Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

WTO, CHỨC NĂNG, CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ 4 THỎA ƯỚC CHÍNH: GATT, GATS, TRIPS, TRIMS, CÁC THÁCH THỨC?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.13 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH DOANH QUỐC TẾ
_ _ _ _ _ _ _ _

BÀI TẬP NHÓM
ĐỀ TÀI:
WTO, CHỨC NĂNG, CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ 4 THỎA ƯỚC
CHÍNH: GATT, GATS, TRIPS, TRIMS, CÁC THÁCH THỨC?
GIẢNG VIÊN : THS. TRỊNH XUÂN ÁNH
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một xu hướng chung của tất cả các quốc
gia trên thế giới. Hòa trong xu hướng đó, Việt Nam cũng tập trung phát triển kinh tế, hội
nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho đất nước phát triển
bền vững và lâu dài.
Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại Thế giới WTO. Sự kiện này đánh dấu một bước phát triển mới trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước chúng ta, tạo ra những cơ hội lớn để phát triển đất
nước nhanh hơn, toàn diện hơn, nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức to lớn cho
nền kinh tế Việt Nam trong quá trình thực thi các cam kết với WTO.
Hiểu và thực thi đúng quyền và nghĩa vụ thành viên đã cam kết với WTO, tận dụng cơ
hội, khắc phục hạn chế và thách thức là nhu cầu cấp bách đối với nước ta trong giai đoạn
hiện nay. Nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề về nghĩa vụ thực thi các cam kết của Việt
Nam với WTO, từ đó nhận định được các cơ hội và thách thức trong việc thực thi các các
cam kết này, nhóm chúng em xin nghiên cứu đề tài: “WTO, CHỨC NĂNG, CƠ CẤU TỔ
CHỨC VÀ 4 THỎA ƯỚC CHÍNH: GATT, GATS, TRIPS, TRIMS, CÁC THÁCH
THỨC?”. Chúng em rất mong nhận được sự hướng dẫn và ý kiến đóng góp chân thành
của thầy để giúp đề tài của nhóm hoàn thiện hơn.
Trang 2
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
CHƯƠNG I


TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO
I. Lịch sử hình thành của WTO
WTO là chữ viết tắt của Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization) .
WTO được thành lập ngày 1/1/1995, kế tục và mở rộng phạm vi điều chỉnh thương
mại quốc tế của khung khổ tiền thân là GATT - Hiệp định chung về Thuế quan
Thương mại. GATT ra đời sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, khi mà trào lưu hình
thành hàng loạt cơ chế đa biên điều tiết các hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế đang
diễn ra sôi nổi, điển hình là Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển, thường được
biết đến như là Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) ngày
nay.
Với ý tưởng hình thành những nguyên tắc, thể lệ, luật chơi cho thương mại quốc tế
nhằm điều chỉnh các lĩnh vực về công ăn việc làm, thương mại hàng hóa, khắc phục
tình trạng hạn chế, ràng buộc các hoạt động này phát triển, 23 nước sáng lập GATT đã
cùng một số nước khác tham gia Hội nghị về thương mại và việc làm và dự thảo Hiến
chương La Havana để thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) với tư cách là
một tổ chức chuyên môn về thương mại quốc tế của Liên Hiệp Quốc. Đồng thời, các
nước này đã cùng nhau tiến hành các cuộc đàm phán về thuế quan và xử lý những biện
pháp bảo hộ mậu dịch đang áp dụng tràn lan trong thương mại quốc tế từ đầu thập niên
30, nhằm thực hiện mục tiêu tự do hóa thương mại, mở đường cho kinh tế và thương
mại phát triển, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống của nhân dân các
nước thành viên.
Hiến chương thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (ITO) nói trên đã được thỏa thuận
tại Hội nghị Liên Hiệp Quốc về thương mại và việc làm ở Havana từ 11/1947 đến
23/4/1948, nhưng do một số quốc gia gặp khó khăn trong phê chuẩn, nên việc hình
thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (ITO) đã không thực hiện được.
Mặc dù vậy, kiên trì mục tiêu đã định, và với kết quả đáng khích lệ đã đạt được ở vòng
đàm phán thuế quan đầu tiên là 45.000 ưu đãi về thuế áp dụng giữa các bên tham gia
đàm phán, chiếm khoảng 1/5 tổng lượng thương mại thế giới, 23 nước sáng lập đã
cùng nhau ký hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), chính thức có
hiệu lực vào 1/1948.

Từ đó tới 1995, GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán chủ yếu về thuế quan. Tuy
nhiên, từ thập kỷ 70 và đặc biệt từ sau vòng Uruguay(1986-1994) do thương mại quốc
tế không ngừng phát triển, nên GATT đã mở rộng diện hoạt động, đàm phán không chỉ
về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các hiệp định hình thành các chuẩn mực, luật
chơi điều tiết các hàng rào phi quan thuế, về thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ,
các biện pháp đầu tư có liên quan tới thương mại, về thương mại hàng nông sản, hàng
dệt may, về cơ chế giải quyết tranh chấp. Với phạm vi của hệ thống thương mại đa
biên được mở rộng, nên Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) vốn
Trang 3
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
chỉ là một thỏa thuận có nội dung hạn chế và tập trung ở thương mại hàng hóa đã tỏ ra
không còn thích hợp. Do đó, ngày 15/4/1994, tại Marrkesh (Maroc), các bên đã kết
thúc hiệp định thành lập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát
triển sự nghiệp GATT. WTO chính thức được thành lập độc lập với hệ thống Liên
Hợp Quốc và đi vào hoạt động từ 1/1/1995.
II. Mục tiêu hoạt động và chức năng của WTO
1. Mục tiêu hoạt động
WTO với tư cách là một tổ chức thương mại của tất cả các nước trên thế giới, thực
hiện những mục tiêu đã được nêu trong Lời nói đầu của Hiệp định GATT 1947 là nâng
cao mức sống của nhân dân các nước thành viên, đảm bảo việc làm và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và thương mại, sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực của thế giới. Vì
vậy, WTO có 3 mục tiêu cụ thể như sau:
- Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ trên thế giới phục vụ cho sự
phát triển, ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường;
- Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh chấp
thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa
phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế, bảo đảm cho
các nước đang phát triển và đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được thụ
hưởng những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế, phù hợp với
nhu cầu phát triển kinh tế của các nước này và khuyến khích các nước này ngày

càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới;
- Nâng cao mức sống, tạo công ăn, việc làm cho người dân các nước thành viên, bảo
đảm các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng.
2. Chức năng của WTO
- Thống nhất quản lý việc thực hiện các hiệp định và thỏa thuận thương mại đa
phương và nhiều bên; giám sát, tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật cho các nước
thành viên thực hiện các nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ.
- Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa phương
trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO.
- Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc thực
hiện và giải thích Hiệp định WTO và các hiệp định thương mại đa phương và nhiều
bên.
- Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên, bảo đảm
thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hoá thương mại và tuân thủ các quy định của
WTO, Hiệp định thành lập WTO (Phụ lục 3) đã quy định một cơ chế kiểm điểm
chính sách thương mại áp dụng chung đối với tất cả các thành viên.
Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ Tiền tệ Quốc
tế và Ngân hàng Thế giới trong việc hoạch định những chính sách và dự báo về
những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu.
Trang 4
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
III. Cơ cấu tổ chức
1. Hội nghị bộ trưởng:
Hội nghị bộ trưởng gồm đại diện của tất cả các nước thành viên của WTO. Hội nghị
bộ trưởng họp hai năm một lần. Hội nghị bộ trưởng là cơ quan quyền lực cao nhất
của WTO.
Hội nghị bộ trưởng sẽ thực thi các chức năng của WTO và thực hiện hiện những
hành động cần thiết để thực thi các chức năng này. Khi một thành viên nào đó yêu
cầu, Hội nghị bộ trưởng cũng có quyền đưa ra những quyết định về tất cả các vấn đề
thuộc các hiệp định đa biên, theo trình tự ra quyết định được quy định tại Hiệp định

thành lập WO và các hiệp định đa biên.
Tính đến thời điểm này, WTO đã tổ chức được 6 kỳ hội nghị. Hội nghị bộ trưởng lần
thứ nhất tổ chức tại Singapore vào tháng 12/1996; lần thứ hai tại Geneva, Thuỵ Sỹ,
tháng 5/1998; lần thứ 3 tại Seatle, Mỹ, tháng 12/1999; lần thứ 4 tại Doha, Qatar,
tháng 11/2001; lần thứ 5 tại Cancun, Mehico, tháng 9/2003; lần thứ 6 tại Hongkong,
tháng 12/2005; lần thứ 7 tại Geneva, Thuỵ Sỹ, tháng 11/2009
2. Ðại hội đồng:
Ðại hội đồng gồm đại diện của tất cả các nước thành viên, sẽ họp khi cần thiết. Trong
thời gian giữa các khoá họp của Hội nghị bộ trưởng thì chức năng của Hội nghị bộ
trưởng sẽ do Ðại hội đồng đảm nhiệm. Như vậy, có thể hiểu Ðại hội đồng là cơ quan
quyết định tối cao của WTO trong thời gian giữa các khoá họp của Hội nghị bộ
trưởng.
Khi cần thiết, Ðại hội đồng sẽ được triệu tập để đảm nhiệm phần trách nhiệm của Cơ
quan giải quyết tranh chấp hoặc Cơ quan rà soát chính sách thương mại. Như vậy,
các hoạt động hàng ngày trong thời gian giữa hai kỳ họp Hội nghị bộ trưởng thuộc
trách nhiệm giải quyết của 3 cơ quan: Ðại hội đồng, Cơ quan giải quyết tranh chấp và
Cơ quan rà soát chính sách thương mại.
Nhưng theo như quy định của WTO, thực chất, cả 3 cơ quan này chỉ là một. Tức là
tuỳ theo từng trường hợp cụ thể:
- Ðại hội đồng nhóm họp với các chức năng và nhiệm vụ của Cơ quan giải quyết
tranh chấp hay là của Cơ quan rà soát chính sách thương mại.
- Cơ quan giải quyết tranh chấp giám sát việc thực thi các thủ tục giải quyết tranh
chấp giữa các thành viên (quy định tại Thoả thuận về những quy tắc và thủ tục điều
chỉnh việc giải quyết tranh chấp).
- Cơ quan rà soát chính sách thương mại tiến hành việc phân tích các chính sách
thương mại của các nước thành viên (quy định tại Cơ chế rà soát chính sách thương
mại).
3. Các hội đồng, các uỷ ban, các nhóm công tác:
a. Các hội đồng:
Trang 5

Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
Các hội đồng trực thuộc Ðại hội đồng, hoạt động theo sự chỉ đạo chung của Ðại hội
đồng. Các hội đồng cũng bao gồm đại diện của tất cả các thành viên của WTO. Ðại
hội đồng có các hội đồng sau:
- Hội đồng thương mại hàng hoá
- Hội đồng thương mại dịch vụ
- Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu
trí tuệ
Với chức năng của các hội đồng là giám sát việc thực hiện các hiệp định liên quan
đến lĩnh vực của mình. Các hội đồng sẽ nhóm họp khi cần thiết. Các hội đồng này
thành lập ra các cơ quan cấp dưới theo yêu cầu.
b. Các uỷ ban:
Hội nghị bộ trưởng thành lập ra các uỷ ban. Các uỷ ban cũng bao gồm các đại diện
của tất cả các thành viên của WTO. Các uỷ ban này đảm nhiệm các chức năng được
quy định trong các hiệp định của WTO hoặc các chức năng do Ðại hội đồng giao
cho.
Tuy cũng trực thuộc Ðại hội đồng nhưng thẩm quyền hoạt động của các uỷ ban hẹp
hơn so với các hội đồng. Ðại hội đồng có các uỷ ban sau:
- Uỷ ban về thương mại và môi trường;
- Uỷ ban về thương mại và phát triển;
- Uỷ ban về hiệp định thương mại khu vực;
- Uỷ ban về các hạn chế nhằm cân bằng cán cân thanh toán quốc tế;
- Uỷ ban về ngân sách, tài chính và quản trị;
c. Các nhóm công tác:
Các nhóm công tác cũng trực thuộc Ðại hội đồng nhưng cấp độ nhỏ hơn và hẹp hơn
so với các uỷ ban. Ðại hội đồng có nhóm công tác sau:
- Nhóm công tác về gia nhập tổ chức;
- Nhóm công tác về quan hệ giữa thương mại và đầu tư;
- Nhóm công tác về tác động qua lại giữa thương mại và chính sách cạnh
tranh;

- Nhóm công tác về minh bạch trong chi tiêu chính phủ;
- Nhóm công tác về thương mại, nợ và tài chính;
- Nhóm công tác về thương mại và chuyển giao công nghệ.
4. Ban thư ký của WTO:
Ban thư ký của WTO đặt tại Geneva. Ban thư ký có khoảng 550 nhân viên. Nhân
viên của Ban thư ký do Ban thư ký tuyển dụng qua thi tuyển. Ðiều kiện trước tiên là
phải thông thạo 3 ngoại ngữ là ngôn ngữ chính thức của WTO là Anh, Pháp, Tây Ban
Nha.
Trang 6
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
Ðứng đầu Ban thư ký là Tổng giám đốc. Tổng giám đốc của WTO do Hội nghị bộ
trưởng bổ nhiệm, quy định về quyền hạn, nghĩa vụ, điều kiện phục vụ và thời hạn
phục vụ của Tổng giám đốc. Nhiệm kỳ của Tổng giám đốc là 4 năm.Tổng giám đốc
sẽ bổ nhiệm các thành viên của Ban thư ký. Dưới Tổng giám đốc là các Phó tổng
giám đốc. Các vụ chức năng của Ban thư ký trực thuộc Tổng giám đốc hoặc một Phó
tổng giám đốc.
Ban thư ký có nhiệm vụ:
- Trợ giúp về mặt hành chính và kỹ thuật cho các cơ quan chức năng của
WTO (các hội đồng, các uỷ ban, ) trong việc đàm phán và thực thi các
hiệp định;
- Trợ giúp kỹ thuật cho các nước đang phát triển và kém phát triển;
- Thống kê và đưa ra phân tích về tình hình, chính sách và triển vọng
thương mại thế giới;
- Hỗ trợ các quá trình giải quyết tranh chấp và rà soát chính sách thương
mại;
- Tiếp xúc và hỗ trợ các nước thành viên mới trong quá trình đàm phán
gia nhập; tư vấn cho các chính phủ muốn trở thành thành viên của WTO
Trang 7
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
CHƯƠNG II

CÁC HIỆP ĐỊNH CHÍNH CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
I. Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch (GATT)
1. Khái niệm GATT
Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch (tên tiếng Anh: General Agreement on
Tariffs and Trade, viết tắt: GATT) là một hiệp ước được ký kết nhằm điều hòa chính
sách thuế quan giữa các nước ký kết.
2. Lịch sử hình thành GATT
GATT được ký kết lần đầu tiên vào năm 1947 (gọi tắt là GATT 1947), có hiệu lực từ
1/1/1948 như một thoả thuận tạm thời trong khi chờ ITO (Tổ chức Thương mại
Quốc tế) được thành lập, do một nhóm 23 nước đã đàm phán riêng rẽ và đạt được
một số ưu đãi thuế quan nhất định với mong muốn sớm cắt giảm thuế quan để đẩy
mạnh công cuộc tái thiết sau chiến tranh. Nhưng ITO đã không ra đời được do Quốc
hội Hoa Kỳ trì hoãn không phê chuẩn Hiến chương của ITO.
Do kết quả to lớn mà GATT mang lại (giảm 45.000 dòng thuế, tác động đến một khối
lượng thương mại 10 tỉ USD, 1/5 thương mại thế giới lúc bấy giờ) nên các nước ký
kết GATT vẫn tiếp tục thực hiện hiệp định này trong thời gian sau đó. Trong 46 năm
tồn tại của mình (1947 – 1994), GATT đã có những đóng góp to lớn vào việc thúc
đẩy và đảm bảo thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại thế giới. Số lượng các bên
tham gia cũng tăng nhanh. Cho tới trước khi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
được thành lập vào ngày 1/1/1995, GATT đã có 124 bên ký kết và đang tiếp nhận 25
đơn xin gia nhập. Nội dung của GATT ngày một bao trùm và quy mô ngày một lớn:
bắt đầu từ việc giảm thuế quan cho tới các biện pháp phi thuế, dịch vụ, sở hữu trí tuệ,
đầu tư, và tìm kiếm một cơ chế quốc tế giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các
quốc gia. Từ mức thuế trung bình 40% của năm 1948, đến năm 1995, mức thuế trung
bình của các nước phát triển chỉ còn khoảng 4% và thuế quan trung bình của các
nước đang phát triển còn khoảng 15%.
Mặc dù đã đạt được những thành công lớn, nhưng đến cuối những năm 1980, đầu
1990, trước những biến chuyển của tình hình thương mại quốc tế và sự phát triển của
khoa học-kỹ thuật, GATT 1947 bắt đầu tỏ ra có những bất cập, không theo kịp tình
hình. Trước tình hình đó các bên tham gia GATT nhận thấy cần phải có nỗ lực để

củng cố và mở rộng hệ thống thương mại đa biên. Từ năm 1986 đến 1994, Hiệp định
GATT 1947 và các hiệp định phụ trợ của nó đã được các nước thảo luận sửa đổi và
cập nhật để thích ứng với điều kiện thay đổi của môi trường thương mại thế giới.
Hiệp định GATT 1947, cùng với các quyết định đi kèm và một vài biên bản giải thích
khác đã hợp thành GATT 1994.
3. Mục tiêu của GATT
- Thúc đẩy và đảm bảo thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại thế giới
Trang 8
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
- Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh chấp
thương mại giữa các nước thành viên
- Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm, đảm bảo các quyền và tiêu chuẩn lao động
đối thiểu
4. Nội dung của GATT
Hiệp định GATT gồm 4 phần với 38 điều, được dùng để điều chỉnh quyền và nghĩa
vụ của các thành viên WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hóa với các nội dung
chính sau:
- Quy định về đối xử tối huệ quốc (Điều I và II):
GATT quy định: “Với mọi khoản thuế quan và khoản thu thuộc bất cứ loại nào nhằm
vào hay có liên hệ tới nhập khẩu và xuất khẩu hoặc đánh vào các khoản chuyển
khoản để thanh toán hàng xuất nhập khẩu, hay phương thức đánh thuế hoặc áp dụng
phụ thu nêu trên, hay với mọi luật lệ hay thủ tục trong xuất nhập khẩu và liên quan
tới mọi nội dung đã được nêu tại khoản 2 và khoản 4 của Điều III,* mọi lợi thế, biệt
đãi, đặc quyền hay quyền miễn trừ được bất kỳ bên ký kết nào dành cho bất cứ một
sản phẩm có xuất xứ từ hay được giao tới bất kỳ một nước nào khác sẽ được áp dụng
cho sản phẩm tương tự có xuất xứ từ hay giao tới mọi bên ký kết khác ngay lập tức
và một cách không điều kiện”. “Mỗi bên ký kết sẽ dành cho thương mại của các bên
ký kết khác sự đối xử không kém phần thuận lợi hơn những đối xử đã nêu trong phần
tương ứng thuộc Biểu nhân nhượng tương ứng là phụ lục của Hiệp định này.” Điều
này có nghĩa là Việt Nam không thể quy định đối xử ưu đãi (thuận lợi hơn) hoặc

phân biệt (kém ưu đãi hơn) đối với hàng hoá của một nước so với đối xử dành cho
hàng hoá của các nước khác trong WTO. Giả sử nếu Việt Nam đã quy định mức thuế
quan MFN đối với xe hai bánh gắn máy là 05% thì xe hai bánh gắn máy có xuất xứ
từ tất cả các nước thành viên WTO sẽ được hưởng mức thuế quan là 05%. Nếu Chính
phủ Việt Nam quyết định trong tương lai giảm thuế quan đối với xe hai bánh gắn
máy có xuất xứ từ một nước thành viên WTO xuống còn 03% thì xe hai bánh gắn
máy nhập khẩu từ tất cả các nước thành viên khác của WTO sẽ ngay lập tức được
hưởng mức thuế quan mới là 03% mà không có ngoại lệ. Việt Nam cũng có quyền
yêu cầu chính phủ các nước thành viên phải bảo đảm để Việt Nam được hưởng đối
xử MFN phù hợp với quy định của WTO.
- Đối xử quốc gia về thuế và quy tắc trong nước (Điều III):
Đối xử quốc gia được áp dụng sau khi hàng hoá đã qua biên giới nước nhập khẩu
và đi vào thị trường nội địa nước này. Về cơ bản, đối xử quốc gia theo GATT có
nghĩa là hàng hóa nhập khẩu sẽ được hưởng sự đối đãi ngang bằng (không kém
thuận lợi hơn so) so với sản phẩm tương tự được sản xuất trong nước nhập khẩu.
Nói một cách khác, Việt Nam không thể sử dụng các biện pháp “thuế, khoản thu nội
địa, luật hay quy tắc hay yêu cầu tác động tới việc bán hàng, chào bán, vận tải, phân
phối hay sử dụng sản phẩm trong nội địa cùng các quy tắc định lượng trong nước yêu
cầu có pha trộn, chế biến hay sử dụng sản phẩm với một khối lượng tỷ trọng xác
định” lên các sản phẩm nhập khẩu với mục đích nhằm bảo hộ hàng nội địa.
Trang 9
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
- Triệt tiêu chung về các hạn chế định lượng (Điều XI):
Theo quy định tại điều này, các hạn chế thương mại không được áp đặt dưới hình
thức hạn ngạch hoặc các hạn chế số lượng đối với hàng nhập khẩu, trừ khi đáp ứng
một trong những ngoại lệ cụ thể được quy định ở các Điều XI, XX hoặc XXI của
GATT 1994 . Điều này có nghĩa là trên thực tế Việt Nam phải loại bỏ các hạn chế
xuất nhập khẩu, các hạn ngạch xuất nhập khẩu, các yêu cầu cấp phép có hệ quả hạn
chế số lượng mà các công ty có thể nhập khẩu hoặc xuất khẩu và bất kỳ sự kiểm
soát nào khác có tác động đến việc hạn chế hàng nhập khẩu hoặc xuất khẩu. Việt

Nam cũng có quyền yêu cầu các nước thành viên bảo đảm cho Việt Nam được hưởng
các quy định đó của WTO.
Ví dụ như Việt Nam không thể ấn định tổng số xe máy được nhập khẩu từ Trung
quốc là 5000 xe trong một năm trừ khi Việt Nam có thể chứng minh được rằng hạn
chế này dựa trên cơ sở của một trong những ngoại lệ được phép áp dụng theo quy
định 1994. Tương tự, Chính phủ Việt Nam cũng không thể hạn chế số lượng tôm mà
Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản là 100.000 tấn một năm chỉ đơn giản vì Việt
Nam muốn dự trữ lượng tôm còn lại cho thị trường Hoa Kỳ.
- Thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng (Điều VI):
Bán phá giá trong thương mại quốc tế có thể hiểu là hiện tượng xảy ra khi “sản phẩm
của một nước được đưa vào kinh doanh thương mại trên thị trường của một nước
khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm” hay nói một cách khác là
một loại hàng hoá được xuất khẩu từ nước này sang nước khác với mức giá thấp hơn
giá bán của hàng hoá đó tại thị trường nội địa nước xuất khẩu. Cụ thể: nếu một sản
phẩm của nước A bán tại thị trường nước A với giá X nhưng lại được xuất khẩu sang
nước B với giá Y (Y<X) thì sản phẩm đó được xem là bán phá giá từ nước A sang
nước B. Trong WTO, đây được xem là “hành vi cạnh tranh không lành mạnh” của
các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài đối với ngành sản xuất nội địa nước nhập
khẩu
Nhằm mục đích triệt tiêu tác dụng hay ngăn ngừa việc bán phá giá, Điều VI của
GATT cho phép các bên tham gia kí kết hiệp định áp dụng biện pháp “đánh vào bất
cứ một sản phẩm được bán phá giá nào một khoản thuế chống bán phá giá” khi hiện
tượng bán phá giá xảy ra và gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất nội địa của
nước nhập khẩu tham gia kí kết hiệp định.
- Các ngoại lệ chung (Điều XX):
Điều XX là một điều khoản quan trọng trong GATT 1994 vì điều này quy định một
danh mục các ngoại lệ pháp lý mà chính phủ các thành viên WTO có thể viện dẫn
nhằm lý giải cho các biện pháp mà có thể bị coi là vi phạm các quy tắc của Hiệp
định GATT. Trong số các ngoại lệ cho phép được quyền quy định ở điều này có các
biện pháp được thực hiện để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của con người, động thực

vật, đạo đức xã hội, di tích lịch sử và di sản quốc gia và để bảo vệ việc phân phối
trong nước các sản phẩm khan hiếm. Bất kỳ chính phủ nào viện dẫn một trong các
ngoại lệ đều không được sử dụng ngoại lệ “theo cách tạo ra công cụ phân biệt đối xử
Trang 10
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
độc đoán hay phi lý giữa các nước có cùng điều kiện như nhau” hay tạo ra một “sự
hạn chế trá hình đối với thương mại quốc tế”.
II. Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS)
1. Khái niệm GATS
Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (tiếng Anh: General Agreement on Trade in
Services, viết tắt là GATS) là một hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO,
ra đời vào năm 1995 nhằm quy định các nguyên tắc về thương mại dịch vụ.
2. Mục tiêu của GATS:
- Tạo ra một hệ thống các quy tắc thương mại quốc tế đáng tin cậy;
- Đảm bảo đối xử bình đẳng và công bằng đối với tất cả các bên tham gia (nguyên tắc
không phân biệt đối xử);
- Thúc đẩy các hoạt động kinh tế thông qua việc cam kết chính sách
- Thúc đẩy thương mại và phát triển thông qua tự do hóa dần dần (tạo điều kiện để
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tiếp cận khách hàng dễ dàng hơn, đặc biệt là khách
hàng ở thị trường nước khác)
3. Nội dung của GATS
Hiệp định GATS gồm 29 điều và nhiều phụ lục với các quy định riêng cho từng lĩnh
vực dịch vụ và được chia thành 3 nhóm nội dung. Nhóm nội dung thứ nhất quy định
khung pháp lý cơ bản được áp dụng cho tất cả các thành viên. Nhóm thứ hai liên
quan đến danh mục cam kết trên quy mô quốc gia bao gồm các cam kết cụ thể hơn về
tiến trình tự do hóa. Nhóm thứ ba gồm phụ lục về trường hợp đặc biệt liên quan từng
ngành dịch vụ cụ thể.
- Phương thức cung cấp địch vụ:
GATS chia phương thức cung cấp dịch vụ mang tính thương mại quốc tế thành bốn
loại như sau:

- Cung ứng dịch vụ qua biên giới: việc cung cấp dịch vụ được tiến hành từ lãnh
thổ của một nước này sang lãnh thổ của một nước khác.
- Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài: người sử dụng dịch vụ mang quốc tịch một
nước đi đến một nước khác và sử dụng dịch vụ ở nước đó.
- Hiện diện thương mại: người cung cấp dịch vụ mang quốc tịch một nước đi đến
một nước khác, lập ra một pháp nhân và cung cấp dịch vụ ở nước đó.
- Hiện diện cá nhân ở nước ngoài: người cung cấp dịch vụ là thể nhân mang quốc
tịch một nước đi đến một nước khác và cung cấp dịch vụ ở nước đó.
- Phân loại dịch vụ:
GATS không có quy định chính thức về cách phân loại dịch vụ. Tuy nhiên, theo Ban
Thư ký của WTO, hoạt động dịch vụ được chia thành 12 ngành với 155 phân ngành
như sau:
Trang 11
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
Bảng 1 - Các ngành dịch vụ theo phân loại không chính thức của GATS
Stt Ngành dịch vụ Mô tả chung
1 Dịch vụ kinh doanh Bao gồm các dịch vụ chuyên môn như dịch vụ pháp lý, dịch vụ kế
toán, kiểm toán, dịch vụ kiến trúc; dịch vụ máy tính và các dịch vụ
liên quan; các dịch vụ kinh doanh khác
2 Dịch vụ thông tin Bao gồm dịch vụ chuyển phát, dịch vụ viễn thông và dịch vụ nghe
nhìn
3 Dịch vụ xây dựng
4 Dịch vụ phân phối Bao gồm dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán buôn, dịch vụ bán lẻ
và dịch vụ nhượng quyền thương mại
5 Dịch vụ giáo dục Bao gồm các dịch vụ giáo dục phổ thông cơ sở, giáo dục bậc cao,
giáo dục cho người lớn, các dịch vụ giáo dục khác
6 Dịch vụ môi trường Bao gồm các dịch vụ xử lý nước thải, xử lý rác thải, các dịch vụ khác
7 Dịch vụ tài chính Bao gồm dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ ngân hàng và dịch vụ chứng
khoán
8 Dịch vụ y tế Bao gồm dịch vụ bệnh viện, dịch vụ nha khoa và các dịch vụ y tế

khác
9 Dịch vụ du lịch Bao gồm dịch vụ khách sạn và nhà hàng, dịch vụ đại lý lữ hành và
điều hành tour du lịch, các dịch vụ du lịch khác
10 Dịch vụ văn hóa, giải trí và
thể thao

11 Dịch vụ vận tải Bao gồm dịch vụ vận tải biển, dịch vụ vận tải đường bộ, đường sắt,
đường thủy, hàng không, các dịch vụ hỗ trợ vận tải
12 Các dịch vụ khác
- Nghĩa vụ chung cho các nước thành viên:
Nghĩa vụ đối xử tối huệ quốc (MFN): Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi thành viên không
được phân biệt đối xử giữa các dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ đến từ các nước
thành viên khác nhau. Ví dụ: Nếu Việt Nam cho phép một doanh nghiệp từ nước A
(thành viên WTO) lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam để cung cấp
Trang 12
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
dịch vụ quảng cáo thì theo nguyên tắc MFN Việt Nam cũng phải cho phép các doanh
nghiệp của các nước thành viên WTO khác lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
trong lĩnh vực quảng cáo.
Tuy nhiên cũng có trường hợp ngoại lệ tùy theo cam kết riêng của từng nước trong
WTO, đây là trường hợp nước gia nhập thành công trong đàm phán miễn thực hiện
nghĩa vụ này trong một số dịch vụ hoặc trường hợp cụ thể trong một số năm hay theo
các thoả thuận khu vực hoặc các Hiệp định thương mại tự do: các cam kết trong
những Văn kiện này được ưu tiên áp dụng (và do đó các nước thành viên những Thoả
thuận hay Hiệp định này có thể cho nhau hưởng đối xử ưu đãi ở mức cao hơn so với
các nước thành viên WTO không tham gia Thoả thuận hay Hiệp định này)
Nghĩa vụ minh bạch hóa: Mỗi nước thành viên phải công khai các quy định của
mình trong lĩnh vực dịch vụ và phải thiết lập các Điểm hỏi đáp để cung cấp thông tin
liên quan cho các nước thành viên khác cũng như các doanh nghiệp của các nước đó.
Các nghĩa vụ liên quan đến doanh nghiệp dịch vụ độc quyền: GATS quy định các

nước thành viên phải thiết lập các thủ tục hành chính và các nguyên tắc tố tụng minh
bạch, khách quan đối với hoạt động của các doanh nghiệp dịch vụ độc quyền (để đảm
bảo rằng các doanh nghiệp này không lạm dụng vị trí độc quyền).
III. Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
(TRIPS)
1. Khái niệm về TRIPS
Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (tiếng
Anh: Trade-Related Intellectual Property Rights, viết tắt là TRIPS) là một trong
những hiệp định mang tính bắt buộc đối với các thành viên của WTO. Hiệp định này
quy định các tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến sự sẵn sàng, phạm vi và sự sử dụng các
loại quyền sở hữu trí tuệ và phát triển các quy định của các công ước đa phương
trong tương lai.
2. Khái niệm về quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu trí tuệ (intellectual property – thực chất là các “tài sản trí tuệ”) là từ
được sử dụng để chỉ các quyền đối với các sản phẩm trí tuệ. Trong rất nhiều trường
hợp các quyền này gắn với giá trị vật chất, có thể mua bán, trao đổi thương mại nên
hầu hết các nước đều có quy định để bảo hộ các quyền này nhằm bảo đảm lợi ích của
người có quyền và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại liên quan.
Đối tượng của các quyền sở hữu trí tuệ bao gồm hai nhóm:
- Nhóm sản phẩm nhấn mạnh đến tính sáng tạo, tri thức: Bao gồm Tác phẩm văn
học, nghệ thuật, khoa học; Phát minh sáng chế; Kiểu dáng công nghiệp
- Nhóm các sản phẩm tuy không mang nhiều tính sáng tạo nhưng cần thiết được
bảo hộ để tạo điều kiện phân biệt sản phẩm: Bao gồm Nhãn hiệu hàng hóa;
Nhãn hiệu dịch vụ; Tên gọi xuất xứ hàng hóa.
3. Mục tiêu của TRIPS
Trang 13
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ của WTO được thiết
lập với mục tiêu tạo ra một mức chuẩn tương đối trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ ở tất cả các nước thành viên, cụ thể:

- Tạo ra những nguyên tắc khung, những tiêu chuẩn tối thiểu để bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ và các biện pháp thực thi quyền này;
- Xác định lộ trình bắt buộc thực hiện các tiêu chuẩn tối thiểu trong bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ này ở mỗi nước (có tính đến hoàn cảnh thực tế của mỗi nước).
4. Nội dung của TRIPS
Hiệp định TRIPS bao gồm những nội dung chính như: tiêu chuẩn liên quan đến khả
năng đạt được, phạm vi và sử dụng quyền sở hữu trí tuệ đối với các đối tượng sở hữu
trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng
công nghiệp, sáng chế (bao gồm giống cây trồng), thiết kế bố trí mạch tích hợp và
thông tin bí mật; quy định về kiểm soát thực tế chống cạnh tranh liên quan đến quyền
sở hữu trí tuệ; quy định chi tiết về thực thi quyền sở hữu trí tuệ; quy định về giải
quyết tranh chấp liên quan đến sở hữu trí tuệ theo Cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO.
- Các tiêu chuẩn liên quan đến khả năng đạt được, phạm vi và sử dụng quyền sở
hữu trí tuệ
(a) Quyền tác giả và quyền liên quan
i) Quyền tác giả
Hiệp định TRIPS khẳng định phạm vi bảo hộ quyền tác giả bao gồm sự thể hiện và
không bao gồm các ý tưởng, trình tự, phương pháp tính hoặc các khái niệm toán học
(Điều 9.2). Các chương trình máy tính, dù dưới dạng mã nguồn hay mã máy, đều
phải được bảo hộ quyền tác giả như những tác phẩm văn học (Điều 10.1). Các cơ sở
dữ liệu, bộ sư tập dữ liệu hoặc tư liệu khác đều phải được bảo hộ quyền tác giả thậm
chí cơ sở dữ liệu chứa đựng dữ liệu không được bảo hộ quyền tác giả (Điều 10.2).
Ít nhất là đối với chương trình máy tính và tác phẩm điện ảnh, các nước thành viên
phải dành cho tác giả và người thừa kế hợp pháp của họ quyền cho phép hoặc cấm
việc cho công chúng thuê bản gốc hoặc bản sao các tác phẩm của họ nhằm mục đích
thương mại (Điều 11).
Theo quy định tại Điều 12, nếu thời hạn bảo hộ tác phẩm (ngoại trừ đối với tác phẩm
nhiếp ảnh và tác phẩm nghệ thuật ứng dụng) không được tính theo đời người, thời
hạn đó không được dưới 50 năm kể từ khi kết thúc năm dương lịch mà tác phẩm

được công bố một cách hợp pháp, hoặc 50 năm tính từ khi kết thúc năm dương lịch
mà tác phẩm được tạo ra nếu tác phẩm không được công bố một cách hợp pháp trong
vòng 50 năm từ ngày tạo ra tác phẩm. Hiệp định TRIPS yêu cầu các nước thành viên
WTO giới hạn những hạn chế và ngoại lệ đối với các độc quyền trong những trường
hợp đặc biệt nhất định nhưng với điều kiện không được mâu thuẫn với việc khai thác
bình thường tác phẩm và không làm tổn hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp
của chủ thể nắm giữ quyền (Điều 13).
ii) Quyền liên quan
Trang 14
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
Hiệp định TRIPS bao gồm những quy định về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất
bản ghi âm và các tổ chức phát thanh, truyền hình. Theo Hiệp định, người biểu diễn
có quyền ngăn cấm ghi thu, lưu định cuộc biểu diễn bằng phương tiện ghi âm. Quyền
ghi thu, lưu định của người biểu diễn chỉ liên quan đến âm thanh chứ không liên quan
đến cả âm thanh và hình ảnh. Người biểu diễn còn có quyền ngăn cấm tái tạo, nhân
bản bản ghi âm. Người biểu diễn cũng có quyền ngăn cấm phát qua phương tiện vô
tuyến và truyền cho công chúng buổi biểu diễn trực tiếp của họ (Điều 14.1). Hiệp
định TRIPS yêu cầu các nước thành viên WTO cho phép nhà sản xuất bản ghi âm
độc quyền sao chép các bản ghi âm của họ (Điều 14.2). Thêm vào đó, theo Điều 14.4,
nhà sản xuất bản ghi âm còn có độc quyền cho thuê bản ghi âm. Các tổ chức phát
thanh, truyền hình phải có quyền ngăn cấm các hành vi sau đây nếu thực hiện mà
không được họ cho phép: ghi, sao chép bản ghi, phát lại qua phương tiện vô tuyến
chương trình, cũng như truyền hình cho công chúng các chương trình (Điều 14.3).
Thời hạn bảo hộ người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm ít nhất là 50 năm tính từ
khi kết thúc năm dương lịch mà việc ghi âm hoặc buổi biểu diễn được tiến hành và
thời hạn bảo hộ tổ chức phát sóng ít nhất là 20 năm tính khi kết thúc năm dương lịch
mà chương trình phát thanh, truyền hình được thực hiện (Điều 14.5). Hiệp định
TRIPS cho phép các nước thành viên WTO quy định về các điều kiện, hạn chế, ngoại
lệ và bảo lưu đối với những quyền được quy định cho người biểu diễn, nhà sản xuất
bản ghi âm và tổ chức phát thanh, truyền hình trong phạm vi quy định của Công ước

Rome (Điều 14.6.).
(b) Nhãn hiệu
Hiệp định TRIPS quy định rất rộng về phạm vi các dấu hiệu có khả năng được bảo hộ
với danh nghĩa nhãn hiệu, đó là bất kỳ một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu, bao
gồm dấu hiệu nhìn thấy được (như các chữ cái, các chữ số, các yếu tố hình họa) và
dấu hiệu không nhìn thấy được (như âm thanh, mùi, vị) có khả năng phân biệt hàng
hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh
nghiệp khác, đều có thể được đăng ký làm nhãn hiệu (Điều 15.1). Các nước thành
viên WTO có thể quy định khả năng được đăng ký phụ thuộc vào “tính phân biệt đạt
được thông qua việc sử dụng” khi bản thân các dấu hiệu không có khả năng phân biệt
hàng hóa hoặc dịch vụ tương ứng.
Chủ sở hữu nhãn hiệu đã đăng ký có độc quyền ngăn cấm những người khác không
được sự đồng ý của mình sử dụng trong hoạt động kinh doanh các dấu hiệu trùng
hoặc tương tự cho hàng hóa hoặc dịch vụ trùng hoặc tương tự với những hàng hóa
hoặc dịch vụ được đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng như vậy có
nguy cơ gây nhầm lẫn. “Việc sử dụng cùng một dấu hiệu cho cùng một loại hàng
hóa hoặc dịch vụ phải bị coi là có nguy cơ gây nhầm lẫn” (Điều 16.1).
Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng được quy định tại Điều 16.2 và Điều 16.3 Hiệp
định TRIPS. Những quy định này của Hiệp định TRIPS cung cấp sự bảo hộ bổ sung
cho nhãn hiệu nổi tiếng đã được quy định tại Điều 6bis Công ước Paris. Trước hết,
Hiệp định TRIPS khẳng định rằng “Điều 6bis Công ước Paris (1967) phải được áp
dụng, với những sửa đổi thích hợp, đối với các dịch vụ”. Để xác định một nhãn hiệu
Trang 15
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
có nổi tiếng hay không, không chỉ phải xem xét danh tiếng của nhãn hiệu đó trong bộ
phận công chúng có liên quan thông qua sử dụng nhãn hiệu mà còn thông qua hoạt
động quảng cáo nhãn hiệu. Hơn nữa, bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng mở rộng đối với
hàng hóa hoặc dịch vụ không tương tự với những hàng hóa hoặc dịch vụ được đăng
ký kèm theo nhãn hiệu nổi tiếng, với điều kiện việc sử dụng nhãn hiệu đó thể hiện
mối liên hệ giữa hàng hóa hoặc dịch vụ này với chủ sở hữu nhãn hiệu đã đăng ký và

lợi ích của chủ sở hữu nhãn hiệu đã đăng ký có nguy cơ bị tổn hại do việc sử dụng
nhãn hiệu.
Theo quy định tại Điều 17, các Thành viên WTO có thể quy định một số ngoại lệ đối
với các quyền đã quy định cho chủ sở hữu nhãn hiệu, chẳng hạn như sử dụng lành
mạnh các thuật ngữ mang tính chất mô tả, với điều kiện những ngoại lệ đó không ảnh
hưởng đến lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu nhãn hiệu và của bên thứ bên. Thời hạn
bảo hộ nhãn hiệu cho lần đầu đăng ký đầu tiên và mỗi lần gia hạn ít nhất là 07 năm.
Số lần gia hạn hiệu lực đăng ký nhãn hiệu không bị giới hạn (Điều 18).
Về yêu cầu sử dụng nhãn hiệu, Hiệp định TRIPS quy định như sau: chỉ được hủy bỏ
một nhãn hiệu trên cơ sở không sử dụng nếu việc không sử dụng diễn ra ít nhất ba
năm liên tục, trừ trường hợp chủ sở hữu nhãn hiệu đưa ra những lý do chính đáng cản
trở việc sử dụng nhãn hiệu. Các trường hợp không sử dụng nhãn hiệu không phụ
thuộc vào ý chí của chủ sở hữu nhãn hiệu, chẳng hạn việc hạn chế nhập khẩu hoặc
những hạn chế khác của chính phủ, được coi là lý do chính đáng cho việc không sử
dụng nhãn hiệu. Việc người khác sử dụng nhãn hiệu dưới sự kiểm soát của chủ sở
hữu nhãn hiệu phải được công nhận là sử dụng nhãn hiệu nhằm duy trì hiệu lực đăng
ký nhãn hiệu (Điều 19).
(c) Chỉ dẫn địa lý
Định nghĩa chỉ dẫn địa lý được đưa ra tại Điều 22.1 Hiệp định TRIPS. Theo đó, “chỉ
dẫn địa lý là những chỉ dẫn về hàng hóa bắt nguồn từ lãnh thổ của một nước Thành
viên hoặc từ khu vực hay địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng, uy tín hoặc
đặc tính nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định.” Hiệp định yêu cầu các
Thành viên WTO cung cấp các phương tiện pháp lý để ngăn chặn việc sử dụng chỉ
dẫn gây nhầm lẫn cho công chúng về nguồn gốc địa lý của hàng hóa và việc sử dụng
cấu thành hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo nghĩa của Điều 10bis Công ước
Paris (Điều 22.2).
Mối quan hệ giữa nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý được đề cập tại Điều 22.3. Cụ thể, phải
từ chối đăng ký nhãn hiệu hoặc hủy bỏ hiệu lực của nhãn hiệu đã đăng ký theo quy
định của pháp luật hoặc theo yêu của các bên liên quan, nếu nhãn hiệu sử dụng chỉ
dẫn địa lý gây nhầm lẫn cho công chúng về xuất xứ thực của hàng hóa.

Cần lưu ý rằng Hiệp định TRIPS cung cấp sự bảo hộ đặc biệt đối với các chỉ dẫn địa
lý dùng cho rượu vang và rượu mạnh (Điều 23). Theo đó, các Thành viên WTO phải
cung cấp những biện pháp pháp lý để ngăn ngừa việc sử dụng một chỉ dẫn địa lý của
rượu vang cho những loại rượu vang không bắt nguồn từ lãnh thổ tương ứng với chỉ
dẫn địa lý đó. Quy định này cũng được áp dụng trong trường hợp công chúng không
Trang 16
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
nhầm lẫn, không cấu thành hành vi cạnh tranh không lành mạnh và nguồn gốc thực
sự của hàng hóa được chỉ ra hoặc chỉ dẫn địa lý được sử dụng gắn với các từ như
“loại”, “kiểu”, “dạng”, “phỏng theo” hoặc tương tự như vậy. Việc bảo hộ tương tự
được áp dụng cho rượu mạnh và cho nhãn hiệu. Các trường hợp ngoại lệ đối với bảo
hộ chỉ dẫn địa lý được quy định tại Điều 24.
(d) Kiểu dáng công nghiệp
Hiệp định TRIPS yêu cầu các Thành viên WTO bảo hộ các kiểu dáng công nghiệp
mới hoặc nguyên gốc được tạo ra một cách độc lập và sự bảo hộ đó không áp dụng
cho những kiểu dáng công nghiệp chủ yếu do đặc tính kỹ thuật và chức năng quyết
định (Điều 25.1).
Xuất phát từ mối liên hệ không thể phủ nhận giữa kiểu dáng công nghiệp và ngành
công nghiệp dệt, thời gian tồn tại ngắn của những kiểu dáng mới trong lĩnh vực dệt,
Hiệp định TRIPS bao gồm một quy định riêng về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp cho
hàng dệt. “[B]ảo hộ đối với các kiểu dáng hàng dệt, đặc biệt là yêu cầu về lệ phí, xét
nghiệm hoặc công bố, không làm giảm một cách bất hợp lý cơ hội tìm kiếm và đạt
được sự bảo hộ đó. Các Thành viên được tự do lựa chọn áp dụng pháp luật kiểu dáng
công nghiệp hoặc pháp luật bản quyền để thực hiện nghĩa vụ này” (Điều 25.2).
Điều 26.1 yêu cầu các Thành viên WTO trao cho chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp
quyền ngăn cấm những người không được sự đồng ý của mình sản xuất, bán hoặc
nhập khẩu các sản phẩm mang hoặc thể hiện một kiểu dáng là bản sao, hoặc về cơ
bản là bản sao, của kiểu dáng đã được bảo hộ, nếu các hành vi này nhằm mục đích
thương mại. Các Thành viên được phép quy định các ngoại lệ đối với việc bảo hộ
kiểu dáng công nghiệp với điều kiện các ngoại lệ đó không mâu thuẫn bất hợp lý với

việc khai thác bình thường kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ và không làm tổn hại
một cách bất hợp lý lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp đã được
bảo hộ, trong trường hợp này cần xem xét cả lợi ích của các bên thứ ba (Điều 26.2).
Thời hạn bảo hộ kiểu dáng công nghiệp tối thiểu là 10 năm (Điều 26.3).
(e) Sáng chế
Hiệp định TRIPS đòi hỏi các Thành viên bảo hộ sáng chế cho sản phẩm hoặc quy
trình thuộc mọi lĩnh vực công nghệ với điều kiện sản phẩm hoặc quy trình có tính
mới, có trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp (Điều 27.1). Có thể loại
trừ không cấp bằng độc quyền sáng chế trong ba trường hợp. Thứ nhất, đối với
những sáng chế trái ngược với trật tự công cộng hoặc đạo đức xã hội; kể cả những
sáng chế gây nguy hiểm cho sức khỏe của con người và động vật hoặc thực vật hoặc
để tránh gây nguy hại nghiêm trọng cho môi trường (Điều 27.2). Thứ hai, các Thành
viên có thể không cấp bằng độc quyền sáng chế cho các phương pháp chẩn đoán
bệnh, các phương pháp nội và ngoại khoa để chữa bệnh cho người và động vật (Điều
27.3(a)). Thứ ba, các Thành viên có thể không cấp bằng độc quyền sáng chế cho thực
vật và động vật, chủ yếu mang tính chất sinh học và không phải là các quy trình phi
sinh học hoặc vi sinh. Tuy nhiên, bất kỳ nước nào không bảo hộ giống cây trồng theo
Trang 17
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
hệ thống sáng chế đều phải quy định một hệ thống bảo hộ riêng hữu hiệu đối với
giống cây trồng (Điều 27.3(b)).
Chủ sở hữu sáng chế có quyền sản xuất, sử dụng, chào hàng, bán sản phẩm và nhập
khẩu sản phẩm để thực hiện những mục đích nêu trên. Nếu sáng chế là một quy trình,
chủ sở hữu sáng chế không chỉ có quyền đối với quy trình mà còn có quyền đối với
sản phẩm tạo ra trực tiếp bằng quy trình đó. Chủ sở hữu sáng chế cũng có quyền
chuyển nhượng, để lại thừa kế quyền đối với sáng chế và giao kết các hợp đồng
chuyển giao quyền sử dụng sáng chế (Điều 28). Các Thành viên WTO có thể quy
định những ngoại lệ đối với các quyền nêu trên, với điều kiện những ngoại lệ đó
không mâu thuẫn bất hợp lý với việc khai thác bình thường sáng chế và không gây
tổn hại bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu sáng chế và lợi ích hợp pháp

của bên thứ ba (Điều 30). Thời hạn bảo hộ sáng chế không được ngắn hơn 20 năm
tính từ ngày nộp đơn (Điều 33).
Bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế (li-xăng bắt buộc) hoặc sử dụng sáng
chế do Chính phủ thực hiện mà không được phép của chủ thể nắm giữ quyền được
thừa nhận nhưng với những điều kiện nhất định nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của
chủ thể nắm giữ quyền (Điều 31). Điều kiện áp dụng bắt buộc chuyển giao quyền sử
dụng sáng chế được giảm nhẹ nhằm xử lý những thực tế chống cạnh tranh. Các điều
kiện áp dụng này phải được xem xét trong mối quan hệ với các quy định liên quan tại
Điều 27.1 của Hiệp định TRIPS.
(f) Thiết kế bố trí mạch tích hợp
Theo Hiệp định TRIPS, việc bảo hộ thiết kế bố trí mạch tích hợp dựa trên các quy
định của Hiệp ước về sở hữu trí tuệ đối với mạch tích hợp (Điều 35) và một số quy
định bổ sung của Hiệp định TRIPS (Điều 36 đến Điều 38). Trong đó, Hiệp ước về sở
hữu trí tuệ đối với mạch tích hợp bao gồm định nghĩa “mạch tích hợp” và “thiết kế bố
trí”, các điều kiện bảo hộ, các độc quyền, những giới hạn và khai thác, đăng ký, mở
thiết kế bố trí mạch tích hợp. Các quy định về thiết kế bố trí mạch tích hợp trong
Hiệp định TRIPS bổ sung bốn vấn đề quan trọng đáng kể cho Hiệp ước về sở hữu trí
tuệ đối với mạch tích hợp. Đó là: (i) khả năng bảo hộ sản phẩm chứa thiết kế bố trí
bất hợp pháp (Điều 36); (ii) xử lý người vi phạm không có lỗi, đó là người thực hiện
hành vi nhập khẩu, bán hoặc phân phối dưới hình thức khác nhằm mục đích thương
mại mạch tích hợp chứa thiết kế bố trí bị sao chép bất hợp pháp hoặc bất kỳ sản phẩm
nào chứa mạch hợp như vậy nếu tại thời điểm tiếp nhận mạch tích hợp hoặc sản
phẩm chứa mạch tích hợp đó mà không biết hoặc không có căn cứ hợp lý để biết rằng
trong đó chứa thiết kế bố trí bị sao chép bất hợp lý (Điều 37.1); (iii) áp dụng các quy
định tại Điều 31 Hiệp định TRIPS đối với chuyển giao không tự nguyện quyền sử
dụng thiết kế bố trí hoặc sử dụng thiết kế bố trí do Chính phủ thực hiện mà không
được phép của chủ thể nắm giữ quyền, thay cho các quy định về bắt buộc chuyển
giao quyền sử dụng thiết kế bố trí (li-xăng bắt buộc) trong Hiệp ước về sở hữu trí tuệ
đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp (Điều 37.2).
(g) Thông tin bí mật

Trang 18
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
Khác với sáu đối tượng sở hữu trí tuệ đã đề cập ở trên, Hiệp định TRIPS chỉ rõ rằng
việc bảo hộ thông tin bí mật nhằm bảo đảm “chống cạnh tranh không lành mạnh một
cách hữu hiệu” (Điều 39.1.). Bên cạnh đó, Hiệp định bao gồm định nghĩa “thông tin
bí mật” tại Điều 39.2. Theo quy định này, thông tin này phải có tính chất bí mật, có
giá trị thương mại vì có tính chất bí mật, được giữ bí mật bằng các biện pháp hợp lý.
Hiệp định TRIPS cũng quy định về dữ liệu thử nghiệm và các dữ liệu bí mật khác
trong trường hợp phải nộp dữ liệu theo yêu cầu của Chính phủ để được phép tiếp thị
dược phẩm hoặc các sản phẩm hóa nông có chứa những thành phần hóa học mới
(Điều 39.3). Trong trường hợp như vậy, các Thành viên WTO “phải bảo hộ để các dữ
liệu đó không bị sử dụng trong thương mại một cách không lành mạnh …[và] không
bị tiết lộ, trừ trường hợp cần bảo vệ công chúng hoặc trừ khi áp dụng các biện pháp
nhằm bảo đảm các dữ liệu đó không bị sử dụng trong thương mại một cách không
lành mạnh.”
- Kiểm soát thực tế chống cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ
Hiệp định TRIPS bao gồm một số quy định về thực tế chống cạnh tranh liên quan đến
quyền sở hữu trí tuệ, cụ thể là Điều 8(2), Điều 31(k) và Điều 40. Vấn đề thoả thuận
giới hạn trong hợp đồng liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ chỉ được hiểu thông qua
quy định tại Điều 8(2) và Điều 40. Theo những quy định này, sự lạm dụng nhất định
quyền sở hữu trí tuệ và những thực tế chống cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu
trí tuệ có thể hạn chế cạnh tranh, do đó một mặt Hiệp định TRIPS dành quyền cho
các nước thành viên WTO điều chỉnh thực tế và mặt khác yêu cầu các nước thành
viên WTO tuân thủ những nghĩa vụ nhất định.
(a) Những quy định tùy nghi
Các quy định tuỳ nghi được quy định tại Điều 8(2) và Điều 40(2) Hiệp định TRIPS
cho phép các nước thành viên áp dụng “các biện pháp thích hợp” để ngăn chặn, xử lý
những thực tế chống cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Với quy định tại
Điều 8(2), các nước thành viên thừa nhận rằng: tồn tại những thực tế chống cạnh
tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ “có thể cần…để ngăn ngừa” và các nước

thành viên được trao quyền giải quyết những thực tế này. Cụm từ “có thể cần” thừa
nhận thẩm quyền của các nước thành viên đối với những hoạt động chống cạnh tranh
liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Những hoạt động này bao gồm lạm dụng quyền
sở hữu trí tuệ bởi những người nắm quyền, cản trở hoạt động thương mại một cách
bất hợp lý, gây ảnh hưởng xấu đến chuyển giao công nghệ quốc tế.
Khống chế các hoạt động chống cạnh tranh phát sinh từ hợp đồng chuyển giao quyền
sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ được quy định tại Điều 40. Điều 40 bao gồm bốn
đoạn, trong đó đoạn 1 và đoạn 2 là các quy định về nội dung còn đoạn 3 và đoạn 4 về
các vấn đề thực thi. Điều 40 là quy định “đặc biệt” trong mối quan hệ với Điều 8(2),
Điều 40 giới hạn phạm vi Điều 8(2) và chỉ liên quan đến một số hành vi của chủ thể
nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ được liên kê tại Điều 8(2). Điều 40 thuộc Mục 8 của
Hiệp định TRIPS và mục này có tiêu đề “Khống chế hoạt động chống cạnh tranh
trong hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ”. Tuy nhiên,
Điều 40(1) đề cập tới thuật ngữ chung “một số hoạt động hoặc điều kiện chuyển giao
Trang 19
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ” bao hàm tất cả các hành vi xoanh quanh xác
lập và thực hiện hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ. Do
đó, hành vi đơn phương và các điều khoản hợp đồng mang tính giới hạn liên quan
đến quyền sở hữu trí tuệ đều thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 40(1). Điều 40(1)
thừa nhận rằng “một số hoạt động hoặc điều kiện chuyển giao quyền sử dụng đối
tượng sở hữu trí tuệ liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ có tính chất hạn chế cạnh
tranh có thể ảnh hưởng xấu đến hoạt động thương mại và có thể cản trở việc chuyển
giao và phổ biến công nghệ.” Do đó, Điều 40(1) cũng “nước đôi” như Điều 8(2).
Trong khi Điều 40(1) không liệt kê những hoạt động hoặc điều kiện chuyển giao
quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ chống cạnh tranh, Điều 40(2) liệt kê một số
hoạt động này như “điều kiện chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ dưới hình thức độc
quyền, điều kiện ngăn cấm việc không thừa nhận hiệu lực và việc chuyển giao quyền
sử dụng trọn gói”. Tuy nhiên, từ “chẳng hạn” cho thấy đây không phải là danh mục
được liệt kê đầy đủ. Điều này cho phép các Thành viên WTO định nghĩa “điều kiện

và hoạt động chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ”. Hơn nữa, Điều
40(2) nhấn mạnh cho phép các Thành viên WTO thiết lập và xác định nội dung pháp
luật cạnh tranh nhằm khống chế hoặc ngăn chặn điều kiện và hoạt động chuyển giao
quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ chống cạnh tranh. Bên cạnh đó, Điều 40(2)
ghi nhận thẩm quyền của các nước thành viên được “áp dụng các biện pháp thích hợp
để ngăn ngừa, khống chế” những hoạt động đó, đồng thời đòi hỏi các nước thành
viên tuân thủ những nghĩa vụ tối thiểu nhất định.
Nói tóm lại, Điều 8(2), Điều 40(1) và Điều 40(2) cho phép các Thành viên WTO
được tự do trong việc xử lý những hoạt động chống cạnh tranh liên quan đến quyền
sở hữu trí tuệ. Cụ thể, các nước thành viên có quyền xử lý những hoạt động đó; định
nghĩa hoạt động chống cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ và điều kiện
hoặc hoạt động chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ; thiết lập và xác
định nội dung của pháp luật cạnh tranh nhằm khống chế hoặc ngăn chặn những hoạt
động vừa nêu.
(b) Những tiêu chuẩn tối thiểu
Bên cạnh những quy định tuỳ nghi về thực tế chống cạnh tranh liên quan đến quyền
sở hữu trí tuệ, Điều 8(2) và Điều 40(2) Hiệp định TRIPS quy định những tiêu chuẩn
tối thiểu cho các biện pháp ngăn chặn hoạt động chống cạnh tranh liên quan đến
quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thể, các nước thành viên có quyền quyết định điều chỉnh hay
không điều chỉnh thực tế chống cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ bởi
pháp luật cạnh tranh quốc gia. Nếu các nước thành viên điều chỉnh hoạt động này,
pháp luật cạnh tranh quốc gia phải “phù hợp với các quy định khác của Hiệp định
[TRIPS]” và “thích hợp” để ngăn chặn những hoạt động chống cạnh tranh liên quan
đến quyền sở hữu trí tuệ. Nói cách khác, những biện pháp này phải đáp ứng hai điều
kiện là sự “phù hợp” và “thích hợp”. Hơn nữa, Điều 40(3) và Điều 40(4) yêu cầu các
Thành viên WTO có nghĩa vụ thương lượng và hợp tác trong kiểm soát thực tế chống
cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Thứ nhất, Điều 8(2) và Điều 40(2) yêu
cầu các biện pháp khống chế hoặc ngăn chặn những thực tế chống cạnh tranh liên
Trang 20
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh

quan đến quyền sở hữu trí tuệ phải “phù hợp với các quy định khác của Hiệp định
[TRIPS]”. Thứ hai, Điều 8(2) và Điều 40(2) Hiệp định TRIPS yêu cầu các biện pháp
khống chế hoặc ngăn chặn những thực tế chống cạnh tranh liên quan đến quyền sở
hữu trí tuệ phải “thích hợp” và “cần thiết”. Yêu cầu về sự thích hợp được giải thích
trong một số văn bản của WTO và được WTO giải thích chi tiết hơn trong một số
tranh chấp liên quan đến GATT/GATS. Cuối cùng, Điều 40(3) và Điều 40(4) Hiệp
định TRIPS thiết lập nghĩa vụ thương lượng và hợp tác trong kiểm soát hoạt động
cạnh chống cạnh tranh liên quan đến hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng
sở hữu trí tuệ. Đây là thoả thuận quốc tế đa phương đầu tiên thiết lập nghĩa vụ hợp
tác trong thực thi pháp luật chống độc quyền
- Thực thi quyền sở hữu trí tuệ
(a) Các nghĩa vụ chung
Theo yêu cầu của Hiệp định TRIPS, pháp luật quốc gia của các Thành viên WTO
phải quy định các thủ tục thực thi cho phép hành động một cách có hiệu quả chống
lại hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được đề cập trong Hiệp định, trong đó bao
gồm các chế tài khẩn cấp nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm và các chế tài nhằm
ngăn chặn các hành vi xâm phạm tiếp theo. Các thủ tục thực thi phải được áp dụng
theo cách thức nhằm tránh tạo ra những rào cản cho hoạt động thương mại hợp pháp
và nhằm quy định những biện pháp chống lạm dụng các thủ tục thực thi (Điều 41.1).
Hơn nữa, các thủ tục thực thi phải đúng đắn và công bằng, không phức tạp và tốn
kém một cách không cần thiết, không bao gồm những thời hạn bất hợp lý hoặc những
trì hoãn không có lý do chính đáng (Điều 41.2).
(b) Các chế tài, thủ tục dân sự và hành chính
Hiệp định TRIPS bao gồm những quy định chi tiết về thực thi quyền sở hữu trí tuệ
bằng biện pháp dân sự và hành chính. Những quy định này tập trung vào các vấn đề
sau đây: yêu cầu thủ tục thực thi phải đúng đắn và công bằng (Điều 42); (ii) chứng cứ
(Điều 43); (iii) lệnh của tòa án (Điều 44); (iv) bồi thường thiệt hại (Điều 45); (v) các
biện pháp chế tài khác như cơ quan có thẩm quyền ra lệnh tiêu hủy hàng hóa vi phạm
hoặc các vật liệu và phương tiện được sử dụng để tạo ra hàng hóa vi phạm (Điều 46);
(vi) quyền được thông tin (Điều 47); (vii) bồi thường cho bị đơn (Điều 48); (viii) áp

dụng những hướng dẫn nêu trên trong thực thi quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp
hành chính (Điều 49).
(c) Các biện pháp tạm thời
Các biện pháp tạm thời được áp dụng nhằm ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ, đặc biệt nhằm ngăn chặn hàng hóa vào các kênh thương mại, trong đó
bao gồm hàng hóa nhập khẩu ngay sau khi hoàn thành thủ tục hải quan; và nhằm lưu
giữ các chứng cứ liên quan đến hành vi bị khiếu kiện là xâm phạm quyền (Điều
50.1). Các biện pháp tạm thời cũng được áp dụng “khi bất kỳ sự trì hoãn nào cũng có
nguy cơ gây hậu quả không khắc phục được cho chủ thể nắm giữ quyền hoặc khi
thấy rằng chứng cứ đang có nguy cơ bị tiêu hủy” (Điều 50.2). Cơ quan xét xử và cơ
quan hành chính có thẩm quyền áp dụng các biện pháp tạm thời.
Trang 21
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
Nhằm chống lại sự lạm dụng các biện pháp tạm thời, Hiệp định TRIPS quy định cơ
quan xét xử có thể yêu cầu nguyên đơn: (i) cung cấp bất kỳ chứng cứ nào có thể có
được một cách hợp lý đủ sức thuyết phục rằng nguyên đơn là chủ thể quyền và quyền
của nguyên đơn đang bị xâm phạm hoặc rõ ràng có nguy cơ bị xâm phạm (Điều
50.3); (ii) buộc nguyên đơn nộp một khoản bảo đảm hoặc bảo hiểm tương đương đủ
để bảo vệ bị đơn và ngăn chặn sự lạm dụng (Điều 50.3). Bên cạnh đó, trong một thời
hạn hợp lý, bị đơn có quyền yêu cầu xem xét lại lệnh áp dụng các biện pháp thời để
quyết định những biện pháp này có phải sửa đổi, hủy bỏ hay nên giữ nguyên (Điều
50.4).
(d) Những yêu cầu đặc biệt liên quan đến các biện pháp kiểm soát biên giới
Các biện pháp kiểm soát biên giới được quy định nhằm xử lý hàng hóa giả mạo nhãn
hiệu hoặc hàng hóa sao chép lậu (Điều 51). Các biện này cho phép cơ quan hải quan
ngăn chặn hàng hóa nhập khẩu là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc hàng hóa sao
chép lậu được đưa vào lưu thông tự do. Theo quy định tại Điều 60, các Thành viên có
thể không áp dụng quy định này trong trường hợp nhập khẩu với số lượng nhỏ và
không có mục đích thương mại, chẳng hạn hàng hóa trong hành lý cá nhân của hành
khách hoặc hàng hóa nhỏ được ký gửi. Hiệp định TRIPS dành quyền tự quyết cho

các Thành viên WTO trong áp dụng các thủ tục tương ứng đối với những hàng hóa
xâm phạm được tập kết để xuất khẩu ra khỏi lãnh thổ của mình (Điều 51).
Tương tự như đối với các biện pháp tạm thời, Hiệp định TRIPS đưa ra một số quy
định nhằm ngăn chặn lạm dụng các biện pháp kiểm soát biên giới. Cụ thể, cơ quan có
thẩm quyền có thể yêu cầu nguyên đơn nộp khoản bảo đảm hoặc bảo hiểm tương
đương đủ để bảo vệ bị đơn và các cơ quan có thẩm quyền, đồng thời ngăn chặn sự
lạm dụng. Người nhập khẩu và nguyên đơn phải được thông báo ngay về việc đình
chỉ thông quan đối với hàng hóa (Điều 54). Nếu chủ thể nắm giữ quyền thất bại trong
việc đề xướng các thủ tục ra quyết định giải quyết vụ việc trong thời hạn 10 ngày làm
việc, thông thường hàng hóa phải được thông quan (Điều 55). Trong trường hợp
hàng hóa được cho là vi phạm liên quan đến kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, thiết
kế bố trí hoặc thông tin bí mật, hàng hóa được thông quan nếu người nhập khẩu nộp
khoản bảo đảm đủ bảo vệ chủ thể nắm giữ quyền đối với bất kỳ xâm phạm nào, thậm
chí khi các thủ tục ra quyết định giải quyết vụ việc đã được tiến hành (Điều 53.2).
Về chế tài, cơ quan có thẩm quyền được ra lệnh tiêu hủy hàng hóa vi phạm hoặc đưa
những hàng hóa này ra khỏi các kênh thương mại theo cách thức không gây tổn hại
tới các quyền khiếu kiện của chủ thể nắm giữ quyền (Điều 59).
(e) Các biện pháp hình sự
Hiệp định TRIPS yêu cầu các Thành viên quy định các biện pháp hình sự và hình
phạt được áp dụng ít nhất đối với các trường hợp cố ý giả mạo nhãn hiệu hoặc sao
chép lậu với quy mô thương mại. Các Thành viên cũng phải quy định các chế tài như
phạt tù, phạt tiền, tịch thu, trưng thu, tiêu hủy hàng hóa vi phạm và bất kỳ vật liệu,
phương tiện nào được sử dụng chủ yếu để thực hiện hành vi phạm tội (Điều 61).
- Giải quyết tranh chấp
Trang 22
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
Giải quyết các tranh chấp liên quan đến sở hữu trí tuệ theo Cơ chế giải quyết tranh
chấp của WTO là một trong những nội dung quan trọng nhất của Hiệp định TRIPS.
“Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO là yếu tố chính trong việc cung cấp sự an
toàn và tính dự đoán cho hệ thống thương mại đa phương bảo đảm các quyền và

nghĩa vụ của các Thành viên chứa đựng trong các thỏa thuận, và làm rõ các quy định
hiện hành trong những thỏa thuận này phù hợp với các quy tắc tập quán của giải thích
luật quốc tế công.” Hoạt động của hệ thống giải quyết tranh chấp liên quan đến Ban
hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm, thư ký WTO, các trọng tài viên, các chuyên gia độc
lập và một số bộ phận chuyên trách.
Hiệp định TRIPS viện dẫn các quy định của Điều XXII và Điều XXIII GATT 1994
-đã được chi tiết hóa trong Hiệp định của WTO về các Nguyên tắc và Thủ tục giải
quyết tranh chấp - để áp dụng đối với việc thương lượng và giải quyết tranh chấp
theo Hiệp định TRIPS (Điều 64). Kết quả là, các tranh chấp sở hữu trí tuệ quy định
trong Hiệp định TRIPS được giải quyết theo Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
Sau thời hạn 05 năm kể từ ngày Thỏa thuận Thiết lập WTO có hiệu lực (ngày 01
tháng 01 năm 2000), cơ chế giải quyết tranh chấp này cũng được áp dụng để giải
quyết những tranh chấp “phi bạo lực” (Điều 64.2).
IV. Hiệp định quy định các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs)
1. Khái niệm TRIMs
Hiệp định quy định các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (tiếng anh: Trade
Related Investment Measures, viết tắt là TRIMs) là một trong các hiệp định của
WTO có hiệu lực từ ngày 1-1-1995, bao gồm các quy định của nước nhận đầu tư đối
với đầu tư nước ngoài ,có tác động tới các luồng trao đổi hàng hoá xuất nhập khẩu
(thương mại hàng hoá). Hiệp định TRIMs chỉ áp dụng cho thương mại hàng hóa mà
không áp dụng cho các lĩnh vực khác.
2. Hoàn cảnh ra đời của TRIMs
Trong thương mại quốc tế, đầu tư là hoạt động đem vốn, tài sản từ nước này sang
một nước khác để kinh doanh, thu lợi nhuận (đầu tư nước ngoài). Theo nghĩa này,
đầu tư bao gồm cả đầu tư gián tiếp (đầu tư thành lập hoặc mua lại doanh nghiệp) và
đầu tư gián tiếp (chủ yếu qua thị trường chứng khoán).
Quy định về đầu tư nước ngoài của nước nhận đầu tư có thể cản trở hoặc thúc đẩy
việc đầu tư và có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả lợi nhuận của hoạt động đầu tư
của nhà đầu tư đến từ các nước khác. Thương mại quốc tế từ đó cũng có thể được
khuyến khích hoặc bị hạn chế vì các quy định về đầu tư nước ngoài này.

Vì vậy, để đảm bảo rằng các biện pháp của nước nhận đầu tư không cản trở bất hợp
lý hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài và dòng lưu chuyển vốn, tài sản trong
thương mại quốc tế, các nước thành viên WTO đã thống nhất thông qua một Hiệp
định về vấn đề này, gọi là Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương
mại (Hiệp định TRIMS). Hiệp định TRIMS có hiệu lực từ ngày 1-1-1995. Năm 1995,
các nước thành viên WTO ký kết Hiệp định TRIMS chấp nhận ràng buộc rằng các
biện pháp TRIMS của nước mình phải phù hợp với GATT (tiền thân của WTO); các
Trang 23
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
thành viên của tổ chức WTO có 3 tháng để khai báo TRIMS của mình cho WTO, có
2 năm để loại bỏ các ràng buộc không tương thích với các quy định của WTO, và
thời gian quá độ là 5 năm để thực hiện loại bỏ ràng buộc.
Hiệp định TRIMs là một bước tiến lớn, mặc dù nhiều ý kiến cho rằng Hiệp định này
chưa giải quyết thỏa đáng lợi ích của tất cả các nước, kể cả các nước phát triển hay
đang phát triển. Sự ra đời của hiệp định này được coi là bước thoả hiệp ban đầu của
quan điểm các nước phát triển và đang phát triển về việc đưa ra quy định điều chỉnh
hoạt động đầu tư nhằm hạn chế trở ngại cho thương mại quốc tế.
3. Mục tiêu của TRIMs
Mục tiêu chính của hiệp định là nhằm thúc đẩy việc mở rộng, phát triển tự do hoá
đầu tư và thương mại quốc tế để tăng trưởng và phát triển kinh tế của tất cả các nước
tham gia trên cơ sở đảm bảo tự do cạnh tranh. TRIMs thường được áp dụng tại các
nước đang phát triển, những nước mà vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài được
quan tâm hàng đầu.
4. Nội dung của TRIMs
Đầu tư nước ngoài là một vấn đề lớn và tương đối nhạy cảm với nước nhận đầu tư
(liên quan đến chủ quyền và an ninh tài chính của nước nhận đầu tư). Vì vậy đây vẫn
là lĩnh vực mà đến nay trong khuôn khổ WTO các nước vẫn chưa đạt được sự đồng
thuận về những vấn đề cơ bản. Ngoài các quy định về đầu tư gắn với mở cửa thị
trường dịch vụ (trong các cam kết cụ thể về mở cửa thị trường dịch vụ của từng nước
thành viên), WTO mới chỉ đạt được các nguyên tắc bắt buộc chung về các biện pháp

đầu tư mà các nước thành viên bị cấm không được áp dụng do cản trở quá lớn đến
thương mại trong Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
Nói cách khác, Hiệp định TRIMS chỉ quy định về các biện pháp đầu tư liên quan đến
thương mại bị cấm áp dụng chứ không bao trùm tất cả các vấn đề về đầu tư nước
ngoài. Hiệp định TRIMS cấm các nước thành viên WTO ban hành hoặc thực thi các
biện pháp vi phạm nguyên tắc của WTO (nêu trong Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại GATT 1994) sau đây:
- Đối xử quốc gia;
- Các hạn chế số lượng xuất khẩu, nhập khẩu trong WTO .
Phụ lục của Hiệp định TRIMS liệt kê các ví dụ minh họa về các loại biện pháp đầu tư
có thể coi là vi phạm hai nhóm nguyên tắc nêu trên (gọi là Danh mục minh họa
TRIMS). Lưu ý rằng danh mục này chỉ mang tính minh họa, điều này có nghĩa là có
thể có những biện pháp khác bị xem là vi phạm dù không nằm trong danh mục này.
Trang 24
Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế Giảng Viên: Ths. Trịnh Xuân Ánh
Bảng 1 - Danh mục minh họa các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại bị
cấm áp dụng (TRIMS)
Nhóm biện pháp Ví dụ minh họa
Những yêu cầu về hàm lượng nội địa Yêu cầu doanh nghiệp phải sử dụng một tỷ lệ
nhất định nguyên liệu đầu vào có xuất xứ trong
nước hoặc từ các nguồn nội địa
Những yêu cầu về cân đối thương mại Yêu cầu doanh nghiệp phải đảm bảo khối lượng
hoặc trị giá sản phẩm nhập khẩu tương đương
với khối lượng, trị giá sản phẩm xuất khẩu
Những yêu cầu về cân đối ngoại hối Quy định ngoại hối phục vụ nhập khẩu phải ở
một tỷ lệ nhất định so với giá trị ngoại hối mà
doanh nghiệp thu được từ xuất khẩu và từ các
nguồn khác
Những yêu cầu về ngoại hối Hạn chế việc tiếp cận nguồn ngoại hối của
doanh nghiệp - hạn chế nhập khẩu

Những yêu cầu về tiêu thụ trong nước Yêu cầu doanh nghiệp phải đảm bảo rằng khối
lượng hoặc trị giá sản phẩm tiêu thụ trong nước
tương đương với sản phẩm xuất khẩu – hạn chế
xuất khẩu
Những yêu cầu về sản xuất Yêu cầu một số loại sản phẩm phải được sản
xuất trong nước
Những yêu cầu về xuất khẩu Yêu cầu tỷ lệ xuất khẩu tối thiểu
Những yêu cầu bắt buộc về loại sản phẩm Yêu cầu nhà đầu tư phải cung cấp cho những
thị trường nhất định một hoặc một số sản phẩm
được chỉ định hoặc được sản xuất/cung cấp bởi
một nhà sản xuất/cung cấp nhất định
Những hạn chế về sản xuất Quy định cấm doanh nghiệp không được sản
xuất một số sản phẩm hoặc loại sản phẩm nhất
định ở nước nhận đầu tư
Những yêu cầu về chuyển giao công nghệ Yêu cầu phải chuyển giao bắt buộc một số loại
công nghệ nhất định (không theo các điều kiện
thương mại thông thường) và/hoặc yêu cầu các
loại hoặc mức độ nghiên cứu và phát triển
(R&D) phải được thực hiện ở nước nhận đầu tư
Những yêu cầu về việc chuyển giao quyền sử
dụng bằng sáng chế (li-xăng)
Quy định buộc nhà đầu tư phải chuyển giao
công nghệ tương tự hoặc không liên quan đến
công nghệ mà họ đang sử dụng tại nước đầu tư
cho doanh nghiệp tại nước nhận đầu tư
Những hạn chế về chuyển lợi nhuận ra nước
ngoài
Hạn chế quyền của nhà đầu tư trong việc
chuyển lợi nhuận thu được từ đầu tư về nước
Những yêu cầu về tỷ lệ vốn trong nước Ấn định một tỷ lệ nhất định vốn của doanh

nghiệp phải do nhà đầu tư trong nước nắm giữ
Trang 25

×