Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

XỬ LÝ TÌNH HUỐNG: “CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG GIẢI QUYẾT CHƯA THOẢ ĐÁNG, TRÁCH NHIỆM THUỘC VỀ AI?”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.75 KB, 22 trang )


MỞ ĐẦU
Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, là sự bảo đảm thay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bò giảm hoặc mất thu nhập
do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động
hoặc chết trên cơ sở đóng và được thụ hưởng. Chính vì đây là một chính sách mang ý
nghóa nhân văn sâu sắc, đảm bảo an sinh xã hội nên Đảng và Nhà nước ta đã hết sức
quan tâm thực hiện ngay từ những ngày đầu thành lập. Sau khi hoà bình được lập lại ở
miền Bắc, thực hiện Hiến pháp năm 1959, Chính phủ đã ban hành Nghò đònh số 218/CP
ngày 27/12/1961 quy đònh Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH. Hơn mấy chục năm
qua, các chế độ, chính sách về Bảo hiểm xã hội đã thực sự là nguồn cổ vũ, động viên
đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức và lực lượng vũ trang yên tâm phấn khởi lao
động sản xuất, dũng cảm chiến đấu góp phần xây dựng Chủ nghóa xã hội ở miền Bắc,
đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.Tuy nhiên, cùng với sự phát triển
đi lên của đất nước, bước vào thời kỳ đổi mới kinh tế - xã hội, các chế độ, chính sách,
phương thức quản lý về BHXH theo các quy đònh trước đó đã trở nên bất cập, bộc lộ
nhiều điểm không còn phù hợp với tiến trình đổi mới theo đường lối và các Nghò quyết
của Đảng. Quỹ BHXH ngày càng mất cân đối nghiêm trọng, số thu quá ít so với tổng
số phải chi, vì vậy chi trả các chế độ BHXH đã trở thành gánh nặng cho Ngân sách
Nhà nước; Đối tượng tham gia BHXH còn bó hẹp trong lực lượng cán bộ công nhân
viên chức Nhà nước và lực lượng vũ trang, chưa được mở rộng đến người lao động ở
các thành phần kinh tế khác, chưa tạo được sự công bằng xã hội và làm giảm tính ưu
việt của Chủ nghóa xã hội đối với người lao động.
Để khắc phục những bất cập ấy, tất yếu phải đổi mới các chế độ, chính sách,
phương thức quản lý BHXH cho phù hợp với sự đổi mới nền kinh tế - xã hội. Thực hiện
Nghò quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII cùng với việc cải cách chế độ tiền lương, các chế

1

độ chính sách về BHXH cũng được cải cách một bước cơ bản. Sau ngày Bộ luật lao động
có hiệu lực thi hành, Chính phủ đã có Nghò đònh số 12/CP ngày 26/1/1995 và số 45/CP


ngày 15/7/1995 ban hành Điều lệ BHXH áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức
Nhà nước, người lao động ở các thành phần kinh tế và lực lượng vũ trang. Đồng thời cũng
đã ban hành Nghò đònh số 19/CP ngày 16/2/1995 thành lập BHXH Việt nam để giúp Thủ
tướng Chính phủ chỉ đạo công tác quản lý Quỹ BHXH và thực hiện các chế độ BHXH
theo quy đònh của Pháp luật. BHXH Việt nam được hình thành theo một hệ thống dọc từ
trung ương đến tỉnh, Thành phố và quận, huyện, bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày
01/10/1995 trên phạm vi cả nước.
Kể từ đó đến nay, ngành Bảo hiểm xã hội không ngừng xây dựng, phát triển và
trường thành về mặt tổ chức cán bộ, các chế độ chính sách về Bảo hiểm xã hội ngày
càng được xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để đáp ứng kòp thời với xu thế phát
triển của thời đại.
. Xuất phát từ điều kiện thực tiễn Quốc Hội nước cộng hoà xã hội chủ nghóa Vòêt
nam đã ban hành Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006 có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2007; riêng đối với bảo hiểm xã hội tự
nguyện thì có hiệụ lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2008, đối với Bảo hiểm thất
nghiệp có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. Gần đây, Quốc Hội đã ban
hành Luật bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12 ngày 14 tháng 11 năm 2008 có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2009.
Trong những năm qua, ngành Bảo hiểm xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng góp phần bảo đảm ổn đònh đời sống cho cán bộ, công chức, quân nhân và người lao
động, ổn đònh chính trò, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo
vệ Tổ quốc. Hoạt động hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam từng bước được củng cố,
hoàn thiện và không ngừng phát triển. Công tác thu, chi, quản lý Quỹ Bảo hiểm xã hội
và giải quyết chế độ chính sách BHXH cho các đối tượng theo Luật đònh đã đi vào nề

2

nếp tạo điều kiện thuận lợi cho những người tham gia và hưởng các chế độ Bảo hiểm xã
hội.
Tuy nhiên, trên thực tế trong quá trình thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội vẫn

còn nhiều tồn tại và bất cập. Trong đó, vấn đề quan trọng là chế độ Bảo hiểm xã hội của
người lao động chưa được giải quyết thoả đáng dẫn đến khiếu nại, đòi hỏi trách nhiệm
của cơ quan Bảo hiểm xã hội phải xem xét giải quyết.
Qua thời gian học lớp Quản lý Nhà nước trình độ chuyên viên chính nhằm để áp
dụng kiến thức Quản lý nhà nước vào thực tiễn công việc hàng ngày và nâng cao kỹ
năng viết của bản thân nên tôi mạnh dạn chọn đề tài về thực hiện công tác Bảo hiểm xã
hội với đề tài: “ Chế độ BHXH của người lao động giải quyết chưa thoả đáng, trách
nhiệm thuộc về ai?”
Trong khuôn khổ tiểu luận, kiến thức và kỹ năng trình bày của bản thân có hạn
nên không tránh khỏi thiếu sót. Hy vọng qua tình huống phát sinh trong thực tế sẽ giải
đáp và trả lời được một số thắc mắc còn vướng phải trong việc thực hiện các chế độ
chính sách về BHXH và quan điểm nhân văn về an sinh xã hội mà Đảng và Nhà nước
đang ngày một hoàn thiện sữa đổi góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã
hội công bằng dân chủ văn minh .
Kính mong được sự giúp đỡ, hướng dẫn của các Thầy giáo, cô giáo Học Viên
Hành Chính góp ý kiến bổ sung để tôi có thể hoàn thiện, nâng cao kiến thức của mình
phục vụ thiết thực cho công việc chuyên môn.

3

MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
Một sáng mùa hè oi ả, vừa mở cửa phòng làm việc ở bộ phận giao dòch một cửa
Bảo hiểm xã hội huyện B, tôi nhìn thấy một người đàn ông dáng vẻ mệt nhọc bước vào.
Trên tay ông là quyển sổ Bảo hiểm xã hội và một số giấy tờ khác, gương mặt rất buồn,
trán lấm tấm mồ hôi. Tôi liền bước lại gần để hỏi ông cần giải quyết việc gì. Từng lời
chậm rãi, nghẹn ngào pha lẫn những giọt nước mắt ông kể lại toàn bộ sự việc liên quan
đến việc giải quyết chế độ BHXH cho con trai ông.
Ông tên là Nguyễn Văn Tuân trú quán tại Thôn 2, xã C, huyện B, Tỉnh Bình Định,
có con trai tên là Nguyễn Văn Thành sinh ngày 20/7 1982 là công nhân Công ty M.
Công nhân Nguyễn Văn Thành có thời gian tham gia BHXH như sau:

Từ tháng 01/2005 đến tháng 12/2006 hệ số lương: 1,67 + 0,4 phụ cấp khu vực;
Từ tháng 01/2007 đến tháng 3/2008 hệ số lương: 1,67 (Từ tháng 1/2007 BHXH không
đóng phụ cấp khu vực)
Theo lời kể của ông Tuân thì tháng 4/2008 anh Nguyễn Văn Thành chưa thực sự
nghỉ việc tại Công ty M, đến sáng ngày 27/4/2008 (ngày chủ nhật) trên đường lên Công
ty để sáng thứ 2 làm việc thì anh đã bò tai nạn giao thông và chết vào lúc 7 h sáng
27/4/2008. Gia đình đã gọi điện báo cho Công ty M và Công ty đã hỗ trợ cho gia đình
một phần tiền để gia đình lo mai táng cho anh Nguyễn Văn Thành.
Đến tháng 7/2009 vừa qua, gia đình nhận được thông báo của Công ty M lên trực
tiếp công ty để làm thủ tục giải quyết chế độ cho anh Thành. Ông Tuân một mình lặn lội
gần 40 km lên tận Công ty con trai làm việc thì được cán bộ phòng tổ chức đưa ra một
bản quyết đònh chấm dứt hợp đồng lao động với anh Nguyễn Văn Thành của Công ty M
từ ngày 02/4/2008 và hướng dẫn làm đơn đề nghò hưởng trợ cấp một lần – mẫu 14-HSB.
Do không hiểu biết về chính sách BHXH nên ông quay về làm đơn xin xác nhận của
chính quyền đòa phương và ông đã thay mặt con trai ký tên vào mục người làm đơn. Sau

4

đó, ông Tuân lại trở lại Công ty M để nộp đơn. Vừa qua, tháng 8/2009 gia đình ông Tuân
nhận được thông báo của Công ty M mời gia đình lên nhận lại các thủ tục hồ sơ trong đó
có sổ BHXH, quyết đònh hưởng trợ cấp một lần, bản quá trình tham gia BHXH và hướng
dẫn gia đình trực tiếp cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện Cẩm xuyên để nhận tiền trợ cấp
một lần của anh Nguyễn Văn Thành. Ông Tuân hỏi rằng: Tại sao con ông chết lại không
được hưởng mai táng phí? Ông đề nghò cơ quan Bảo hiểm xã hội không giải quyết việc
nhận trợ cấp một lần của anh Thành mà làm đơn đề nghò giải quyết cho gia đình họ được
nhận chế độ tử tuất của anh Thành.

5

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TÌNH HUỐNG

1/ Lý luận chung:
Bản chất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghóa Việt Nam là Nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Luật pháp của Nhà nước Việt nam mang tính xã hội sâu sắc và
mang tính giai cấp - mang ý chí của giai cấp lãnh đạo xã hội là giai cấp công nhân trên
cơ sở liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức; phục vụ cho lợi ích của mọi
người dân trong xã hội chứ không phải lợi ích của một giai cấp riêng biệt nào.
Luật pháp của Nhà nước Việt nam là nhân tố bảo vệ sự ổn đònh xã hội, thể chế
hoá quyền con người, quyền công dân, đảm bảo và tạo điều kiện cho những quyền đó
được thực hiện đầy đủ, kòp thời. Mặt khác các thành viên trong xã hội nhờ vào phương
tiện pháp luật có điều kiện bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình, đấu tranh chống
mọi hiện tượng tiêu cực, xây dựng một xã hội văn minh, công bằng và dân chủ.
Công chức, viên chức nhà nước là những người đại diện cho Nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật. Công cụ chính quản lý xã hội của họ là pháp luật và bản thân họ
cũng có nghóa vụ phải tuân thủ pháp luật, không được làm trái với những gì mà pháp luật
qui đònh. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay có không ít một số cán bộ công chức Nhà
nước có chức có quyền đã lợi dụng chức quyền để sách nhiễu nhân dân hoặc do trình độ
chuyên môn thấp kém, thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu hiểu biết về chính sách của
Nhà nước dẫn đến ảnh hưởng quyền lợi của người dân, thiếu công bằng xã hội, nhân dân
mất lòng tin vào chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
2. Quan điểm của Đảng:
Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Nhà nước tham gia Bảo
hiểm xã hội với tư cách là người bảo hộ cho người lao động. Sự bảo hộ của Nhà nước thể

6

hiện ở việc đề ra chính sách Bảo hiểm xã hội tác động và điều tiết các hoạt động Bảo
hiểm xã hội đưa bảo hiểm xã hội vào quỹ đạo chung của chính sách kinh tế xã hội.
Tại Nghò quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng Sản Việt
Nam, với quan điểm chỉ đạo của Đảng tiếp tục hoàn chỉnh thể chế thò trường lao động,
bảo đảm hài hoà lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động. Đổi mới hệ thống

bảo hiểm xã hội, đa dạng hoá hình thức bảo hiểm và phù hợp với kinh tế thò trường; xây
dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp, thực hiện tốt chế độ bảo hộ lao động, an toàn lao
động và vệ sinh lao động. Để tăng cường lãnh đạo thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội
theo luật đònh cần phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng ở các cơ quan, đơn vò,
doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc thực hiện các chế
độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động, trọng tâm là thu nộp bảo hiểm xã hội, bảo
đảm nguyên tắc có tham gia thì mới hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Đồng thời, chỉ
đạo thực hiện tốt công tác giải quyết chế độ chính sách cho người lao động, đảm bảo
quyền lợi chính đáng cho người tham gia bảo hiểm xã hội. Đây là vấn đề quan trọng liên
quan đến hàng triệu người lao động vì vậy cần phải có biện pháp thực hiện triệt để nhằm
bảo đảm chặt chẽ, công bằng, tạo động lực thúc đẩy người lao động công tác tốt, tăng
năng suất lao động.
Bên cạnh đó, cần tích cực chống các biểu hiện tiêu cực, thất thoát trong công tác
bảo hiểm xã hội. Các cơ quan thanh tra phải kết luận giải quyết dứt điểm những vi phạm
đã được phát hiện, đồng thời thường xuyên kiểm tra , phát hiện và xử lý kòp thời các
hành vi vi phạm các chế độ bảo hiểm xã hội, những trường hợp nghiêm trọng phải truy tố
trước pháp luật.
Để các qui đònh về chế độ bảo hiểm xã hội thực sự đi vào cuộc sống, để mọi người
dân hiểu rõ về chế độ bảo hiểm xã hội cần coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục cán
bộ, đảng viên, nhân dân nhận thức đúng về ý nghóa của bảo hiểm xã hội, động viên mọi
người tích cực và chủ động tham gia công tác bảo hiểm xã hội.

7

3. Văn bản liên quan đến đề tài:
Như phần lý luận chung đã trình bày , chính sách Bảo hiểm xã hội hiện hành là sự
cải tiến , thừa kế các quy đònh , các văn bản pháp quy có từ mấy chục năm nay. Vì thế
tính Pháp lý của tình huống được thế hiện ở các văn bản luật và dưới luật, những văn
bản có tính pháp lý liên quan đến tình huống :
- Luật Bảo hiểm xã hội của nước Cộng hoà xã hội chủ nghóa Việt nam số

71/2006/QH 11 ngày 29 tháng 6 năm 2006;
- Nghò đònh số 152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006 hướng dẫn một số
điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc;
- Thông tư số 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30/01/2007 hướng dẫn một số điều của
Nghò đònh số 152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006.
- Quyết đònh 815/QĐ-BHXH ngày 6/6/2007 của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội
Việt Nam.

8

PHÂN TÍCH XỦ LÝ TÌNH HUỐNG
1/ Phân tích sự đúng, sai của tình huống:
Qua việc nghiên cứu tình huống ta thấy đây là một vấn đề cần nghiên cứu kỹ,
phân tích cụ thể để tìm ra sự đúng, sai trong tình huống này.
Rõ ràng, ông Nguyễn Văn Tuân thắc mắc tại sao con ông chết vào ngày 27 tháng
4 năm 2008 (Quyết đònh chấm dứt hợp đồng lao động ngày 02 tháng 4 năm 2008) lại
không được giải quyết chế độ tử tuát là có cơ sở. Như vậy, anh Nguyễn Văn Thành thuộc
đối tượng bảo lưu thời gian đóng Bảo hiểm xã hội theo qui đònh tại điều 57 Luật bảo
hiểm xã hội số 71/QH ngày 29 tháng 6 năm 2006 và bò chết trong thời gian bảo lưu. Gia
đình đã thông báo cho Công ty M và đã được Công ty hỗ trợ một phần chi phí mai táng
phí. Như vậy, mọi sự việc về cái chết của anh Nguyễn Văn Thành, Công ty M biết rõ.
Vậy thì tại sao người làm công tác chế độ bảo hiểm xã hội của đơn vò không hướng dẫn
ông Tuân làm thủ tục đề nghò giải quyết chế độ tử tuất cho anh Thành mà lại hướng dẫn
ông Tuân làm thủ tục giải quyết chế độ trợ cấp một lần? Điều đó, chứng tỏ Công ty M
cũng có trách nhiệm với quyền lợi của người lao động là đã đề nghò giải quyết trợ cấp
một lần nhưng do thiếu hiểu biết về chế độ chính sách bảo hiểm xã hội dẫn đến việc
quyền lợi của người lao động chưa được đảm bảo mà đúng ra là được giải quyết chế độ
tử tuất theo qui đònh tại điều 63, điều 66, điều 67 Luật bảo hiểm xã hội số 71/QH11 ngày
29 tháng 6 năm 2006; điều 35, điều 38, điều 39 Nghò đònh số 152/NĐ-CP ngày 22 tháng
12 năm 2006.

Vấn đề thứ hai: Ông Nguyễn Văn Tuân do không hiểu biết về chế độ chính sách
bảo hiểm xã hội nên hoàn toàn thụ động khi được Công ty M hướng dẫn làm thủ tục đề
nghò giải quyết trợ cấp một lần nên ông đã tự mình ký tên Nguyễn Văn Thành vào mục
người làm đơn và đề nghò Uỷ ban nhân dân xã C ký xác nhận.

9

Vấn đề thứ ba: Uỷ ban nhân dân xã C cấp đơn đề nghò hưởng trợ cấp một lần cho
anh Nguyễn Văn Thành vào ngày 10 tháng 8 năm 2009 (trong khi đó anh Thành đã chết)
là không có cơ sở, thiếu sự kiểm tra, thiếu tinh thần phối hợp giữa bộ phận tư pháp với
công an xã quản lý hộ khẩu. Vì thực tế tại các xã hiện nay công tác giao ban hàng tháng
của các công an viên tại các thôn, xóm rất chặt chẽ trong đó có việc báo cáo về số người
biến động do chuyển đi, chuyển đến, chết…
Vấn đề thứ tư: Bảo hiểm xã hội huyện B nhận hồ sơ giải quyết chế độ BHXH từ
đơn vò sử dụng lao đông là Công ty M với thủ tục hồ sơ trợ cấp một lần đầy đủ theo quyết
đònh 815 QĐ-BHXH ngày 6/6/2007 của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Vì
vậy, Bảo hiểm xã hội huyện B đã giải quyết cho anh Thành hưởng trợ cấp một lần là
đúng với qui đònh tại điều 55 Luật bảo hiểm xã hội số 71/QH11 ngày 29 tháng 6 năm
2006.
2/ Nguyên nhân tình huống:
Như vậy, chúng ta thấy rằng từ một sự việc hết sức đơn giản nếu như người làm
công tác Bảo hiểm xã hội của Công ty M thực sự hiểu biết, nắm chắc các chế độ BHXH
để hướng dẫn thân nhân người lao động ngay từ đầu thì việc giải quyết chế độ cho người
lao động hết sức nhanh gọn kòp thời, đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm xã
hội.
Đối với tình huống cụ thể này, điều quan trọng là cán bộ làm công tác tư pháp
của Uỷ ban nhân dân xã C quản lý nhân khẩu, hộ khẩu chưa chặt chẽ, thiếu sự kiểm tra,
cán bộ tư pháp của xã C thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện chuyên môn
của mình dẫn đến sai sót nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, chúng ta thấy rằng hiện nay công tác tuyên truyền các chủ trương

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thực sự có hiệu quả cao. Tuy nhiên, vẫn
còn một số hạn chế ở khả năng tiếp thu của một số người dân, kể cả một bộ phận không
nhỏ cán bộ, công chức, viên chức không có tinh thần học hỏi, không nghiên cứu cập nhật

10

văn bản để nâng cao năng lực chuyên môn công tác của mình dẫn đến sự việc tưởng
chừng như đơn giản nhưng lại hướng dẫn thực hiện sai. Điều đó, thực sự đã làm ảnh
hưởng tới người dân cả về mặt kinh tế lẫn tinh thần.
3/ Hậu quả của tình huống:

Việc nghiên cứu hậu quả của tình huống nhằm giúp ta tránh được sự cứng nhắc,
nguyên tắc, giáo điều trong việc thực hiện chế độ chính sách của người lao động. Đồng
thời, lường trước được hậu quả của tình huống giúp ta có thể đề ra giải pháp hợp lý, phù
hợp với điều kiện thực tế nhằm giải quyết đúng, kòp thời, đảm bảo quyền lợi cho người
tham gia bảo hiểm xã hội. Từ đó, có biện pháp xử lý việc chấp hành không đúng qui đònh
trong việc thực hiện chế độ chính sách của Nhà nước và đề ra những biện pháp phù hợp
tránh lạm dụng quỹ bảo hiểm xã hội.
Tôi xin nêu một số hậu quả xảy ra với tình huống trên.
- Nếu xử lý giải quyết một cách máy móc thì người lao động sẽ bò thiệt thòi về
quyền lợi chính đáng do sự thiếu hiểu biết của cán bộ làm công tác chuyên môn tại đơn
vò sử dụng lao động.
- Nếu không điều chỉnh kòp thời những sai sót trên thì dẫn đến người dân có thể bò
mất niềm tin vào chính sách của Nhà nước ta. Trong khi đó, Đảng ta chủ trương quan tâm
đúng mức tới quyền lợi của người lao động, một ưu việt của Chủ nghóa xã hội so với chủ
nghóa tư bản.
- Có thể dẫn đến đổ lỗi trách nhiệm cho nhau.
- Nếu quá chủ quan trong việc tiếp nhận hồ sơ giải quyết có thể dẫn đến việc lợi
dụng lập hồ sơ để được xét hưởng trợ cấp Bảo hiểm xã hội có lợi hơn về mặt kinh tế.


11

XÂY DỰNG VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG PHÁP
XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1 . Xây dựng phương án :
Cơ sở để xây dựng phương án:
- Theo qui đònh điều 63 Luật bảo hiểm xã hội số 71/QH ngày 29 tháng 6 năm
2006, điều 35 nghò đònh 152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006 qui đònh các đối
tượng sau khi chết thì người lo mai táng được nhận trợ cấp mai táng bằng 10 tháng tiền
lương tối thiểu chung.
- Theo qui đònh tại điều 67 Luật bảo hiểm xã hội số 71/QH ngày 29 tháng 6 năm
2006, điều 39 ghò đònh 152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006 qui đònh mức hưởng
trợ cấp tuất một lần đối với thân nhân người lao động đang đóng bảo hiểm xã hội hoặc
người bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội.
Đối chiếu với các quy đònh trên , trường hợp của anh Thành con ông Tuân thuộc
đối tượng người lao động bảo lưu thời gian tham gia bảo hiểm xã hội bò chết. Như vậy,
tôi xin nêu ra một số phương án xử lý tình huống như sau:
a. Phương án 1 :
Từ chối việc giải quyết lại chế độ tử tuất cho anh Nguyễn Văn Thành và hướng
dẫn ông Nguyễn Văn Tuân làm đơn có xác nhận của chính quyền đòa phương về việc con
trai ông đã chết (vì không thể làm thủ tục uỷ quyền hợp lệ) trực tiếp đến Bảo hiểm xã
hội huyện B để nhận trợ cấp một lần của anh Thành.
- Ưu điểm :
+ Thủ tục đơn giản, giải quyết việc nhận tiền nhanh chóng kòp thời.

12

+ Có cơ sở để giải quyết như vậy, vì tại thời điểm tháng 8 năm 2009 đã có đơn
đề nghò hưởng trợ cấp một lần của anh Nguyễn Văn Thành có xác nhận của chính quyền
đòa phương xã C.

- Nhược điểm :
+ Chưa thoả đáng về quyền lợi của người lao động cũng như thân nhân họ.
b. Phương án hai:
Không thực hiện chi trả trợ cấp một lần của anh Thành cho ông Nguyễn Văn
Tuân. Đồng thời, tiếp nhận đơn có xác nhận của chính quyền đòa phươngvề sự việc trên
và thủ tục hồ sơ để giải quyết chế độ tử tuất cho anh Nguyễn Văn Thành.
Ưu điểm :
+ Đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm xã hội, không mất nhiều thời
gian của đối tượng, không còn sự khiếu kiện.
+ Tạo được niềm tin của nhân dân.
Nhược điểm :
+ Nếu thực hiện theo phương án này thì còn chủ quan, thiếu sự kiểm tra thực tế có
thể dẫn tới thực hiện xét duyệt chế độ sai quy đònh, gây hậu quả lâu dài. Có thể gây thất
thoát nghiêm trọng ảnh hưởng đến nền kinh tế của đát nước.
c. Phương án 3:
Bảo hiểm xã hội huyện B mời ông Nguyễn Văn Tuân trực tiếp trình bày lại toàn
bộ sự việc nhằm làm rõ thêm đơn đề nghò của ông. Từ đó, tư vấn để ông hiểu hơn về chế
độ chính sách Bảo hiểm xã hội và quyền lợi, nghóa vụ của người tham gia bảo hiểm xã
hội. Đồng thời, hiểu rõ hơn trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao
động. Hướng dẫn ông nộp đầy đủ hồ sơ trợ cấp một lần đã được Bảo hiểm xã hội tỉnh
Bình Định giải quyết và kèm theo giấy chứng tử của anh Nguyễn Văn Thành đã được Uỷ
ban nhân dân xã C cấp ngày 01 tháng 09 năm 2009.

13

Tiếp theo, Bảo hiểm xã hội huyện sẽ trực tiếp làm việc với Công ty M tìm ra
nguyên nhân từ đó đưa ra hướng giải quyết đúng qui đònh. Đồng thời, Bảo hiểm xã hội
huyện B sẽ trực tiếp xuống tận đòa bàn nơi gia đình ông Tuân sinh sống để xác minh
ngày, tháng, năm chết thực tế của anh Nguyễn Văn Thành. Từ đó, có cơ sở để làm việc
với Uỷ ban nhân dân xã C. Nếu thực tế anh Thành chết đúng với ngày tháng năm đã ghi

trên giấy chứng tử Uỷ ban nhân dân xã C đã cấp thì Bảo hiểm xã hội huyện sẽ phối hợp
với chính quyền đòa phương hướng dẫn ông Tuân làm các thủ tục tiếp theo để trình Bảo
hiểm xã hội tỉnh xem xét giải quyết.
Ưu điểm:
+ Làm rõ được trách nhiệm của ủy ban nhân dân xã C là phải thường xuyên cập
nhật sổ quản lý hộ khẩu các đối tượng đã chết, tăng cường công tác kiểm tra trước khi
ký xác nhận. Đồng thời, cũng làm rõ được trách nhiệm của Công ty M đối với người lao
động.
+ Bản thân ông Tuân và gia đình được hiểu biết hơn về các chế độ chính sách bảo
hiểm xã hội.
+ Thể hiện được tính nhân văn sâu sắc của chính sách Bảo hiểm xã hội là luôn
luôn bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động.
Nhược điểm:
+ Nếu xử lý theo tình huống này thì ngành Bảo hiểm xã hội phải đầu tư nhiều thời
gian để xác minh thực tế theo đơn trình bày của ông Tuân.
2. Lựa chọn Phương án tối ưu:
Từ sự phân tích đánh giá ưu, nhược điểm của các phương án trên, nên chọn
phương án 3, bởi vì:
Đây là phương án hữu hiệu nhất vừa đảm bảo thực hiện đúng pháp luật của Nhà
nước, vừa giải quyết thoả đáng chế độ cho người lao động hợp tình, hợp lý. Đồng thời,
bảo đảm nguyên tắc của ngành thu đúng, thu đủ, chi đúng, chi đủ, tránh gây thất thoát

14

của Nhà nước. Bên cạnh đó, làm tốt công tác tuyên truyền, động viên để mọi người tham
gia thực hiện tốt chế độ Bảo hiểm xã hội
3. Các bước để thực hiện phương án 3 :
Bước 1 : Bảo hiểm xã hội huyện B căn cứ vào đơn trình bày của ông Tuân, trực
tiếp xuống làm việc với Uỷ ban nhân dân xã C xác minh ngày, tháng, năm chết của anh
Thành thông qua làm việc với các bộ phận tư pháp, công an, đồng chí trưởng thôn 2,

đồng chí bí thư chi bộ thôn 2 và người phụ trách công tác dân số ở thôn 2.
Bước 2: Sau khi xác minh ngày chết của anh Thành đúng với giấy chứng tử Uỷ
ban nhân dân xã C đã cấp. Uỷ ban nhân dân xã C làm tờ trình giải trình về việc đã sai
sót trong việc ký xác nhận vào đơn hưởng trợ cấp một lần của anh Thành (khi đó anh
Thành đã chết) có xác nhận của Uỷ ban nhân dân huyện B và đề nghò Bảo hiểm xã hội
huyện B, Bảo hiểm xã hội tỉnh Bình Định xem xét giải quyết. Đồng thời, có trách nhiệm
xử lý vi phạm hành chính đối với cán bộ chuyên môn đã tham mưu cho lãnh đạo ký xác
nhận.
Bước 3: Yêu cầu Công ty M làm tờ trình gửi Bảo hiểm xã hội tỉnh Bình Định, Bảo
hiểm xã hội huyện B giải trình sự việc đã lập hồ sơ đề nghò giải quyết sai chế độ cho
người lao động và đề nghò Bảo hiểm xã hội các cấp xem xét, giải quyết lại chế độ
BHXH cho anh Thành.
Bước 4: Bảo hiểm xã hội huyện B có trách nhiệm hướng dẫn ông Tuân lập đầy đủ
thủ tục hồ sơ đề nghò giải quyết chế độ tử tuất cho anh Thành hoàn chỉnh gồm các giấy tờ
sau:
- Sổ BHXH và quyết đònh hưởng trợ cấp một lần của anh Nguyễn Văn Thành;
- Đơn đề nghò không nhận trợ cấp một lần và đề nghò được hưởng chế độ tử tuất:
01 bản;
- Tờ khai hoàn cảnh gia đình: 04 bản;
- Giấy chứng tử: 4 bản (1 bản chính +3 bản sao hoặc công chứng)

15

Bước 5: Ông Tuân trực tiếp đến bộ phận giao dòch một cửa Bảo hiểm xã hội
huyện B nộp toàn bộ hồ sơ nêu trên. Cán bộ chuyên trách tại bộ phận giao dòch một cửa
Bảo hiểm xã hội huyện kiểm tra hồ sơ đầy đủ tiếp nhận, lập phiếu hẹn trả kết quả trong
thời gian là 15 ngày làm việc theo Quyết đònh số 02/QĐ-BHXH ngày 15 tháng 02 năm
2009 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội huyện B và Quyết đònh số 132/QĐ-BHXH ngày 11
tháng 02 năm 2009 của Giám đốc bảo hiểm xã hội tỉnh Bình Định.
Bước 6 : Bộ phận giao dòch một cửa Bảo hiểm xã hội huyện B chuyển bàn giao

cho bộ phận chế độ bảo hiểm xã hội xử lý nghiệp vụ. Tiếp theo, bộ phận chế độ bảo
hiểm xã hội phối hợp với bộ phận kế toán đối chiếu với danh sách chuyển nguồn tháng 8
năm 2009 để xem số tiền trợ cấp một lần của anh Thành mà Bảo hiểm xã hội tỉnh Bình
Định cấp về trong tháng 8 năm 2009. Đồng thời, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Giám đốc
Bảo hiểm xã hội huyện B soạn thảo văn bản gửi Bảo hiểm xã hội tỉnh Bình Định xem
xét, giải quyết. Trong đó, xác nhận rõ Bảo hiểm xã hội huyện B chưa thực hiện chi trả
trợ cấp một lần cho thân nhân anh Nguyễn Văn Thành.
Bước 7: Bộ phận chế độ chính sách bảo hiểm xã hội huyện B tiến hành thu thập
toàn bộ đầy đủ hồ sơ của anh Thành (Bao gồm: hồ sơ ông Tuân nộp; Biên bản xác minh
ngày, tháng, năm chết của anh Thành; Công văn đề nghò của Bảo hiểm xã hội huyện; Tờ
trình của Công ty M) nộp cho Phòng tiếp nhận – quản lý hồ sơ Bảo hiểm xã hội tỉnh Bình
Định. Phòng tiếp nhận – quản lý hồ sơ sẽ lập phiếu hẹn trả kết quả trong thời gian ngắn
nhất là 10 ngày làm việc.
Bước 8: Các phòng nghiệp vụ ở Bảo hiểm xã hội tỉnh Bình Định sẽ phối hợp xử
lý, rút hồ sơ trợ cấp một lần của anh Thành để tính toán lại số tiền trợ cấp tử tuất một lần
dựa trên hồ sơ tham gia BHXH của anh Thành và tiền mai táng phí. Sau đó, sẽ đối trừ
với số tiền trợ cấp BHXH một lần đã được xét duyệt trước đó. Tiến hành cấp nguồn kinh
phí về cho Bảo hiểm xã hội huyện kòp thời. Đồng thời, đính kèm hồ sơ giải quyết trợ cấp

16

tử tuất một lần cho anh Thành với hồ sơ trợ cấp một lần trước đó và lưu trữ đúng qui
đònh.
Bước 9: Đến ngày hẹn Bảo hiểm xã hội huyện B trực tiếp phòng giao nhận hồ sơ
Bảo hiểm xã hội tỉnh Bình Định nhận lại 2 bộ hồ sơ hưởng trợ cấp tử tuất một lần của anh
Nguyễn Văn Thành. Sau đó, Bảo hiểm xã hội huyện có trách nhiệm thông báo cho ông
Tuân đến nhận kết quả giải quyết theo đúng thời gian đã hẹn. Đồng thời, tách hồ sơ, 01
bộ chuyển bộ phận hồ sơ đưa vào lưu trữ và tiến hành bàn giao 01 bộ hồ sơ trợ cấp tử
tuất một lần cho ông Tuân.


17

KIẾN NGHỊ
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước , thể hiện sự quam
tâm đối với quyền lợi của người lao động .Việc thực hiện các chế độ chính sách Bảo
hiểm xã hội theo cơ chế mới phù hợp với cơ chế thò trường, dựa trên nguyên tắc có đóng
BHXH mới được hưởng các chế độ BHXH là hoàn toàn đúng .
1. Gần 3 năm thực hiện Luật bảo hiểm xã hội số 71/QH 11 ngày 29 tháng 6 năm
2006 chúng ta thấy rằng: Luật bảo hiểm xã hội là hành lang pháp lý cao nhất để mọi tổ
chức, cá nhân chấp hành qui đònh về chính sách bảo hiểm xã hội theo qui đònh của Pháp
luật. Trong quá trình thực hiện công tác ngành Bảo hiểm xã hội đã góp phần quan trọng
trong việc thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội của Đảng và Nhà nước đề ra, góp phần
đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều vấn đề tồn
tại và bất cập.
- Về qui đònh mức đóng vào quỹ ốm đau và thai sản bằng 3%; trong đó người sử
dụng lao động giữ lại 2% để chi trả kòp thời cho người lao động đủ điều kiện hưởng các
chế độ ốm đau, thai sản. Thực tế, hiện nay tỉnh Bình Định phần lớn các đơn vò sử dụng
lao động có số lao động ít, số 2% tổng quỹ lương để lại hàng quý là rất nhỏ, không đủ để
chi trả cho người lao động khi họ hưởng chế độ thai sản. Trong khi đó, nhiều đơn vò
nguồn kinh phí hạn hẹp nên họ không chủ động được nguồn kinh phí để thanh toán cho
người lao động mà phải chờ đến đầu quý sau quyết toán xong với cơ quan Bảo hiểm xã
hội mới có tiền để trả cho người lao động. Như vậy, chúng ta không thể nói là chi trả kòp
thời chế độ ốm đau, thai sản cho người lao động. Xuất phát từ những bất cập đó Nhà
nước chúng ta cần phải có giải pháp khắc phục tình trạng trên để đảm bảo quyền lợi cho
người lao động khi tham gia bảo hiểm xã hội.
- Về chế độ trợ cấp tuất hàng tháng cho các đối tượng là con từ 15 tuổi trở lên; vợ,
cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ, cha chồng, mẹ vợ, mẹ chồng nếu dưới 60 tuổi đối nam, dưới 55

18


tuổi đối với nữ và bò suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên mới được hưởng trợ cấp
tuất hàng tháng. Nhưng việc qui đònh thời hạn giới thiệu giám đònh mức suy giảm khả
năng lao động trong vòng 2 tháng kể từ khi người lao động chết là quá ngắn.
2. Bên cạnh đó, công tác thông tin tuyên truyền chưa làm được nhiều, đội ngũ làm
cộng tác tuyên truyền chưa đủ mạnh cả về chiều sâu và chiều rộng. Vì vậy cần sớm có
chính sách, biện pháp đầu tư thoả đáng vào công tác thông tin - tuyên truyền , không chỉ
dừng lại ở việc tuyên truyền các chế độ , chính sách của Đảng và Nhà nước mà cần phải
đẩy mạnh tuyên truyền về mọi mặt hoạt động của hệ thống BHXH việt nam cũng như
kinh nghiệm về BHXH trong mọi tầng lớp người lao động và toàn xã hội, tiến tới xã hội
hoá về BHXH. Thông qua đó giúp người lao động thấy rõ được quyền lợi và nghóa vụ và
nâng cao trách nhiệm của mình trong việc tham gia BHXH . Cần khẳng đònh rằng : Chỉ
khi nào người lao động có nhận thức đầy đủ về lónh vực BHXH thì chính họ sẽ là người
giám sát chủ sử dụng lao động trong việc chấp hành , thực hiện nghiêm túc các chế độ ,
chính sách Bảo hiểm xã hội.
3. Một số đơn vò, doanh nghiệp tuy có thành lập tổ chức công đoàn, nhưng tổ chức
này mới chỉ hoạt động có mức độ, chưa nghiên cứu thật sâu các chế độ, chính sách
BHXH nên cũng chưa đòi hỏi quyền lợi cho người lao động. Trong khi đó , các chủ sử
dụng lao động vì lợi ích cá nhân, bằng mọi cách cố tình trốn tránh nghóa vụ tham gia
BHXH. Cán bộ làm công tác bảo hiểm xã hội tại một số đơn vò chưa thực sự nắm bắt
được các qui đònh về chế độ chính sách bảo hiểm xã hội, làm việc thiếu tinh thần trách
nhiệm dẫn đến những sai sót không đáng có. Vì vậy, cần phải bồi dưỡng nghiệp vụ về
công tác bảo hiểm xã hội cho các đơn vò sử dụng lao động thôg qua các kênh thông tin
tuyên truyền, các lớp tập huấn…
4. Cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành cùng với ngành Bảo
hiểm xã hội trong việc thực hiện công tác bảo hiểm xã hội.

19

5. Qua nhìn nhận tình huống trên ta thấy rằng cần phải coi trọng yếu tố con người.
Để có một xã hội trong sạch vững mạnh chúng ta cần có những con người có phẩm chất

đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có tinh thần trách nhiệm, biết tôn
trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân. Luôn đấu tranh với tệ tham nhũng, quan liêu,
hách dòch, cửa quyền, thiếu tinh thần trách nhiệm trong xử lý nghiệp vụ hàng ngày. Làm
được như vậy là chúng ta đã góp phần làm cho bộ máy Nhà nước ta ngày càng vững
mạnh.

20

KẾT LUẬN
Bảo hiểm xã hội có vò trí quan trọng đối với công tác an sinh xã hội của mỗi quốc
gia. Cùng với yêu cầu và nhiệm vụ của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghóa, từng thời kỳ
khác nhau, các quy đònh về chính sách Bảo hiểm xã hội được sửa đổi bổ sung một cách
linh hoạt, phù hợp nhằm đáp ứng, huy động tối đa về sức người, sức của của nhân dân
cho công cuộc Cách mạng, ổn đònh dần dần và ngày càng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho người lao động.
Vấn đề mà tình huống đưa ra đã được phân tích đúng, sai, có phương án tối ưu để
thực hiện giải quyết chế độ Bảo hiểm xã hội cho người lao động, vừa đúng với các qui
đònh của nhà nước, vừa thấu tình đạt lý. Điều quan trọng nhất là chế độ của người lao
động được đảm bảo, các đơn vò sử dụng lao động có liên quan đến tình huống trên nhận
thấy được những khuyết điểm của cán bộ mình đang quản lý. Từ đó, có những biện pháp
khắc phục kòp thời và có hình thức xử lý vi phạm đúng đắn. Đồng thời, tăng cường hơn
nữa công tác kiểm tra khi xử lý nghiệp vụ hàng ngày. Cán bộ trực tiếp làm công việc
chuyên môn cũng nhận thấy được những sai sót và rút kinh nghiệm trong xử lý nghiệp vụ
và cần phải học hỏi nhiều hơn nữa để nâng cao kiến thức, năng lực chuyên môn nhằm
phục vụ tốt hơn công tác.
- Việc thực hiện giải quyết chế độ chính sách cho người lao động theo Luật baỏ
hiểm xã hội được đối tượng cũng như chủ sử dụng lao động yên tâm và thực sự tin tưởng
vào sự nghiệp phát triển của ngành Bảo hiểm xã hội.
Qua gần 15 năm ra đời và đi vào hoạt động , kết quả đạt được của ngành Bảo
hiểm xã hội hết sức khả quan , đặc biệt là vấn đề thu nộp Bảo hiểm xã hội . Kết quả thu

được cao gấp hàng chục lần những năm trước đây. Thực hiện lộ trình cải cách hành chính
theo cơ chế một cửa đã thực sự đem lại hiệu quả rõ rệt.Việc giải quyết các chế độ

21

BHXH cho người lao động được tiến hành kòp thời và khoa học hơn, chính xác hơn, tránh
được tình trạng gian lận hồ sơ. Thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội nhằm đảm bảo
ổ đònh kinh tế, an ninh, an toàn trật tự xã hội.

22

×