Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

TIỂU SỬ VUA LÊ THÁNH TÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.59 KB, 8 trang )

Tên thật của ông là Lê Tư Thành con vua Lê Thái Tông, mẹ ông là bà Ngô
Thị Ngọc Dao vì quá được vua Thái Tông yêu quý nên có nhiều chuyện ghen
tuông rắc rối xảy ra, có khi nguy đến tính mạng. Nguyễn Trãi lúc đó là bạn
thân với ông Ngô Từ, bố bà Ngọc Dao đã bàn với vợ là Nguyễn Thị Lộ (lúc
này đang được vua Lê Thái Tông yêu quý) tìm cách cứu Ngọc Dao. Nhờ thế
Ngọc Dao được lánh ra khỏi chốn Hoàng cung, vào chùa Huy Vǎn (khu Vǎn
Chương Hà nội bây giờ). Lúc đó bà đang mang thai Lê Tư Thành. Sau này
được vua Lê Nhân Tông đưa về Thǎng Long phong cho làm Bình Nguyên
Vương.
Việc lên ngôi của Lê Thánh Tông, đã được sử sách ghi chép một cách rõ
ràng. Khi ông vua cướp ngôi Lê Nghi Dân bị lật đổ, Các vị đại thần đứng đầu
là Nguyễn Xí, đều nhận định rằng Lê Tư Thành, thiên tư sáng suốt, hùng tài
đại lược thật xứng đáng làm vua. Họ đã đem xe kiệu đến đón vua ở cung
riêng (gọi là cung Gia Để).
Ai cũng biết đưa một người nào đó lên ngôi báu, làm vua để cai trị muôn dân
là một việc vô cùng trọng đại. Những vị quan đứng ra tổ chức chọn người
làm vua tuy không có những người học vấn uyên thâm, nhưng đều là bậc
trung thần nghĩa sĩ, là các vị võ tướng vào sinh ra tử, và triệt để trung thành
với tinh thần khởi nghĩa Lam Sơn. Họ không thể để cho người lãnh đạo giang
sơn là một kẻ vô tài bất lực. Chọn lên ngôi lúc này, phải là người xứng đáng,
có tài đức để ổn định tình hình đất nước, để cho quốc gia Đại Việt bước vào
thời kỳ thịnh trị, xứng đáng với công lao dựng nước của Lê Thái Tổ ngày
xưa. Do đó , họ phải cân nhắc rất thận trọng. Đầu tiên, họ đã đến gặp Cung
Vương Lê Khắc Xương, nhưng ông này không dám nhận lời. Họ mới tìm đến
Gia Vương Lê Tư Thành.
Lê Tư Thành rõ ràng đã có đủ một số điều kiện. Chàng thanh niên này có
tiếng là ham học hỏi, tính tình tốt, lâu nay không có điều tiếng gì. Không ai
thấy anh ham chơi rượu chè, cờ bạc, đi sǎn, hay tìm thú vui phóng khoáng
với các bạn trai cùng lứa. Anh có bà mẹ rất gương mẫu, luôn luôn nhắc nhở
con chǎm chỉ học hành, đối xử với người trong họ nội ngoại, với bà con làng
xóm rất phép tắc, và hợp lẽ. Nơi ở của anh, chỉ toàn là sách vở, anh dành hầu


hết thời gian để nghiền ngẫm, hết đọc sách lại làm thơ. Một số thời gian
khác, anh dành cho việc tập cưỡi ngựa, tập đi các bài quyền mà cụ Đinh Liệt
-vốn là một võ tướng tài nǎng, bày vẽ cho . Không có tiếng tǎm nào đồn đại
về những thiếu sót của anh, kể cả những thiếu sót của tuổi trẻ thường dễ được
dung thứ. Chọn anh làm vua, thế là xứng đáng rồi.
Nhưng vẫn còn điều thắc mắc. Chủ yếu là từ việc bà Ngô Thị Ngọc Dao, trốn
ra khỏi cung, đến sống ở chùa Huy Vǎn, và sau đó đã trốn về đất Thái Bình
để sinh nở. Một bà vợ vua lại không ở sẵn trong cung, chạy ra ở ngoài dù là
để bảo toàn tính mệnh, tránh chuyện rắc rối cho mình là một điều phải đặt
nhiều dấu hỏi. Đứa con sinh ra, không phải trong cung cấm, mà ở một nơi
không chính thức như vậy, có thật xứng đáng với sự nghiêm minh trng cung
cấm hay không. Đã ở ngoài cung vi, thì có thể có nhiều điều ngờ vực lắm,
cho dù những diều ngờ vực đó không chính đáng, không có cơ sở, cũng vẫn
là một điểm hoài nghi. Các vị quan, có người thế này, có người thế nọ, mà đã
hoài nghi thì sẽ có lắm vấn đề cấn cớ. Và người ta đã xì xào , đã bàn tán
quanh những vấn đề ấy, ngay khi đến chùa Huy Vǎn để mời Lê Tư Thành lên
ngôi.
Giai thoại đã kể rằng, sau khi cật vấn chàng trai ấy đủ điều, anh đã trả lời
suôn sẻ, thì có một vị quan muốn kiểm tra thêm một lần chót. Ông quan này
cho rằng, người nào đó , nếu thực sự có chân mệnh thiên tử, thì phải có
những điểm bộc lộ khác người. Phải có tướng mạo , phải có phong cách hợp
với tiêu chuẩn ( do ông ta tự hình dung), rồi còn phải xem khẩu khí của con
người này như thế nào nữa. Điều này cũng có phần đúng. Cùng một thực tế,
một sự kiện nào đó , người này có thể nhận định khác người kia, là do khả
nǎng và khuynh hướng tiếp cận vấn đề ấy. Qua sự tiếp cận, có thể thấy tư
cách của con người, bộc lộ theo ngôn ngữ, theo tầm hiểu biết. Các nhà nho
ngày xưa, hay bằng vào những bài thơ những câu đối mà đoán tư tưởng và
hành vi của đối tượng thẩm tra. Vị quan này, cũng muốn dùng cách này để
thẩm tra chàng thanh niên sắp sửa được giao trách nhiệm lớn. Tiếp theo vài
câu chuyện của các triều thần, ông bất giác đặt cho Lê Tư Thành một câu

hỏi : Thưa điện hạ, chúng tôi được nghe nhiều người nói điện hạ rất có tài
vǎn học, xuất khẩu thành chương. Vậy điện hạ có thể cho chúng tôi nghe một
sáng tác bất kỳ nào của điện hạ được không?
Lê Tư Thành mỉm cười, trả lời lễ phép :
- Dạ, được ạ . Xin quan lớn cứ việc ra đề.
Ông quan nhìn quanh quẩn, rồi chỉ ngay vào một con cóc đang ở dưới gậm
giường:
Xin điện hạ thử làm vài câu vịnh con cóc dưới gậm giường này xem sao.
"Con cóc" là một đề tài thô thiển. Cóc lại dưới gậm giường thì chẳng ai để ý,
chỉ là một thứ đáng khinh bỉ mà thôi. Làm thơ với một đề tài như thế quả
thực là khó, khó nhất là không biết
tìm ra cái gì để nói cho có vẻ vǎn chương nghệ thuật Sự thử thách của ông
quan quả là gay go.
Các vị triều thần đều nhìn cả vào Lê Tư Thành, cho anh khó lòng vượt qua đề
tài hóc hiểm.
Sau một vài giây suy nghĩ Lê Tư Thành điềm nhiên đáp lại:
"Dầu đề quan lớn ra khó quá. Nhưng tôi cũng xin phép không dám để quan
lớn chờ đợi lâu Tôi xin đọc:
> > >
"Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi
Chốn nghiêm thǎm thẳm một mình ngồi
Tắc lưỡi dǎm ba con kiến gió
Nghiến rǎng chuyển động bốn phương trời "
> > >
Chỉ nghe mấy câu trên, vị quan ra đề đã quì phục xuống đất lạy:
- Xin điện hạ không phải đọc thêm nữa. Tôi xin hoàn toàn bái phục. Điện hạ
thật xứng đáng là bậc thiên tử.
Và tiếp đó như ta đã biết. Các triều thần nhất trí rước ông về điện Tường
Quang, đưa ông lên ngôi hoàng đế và lấy niên hiệu là Quang Thuận nǎm thứ
nhất (1460) . Mười nǎm sau đổi niên hiệu là Hồng Đức (1470), trị vì 38 nǎm,

đến 1497 mới mất.
*
* *
Lê Thánh Tông là một trong những ông vua ở ngôi lâu trong lịch sử (38
nǎm), đã đưa đất nước lên một thời kỳ thịnh trị nhất trong cả ngàn nǎm lịch
sử Việt Nam. Ông cũng có một số khuyết điểm, nhưng không phải là cơ bản.
Nhìn toàn cục, cuộc đời Lê Thánh Tông là một quá trình hoạt động sôi nổi
trên nhiều lĩnh vực mà mặt nào cũng tỏ ra rất xuất sắc. Ông làm được rất
nhiều việc, xuất phát từ cái chất đa nǎng của tuổi trẻ . Trước nhất, ông luôn
luôn tỏ ra là người không quên gốc. Vừa lên làm vua, ông cảm ơn các vị lão
thần, đặc biệt là rất trân trọng Nguyễn Xí là người đã diệt Nghi Dân, đưa ông
lên ngai vàng. Tiếp đó ông thường xuyên về Thanh Hóa "bái yết sơn lǎng",
để tổ chức cúng lễ cho Lê Thái Tổ cùng các vị tổ tiên trong dòng họ.
Ông rất trân trọng lịch sử nước nhà, giao cho Ngô Sĩ Liên viết bộ "Đại Việt
sử ký toàn thư", giao cho ông Thân Nhân Trung (cùng nhiều người nữa) biên
soạn bộ sách "Thiên Nam dư hạ tập" có đến một trǎm quyển, là bộ sách bách
khoa ghi chép tất cả những kiến vǎn về đất nước Đại Việt trong giai đoạn bấy
giờ.
Lê Thánh Tông rất quan tâm đến việc nội trị. Ông muốn xây dựng đất nước
cho có qui củ để tiện sự chỉ đạo hành chính. Từ trước, nước ta về mặt tổ chức
hãy còn lỏng lẻo. Sau thời Lý, Trần, Hồ, quân Minh sang xâm chiếm, làm rối
tinh hệ thống tổ chức chính quyền. Các vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông còn
bận nhiều vấn đề ứng phó với thời cuộc, nên chưa rảnh rang nhìn vào việc
nội trị. Lê Thánh Tông đã cố gắng sắp đặt lại. Bộ máy nhà nước trung ương
tập quyền dưới triều Lê Thánh Tông đạt đến mức hoàn bị từ trung ương
xuống đ ến xã. Ông chia cả nước làm 13 thừa tuyên, đặt các quan vǎn, quan
võ phụ trách các ngành rầt chu đáo , củng cố lại các bộ , các viện, các ty. Đặc
biệt, ông cho soạn bộ luật, sau này gọi là luật Hồng Đức để đất nước có một
nền pháp chế hẳn hoi. Nhiều thời đại sau này cũng phải công nhận bộ luật
Hồng Đức là một công trình sáng giá, là một trong những bộ luật hoàn chỉnh

và có nhiều điểm tiến bộ nhất trong lịch sử luật pháp thời phong kiến nước ta,
trong đó thể hiện được tinh thần trọng dân, có nhiều điều bảo vệ dân nghèo
và nhất là tinh thần nhân đạo, tinh thần dân chủ đối với phụ nữ. Ông rất quan
tâm đến việc khai khẩn đất đai, cho lập các sớ đồn điền, cho đào kênh, khơi
ngòi sừa sang đường sắt, mở mang chợ búa, khiến cho nhân dân được an cư
lạc nghiệp trong cảnh thịnh trị thái bình. Cả nước thấy rõ là ông có tài quán
xuyến, có ý thức an dân. Mọi việc đều do ông tự đề ra, tất nhiên là có sự
tham khảo ý kiến các quan lại, nhưng ai ai cũng thấy ông vua trẻ này có rất
nhiều sáng kiến, và đều là sáng kiến có lợi cho dân cho nước. Ông không
giống những ông vua già cỗi chỉ biết khoanh tay rũ áo, phó mặc các việc cho
triều thần. Ông cũng không bắt chước những ông vua thanh thiếu niên khác,
lợi dụng ngôi chí tôn của mình để lao đầu vào hưởng lạc mà thực sự thấy
mình có cái vinh dự thay trời để ban phúc, cũng là để phục vụ đất nước và
nhân dân. Lê Thánh Tông luôn luôn tâm niệm: "Thay việc trời, dám biếng
đâu", nghĩa là không dám lười biếng không dám chơi bời. Đêm đã khuya
nhưng ông còn chǎm chỉ đọc sách. Trời về chiều song ông vẫn mải mê coi
sóc việc triều chính hàng ngày. Làm việc say sưa, mà lại cần mẫn, ông không
tỏ ra uể oải hay chán nản bao giờ. Sức khỏe và ý chí đã giúp ông thực hiện
vai trò của mình một cách bền bỉ. Các nhà nho ngày xưa thường thích làm
thơ, làm vǎn nhưng phần lớn đó là những người đỗ đạt hoặc có điều kiện theo
dõi việc bút nghiên. Còn các ông vua suốt từ đời Ngô Vương Quyền cho đến
Lê Thái Tông, ai cũng có ít nhất là một hai bài thơ, hoặc có những tác phẩm
nghiên cứu về đạo đức, về kinh điển (Phật giáo hay Nho giáo) Nhưng không
có ông vua nào dám có chí để trở thành một nhà vǎn hay một nhà thơ cả. Lê
Thánh Tông thì khác. Vừa là một nhà chính trị song ông còn là một nhà thơ.
Lê Thánh Tông là tác giả của chín tập thơ chữ Hán và hàng trǎm bài thơ Nôm
khác. Đặc biệt Lê Thánh Tông là người đi rất nhiều và đi đến đâu cũng đề
thơ. Vừa là một vị hoàng đế ông vừa có phong cách của một nghệ sĩ giang hồ
thưởng ngoạn thú non sông. Một vài lần, đàm đạo với các nhà học giả trong
triều đình, ông cũng tự nhận mình là nhà thơ, và có phần nào đó vượt cả tài

nǎng một số nhà thơ bên Trung Quốc. Tất nhiên cũng do một phần vì tự phụ
của tuổi trẻ nên ông đã quá lời, song phải công nhận là ông đã vượt xa, một
số học giả, và những nhà thơ của triều đình lúc đó. Sau khi làm thơ ông đưa
cho các triều thần họa lại để phát triển ý mình, và ông là người khơi dậy một
không khí sáng tác rất sôi nổi lúc bấy giờ. Không những thế ông còn có sáng
kiến thành lập một hội Tao Đàn, tương tự như một câu lạc bộ thơ ca của
chúng ta thời nay. Ông tự xưng là Tao Đàn nguyên súy, tập trung xung quanh
mình 28 học giả vào câu lạc bộ này, gọi một cách vǎn vẻ là Tao Đàn nhị thập
bát tú.
Nội dung thơ vǎn của Lê Thánh Tông là vô cùng phong phú. Một tình cảm
gắn bó thiết tha với sơn hà, xã tắc, một mối lo cho dân, lo cho nước khôn
nguôi, một tâm hồn dễ xúc động trước cảnh vật, trước con người. Trong sự
ham thích thơ vǎn, Lê Thánh Tông còn có một ưu điểm khiến cho vǎn học sử
sau này phải trân trọng. Đó là việc ông có sở trường thơ nôm. Vǎn nôm trước
đây thường bị xem là "nôm na là Cha mách qué". Một ông vua lại chuyên
làm thơ nôm, và làm rất nhiều là điều rất đặc biệt. Tất nhiên, so với thơ ca
sau này, hồi thế kỷ 18, 19 và giờ đây, thì những bài thơ nôm của Lê Thánh
Tông, về trình độ nghệ thuật chưa thực đặc sắc lắm. Song cũng có nhiều bài
rất cảm động và xuất sắc (như bài đề miếu vợ chàng Trương).
Nhà vua ham thích vǎn chương, tất nhiên cũng phải để tâm đến việc đề cao
học vấn. Việc giáo dục thi cử dưới thời Lê Thánh Tông được coi là thịnh đạt
nhất trong lịch sử giáo dục và khoa cử thời phong kiến Việt Nam. Ông cho
lập nhà thái học, đặt các giáo thụ ở các châu, lộ, khuyến khích việc học, đưa
sách xuống dân. Ông cho hoàn thiện các chế độ chính sách, đưa ra các luật
thi cử, chính danh các học hàm. Ông giành những vinh quang đặc biệt cho
những người đạt thành tích trong khoa cử: cho tổ chức lễ xướng danh, lễ vinh
qui bái tổ, cho dựng bia tiến sĩ. Có lẽ chính sáng kiến này đã gây được phong
trào tranh đua học tập trong suốt một thời gian dài . Trong lịch sử nước ta, rất
hiếm những giai đoạn mà ở các làng, các tỉnh lại có những gia đình đạt thành
tích cao trong giáo dục như dưới thời Lê Thánh Tông.

Còn một điều nữa, chứng tỏ Lê Thánh Tông rất quan tâm đến vấn đề lễ nhạc.
Ông đã cho tổ chức các bộ phận như Đồng vǎn, Nhã nhạc để đảm bảo việc tổ
chức các nghi lễ trong cung đình cho có qui củ.
Quan tâm đến vǎn Chương song Lê Thánh Tông cũng không hề coi nhẹ việc
võ bị. Thời gian ở ngôi, là thời gian ông rất chú ý việc cho quân sĩ tập luyện,
học tập các trận pháp, trận đồ . Ta không có tài liệu để biết được tài nǎng
quân sự của ông. Nhưng với tư cách là một ông vua nguyên soái, giữ chức
tổng chỉ huy chiến dịch như các trận đánh Chiêm Thành, Bồn Man,Lão Qua,
Ai lao v.v. . . chắc chắn ông phải có trình độ điều binh khiển tướng thế nào
đó để làm cho mọi người khâm phục. Các tướng trong quân doanh của ông
lúc bấy giờ đều là những người lão luyện vào bậc cha chú, đã có những thành
tựu lẫy lừng từ khởi nghĩa Lam Sơn như các ông Đinh Liệt, Lê Thọ Vực, Lê
Niệm v.v. . . , nay phải tuân theo sự chỉ đạo của một chàng trai chưa đầy 30
tuổi, thì chắc chắn chàng trai đó phải có trình độ chỉ huy chiến lược chiến
thuật một cách hợp lý và tài tình.
Lê Thánh Tông biết tự phê bình. Có lần ông nói với hai vị quan là Nguyễn
Bá Ký và Tràn Xác, rằng ông đã có sai lầm, nhận xét sai về hai vị ấy. Sử
dụng những người như Trần Phong, mà ông không phát hiện ra bản chất, cứ
giành quyền lợi mãi cho con người này, cuối cùng mới phải giết đi ông rất
hối hận là mình đã không sáng suốt, hiểu con người quá chậm. Không những
nghiêm khắc với mình, ông còn rất nghiêm khắc với các quan lại. Nhiều vị
quan cao tuổi như các ông Lê Thọ Vực, Nguyễn Như Đổ, khi có khuyết
điểm, ông cũng trách cứ nặng lời chứ không nể nang. Ông luôn luôn dặn các
quan phải giữ gìn tư cách, tránh bê tha, buông thả, để khỏi bị dư luận chê bai.
Có những người dù trách cứ nhiều, thuyên chuyển đi làm việc khác mà vẫn
chứng nào tật ấy không tiến bộ, nhưng lại không tiện thải hồi, ông đã giành
cho hưởng chế độ "ngồi chơi xơi nước" như trường hợp của Nguyễn Vĩnh
Tích. Những vị quan nào tiến cử người không xứng chức, ông đã thẳng tay
phê phán hoặc nghiêm trị.
*

* *
Lịch sử đã thừa nhận Lê Thánh Tông là một vị anh quân, một ông vua giỏi,
có đường lối chính trị rõ, có chủ trương giáo dục quốc dân chu đáo. Ông đề
ra pháp luật đúng đắn, sử dụng quan lại đúng sức đúng tài. Đặc biệt là suốt
mấy chục nǎm cầm quyền, ông không bao giờ lơ là với trách nhiệm, coi sóc
mọi việc đầy đủ, đảm bảo cho bộ máy quốc gia tiến triển nhịp nhàng. Có vǎn
trị, ông lại có vũ công. Ông đã chỉ huy nhiều chiến dịch và
chiến dịch nào cũng thắng. Lịch sử đã tôn vinh ông như vậy là hoàn toàn
xứng đáng.
Nhưng có lẽ chúng ta còn phải trân trọng ông ở những khía cạnh khác nữa,
nhất là ở phần phát huy tác dụng của tuổi thanh niên. Lúc nào ta cũng thấy
ông rất trẻ trung, yêu đời. Ông rất yêu non sông đất nước, ông có tâm hồn thi
sĩ và thực sự gắn bó với thiên nhiên Việt Nam. Ông đã mơ màng với vườn
Quỳnh, là nơi nghe nói vợ chồng Chử Đồng Tử đã đến. Ông mở rộng tầm
nhìn khi đứng trước động Hồ Công, ông thông cảm với nỗi niềm của nàng
thiếu phụ đất Nam Xương. Vẫn với tư thế của một ông vua, nhưng ông đã
thành thực hòa với tình người.
Vua Lê Thánh Tông trị vì 38 nǎm, ông mất tháng giêng nǎm 1497, thọ 56
tuổi.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×