất khác là sự đứt đoạn trong liên tục, là sự nhảy vọt về chất. Sự vật
mới ra đời lại bao hàm sự thống nhất mới về chất và lượng, ở đó lại tiếp tục diễn ra
một quá trình biến đổi mới… sự biến đổi về chất thành sự biến đổi về lượng. Như
vậy, sự thay đổi về lượng làm thay đổi chất của các sự vật, cũng như sự thay đổi về
chất làm cho lượng của sự vật thay đổi. Đây là một trong những quy luật cơ bản
của phép biện chứng duy vật, quy luật đó có tính khách quan và tính phổ biến.
c) Quy luật phủ định của phủ định
(2)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.184.Ă
22
Phê phán Đuy-rinh, “khi ông ta quyết đoán rằng phủ định cái phủ định là một
loại suy kỳ quái do Hê-ghen sáng chế ra, lấy trong lĩnh vực tôn giáo và xây dựng
trên lịch sử của tội tổ tông và của sự chuộc tội”
(1)
; Ph. Ăng-ghen đã lý giải vấn đề
này thông qua viện dẫn một đoạn nổi tiếng trong vở hài kịch “Trưởng giả học làm
sang” của Mô-li-e, ông viết: “Từ lâu người ta đã suy nghĩ một cách biện chứng
trước khi biết biện chứng là gì, cũng như từ lâu người ta đã nói theo văn xuôi trước
khi có danh từ “văn xuôi”. Quy luật phủ định của phủ định thực hiện một cách
không có ý thức trong tự nhiên, trong lịch sử và cả trong đầu óc ta nữa, trước khi ta
nhận thức được nó. Quy luật đó, lần đầu tiên đã được Hê-ghen nêu lên một cách
nổi bật”
(2)
. Đó là lời đánh giá xác đáng về công lao lịch sử của Hê-ghen đối với
phép biện chứng. Tuy nhiên, do Hê-ghen xuất phát từ những quy định của tư duy
để khách quan hoá tự nhiên và lịch sử, nên phủ định của phủ định được xem như
khâu kết thúc (tổng hợp) của tam đoạn thức logic. Sự chật hẹp này, quả nhiên
không thể chấp nhận được, một khi đối diện với chuỗi các biến cố và các thời đại
lịch sử. Thế mà Đuy-rinh lại khẳng định rằng, nếu không dựa vào phủ định của
phủ định của Hê-ghen, thì C. Mác không có cách gì khác để chứng minh tính tất
yếu của cách mạng xã hội
(3)
.
Cũng như ở các phần trước, Ph. Ăng-ghen bắt đầu sự phân tích quy luật phủ
định của phủ định bằng việc tranh luận và bác bỏ các luận điểm của Đuy-rinh về sự
xuyên tạc học thuyết của C. Mác trong nội dung này. Điểm khác nhau căn bản giữa
C. Mác và Hê-ghen là cơ sở để phân biệt phép biện chứng duy vật với phép biện
chứng duy tâm. Đối với Hê-ghen, tư duy dành cho mình quyền thiết định toàn bộ
thực tại, đem đến cho nó ý nghĩa thông qua khái niệm đã khách quan hoá. Đối với
C. Mác, tư duy chỉ có ý nghĩa khi nó xuất phát từ thực tại khách quan, phản ánh
thực tại ấy một cách sáng tạo và hợp lý, và nếu có tưởng tượng gì đi nữa, thì thực
tại vẫn là cơ sở ban đầu, điều kiện tiên quyết của nó. Đề cập đến quan điểm khách
quan của C. Mác về nội dung này, Ph. Ăng-ghen nhấn mạnh: “Chỉ sau khi đã trình
(1)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.202.Ă
(2)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.202.Ă
(3)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.186.Ă
23
bày xong sự chứng minh của mình về mặt kinh tế và về mặt lịch sử. Mác mới nói
tiếp “Phương thức sản xuất và chiến hữu tư bản chủ nghĩa và do đó chế độ sở hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa, là sự phủ định thứ nhất đối với chế độ sở hữu tư nhân cá
nhân dựa trên lao động của bản thân. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại tự nó gây
ra cái phủ định bản thân nó với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên. Đó là sự
phủ định của phủ định”…”
(1)
. Trên cơ sở đó, Ph. Ăng-ghen vạch rõ, không phải C.
Mác lấy phủ định của phủ định từ Hê-ghen để chứng minh lịch sử, mà ngược lại,
từ các diễn biến của lịch sử mà C. Mác khẳng định rằng đấy là một quá trình “diễn
ra theo một quy luật biện chứng nhất định”
(2)
.
Khái niệm “phủ định” trong phép biện chứng dùng để biểu thị sự thay thế cái
cũ bằng cái mới, nói cách khác, sự chuyển hoá của sự vật, hiện tượng từ một giai
đoạn phát triển sang giai đoạn khác cao hơn được thực hiện thông qua phủ định.
Sự phủ định, do đó, mang tính khách quan, tính tất yếu và tính phổ biến. Ph. Ăng-
ghen đã lấy hàng loạt ví dụ trong tự nhiên, xã hội, tư duy để làm sáng tỏ nhận định
này
(3)
.
Sự phủ định diễn ra bởi sự phát triển tự nhiên của quá trình, sự hoạt động
mang tính chất quy luật vốn có của nó, chứ không phải bởi sự can thiệp của lực
lượng bên ngoài xa lạ. Phủ định không chấm dứt sự phát triển, ngược lại, là điều
kiện của nó và diễn ra dưới hình thức được xác định bởi bản chất của quá trình đó.
Tất cả những gì hợp lý, hữu ích từ giai đoạn phát triển trước đó chuyển vào giai
đoạn mới và tiếp tục phát triển theo hình thức mới. Sự phủ định biện chứng, một
khi bác bỏ cái cũ lỗi thời và giữ lại các thành tựu tiến bộ của thời đại trước sẽ là
điều kiện của sự phát triển tiên tiến - nó đi từ cái cũ sang cái mới, mang ý nghĩa
tích cực trong thiên nhiên hữu cơ và cuộc sống xã hội.
Ph. Ăng-ghen đem đối lập phủ định biện chứng với quan điểm siêu hình về
phủ định, quan điểm “thủ tiêu một lần”, mang tính phá huỷ, bất chấp những điều
kiện cụ thể. Ông viết: “Phủ định trong phép biện chứng không phải chỉ có ý nghĩa
(1)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.191.Ă
(2)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.191.Ă
(3)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.191-197.Ă
24
giản đơn là nói: không, hoặc giả tuyên bố rằng một sự vật không tồn tại, hay phá
huỷ sự vật ấy theo một cách nào đó”
(1)
.
Cũng ở đây, Ph. Ăng-ghen nói đến tính khuynh hướng và tính thường xuyên
lặp lại của phát triển, sự phủ định không phải một lần, mà nhiều lần, gắn với bản
chất và quá trình sự vật - phủ định của phủ định. Điều này chứng tỏ phủ định
không diễn ra theo đường thẳng. Cùng với sự vận động về phía trước vẫn có thể
còn những sự lặp lại cái cũ, thâm chí có lúc tụt lùi, song đó chỉ là tạm thời, cái mới
nhất định thắng. Con đường phát triển này, diễn ra theo hình thức xoáy ốc; cái cuối
cùng dường như lặp lại cái khởi đầu, nhưng trên cơ sở cao hơn, hoàn thiện hơn. Vì
thế, chính quy luật phủ định của phủ định đã chỉ ra khuynh hướng chung của sự
phát triển, bản chất của quy luật này là ở chỗ cái mới dường như quay trở lại cái cũ
nhưng trên cơ sở cao hơn. Ph. Ăng-ghen đã nêu một ví dụ hoàn chỉnh: “Hãy lấy ví
dụ một hạt đại mạch. Có hàng nghìn triệu hạt đại mạch giống nhau được xay ra,
nấu chín và đem làm bia, rồi tiêu dùng đi. Nhưng nếu một hạt đại mạch như thế
gặp những điều kiện bình thường đối với nó,…hạt đại mạch biến đi không còn là
hạt đại mạch nữa, nó bị phủ định, bị thay thế bởi một cái cây do nó đẻ ra, đấy là sự
phủ định hạt đại mạch. Nhưng… Nó lớn lên, ra hoa, thụ phấn và cuối cùng sinh ra
những hạt đại mạch mới, và khi hạt đại mạch chín thì thân cây chết đi, bản thân nó
bị phủ định. Kết quả của sự phủ định của phủ định này là chúng ta có hạt đại mạch
như ban đầu, nhưng không phải chỉ là một hạt mà là nhiều gấp mười, hai mươi, ba
mươi lần. Các giống ngũ cốc thay đổi rất chậm, vì vậy hạt đại mạch ngày nay gần
y hệt như hạt đại mạch một trăm năm trước đây”
(2)
.
Tóm lại, quy luật phủ định của phủ định là “một quy luật vô cùng phổ biến và
chính vì vậy mà nó có một tầm quan trọng và có tác dụng vô cùng to lớn về sự phát
triển của tự nhiên, của lịch sử và của tư duy”
(1)
.
d) Về các quy luật không cơ bản (các cặp phạm trù)
(1)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.201.Ă
(2)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.193.Ă
(1)
C. Mác và Ph. ng-ghen: Sđd, 1994, t.20, tr.200.Ă
25