Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

bài kiểm tra cuối khóa lớp đảng viên mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.2 KB, 8 trang )

Đề 1 : Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 đã sửa đổi,
bổ sung năm 2001 ghi : “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền hành pháp, lập
pháp và tư pháp”. Đồng chí hãy phân tích làm rõ những nội dung trên
Bài làm
Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân là một quan điểm chỉ đạo thống nhất và xuyên suốt
Đảng ta. Điều này cũng đã được Hiến pháp năm 1992 (bổ sung) nhận tại Điều 2 :
“Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp”.
Bằng lý luận về nhà nước pháp luật, chúng ta hãy phân tích là rõ vấn đề trên.
1. Cơ sở để đảm bảo của nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân:
Nhà nước pháp quyền XHCN do nhân dân ta xây dựng là nhà nước pháp
quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Điều này được quy đinh khách quan
từ cơ sở kinh tế và chế độ chính trị XHCN. Về cơ sở chính trị, nó xuất phát từ bản
chất của nhà nước ta là nhà nước của giai cấp công nhân mà ý chí, nguyện vọng, lợi
ích của giai cấp công nhân là thống nhất với ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân
dân lao động, của dân tộc, sự thống nhất về lợi ích đó dẫn đến sự thống nhất về ý
chí và hành động của tuyệt đại quần chúng nhân dân lao động. Về cơ sở kinh tế của
nhà nước, nhà nước ta là nhà nước được xây dựng trên nền tảng kinh tế XHCN, với
chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu, nghĩa là nhân dân lao động
chính là chủ sở hữu của các tư liệu SX chủ yếu. Đây chính là điều kiện để đảm bảo
quyền làm chủ của nhân dân, bởi vì giai cấp nào, lực lượng nào nắm giữ kinh tế (mà
chủ yếu là nắm giữ các TLSX quan trọng) thì giai cấp ấy, lực lượng ấy mới thật sự


nắm giữ quyền lực chính trị.
2. Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
* Nhà nước của nhân dân :
Trước hết ta thấy rằng Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, đây chính là
điều kiện đầu tiên phải có để đảm bảo cho việc thực hiện nhà nước “do nhân dân và
vì nhân dân”. Nhân dân đã và đang làm chủ vừa bằng hình thức trực tiếp, vừa bằng
hình thức gián tiếp thông qua những đại diện do mình bầu ra.
Về hình thức làm chủ trực tiếp của nhân dân, Điều 53, Hiến pháp 1992 ghi rõ:
“Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các
vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với các cơ quan nhà nước, biểu
quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”
Tuy nhiên, khi xác định quyền lực nhà nước thuộc nhân dân, điều đó không
có nghĩa là mỗi người dân đều tự hành xử theo ý chí riêng của mình mà quyền lực
1
đó phải được tổ chức để nhân dân thông qua tổ chức mà sử dụng quyền lực nhà
nước. Tổ chức quyền lực nhà nước đó là cơ quan đại biểu nhân dân.
Cơ quan đại biểu nhân dân được hình thành từ sự tập họp các đại biểu nhân
dân do nhân dân bầu ra, đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân, được nhân
dân ủy nhiệm quyền lực nhà nước của mình và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Đến lượt mình các cơ quan đại biểu nhân dân, thay mặt nhân dân và vì lợi ích của
nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước. Nói cách khác, cơ quan nhà nước các cấp
chỉ là người chấp hành mệnh lệnh của quốc dân, chấp hành ý chí của nhân dân.
Cán bộ công chức phải là công bộc của dân, chăm lo, bảo vệ quyền lợi chính đáng
của nhân dân.
Con đường, biện pháp mà nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước được ghi
nhận ở điều 6 của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) : “Nhân dân sử dụng quyền lực
nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân

dân”. Đồng thời chính nhân dân thực hiện quyền giám sát tối cao đối với các cơ
quan nhà nước trong việc sử dụng quyền lực mà nhân dân ủy nhiệm. Quyền giám
sát đó được thực hiện bằng cơ chế hợp lý và công cụ pháp lý có hiệu quả nhất
Từ những phân tích trên cho thấy, ở nhà nước ta quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội
đồng nhân dân. Quyền lực nhà nước của nhân dân thống nhất và tập trung. Bằng
con đường đó, nhân dân mới thật sự quyết định công việc của đất nước mình vì lợi
ích của chính mình
* Nhà nước do nhân dân :
Nhà nước do nhân dân thể hiện ở việc khi đưa đường lối, chính sách, pháp
luật nhà nước phải đảm bảo phải do nhân dân quyết định, nhân dân thưc hiện và
dân kiểm tra, tức là phải thực hiện phương châm “dân biết, dân làm, dân kiểm tra” .
Tính nhân dân, tính dân chủ trong quá trình hoạt động xây dựng pháp luật, được thể
hiện ở tính quyết định sáng tạo của nhân dân. Nhân dân là chủ thể sáng tạo pháp
luật, vừa ủy quyền cho quốc hội lập pháp, vừa tham gia góp ý kiến vào các dự án
Luật, đồng thời nhân dân là chủ thể lớn nhất thực hiện pháp luật, phát hiện những
điểm yếu của hệ thống pháp luật khi đưa vào cuộc sống
Đặc điểm này đòi hỏi khi xây dựng pháp luật phải phản ánh đúng đắn ý chí
của đại đại số nhân dân lao động, thể hiện chính xác các giá trị mà xã hội ủng hộ.
Đồng thời đặc điểm này được thể hiện pháp luật sau khi ban hành phải được cả xã
hội chấp hành triệt để, chính xác. Hơn nữa, hoạt động xây dựng pháp luật lấy mục
tiêu ban hành pháp luật vì con người, phục vụ con người. Muốn làm được điều đó,
khi xây dựng các văn bản pháp luật, nhà nước phải thu hút đông đảo mọi người
tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật, càng nâng cao chất lượng của pháp luật,
đồng thời chuẩn bị cho nhân dân tuân thủ pháp luật.
* Nhà nước vì nhân dân :
Bản chất của nhà nước ta là nhà nước vì dân thể hiện trước hết mọi chính
sách và giải pháp kinh tế - xã hội của nhà nước đều phục vụ nhân dân, đảm bảo
quyền lợi cho nhân dân, thể hiện nguyên tắc :”dưới chế độ dân chủ, không phải con
người tồn tại vì pháp luật, mà pháp luật tồn tại vì con người” . Điều này ở nhiệm vụ

của nhà nước ta trong hoạt động lập pháp, lập quy phải không những đảm bảo dân
chủ mà còn phát huy dân chủ ngày càng cao đối với nhân dân lao động. Tính chất
nhà nước “do nhân dân và vì nhân dân” phải thể hiện rõ trong nội dung pháp luật
phải xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân và đông đảo quần chúng nhân dân
lao động chứ không chỉ bảo vệ cho quyền lợi, lợi ích của một giai cấp riêng lẻ như
nhà nước của giai cấp tư sản. Mặt khác, phải bảo đảm các quyền khiếu nại, tố cáo
2
của nhân dân. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm giải quyết những ý kiến của
dân khiếu nại, kiến nghị, tố cáo. Đây đang còn là vấn đề bức xúc ở xã hội ta hiện nay
“tình trạng khiếu nại, khiếu kiện của nhân dân ở nhiều nơi kéo dài và phức tạp, chưa
được các cấp, các ngành giải quyết kịp thời”. Vì thế, Đại hội IX nhấn mạnh phải “đổi
mới cơ chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các cơ quan, cán bộ, công chức trong
việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân”
Tóm lại, đối với đặc trưng của nhà nước ta, ba yếu tố “của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân” là một thể thống nhất trong đó yếu tố”của nhân dân”là là quyết
định. Ngược lại, có phát huy 2 yếu tố ”do nhân dân,vì nhân dân” thì Nhà nước ta mới
thực sự là ”của nhân dân”.
Trong những năm đổi mới vừa qua, nhà nước ta đã trưởng thành về nhiều
mặt, để thể hiện rõ bản chất của một nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì
dân. Nổi bật nhất là những thành tựu về xây dựng hệ thống pháp luật để quản lý đất
nước, về xây dựng nền dân chủ XHCN, nhất là dân chủ ở cơ sở. Hoạt động của nhà
nước thể hiện được tư tưởng lấy dân làm gốc, biết dựa vào dân, thể hiện việc “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Nhà nước cũng đã tích cực đấu tranh chống
các tệ nạn xã hội, xử lý nghiêm minh những vụ việc tiêu cực, tham nhũng. Tuy nhiên,
chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng bộ máy Nhà nước ta chưa thực sự trong sạch,
vững mạnh: tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí của công, tình trạng mất dân chủ,
phép nước, kỷ cương xã hội rải rác ở nhiều nơi còn buông lỏng… Mặt khác, quản lý
Nhà nước chưa ngang tầm với nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới. Đó là: chưa phát huy
được những mặt tích cực, chưa khắc phục những hạn chế làm cho tình trạng bất
công, bất bình đẳng có xu hướng gia tăng… Do đó, vấn đề cơ bản để xây dựng một

nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân là phải ra sức xây dựng một đội
ngũ cán bộ công chức viên chức nhà nước có đầy đủ phẩm chất và năng lực, có một
tầm cao về năng lực trí tuệ, phẩm chất, tư duy và năng lực nghiệp vụ.
Trong môi trường kinh tế xã hội hiện nay, chủ nghĩa cá nhân trong hàng ngũ
cán bộ viên chức nhà nước đang có cơ hội phát triển. Tình trạng tham nhũng trong
bộ máy Đảng, nhà nước đang trở nên bức xúc. Tham nhũng đã được Đảng đánh giá
là quốc nạn. Nó lại gắn liền với quan liêu, cửa quyền, hách dịch, lãng phí Vấn đề
xây dựng đạo đức đang trở thành vấn đề hàng đâu của công cuộc xây dựng bộ máy
nhà nước. Phải hết sức coi trọng giáo dục đạo đức nhưng cũng không biến quá trình
giáo dục thành một quá trình đạo đức đơn thuần mà đi đôi với với giáo dục phải xứ lý
nghiêm minh mọi dựa vi phạm luật pháp của bất cứ ai. Việc thực hiện nhiêm vụ từng
bước phát triển kinh tế tri thức như Đại hội IX của Đảng đã đề ra cùng việc chống lại
các nguy cơ đòi hỏi đội ngũ cán bộ công viên chức nhà nước
* Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh công
- nông và đội ngũ trí thức, do Đảng cộng sản lãnh đạo
Như đã nói ở phần trên, quyền lực trong nhà nước không phải là quyền lực
của cá nhân hay của bộ máy nhà nước mà phải thật sự là của toàn thể nhân dân,
dựa trên nền tảng là liên minh công – nông và đội ngũ trí thức. Liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức chẳng những là yêu cầu khách
quan về chính trị, làm nền tảng vững chắc cho nhà nước trong sự nghiệp bảo vệ và
xây dựng CNXH, mà còn là yêu cầu khách quan của sự nghiệp phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội của đất nước. Liên minh thể hiện tính quy luật chung của cách mạng
XHCN ở những nước có nông dân chiếm đại bộ phận dân cư và thường có nền kinh
tế chậm phát triển như nước ta. Đồng thời với xu hướng nền kinh tế tri thức đang
phát triển mạnh cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đòi hỏi
phải có sự liên minh chặt chẽ giữa giai cấp công nhân và đội ngũ tri thức mới có thể
3
xác định được đường lối, chính sách đúng đắn và tổ chức thực hiện tốt sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Cần phải thấy rằng trong điều kiện nước ta, nếu không do Đảng cộng sản lãnh

đạo, thì nhà nước không thể là nhà nước của dân, do dân và vì dân, lúc đó nhà
nước sẽ biến thành công cụ của một thiểu số thống trị, nô dịch và bóc lột nhân dân.
Bài học kinh nghiệm lớn nhất đối vối công cuộc xây dựng, bảo vệ chính quyền cách
mạng nước ta trên 50 năm qua và cũng là bài học xương máu rút ra từ sự sụp đổ
của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu là giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với nhà nước. Chỉ có sự lãnh đạo của đảng thì nhà nước mới giữ vững được bản
chất giai cấp công nhân và đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân.
Nhưng đảng lãnh đạo nhà nước không có nghĩa là đảng bao biện, làm thay nhà
nước mà là để phát huy trách nhiệm, tính chủ động, sắc bén và hiệu lực quản lý,
điều hành của nhà nước, bảo đảm thực hiện đường lối của đảng trong cuộc sống.
Đảng lãnh đạo là lãnh đạo xây dựng nhà nước thật sự là công cụ chủ yếu để thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân. Vì thế, Đại hội IX nhấn mạnh : ”Cải cách tổ chức
và hoạt động của nhà nước gắn liền với xây dựng chỉnh đốn đảng,đổi mới nội dung,
phương thức lãnh đạo của đảng đối nhà nước”.
Sự lãnh đạo của đảng đối với nhà nước được thể hiện : một là Đảng đề ra
đường lối, chủ trương ,chính sách cho sự phát triển trong từng thời kỳ; hai là Đảng
lãnh đạo nhà nước thể chế hoá, cụ thể hoá đường lối,chủ trương,chính sách của
đảng thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách cụ thể và lãnh đạo tổ chức,nhân dân
thực thi Hiến pháp, pháp luật, chính sách; ba là Đảng lãnh đạo nhà nước tổ chức bộ
máy tinh gọn và xây dựng đội ngũ cán bộ,công chức có phẩm chất,năng lực và trí
tuệ; bốn là Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra việc quán triệt, tổ chức thực hiện
đường lối của đảng và pháp luật của nhà nước; năm là củng cố nâng cao chất lượng
hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước làm tham
mưu cho đảng; sáu là phát huy vai trò trách nhiệm của mặt trận tổ quốc,các đoàn
thể,các tổ chức xã hội và nhân dân trong việc thanm gia xây dựng, kiểm tra giám sát
hoạt động và bảo vệ nhà nước
3. Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa
Để xây dựng bộ máy nhà nước và quản lý có hiệu quả công cuộc xây dựng xã
hội mới : XHCN, cần nhận rõ mối quan hệ dân chủ XHCN với kỷ cương luật pháp

XHCN. Không có kỷ cương luật pháp thì không có CNXH. Không có kỷ cương, luật
pháp thì cũng không có nhà nước pháp quyền, không có xã hội ổn định, xã hội trở
thành vô chính phủ, không sao chống được tệ nạn quan liêu, cửa quyền, độc đoán,
tham nhũng và từ đó làm sao giải quyết được mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền
lợi, giữa con người với con người, con người với cộng đồng, giữa cấp trên với cấp
dưới, giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, lợi ích xã hội và bảo vệ được tính công
băng xã hội. XHCN là một xã hội dược tổ chức trên cơ sở luật pháp. Luật pháp là cái
thể hiện, là cái đảm bảo cho quyền làm chủ của nhân dân lao động và là công cụ để
quản lý xã hội.
Nói Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền có nghĩa là nhà nước hoạt động
dựa trên cơ sở của pháp luật, vai trò và nhiệm vụ của Nhà nước chỉ được thực hiện
thông qua pháp luật và cũng bị hạn chế bởi chính pháp luật Nói cách khác, nguyên
tắc của nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước và công dân đều phải thừa nhận
tính tối cao của pháp luật. Tính pháp quyền XHCN của nhà nước ta được thể hiện ở
các đặc trưng như sau :
- Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước trong đó quyền dân chủ, quyền tự
do và lợi ích chính đáng của con người, của công dân được nhà nước bảo đảm và
bảo vệ.
4
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phù
hợp để điều chỉnh các lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội và pháp luật giữ vai trò tối
cao. Nhà nước pháp quyền quản lý và điều hành xã hội bằng pháp luật, dùng pháp
luật làm công cụ điều tiết chủ yếu mối quan hệ giữa con người với con người, tăng
cường pháp chế, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện
và bảo vệ được các quyền tự do dân chủ, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh và lợi
ích hợp pháp của nhân dân, ngăn ngừa sự tuỳ tiện lạm dụng từ phía cơ quan nhà
nước, cán bộ công chức nhà nước, đồng thời ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực
đoan, vô kỷ luật, thiếu kỷ cương. Đó là nhà nước mà mọi tổ chức, kể cả tổ chức
Đảng đều hoạt động dựa cơ sở pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước
công dân về các hoạt động của mình. Mọi công dân đều phải có nghĩa vụ chấp hành

hiến pháp và pháp luật. Tất cả mọi người không loại trừ ai (kể cả những người ban
hành pháp luật) cũng phải chịu sự chi phối của pháp luật.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó xác định rõ trách nhiệm của cả
hai bên: nhà nước và công dân trên cơ sở pháp luật, quyền của nhà nước là nghĩa
vụ của công dân, quyền của công dân là nghĩa vụ của nhà nước
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó quyền lực nhà nước được thực
hiện theo cơ chế quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phù hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong vịêc thực hiện các quyền : hành pháp, lập pháp và tư
pháp.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước có những hình thức giám sát, kiểm tra,
thanh tra, xét xử có hiệu quả việc thực hiện pháp luật và có một hệ thống tài phán
hoàn chỉnh (của cả cơ quan tư pháp và cơ quan hành chính).
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nhà nước
CHXHCN Việt Nam còn là nhà nước thống nhất của các dân tộc, dân chủ thực sự,
phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân.
Hiện nay, trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền cũng như sự nghiệp
cách mạng đang đòi hỏi một hệ thống pháp luật để làm cơ sở cho sự thống nhất
quản lý nhà nước và hành vi của công dân. Viêc xây dựng luật pháp vừa qua tuy đã
có nhiều có gắng nhưng luật pháp vẫn chưa bao trùm hết các lĩnh vực hoạt động của
XH. Bên cạnh việc tiếp tục xây dựng luật pháp thì sửa đổi, hoàn thiện luật pháp là
công việc thường xuyên của nhà nước. Điều đó đòi hỏi phải xây dựng một đội ngũ
cán bộ có phẩm chất và năng lực thường xuyên bám sát đời sống của từng đạo luật
đã ban hành trong xã hội, thường xuyên rút kinh nghiệm và đề xuất những sửa đổi,
hoàn thiện pháp luật trước những biến đổi của tình hình. Để luật pháp thật sự là cơ
sở pháp lý của nhà nước và hành vi của công dân thì phải giáo dục rộng rãi luật
pháp cho toàn dân. Đặc biệt cần tùy theo đối tượng mà lựa chọn pháp luật để đưa
vào giáo dục trong các nhà trường, các đoàn thể chính trị, các tổ chức xã hội, các
đơn vi sản xuất kinh doanh, các sinh hoạt chính trị của nhân dân. Việc` quản lý thực
hiện pháp luật phải chặt chẽ, xử lý các vi phạm phải nghiêm, việc ngăn chặn các tệ
nạn xã hội kém hiệu quả lại chính là do thiếu sót chủ quan của bộ máy nhà nước. Đó

là do luật pháp chưa đầy đủ, cơ chế có nhiều sơ hở, ngay cả những vấn đề đã có
luật pháp nhưng chưa quản lý việc thi hành luật pháp không chặt chẽ và xử lý những
vụ vi phạm luật pháp không nghiêm, thậm chí còn có cả tiêu cực trong việc xử lý các
vi phạm luật pháp.
4. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước, trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
Nhà nước ta là nhà nước trong đó bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, vì thế quyền lực nhà nước là thống nhất, không “tam quyền phân lập”
nhưng có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà
5
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó sự
thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối hợp là phương thức để đạt được sự
thống nhất của quyền lực. Cách tổ chức này nhằm vừa bảo đảm tính độc lập chủ
động, tính trách nhiệm cao của từng cơ quan nhà nước trong việc thực thi quyền lực
được nhân dân giao cho, vừa đảm bảo tính thống nhất, khách quan hiệu quả, tránh
tình trạng lạm quyền, chuyên quyền của hệ thống cơ quan nhà nước, đảm bảo
quyền lực thuộc về nhân dân
Cơ chế và tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước là cơ sở để đảm bảo tính
thống nhất về quyền lực nhà nước của nhân dân :
- Việc xây dựng bộ máy nhà nước ta bắt đầu từ việc nhân dân bầu ra các đại
biểu nhân dân hợp thành Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Chế độ bầu cử hiện nay ở
nước ta là cơ sở pháp lý để nhân dân bầu ra các đại biểu chân chính của mình.
Thông qua bầu cử, nhân dân ủy nhiệm quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội
và Hội đồng nhân dân.
- Quốc hội và Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước thay mặt
nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước, bao gồm 3 hoạt động chủ yếu sau đây :
+ Một là định ra các chủ trương chính sách, các nhiệm vụ kinh tế xã hội, quốc
phòng an ninh, đối ngoại dưới hình thức pháp luật : Quốc hội là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất và là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp

+ Hai là lập ra những tổ chức, những cơ quan để thực hiện các chủ trương
nhiệm vụ nói trên . Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước duy nhất có quyền cử
ra cơ quan hành pháp, tư pháp (bộ máy nhà nước) và uỷ nhiệm quyền lực chính trị
cho các cơ quan đó để thực hiện các đường lối, chính sách đã định. Các cơ quan
của bộ máy nhà nước gồm :
. Chủ tịch nước,
. Các cơ quan hành pháp : Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và UBND
3 cấp
. Các cơ quan tư pháp : Các cơ quan xét xử : Toà án nhân dân tối cao, Tòa
án nhân dân (2 cấp tỉnh - huyện). Các cơ quan kiểm sát : Viện kiểm sát nhân dân tối
cao ở Trung ương, Viện kiểm sát nhân dân (2 cấp : tỉnh - huyện)
Chỉ có Quốc hội mới có quyền quyết định về việc thành lập hay giải tán quốc
hội, kéo dài hay rút ngắn nhiệm kỳ của Quốc hội, bãi nhiệm, cách chức những người
trong bộ máy quyền lực nhà nước
+ Ba là giám sát việc thực hiện của các tổ chức bộ máy nhà nước. Quyền lực
nhà nước là thống nhất và tập trung. Nhưng một khi đã thực hiện sự phân công
chức năng, phân cấp nhiệm vụ quyền hạn rồi thì phải có biện pháp bảo đảm cho
quyền lực nhà nước được tập trung và thống nhất. Biện pháp đó chính là thực hiện
quyền giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân nhằm bảo đảm cho hoạt động
của các cơ quan khác của bộ máy nhà nước phù hợp với Hiến pháp và pháp luật,
bao gồm việc nghe báo cáo, chất vấn và hủy bỏ những văn bản sai trái của UBND
cùng cấp. Quốc hội còn thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động
của nhà nước (kể cả những người đứng đầu bộ máy nhà nước : Chủ tịch nước, Thủ
tướng chính phủ, Chánh Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao) : đây chính là nhân tố bảo đảm cho quyền lực nhà nước được thống
nhất và tập trung.
Như vậy, quyền lực nhà nước là tập trung vào các cơ quan quyền lực nhà
nước cụ thể là vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân, mà chủ yếu là Quốc hội.
Sự phân công và phối hợp của các cơ quan nhà nước thể hiện trong vị trí,
tính chất, chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan nhà nước trên cả 3

mặt : lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Quốc hội giữ vai trò là cơ quan duy nhất lập pháp.
6
Các cơ quan hành pháp thực hiện chức năng chấp hành và hành chính nhà
nước.
Các cơ quan tư pháp thực hiện gồm : Tòa án nhân dân giữ chức năng là cơ
quan xét xử, Viện kiểm sát nhân dân giữ chức năng là cơ quan kiểm sát.
Tuy có sự phân công rành mạch, cụ thể nhưng trong hoạt động cụ thể các cơ
quan nhà nước còn có sự phối hợp hoạt động nhằm bảo đảm cho quyền lực nhà
nước của nhân dân được thực thiện một cách có hiệu quả và thống nhất. Cụ thể
như :
- Phối hợp giữa hoạt động lập pháp và hành pháp, tư pháp : thể hiện ở chổ
trong hoạt động hành pháp và tư pháp, hàng năm các cơ quan này phải xây dựng
chương trình chỉnh sửa pháp luật để trình Quốc hội xem xét. Các cơ quan này cũng
phát hiện những vấn đề không phù hợp trong pháp luật hiện hành để kiến nghị Quốc
hội xem xét, sửa đổi. Đối với công tác tư pháp, hành pháp : Quốc hội không chỉ lập
pháp mà còn tham gia phối hợp các hoạt động hành pháp, tư pháp : đình chỉ và hủy
bỏ các văn bản pháp luật của cơ quan hành pháp, tư pháp, thực hiện một số nhiệm
vụ thuộc quyền hành pháp và tư pháp như : Quốc hội quyết định những chính sách
cơ bản, những nhiệm vụ trọng yếu, quyết định về bộ máy tổ chức và bố trí nhân sự
chủ chốt trong bộ máy nhà nước. Các chức vụ chủ chốt trong cơ quan nhà nước
như : Chủ tịch nước, Thủ tướng chính phủ, Chánh tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đều do Quốc hội cử ra và chịu trách nhiệm
trước Quốc hội.
- Phối hợp giữa hoạt động hành pháp và tư pháp : các cơ quan hành pháp có
quyền kiến nghị những điều vi phạm pháp luật chuyển Toà án xem xét hoặc thông
qua hoạt động công an điều tra xong thì phải chuyển sang Tòa án, Viện kiểm sát
xem xét, truy tố, xét xử. Cơ quan tư pháp cũng có quyền kiến nghị sang bên cơ quan
hành pháp sửa đổi những quy định, quyết định trái pháp luật.
* Liên hệ thực tế :

Nhìn chung, thực tế những năm qua cho thấy nhà nước ta luôn có sự đổi mới tổ
chức và hoạt động (như xác định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của bộ máy cơ
quan nhà nước) để đáp ứng những yêu cầu được đặt ra trong từng thời kỳ lịch sử,
nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Nhà nước ta cũng dần dần hoàn thiện cơ chế
thu hút sự tham gia của nhân dân ngày càng nhiều vào việc xây dựng chính quyền
nhà nước các cấp.
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng : tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà
nước còn nặng nề, cồng kềnh, những phân định về trách nhiệm, quyền hạn và sự
phối hợp giữa các cơ quan quyền lực, cơ quan nhà nước chưa tốt, hoạt động giám
sát của Quốc hội ngày càng tốt hơn nhưng hoạt động lập pháp còn nhiều hạn chế,
Để khắc phục những hạn chế trên, việc hoàn thiện bộ máy nhà nước được
Đảng xác định bao gồm một số công tác như sau :
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước của dân, do dân và vì dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong
việc xây dựng và quản lý nhà nước mở rộng, đa dạng hóa thông tin, nâng cao
chất lượng thông tin làm cơ sở cho dân bàn bạc, tham gia xây dựng các chủ trương
của Đảng, chính sách của nhà nước, thực hiện quyền làm chủ của mình ở địa
phương, cơ sở. Xây dựng cơ chế và các hình thức thích hợp để nhân dân, cán bộ,
công chức được bàn bạc, tham gia ý kiến, lấy ý kiến của nhân dân đối với các chủ
trương, chính sách lớn của Đảng và nhà nước
- Đổi mới nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối cao của
quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước.
- Cải cách nền hành chính nhà nước: là trọng tâm của việc xây dựng, hoàn
thiện nhà nước, trước mắt tập trung những nhiệm vụ cơ bản : Về cải cách thể chế
hành chính: đẩy mạnh cải cách thể chế và thủ tục hành chính trên những lĩnh vực
7
liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân, giảm tối đa cơ chế “xin-cho”; tổng kết kinh
nghiệm thực hiện cơ chế thực hiện cơ chế một cửa để chỉ đạo áp dụng rộng rãi trên
toàn quốc. Đồng thời với việc xắp xếp tinh gọn, cắt bỏ khâu trung gian những bộ
phận chéo chức năng, nhiệm vụ, ngăn chặn tệ cửa quyền, tham nhũng, hối lộ, vi

phạm pháp luật. Về tổ chức bộ máy: chấn chỉnh cơ cấu tổ chức, biên chế, quy chế
hoạt động của bộ máy hành chính các cấp làm cho bộ máy tinh gọn và thực thi có
hiệu lực từ TW đến địa phương, cơ sở. Xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của mỗi cấp nhằm tạo điều kiện thuận lợi giải quyết kịp thời những vấn
đề đặt ra mà nhân dân đòi hỏi. .
- Cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp: các cơ quan tư pháp phải là mẫu
mực trong việc tuân thủ pháp luật, phải thể hiện công lý, tính dân chủ, công khai
trong hoạt động, hình thành các toà án chuyên nghành và nâng cao năng lực xét xử.
Phân định rõ chức năng công tố và kiểm sát của VKSND, nâng cao chất lượng công
tố (điều tra, luận tội) tránh những chồng chéo giữa thanh tra nhà nước và Viện kiểm
sát. Đồng thời với việc khắc phục tình trạnh tồn đọng án quá nhiều, quá lâu hoặc dây
dưa kéo dài thời gian thi hành án.
- Kiên quyết đấu tranh thường xuyên và có hiệu quả tệ nạn tham nhũng
trong bộ máy nhà nước các cấp nhằm xây dựng một nhà nước trong sạch,
vững mạnh.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức “xây dựng đội ngũ cán bộ
công chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững vàng về chính
trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức, năng lực
hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân”.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong tình hình mới
trên cơ sở xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết ĐH VIII, NQ TW3, NQ TW6
(lần 2), Nghị quyết TW 7 khoá VIII nhằm chấn chỉnh kịp thời cán bộ, Đảng viên làm
trong sạch các tổ chức Đảng từ TW đến cơ sở, nâng cao năng lực và sức chiến đấu
cùa Đảng trong tình hình mới.
Kết luận :
Tóm lại, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một nhà nước được tổ chức
và vận hành theo nguyên tắc “chủ quyền tối thượng thuộc về nhân dân”, lấy pháp
luật XHCN làm công cụ để điều hành - quản lý xã hội, lấy liên minh công – nông –
đội ngũ trí thức làm nền tảng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hoạt động theo
nguyên tắc thống nhất về quyền lực nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các

cơ quan trong 3 mặt hành pháp, tư pháp và lập pháp. Đổi mới tổ chức, hoạt động
của nhà nước theo nguyên tắc trên là công việc vừa cơ bản, vừa cấp bách và cần
phải tính toán kỹ từng bước đi thích hợp. Nếu chúng ta quán triệt đầy đủ và thực
hiện tốt nhưng yêu cầu và phương hướng đã được Đảng đề ra trong việc kiện toàn
hoạt động bộ máy nhà nước thì nhà nước pháp quyền XHCNVN sẽ được thiết định
vững chắc, ngày càng phát triển về mọi mặt, đủ sức xây dựng thành công CNXH ở
nước ta.
8

×