Bài tiểu luận Lớp bồi d ỡng Quản lý nhà n ớc ngạch chuyên viên khoá 27
Lời mở đầu
Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nớc, là sự bảo đảm thay
thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của ngời lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu
nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi
lao động hoặc chết trên cơ sở đóng và đợc thụ hởng. Chính vì đây là một chính sách
mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, đảm bảo an sinh xã hội nên Đảng và Nhà nớc ta
đã hết sức quan tâm thực hiện ngay từ những ngày đầu thành lập. Sau khi hoà bình
đợc lập lại ở miền Bắc, thực hiện Hiến pháp năm 1959, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 quy định Điều lệ tạm thời về các chế độ
BHXH. Hơn mấy chục năm qua, các chế độ, chính sách về Bảo hiểm xã hội đã thực
sự là nguồn cổ vũ, động viên đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức và lực lợng vũ
trang yên tâm phấn khởi lao động sản xuất, dũng cảm chiến đấu góp phần xây dựng
Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất n-
ớc.Tuy nhiên, cùng với sự phát triển đi lên của đất nớc, bớc vào thời kỳ đổi mới
kinh tế - xã hội, các chế độ, chính sách, phơng thức quản lý về BHXH theo các quy
định trớc đó đã trở nên bất cập, bộc lộ nhiều điểm không còn phù hợp với tiến trình
đổi mới theo đờng lối và các Nghị quyết của Đảng. Quỹ BHXH ngày càng mất cân
đối nghiêm trọng, số thu quá ít so với tổng số phải chi, vì vậy chi trả các chế độ
BHXH đã trở thành gánh nặng cho Ngân sách Nhà nớc; Đối tợng tham gia BHXH
còn bó hẹp trong lực lợng cán bộ công nhân viên chức Nhà nớc và lực lợng vũ
trang, cha đợc mở rộng đến ngời lao động ở các thành phần kinh tế khác, cha tạo đ-
ợc sự công bằng xã hội và làm giảm tính u việt của Chủ nghĩa xã hội đối với ngời
lao động.
Để khắc phục những bất cập ấy, tất yếu phải đổi mới các chế độ, chính sách,
phơng thức quản lý BHXH cho phù hợp với sự đổi mới nền kinh tế - xã hội. Thực
hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII cùng với việc cải cách chế độ tiền lơng,
các chế độ chính sách về BHXH cũng đợc cải cách một bớc cơ bản. Sau ngày Bộ luật
lao động có hiệu lực thi hành, Chính phủ đã có Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995
Nguyễn Ngọc Hải Sơn Bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh
1
Bài tiểu luận Lớp bồi d ỡng Quản lý nhà n ớc ngạch chuyên viên khoá 27
và số 45/CP ngày 15/7/1995 ban hành Điều lệ BHXH áp dụng đối với cán bộ, công
chức, viên chức Nhà nớc, ngời lao động ở các thành phần kinh tế và lực lợng vũ
trang. Đồng thời cũng đã ban hành Nghị định số 19/CP ngày 16/2/1995 thành lập
BHXH Việt nam để giúp Thủ tớng Chính phủ chỉ đạo công tác quản lý Quỹ BHXH
và thực hiện các chế độ BHXH theo quy định của Pháp luật. BHXH Việt nam đợc
hình thành theo một hệ thống dọc từ trung ơng đến tỉnh, Thành phố và quận, huyện,
bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 01/10/1995 trên phạm vi cả nớc.
Kể từ đó đến nay, ngành Bảo hiểm xã hội không ngừng xây dựng, phát triển và
trờng thành về mặt tổ chức cán bộ, các chế độ chính sách về Bảo hiểm xã hội ngày
càng đợc xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để đáp ứng kịp thời với xu thế phát
triển của thời đại.
. Xuất phát từ điều kiện thực tiễn Quốc Hội nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Vịêt nam đã ban hành Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm
2006 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2007; riêng đối với bảo hiểm
xã hội tự nguyện thì có hiệụ lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2008, đối với Bảo
hiểm thất nghiệp có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. Gần đây, Quốc
Hội đã ban hành Luật bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12 ngày 14 tháng 11 năm 2008
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2009.
Trong những năm qua, ngành Bảo hiểm xã hội đã đạt đợc nhiều thành tựu
quan trọng góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho cán bộ, công chức, quân nhân và
ngời lao động, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng
đất nớc, bảo vệ Tổ quốc. Hoạt động hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam từng bớc đ-
ợc củng cố, hoàn thiện và không ngừng phát triển. Công tác thu, chi, quản lý Quỹ
Bảo hiểm xã hội và giải quyết chế độ chính sách BHXH cho các đối tợng theo Luật
định đã đi vào nề nếp tạo điều kiện thuận lợi cho những ngời tham gia và hởng các
chế độ Bảo hiểm xã hội.
Đặc biệt, việc thực hiện cải cách hành chính theo qui trình giao dịch một cửa,
chuyển đối tác phong làm việc hành chính sang tác phong phục vụ thực sự đã đem lại
Nguyễn Ngọc Hải Sơn Bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh
2
Bài tiểu luận Lớp bồi d ỡng Quản lý nhà n ớc ngạch chuyên viên khoá 27
những chuyển biến tích cực trong việc giải quyết các chế độ BHXH cho ngời lao
động. Hệ thống BHXH đi vào hoạt động theo một thể thống nhất , các chế độ BHXH
đến với ngời lao động tham gia và thụ hởng thuận lợi hơn rất nhiều. Các chế độ đợc
giải quyết nhanh hơn, kịp thời hơn giúp cho các chủ sử dụng lao động và ngời lao
động an tâm đầu t lao động sản xuất.
Tuy nhiên, trên thực tế trong quá trình thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội
vẫn còn nhiều tồn tại và bất cập. Trong đó, vấn đề quan trọng là chế độ Bảo hiểm xã
hội của ngời lao động cha đợc giải quyết thoả đáng dẫn đến khiếu nại, đòi hỏi trách
nhiệm của cơ quan Bảo hiểm xã hội phải xem xét giải quyết.
Qua thời gian học lớp Quản lý Nhà nớc ngạch chuyên viên khoá 27 tại Trờng
Chính trị Trần Phú Hà Tĩnh nhằm để áp dụng kiến thức Quản lý nhà nớc vào thực
tiễn công việc hàng ngày và nâng cao kỹ năng viết của bản thân nên tôi mạnh dạn
chọn đề tài về thực hiện công tác Bảo hiểm xã hội với đề tài: Chế độ BHXH của
ngời lao động giải quyết cha thoả đáng, trách nhiệm thuộc về ai?
Trong khuôn khổ tiểu luận, kiến thức và kỹ năng trình bày của bản thân có hạn
nên không tránh khỏi thiếu sót. Hy vọng qua tình huống phát sinh trong thực tế sẽ
giải đáp và trả lời đợc một số thắc mắc còn vớng phải trong việc thực hiện các chế độ
chính sách về BHXH và quan điểm nhân văn về an sinh xã hội mà Đảng và Nhà nớc
đang ngày một hoàn thiện sữa đổi góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu nớc mạnh
xã hội công bằng dân chủ văn minh .
Kính mong đợc sự giúp đỡ, hớng dẫn của các Thầy giáo, cô giáo Trờng Chính
trị Trần Phú Hà Tĩnh góp ý kiến bổ sung để tôi có thể hoàn thiện, nâng cao kiến thức
của mình phục vụ thiết thực cho công việc chuyên môn.
Phần I: Mô tả tình huống:
Một sáng mùa hè oi ả, vừa mở cửa phòng làm việc ở bộ phận giao dịch một
cửa Bảo hiểm xã hội huyện Cẩm xuyên, tôi nhìn thấy một ngời đàn ông dáng vẻ mệt
nhọc bớc vào. Trên tay ông là quyển sổ Bảo hiểm xã hội và một số giấy tờ khác, g-
ơng mặt rất buồn, trán lấm tấm mồ hôi. Tôi liền bớc lại gần để hỏi ông cần giải quyết
Nguyễn Ngọc Hải Sơn Bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh
3
Bài tiểu luận Lớp bồi d ỡng Quản lý nhà n ớc ngạch chuyên viên khoá 27
việc gì. Từng lời chậm rãi, nghẹn ngào pha lẫn những giọt nớc mắt ông kể lại toàn bộ
sự việc liên quan đến việc giải quyết chế độ BHXH cho con trai ông.
Ông tên là Nguyễn Văn Tuân trú quán tại Thôn 2, xã C, huyện Cẩm xuyên,
Tỉnh Hà Tĩnh có con trai tên là Nguyễn Văn Thành sinh ngày 20/7 1982 là công
nhân Công ty M.
Công nhân Nguyễn Văn Thành có thời gian tham gia BHXH nh sau:
Từ tháng 01/2005 đến tháng 12/2006 hệ số lơng: 1,67 + 0,4 phụ cấp khu vực;
Từ tháng 01/2007 đến tháng 3/2008 hệ số lơng: 1,67 (Từ tháng 1/2007 BHXH không
đóng phụ cấp khu vực)
Theo lời kể của ông Tuân thì tháng 4/2008 anh Nguyễn Văn Thành cha thực
sự nghỉ việc tại Công ty M, đến sáng ngày 27/4/2008 (ngày chủ nhật) trên đờng lên
Công ty để sáng thứ 2 làm việc thì anh đã bị tai nạn giao thông và chết vào lúc 7 h
sáng 27/4/2008. Gia đình đã gọi điện báo cho Công ty M và Công ty đã hỗ trợ cho
gia đình một phần tiền để gia đình lo mai táng cho anh Nguyễn Văn Thành.
Đến tháng 7/2009 vừa qua, gia đình nhận đợc thông báo của Công ty M lên
trực tiếp công ty để làm thủ tục giải quyết chế độ cho anh Thành. Ông Tuân một
mình lặn lội gần 100 km lên tận Công ty con trai làm việc thì đợc cán bộ phòng tổ
chức đa ra một bản quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với anh Nguyễn Văn
Thành của Công ty M từ ngày 02/4/2008 và hớng dẫn làm đơn đề nghị hởng trợ cấp
một lần mẫu 14-HSB. Do không hiểu biết về chính sách BHXH nên ông quay về
làm đơn xin xác nhận của chính quyền địa phơng và ông đã thay mặt con trai ký tên
vào mục ngời làm đơn. Sau đó, ông Tuân lại trở lại Công ty M để nộp đơn. Vừa qua,
tháng 8/2009 gia đình ông Tuân nhận đợc thông báo của Công ty M mời gia đình lên
nhận lại các thủ tục hồ sơ trong đó có sổ BHXH, quyết định hởng trợ cấp một lần,
bản quá trình tham gia BHXH và hớng dẫn gia đình trực tiếp cơ quan Bảo hiểm xã
hội huyện Cẩm xuyên để nhận tiền trợ cấp một lần của anh Nguyễn Văn Thành. Ông
Tuân hỏi rằng: Tại sao con ông chết lại không đợc hởng mai táng phí? Ông đề nghị
cơ quan Bảo hiểm xã hội không giải quyết việc nhận trợ cấp một lần của anh Thành
Nguyễn Ngọc Hải Sơn Bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh
4
Bài tiểu luận Lớp bồi d ỡng Quản lý nhà n ớc ngạch chuyên viên khoá 27
mà làm đơn đề nghị giải quyết cho gia đình họ đợc nhận chế độ tử tuất của anh
Thành.
Phần thứ II: Cơ sở lý luận của tình huống:
1/ Lý luận chung:
Bản chất của Nhà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nớc của
dân, do dân và vì dân. Luật pháp của Nhà nớc Việt nam mang tính xã hội sâu sắc và
mang tính giai cấp - mang ý chí của giai cấp lãnh đạo xã hội là giai cấp công nhân
trên cơ sở liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức; phục vụ cho lợi ích
của mọi ngời dân trong xã hội chứ không phải lợi ích của một giai cấp riêng biệt nào.
Luật pháp của Nhà nớc Việt nam là nhân tố bảo vệ sự ổn định xã hội, thể chế
hoá quyền con ngời, quyền công dân, đảm bảo và tạo điều kiện cho những quyền đó
đợc thực hiện đầy đủ, kịp thời. Mặt khác các thành viên trong xã hội nhờ vào phơng
tiện pháp luật có điều kiện bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình, đấu tranh chống
mọi hiện tợng tiêu cực, xây dựng một xã hội văn minh, công bằng và dân chủ.
Công chức, viên chức nhà nớc là những ngời đại diện cho Nhà nớc quản lý xã
hội bằng pháp luật. Công cụ chính quản lý xã hội của họ là pháp luật và bản thân họ
cũng có nghĩa vụ phải tuân thủ pháp luật, không đợc làm trái với những gì mà pháp
luật qui định. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay có không ít một số cán bộ công chức
Nhà nớc có chức có quyền đã lợi dụng chức quyền để sách nhiễu nhân dân hoặc do
trình độ chuyên môn thấp kém, thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu hiểu biết về chính
sách của Nhà nớc dẫn đến ảnh hởng quyền lợi của ngời dân, thiếu công bằng xã hội,
nhân dân mất lòng tin vào chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nớc.
2. Quan điểm của Đảng:
Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nớc. Nhà nớc tham gia
Bảo hiểm xã hội với t cách là ngời bảo hộ cho ngời lao động. Sự bảo hộ của Nhà nớc
thể hiện ở việc đề ra chính sách Bảo hiểm xã hội tác động và điều tiết các hoạt động
Bảo hiểm xã hội đa bảo hiểm xã hội vào quỹ đạo chung của chính sách kinh tế xã
hội.
Nguyễn Ngọc Hải Sơn Bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh
5
Bài tiểu luận Lớp bồi d ỡng Quản lý nhà n ớc ngạch chuyên viên khoá 27
Tại Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng Sản Việt
Nam, với quan điểm chỉ đạo của Đảng tiếp tục hoàn chỉnh thể chế thị trờng lao động,
bảo đảm hài hoà lợi ích của ngời lao động và ngời sử dụng lao động. Đổi mới hệ
thống bảo hiểm xã hội, đa dạng hoá hình thức bảo hiểm và phù hợp với kinh tế thị tr-
ờng; xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp, thực hiện tốt chế độ bảo hộ lao động, an
toàn lao động và vệ sinh lao động. Để tăng cờng lãnh đạo thực hiện các chế độ bảo
hiểm xã hội theo luật định cần phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng ở các cơ
quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nớc, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc
thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội đối với ngời lao động, trọng tâm là thu nộp bảo
hiểm xã hội, bảo đảm nguyên tắc có tham gia thì mới hởng các chế độ bảo hiểm xã
hội. Đồng thời, chỉ đạo thực hiện tốt công tác giải quyết chế độ chính sách cho ngời
lao động, đảm bảo quyền lợi chính đáng cho ngời tham gia bảo hiểm xã hội. Đây là
vấn đề quan trọng liên quan đến hàng triệu ngời lao động vì vậy cần phải có biện
pháp thực hiện triệt để nhằm bảo đảm chặt chẽ, công bằng, tạo động lực thúc đẩy ng-
ời lao động công tác tốt, tăng năng suất lao động.
Bên cạnh đó, cần tích cực chống các biểu hiện tiêu cực, thất thoát trong công
tác bảo hiểm xã hội. Các cơ quan thanh tra phải kết luận giải quyết dứt điểm những
vi phạm đã đợc phát hiện, đồng thời thờng xuyên kiểm tra , phát hiện và xử lý kịp
thời các hành vi vi phạm các chế độ bảo hiểm xã hội, những trờng hợp nghiêm trọng
phải truy tố trớc pháp luật.
Để các qui định về chế độ bảo hiểm xã hội thực sự đi vào cuộc sống, để mọi
ngời dân hiểu rõ về chế độ bảo hiểm xã hội cần coi trọng công tác tuyên truyền, giáo
dục cán bộ, đảng viên, nhân dân nhận thức đúng về ý nghĩa của bảo hiểm xã hội,
động viên mọi ngời tích cực và chủ động tham gia công tác bảo hiểm xã hội.
3. Văn bản liên quan đến đề tài:
Nh phần lý luận chung đã trình bày , chính sách Bảo hiểm xã hội hiện hành là
sự cải tiến , thừa kế các quy định , các văn bản pháp quy có từ mấy chục năm nay.
Nguyễn Ngọc Hải Sơn Bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh
6
Bài tiểu luận Lớp bồi d ỡng Quản lý nhà n ớc ngạch chuyên viên khoá 27
Vì thế tính Pháp lý của tình huống đợc thế hiện ở các văn bản luật và dới luật, những
văn bản có tính pháp lý liên quan đến tình huống :
- Luật Bảo hiểm xã hội của nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam số
71/2006/QH 11 ngày 29 tháng 6 năm 2006;
- Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006 hớng dẫn một số
điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc;
- Thông t số 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30/01/2007 hớng dẫn một số điều
của Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006.
- Quyết định 815/QĐ-BHXH ngày 6/6/2007 của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã
hội Việt Nam.
Phần thứ III: Phân tích xử lý tình huống:
1/ Phân tích sự đúng, sai của tình huống:
Qua việc nghiên cứu tình huống ta thấy đây là một vấn đề cần nghiên cứu kỹ,
phân tích cụ thể để tìm ra sự đúng, sai trong tình huống này.
Rõ ràng, ông Nguyễn Văn Tuân thắc mắc tại sao con ông chết vào ngày 27
tháng 4 năm 2008 (Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động ngày 02 tháng 4 năm
2008) lại không đợc giải quyết chế độ tử tuát là có cơ sở. Nh vậy, anh Nguyễn Văn
Thành thuộc đối tợng bảo lu thời gian đóng Bảo hiểm xã hội theo qui định tại điều 57
Luật bảo hiểm xã hội số 71/QH ngày 29 tháng 6 năm 2006 và bị chết trong thời gian
bảo lu. Gia đình đã thông báo cho Công ty M và đã đợc Công ty hỗ trợ một phần chi
phí mai táng phí. Nh vậy, mọi sự việc về cái chết của anh Nguyễn Văn Thành, Công
ty M biết rõ. Vậy thì tại sao ngời làm công tác chế độ bảo hiểm xã hội của đơn vị
không hớng dẫn ông Tuân làm thủ tục đề nghị giải quyết chế độ tử tuất cho anh
Thành mà lại hớng dẫn ông Tuân làm thủ tục giải quyết chế độ trợ cấp một lần? Điều
đó, chứng tỏ Công ty M cũng có trách nhiệm với quyền lợi của ngời lao động là đã
đề nghị giải quyết trợ cấp một lần nhng do thiếu hiểu biết về chế độ chính sách bảo
hiểm xã hội dẫn đến việc quyền lợi của ngời lao động cha đợc đảm bảo mà đúng ra là
đợc giải quyết chế độ tử tuất theo qui định tại điều 63, điều 66, điều 67 Luật bảo
Nguyễn Ngọc Hải Sơn Bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh
7