MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về mặt lý luận
Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra những yêu cầu to
lớn về chất lượng nguồn lực con người. Đó là sự phát triển toàn diện về đạo đức, trí
tuệ, thể chất, thẩm mỹ và một cách khái quát nhân cách nói chung của con người
Việt Nam, mà trước hết là của thế hệ trẻ.
Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng
đầu. Đảng đòi hỏi phải " Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục lòng yêu nước,
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn,
lịch sử dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân
và tiền đồ của đất nước " ( Đại Hội Đảng VIII ). Từ đó cho thấy, giáo dục đạo đức
là một trong những điểm chủ yếu, cốt lõi xuyên suốt và giữ vị trí chủ đạo trong toàn
bộ quá trình giáo dục nhân cách, đào tạo con người trong nhà trường ở nước ta, đặc
biệt là trong nhà trường phổ thông, đối với học sinh ở lứa tuổi thiếu niên.
1.2. Về mặt thực tiễn
Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội, những vấn
đề cần được quan tâm đó là giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, cũng như giữ gìn
truyền thống đạo đức, lối sống phong tục tập quán. Nhưng hiện nay, một số bộ phận
thanh thiếu niên lại đang có dấu hiệu sa sút nghiêm trọng về đạo đức, nhu cầu cá
nhân phát triển theo hướng lệch lạc, kém ý thức trong các quan hệ cộng đồng, thiếu
niềm tin trong cuộc sống, ý chí kém phát triển, không có tính tự chủ dễ bị lôi cuốn
vào những việc xấu như: thiếu trung thực trong học tập và thi cử, không lễ phép với
thầy cô, chửi bậy, bạo lực học đường, mua điểm, mua bằng cấp…Thêm vào đó là
sự gia tăng không ngừng của những tệ nạn xã hội đang có xu hướng du nhập vào
nhà trường gây ảnh hưởng lớn tới HS như: ma túy, rượu chè, cờ bạc, cá độ
Tại các trường THPT, tỉ lệ số HS vi phạm đạo đức đang có chiều hướng gia tăng,
tình trạng học sinh kết thành băng nhóm gây nên bạo hành, bạo lực trong trường
học đáng được báo động. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Bộ Công An, thì
1
có tới 55 – 65% số người phạm tội ở nước ta những năm gần đây là thanh, thiếu
niên, trong đó có không ít học sinh, sinh viên. Chỉ tính riêng trong năm 2010, trên
địa bàn cả nước có 13.572 đối tượng phạm tội là thanh thiếu niên, trong đó 1.600 vụ
học sinh đánh nhau, tăng nhiều lần so với những năm trước kể về số lượng phạm tội
lẫn các vụ trọng án.
Các hiện tượng đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng có thể nói nguyên
nhân cơ bản và chủ yếu nhất, đó là việc chúng ta đang ngày càng ít quan tâm tới
công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THPT, thậm chí nhiều gia đình còn có tư
tưởng là phó mặc việc giáo dục đạo đức con em mình cho các trường học. Còn tại
các trường THPT hiện nay, thì dường như việc giáo dục đạo đức, lối sống cho HS
đang đang dần bị coi nhẹ, thậm chí buông lỏng. Một số cán bộ giáo viên chưa thật
sự là tấm gương về đạo đức cho HS, còn xem nhẹ môn GDCD, các hoạt động ngoài
giờ lên lớp, các môn học kỹ năng sống hoặc giá trị sống, không chú ý đến việc giáo
dục tình cảm đạo đức cho chính HS của mình.
Trường THPTDL Đinh Tiên Hoàng, nằm trên địa bàn Thành Phố Hà Nội – Thủ
đô, trung văn hóa, kinh tế, chính trị xã hội của cả nước nên tỷ lệ người vi phạm
pháp luật, các tệ nạn XH ngày càng phổ biến. Do vậy, HS của nhà trường ít nhiều
cũng ảnh hưởng khá lớn từ lối sống nơi đây. Điều đặc biệt mỗi khi nhắc tới ngôi
trường này, là nhắc tới một thế hệ học trò nghịch ngợm, quậy phá, bạo lực có tiếng
trong các trường Dân lập tại Hà Nội. Hơn 20 năm qua, nhà trường đã thu nạp hàng
chục nghìn thanh thiếu niên cá biệt, có năm đầu vào tới hơn 60% HS yếu kém về
học tập văn hóa, chừng 30% có vấn đề về đạo đức. Nhẹ thì là gây gổ, mất trật tự
trong giờ học, lười biếng, cẩu thả, bê tha, trốn học, gian lận trong học tập; nặng thì
là trộm cắp, vô lễ, đánh nhau, uống rượu, đánh bạc, nghiện ma túy…
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn nêu trên, đồng thời qua quá trình tìm hiểu và tiếp
xúc với các em HS trong trường, tôi đã lựa chọn đề tài:“ Biện pháp giáo dục đạo
đức cho học sinh trường THPTDL Đinh Tiên Hoàng – Hà Nội ” làm đề tài
nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp của mình.
2
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trường THPTDL Đinh Tiên
Hoàng – Hà Nội, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo và đáp ứng yêu cầu
phát triển mới của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh THPT.
3.2. Phân tích thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh trường THPTDL Đinh Tiên
Hoàng – Hà Nội.
3.3. Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học
sinh trường THPTDL Đinh Tiên Hoàng – Hà Nội.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trường
THPTDL Đinh Tiên Hoàng– Hà Nội.
4.2. Khách thể nghiên cứu: Quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh trường
THPTDL Đinh Tiên Hoàng– Hà Nội.
5. Giả thuyết khoa học
Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trường THPTDL Đinh Tiên Hoàng đã
được quan tâm nhưng chưa có hệ thống, chưa được tổ chức thực hiện một cách
thường xuyên và đồng bộ. Nếu đề xuất một số biện pháp mang tính khoa học và
thích hợp, sẽ góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh
trường THPTDL Đinh Tiên Hoàng – Hà Nội.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Sưu tầm, nghiên cứu các tài liệu, sách báo, giáo trình, bài giảng có liên quan đến
vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh; Tiến hành phân tích, so sánh, tổng hợp, hệ
thống hóa những vấn đề cơ bản của đề tài làm cơ sở cho nghiên cứu thực tiễn các
biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho HS.
6.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp quan sát :
3
Tiến hành theo dõi, quan sát các hành vi hành động của học sinh thông qua các
hoạt động.
6.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi :
Xây dựng 2 phiếu hỏi cho 3 đối tượng: Cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh
nhằm thu thập những thông tin cần thiết để phục vụ cho việc phân tích và đánh giá
thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh tại nhà trường.
6.2.3. Phương pháp phỏng vấn
Tiến hành phỏng vấn trao đổi với Ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm, một giáo
viên bộ môn, phụ huynh học sinh, học sinh trong nhà trường cùng đại diện các Ban
ngành, các tổ chức đoàn thể tại địa phương, nhằm làm rõ hơn những kết quả thu
được qua phiếu hỏi, đồng thời bổ sung thêm những thông tin cần thiết phục vụ cho
việc nghiên cứu.
6.2.4. Phương pháp chuyên gia
Tiến hành trao đổi, xin ý kiến đóng góp của của các chuyên gia trong lĩnh vực
giáo dục, các giáo viên có kinh nghiệm, các nhà quản lý về những vấn đề có liên
quan đến đề tài như thực trạng, hệ thống tiêu chí, hệ thống biện pháp giáo dục đạo
đức cho học sinh.
6.3. Phương pháp nghiên cứu hỗ trợ
Phương pháp thống kê toán học: được sử dụng để tính toán, so sánh, xử lý, phân
tích số liệu thu được trong quá trình nghiên cứu.
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
7.1. Nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh
trường THPTDL Đinh Tiên Hoàng – Hà Nội.
7.2. Đối tượng khảo sát: Cán bộ, giáo viên và học sinh trường THPTDL Đinh Tiên
Hoàng – Hà Nội.
7.3. Địa điểm khảo sát: Trường THPTDL Đinh Tiên Hoàng – Hà Nội.
7.4. Thời gian nghiên cứu : Từ 29/12/2011 đến tháng 4/2012.
4
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG.
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Đạo đức
“Đạo đức” là một từ Hán Việt, “Đạo” là con đường để theo đó ta đi, cũng có nghĩa
là lẽ phải, là đạo lý theo đó ta hành động. “Đức” là toàn bộ những hành vi đối nhân
xử thế của con người, mà những phẩm chất của hành vi đó tốt hay xấu là do con
người có biết và có thực hiện được đạo lý hay không. Khái niệm đạo đức thường
được dùng với hai ý nghĩa: trong đời sống hằng ngày và trong khoa học.
Đạo đức trong đời sống hằng ngày người ta thường dùng khái niệm đạo đức theo
nghĩa để nhận xét, đánh giá thái độ, hành vi của mọi người trong XH. Ở góc độ
khoa học các nhà đạo đức học phân tích khái niệm đạo đức là một hình thái ý thức
xã hội đặc trưng của xã hội loài người, nó có tính lịch sử xã hội, chi phối bởi
những điều kiện khách quan của kinh tế, xã hội, dân tộc, lịch sử.
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng 2002 thì
“Đạo đức là những nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, qui định hành vi
quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội”, “là phẩm chất tốt đẹp của
con người do tu dưỡng theo những chuẩn mực đạo đức mà có”.
Đối với kết quả nghiên cứu của chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước
do GS.TS. Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm, được trình bày trong tác phẩm “Về sự
phát triển toàn diện của con người thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa” thì “Đạo
đức theo nghĩa hẹp là luân lí, những quy định, những chuẩn mực ứng xử của con
người với con người, với công việc, với bản thân kể cả thiên nhiên và môi trường
sống”.
Như vậy: “ Đạo đức là một hình thái ý thái xã hội, là tổng hợp những quy tắc,
chuẩn mực xã hội nhờ đó mà con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao
cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và với tiến bộ xã hội, trong các
quan hệ giữa con người với con người, con người với cá nhân trong xã hội ” ( Phạm
Khắc Chương và Hà Nhật Thăng – Đạo đức học ( Nhà xuất bản giáo dục Hà Nội –
5
2001 ). Các giá trị đạo đức truyền thống tồn tại và phát triển trong xã hội dưới
những phạm trù:
• Thiện và ác
• Có lương tâm và bất lương
• Có trách nhiệm và tác trách
• Hiếu nghĩa và bất hiếu, bất nghĩa
• Vinh và nhục
• Hạnh phúc và bất hạnh
• Tính ngay thẳng và lòng trung thực
• Tính nguyên tắc và sự kiên tâm
• Tính khiêm tốn và sự lễ độ
• Tính hảo hiệp và sự tế nhị
• Tính tiết kiệm và sự giản dị
• Lòng dũng cảm và phẩm chất anh hùng
Theo quan điểm của Đảng và Nhà Nước ta, thì các giá trị đạo đức hiện nay chính
là sự kết hợp giữa truyền thống tốt đẹp của dân tộc với xu hướng hiện đại của nhân
loại. Đó là tinh thần cần cù, sự lao động sáng tạo, tình yêu quê hương đất nước gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là tinh thần sống và làm việc theo pháp luật, có nếp
sống văn minh, lành mạnh có tinh thần nhân đạo và quốc tế cao.
Đạo đức gắn với các quan hệ XH nhất định và nó luôn bị chi phối bởi 3 yếu tố để
hợp thành nên đặc điểm của con người. Đó là:
o Ý thức đạo đức: Là những nhận thức của con người về các nguyên tắc, các
yêu cầu để dánh giá đạo đức cá nhân, của XH, mối quan hệ của đạo đức với hình
thái ý thức XH khác. Đó là những nhận thức của con người về những chuẩn mực
của tập quán, thói quen, phong tục đạo đức tác động mạnh đến tâm thế, tình cảm,
hành vi, thói quen của con người.
o Hành vi đạo đức: Là một hành động tự giác được thúc đẩy bởi một động cơ
có ý nghĩa về mặt đạo đức. Chúng thường được biểu hiện trong cách đối nhân xử
thế, trong lối sống, trong phong cách, trong lời ăn, tiếng nói…
6
o Đánh giá đạo đức: Đánh giá đạo đức là hoạt động thẩm định các hành vi, các
quan điểm, ứng xử đạo đức phù hợp với các thước đo, các chuẩn mực, các quy
phạm về mặt XH. Đánh giá đạo đức cần xem mặt khách quan và chủ quan của hành
vi đạo đức. Khách quan là xem hành vi đạo đức có phù hợp với chuẩn mực XH
không. Chủ quan là xem xét các động cơ của hành vi đạo đức có mang tính vụ lợi
hay ích kỷ không.
Một hành vi đạo đức chỉ có giá trị đạo đức về bản chất có sự thống nhất giũa các
lợi ích chung mang tính XH cao với sự tự nguyện, tự giác, vô tư của hành vi.
1.1.2. Giáo dục
- GD ( theo nghĩa rộng ) là quá trình tác động có mục đích có tổ chức, có kế hoạch
có nội dung và bằng phương pháp khoa học của nhà GD tới người được GD trong
cơ quan GD, nhằm hình thành nhân cách cho họ.
- GD ( theo nghĩa hẹp ) là quá trình hình thành cho người được GD lý tưởng, động
cơ, tình cảm, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách, những hành vi thói quen
cư xử đúng đắn trong XH thông qua việc tổ chức cho họ các hoạt động và giao lưu.
1.1.3. Giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức là hoạt động của nhà GD dựa theo yêu cầu của XH, tác động có
hệ thống lên người được GD một cách có mục đích và có kế hoạch để bồi dưỡng
những phẩm chất những tư tưởng mà nhà GD kỳ vọng, chuyển hóa những quan
điểm những yêu cầu và ý thức XH có liên quan thành phẩm chất đạo đức và tư
tưởng của mỗi cá nhân.
GDĐĐ trước hết phải là một quá trình, quá trình này không nóng vội mà nó diễn
ra trong suốt quá trình hình thành và phát triển nhân cách của một con người. Qúa
trình này đồng thời tác động cả 3 mặt:
• Hình thành nhận thức về lý tưởng, cuộc sống, chuẩn mực đạo đức của XH.
• Hình thành thái độ, xúc cảm, tình cảm, niềm tin đạo đức.
• Hình thành hành vi, thói quen đạo đức.
* Một số nguyên tắc GDĐĐ:
7
- GDĐĐ cần phải có sự kế thừa và phát huy những truyền thống đạo đức tốt đẹp của
dân tộc, kết hợp tiếp thu những chuẩn mực đạo đức và kinh nghiệm thời đại một
cách có chọn lọc.
- Trong quá trình GDĐĐ phải coi trọng và kết hợp chuẩn mực đạo đức với GD pháp
luật. Người công dân có đạo đức và tuân thủ theo pháp luật luôn đòi hỏi có sự thống
nhất hành vi đạo đức được điều chỉnh bằng lương tâm, dư luận xã hội bằng truyền
thống. Còn hành vi pháp luật được điều tiết bằng cơ chế quản lý và giám sát của các
cơ quan chức năng: công an, tòa án, tư pháp…
- GDĐĐ là công việc của toàn xã hội, tuy nhiên GD ở nhà trường vẫn được xem là
quan trọng nhất, giữ vai trò hàng đầu. GD tại gia đình phải được làm thường xuyên
và kết hợp chặt chẽ với 3 môi trường GD là quy luật tất yếu của GDĐĐ trong các
nhà trường.
- GDĐĐ cần thông qua các loại hình hoạt động đa dạng của cuộc sống XH. Chỉ
thông qua các hoạt động giao lưu giữa con người với con người trong môi trường
XH và tự nhiên thì mới tạo ra cảm xúc, tình cảm, hành vi đạo đức lành mạnh.
* Mục tiêu GDĐĐ trong nhà trường:
- Trang bị cho HS những kiến thức về chính trị, tư tưởng đạo đức, nhân văn, kiến
thức pháp luật, văn hóa xã hội.
- Hình thành ở mỗi HS có thái độ đúng đắn, tình cảm, niềm tin đạo đức trong sáng
đối với bản thân, với mọi người, với sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà Nước.
- Rèn luyện để mỗi HS tự giác tuân theo những chuẩn mực đạo đức XH, có thói
quen chấp hành những quy định của pháp luật, nỗ lực học tập, rèn luyện tích cực,
cống hiến hết sức lực, trí tuệ của bản thân cho dân cho đất nước.
1.1.4. Biện pháp giáo dục đạo đức
“ Biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành một vấn đề cụ thể nào đó ”.( Từ điển
Tiếng Việt – Nhà xuất bản KHXH Hà Nội - 1997 ).
Biện pháp giáo dục: bao gồm một số hành động của nhà GD và người được giáo
dục, các hành động này thống nhất với nhau nhằm thực hiện mục đích chung là hình
thành những phẩm chất nhân cách của người được GD ( Giáo dục học tập 2, Trần
Thị Tuyết Oanh chủ biên – Nhà xuất bản Đại Học Sư Phạm ).
8
Biện pháp giáo dục đạo đức: là cách thức tác động có mục đích được tổ chức một
cách có kế hoạch, được lựa chọn về nội dung, phương pháp, phương tiện phù hợp
của nhà GD nhằm hình thành và phát triển ý thức, tình cảm, niềm tin, hành vi và
thói quen đạo đức cho đối tượng GD.
Trong quá trình giáo dục đạo đức, nhà GD cần phải linh hoạt, sáng tạo tìm kiếm
những biện pháp GD thật sự phù hợp với từng nội dung, với từng đối tượng, từng
tình huống GD một cách cụ thể, nhằm thúc đẩy người được GD có được ý thức sâu
sắc, đầy đủ về các chuẩn mực hành vi, có tình cảm tốt đẹp với nó và tự giác chuyển
hóa những chuẩn mực hành vi đạo đức đó thành hành vi và thói quen hành vi đạo
đức của chính bản thân mình.
1.2 . Một số vấn đề chung về giáo dục đạo đức cho học sinh.
1.2.1. Ý nghĩa của việc giáo dục đạo đức cho học sinh
Trong công cuộc xây đựng và đổi mới đất nước, GDĐĐ cũng là một trong những
vấn đề quan trọng, là trọng tâm hàng đầu trong sự nghiệp GD & ĐT đất nước, cũng
như đối với toàn XH.
- GD đạo đức có vai trò thúc đẩy sự ổn định lâu dài của XH. XH ổn định chính là
tiền đề, là cơ sở để phát triển, chính là đảm bảo cho sự ổn định lâu dài của XH. Lý
tưởng, niềm tin, đạo đức được hình thành qua công tác ở trong và ngoài nhà trường.
- GD đạo đức có vị trí hàng đầu và chủ đạo trong GD nhà trường, GDĐĐ với tư
tưởng định hướng rõ ràng có vai trò định hướng cho các nội dung GD khác. Nhà
trường thông qua việc thực hiện công tác GD có thể nâng cao hiệu quả GD, thúc
đẩy hoàn thành các nhiệm vụ GD khác.
- Đối với sự phát triển của thanh thiếu niên, GD đạo đức giúp thế hệ trẻ hình thành
hệ thống lập trường chính trị, quan điểm, thế giới quan Macxit và phẩm chất đạo
đức phù hợp với chuẩn mực đạo đức của XH. Trước xu thế hội nhập của thế giới
hiện đại, GDĐĐ trong nhà trường giữ vai trò quan trọng trong định hướng cuộc
sống và lựa chọn giá trị của thế hệ trẻ.
1.2.2. Nhiệm vụ của giáo dục đạo đức.
GDĐĐ cho HS bao gồm các nhiệm vụ chính sau:
• Giáo dục ý thức đạo đức
9
- GD trước hết là qúa trình tác động vào mặt nhận thức, làm cho mỗi con
người trước hết có ý thức về mục đích, ý nghĩa và giá trị cuộc sống, hiểu được chân
lý lẽ phải, tính nhân văn nhân đạo trong các mối quan hệ XH, từ đó hình thành thế
giới quan lý tưởng sống.
- Nhận thức đúng về các mối quan hệ XH luôn là kim chỉ nam cho mọi hoạt
động của con người, là cơ sở để hình thành thái độ và hành vi văn minh. Ngược lại
nếu nhận thức sai lệch là nguyên nhân của những hành động sai lầm, trong nhiều
trường hợp do thiếu hiểu biết HS có thể làm những việc làm trái với đạo lý, những
nội quy, quy định của nhà trường. Do đó, GD ý thức đạo đức luôn là khâu quan
trọng nhất của quá trình hình thành và phát triển nhân cách cho HS.
- Đối với học sinh THPT. GD ý thức đạo đức là nhiệm vụ quan trọng, quá
trình này được thực hiện thông qua quá trình học tập và sinh hoạt tập thể. Những
khái niệm về đạo đức, về quyền lợi và nghĩa vụ, về những quy tắc chuẩn mực,
những giá trị văn hóa sẽ được hình thành ở HS. Có nhận thức đúng thì HS mới có
cơ sở phấn đấu trở thành người công dân có ích cho XH.
• Giáo dục thái độ, niềm tin đạo đức
- Qúa trình GDĐĐ ngoài việc làm cho HS nhận thức đúng còn phải hình thành
cho HS thái độ niềm tin vào những điều đã nhận thức được, vào chính tương lai
cuộc sống của bản thân. Thái độ niềm tin chính là biểu hiện cụ thể của lý tưởng
sống, của sự tôn trọng giá trị đạo đức và văn minh XH của mỗi cá nhân.
- Trong sự chuyển hóa nhận thức hành vi thì thái độ, niềm tin có ý nghĩa vô
cùng quan trọng. Thái độ, niềm tin là kết quả của GDĐĐ nhưng nó lại có giá trị
hướng dẫn con người hành động. Thái độ, niềm tin là nghị lực là sức mạnh tinh thần
để biến những điều đã nhận thức được thành phẩm chất nhân cách, đó chính là tự
GD.
- Nhận thức đúng nhưng không có niềm tin thì hành động con người sẽ trở nên
vô cảm, khô khan và cứng nhắc.
- Đối với HSTHPT thì việc bồi dưỡng thái độ, niềm tin cho HS là nhiệm vụ
quan trọng, bởi nếu nếu GD cho HS có thái độ đúng đắn trong học tập và rèn luyện,
10
thì HS sẽ có niềm tin vào chân lý, lẽ phải, biết yêu mến kính trọng thầy cô giáo, cha
mẹ, yêu mến bạn bè, yêu quê hương đất nước…
• Giáo dục hành vi, thói quen
- Mục đích cuối cùng của quá trình GDĐĐ là tạo lập cho con người những
hành vi, thói quen có văn hóa và chúng phải được thể hiện trong cuộc sống hằng
ngày. Con người được GD cũng đồng nghĩa con người đã hình thành thói quen có
văn hóa.
- Hành vi, thói quen văn hóa chính là kết quả của nhận thức đồng thời là biểu
hiện cụ thể sinh động nhất của thái độ và niềm tin của con người. Hành vi, thói
quen được hình thành trong hoạt động trong tình huống cụ thể, đó là sản phẩm của
quá trình học tập, tu dưỡng và luyện tập lâu dài. Hành vi có văn hóa khi đã trở
thành thói quen sẽ làm một hệ thống vững chắc, sẽ tự động hóa thể hiện trong cách
ứng xử ở mọi tình huống của cuộc sống hàng ngày.
- Đối với HSTHPT để GD hành vi, thói quen đạo đức cần tổ chức các hoạt
động tập thể và hoạt động vui chơi ngoại khóa cho HS, qua đó quá trình GDĐĐ sẽ
mang tính hiệu quả cao hơn.
1.2.3. Nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh
Các nội dung GDĐĐ cho học sinh bao gồm:
- GD lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- GD chủ nghĩa yêu nước.
- GD lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản.
- GD chủ nghĩa tập thể.
- GD lòng nhiệt tình, hăng say lao động, có ý thức bảo vệ tài sản XHCN.
- GD dân chủ và pháp chế XHCN.
- GD hành vi văn minh trong XH, GD ý thức công dân và các nội dung giáo dục
đạo đức mới XHCN.
Nội dung chủ yếu của GDĐĐ phải phù hợp với yêu cầu của công cuộc xây dựng
và phát triển đất nước, thực hiện theo ý nguyện của Đảng đó là: Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
11
1.2.4. Các bước quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh
Bước 1: Quá trình tác động nâng cao nhận thức về tư tưởng, chính trị đạo
đức làm cơ sở cho sự hình thành, phát triển và thể hiện các hành vi đạo đức.
Bước 2: Bồi dưỡng những tình cảm trong sáng, đúng đắn, phù hợp với các
quan niệm, chuẩn mực đạo đức, quan hệ, ứng xử của XH.
Bước 3: Rèn luyện hành vi, thói quen đạo đức.
1.2.5. Các con đường giáo dục đạo đức cho học sinh
* Con đường thứ nhất: Giáo dục thông qua dạy học. Dạy học là con đường quan
trọng nhất trong tất cả các con đường giáo dục. Vì vậy GDĐĐ thông qua dạy học
tất cả các môn học đặc biệt ở các môn: GDCD, Văn, Sử, Địa, Kỹ năng sống, Giá trị
sống…sẽ GD cho HS khả năng tự học, giáo viên chủ động nắm bắt từng đối tượng
HS, cải tiến hay thay thế từng PPGD truyền thống hướng đến sự tự chiếm lĩnh kiến
thức của HS, như vậy đã hình thành cho HS nhân cách tự chủ về trí tuệ và đạo đức.
* Con đường thứ hai: Giáo dục thông qua các tổ chức hoạt động phong phú và đa
dạng: Toàn bộ cuộc sống của con người là một hệ thống liên tục hoạt động. Vì thế,
đưa con người vào các hoạt động thực tế phong phú và đa dạng là con đường giáo
dục tốt. Con người có nhiều dạng hoạt động như: vui chơi, lao động sản xuất, hoạt
động XH…mỗi dạng hoạt động có những nét đặc thù và đều có tác dụng giáo dục.
* Con đường thứ ba: Giáo dục thông qua sinh hoạt tập thể: Tổ chức cho HS sinh
hoạt tập thể là hoạt động GD quan trọng của nhà trường. Trong cuộc sống tập thể
các cá nhân cùng nhau hoạt động, tinh thần đoàn kết, tinh thần thân ái được hình
thành, đó là những phẩm chất quan trọng của nhân cách. Trong sinh hoạt tập thể,
một mặt các cá nhân tác động lẫn nhau, mặt khác là sự tác động của các nhà sư
phạm qua tập thể, tạo thành tác động tổng hợp có tác dụng GD rất lớn.
* Con đường thứ tư: Tự tu dưỡng: là kết quả của quá trình GD, là sản phẩm của
nhận thức và sự tạo lập những thói quen hành vi. GD bắt đầu từ việc xây dựng
những mục tiêu lý tưởng cho tương lai, tiếp đó là tìm những biện pháp và quyết tâm
thực hiện mục tiêu đã xác định, thường xuyên tự kiểm tra các kết quả và các
phương thức thực hiện, để tiếp tục hoàn thiện bản thân.
12
1.2.6. Phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh
Phương pháp GDĐĐ là cách thức hoạt động chung giữa giáo viên, tập thể học
sinh và từng học sinh nhằm giúp HS lĩnh hội được nền văn hóa đạo đức của loài
người và dân tộc. Trong GD nói chung và GDĐĐ nói riêng, thường dùng các nhóm
PP sau:
a. Nhóm phương pháp hình thành ý thức cá nhân.
Nhóm PP này bao gồm các PP sau:
- Đàm thoại: Là PP trò chuyện chủ yếu giữa nhà GD và người được GD về các
chủ đề đạo đức, thẩm mỹ dựa trên một hệ thống câu hỏi nhất định.
- Giảng giải: Là PP dùng lời nói trình bày, giải thích, chứng minh các chuẩn
mực XH nhằm giúp người được GD hiểu và nắm được ý nghĩa, nội dung,
quy tắc thực hiện những chuẩn mực này.
- Nêu gương: Là PP dùng những tấm gương cụ thể sống động, để kích hoạt
người được GD bắt chước hoặc né tránh.
b. Nhóm phương pháp tổ chức hoạt động và hình thành kinh nghiệm ứng xử
XH
Nhóm PP này bao gồm các PP:
- PP đòi hỏi sư phạm: Là PPGD trong đó nhà GD nêu lên những yêu cầu, đòi
hỏi với tập thể, cá nhân HS. Tổ chức, giám sát việc thực hiện các yêu cầu đó
ở HS nhằm đạt được các mục tiêu GD đã đề ra.
- Luyện tập: Là PP tổ chức cho người được GD lặp đi lặp lại một cách có
thường xuyên, có hệ thống các thao tác, các sinh hoạt và hành động nhất
định nhằm biến chúng thành kỹ năng, kỹ xảo, thói quen cần thiết.
- Rèn luyện: Là PP tổ chức các hoạt động về cuộc sống cho người được GD
tạo cho người được GD có điều kiện ứng xử phù hợp với chuẩn mực XH và
các kỹ năng tổ chức các hoạt động của mình.
c. Nhóm phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi ứng xử XH
của người được GD
Nhóm PP này bao gồm các PP:
13
- Khen thưởng: Là PP giáo dục trong đó giáo viên biểu đạt sự đông tình, hài
lòng…biểu thị sự đánh giá tích cực với hành vi ứng xử của HS phù hợp
chuẩn mực XH.
- Trách phạt: Là cách thức tác động vào nhân cách HS bằng cách biểu thị sự
đồng tình hoặc không đồng tình, phê phán và lên án những hành động, hành
vi trái chuẩn mực đạo đức của XH hoặc đi lệch khỏi những quy tắc tập thể.
1.2.7. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc giáo dục đạo đức cho học sinh
Những yếu tố từ phía gia đình
Gia đình là cội nguồn hình thành nhân cách HS “nề nếp gia phong”, “truyền
thống gia đình” là những điều rất quan trọng mà người xưa đã từng nói về giáo dục
gia đình. Trong gia đình ông bà, cha mẹ, anh chị chính là tấm gương sáng để con trẻ
noi theo. Về nội dung GDĐĐ trong gia đình, chủ yếu hướng vào GDĐĐ hành vi, kỹ
năng lao động, giáo dục thể chất thẩm mỹ cho các em. Một gia đình đầm ấm hạnh
phúc sẽ là yếu tố quyết định nâng cao hiệu quả GDĐĐ học sinh, là điều kiện tốt để
hình thành nhân cách hoàn thiện ở các em.
Những yếu tố từ phía nhà trường
Nhà trường với cả một hệ thống GD, được tổ chức quản lý chặt chẽ là yếu tố
quan trọng nhất trong việc GDĐĐ cho HS. Với định hướng mục tiêu GDĐĐ theo
những chuẩn giá trị tiến bộ, đúng đắn theo định hướng CNXH, với hệ thống chương
trình khoa học, các tài liệu sách giáo khoa, sách tham khảo phong phú, các phương
tiện hỗ trợ GD ngày càng hiện đại và đặc biệt cùng với một đội ngũ giáo viên được
đào tạo cơ bản có đủ phẩm chất và năng lực tổ chức hoạt động lớp, sẽ là yếu tố có
tính quyết định hoạt động GDĐĐ cho HS.
Những yếu tố từ phía xã hội
Môi trường GD rộng lớn đó là cộng đồng cư trú của HS từ xóm giềng, khối phố
đến các tổ chức xã hội…đều ảnh hưởng rất lớn đến việc GDĐĐ cho HS. Tuy nhiên
hiện nay, tác động của cơ chế thị trường, các văn hóa phẩm đồ trụy, các trò chơi
Game từ Internet, các phần tử xấu luôn tìm cách lôi kéo các em. Đồng thời các em
14
lại có hiện tượng xem nhẹ lời khuyên của cha mẹ, thầy cô dẫn đến những biểu hiện
lệch lạc về chuẩn mực đạo đức và lối sống. Vì vậy xây dựng một môi trường xã hội
trong sạch lành mạnh, một xã hội tốt đẹp văn minh chính là điều kiện thuận lợi nhất
để GDĐĐ và hình thành nhân cách HS.
1.3. Mục tiêu giáo dục THPT và những định hướng giáo dục đạo đức cho học
sinh THPT hiện nay.
1.3.1. Đặc điểm của xã hội hiện đại
Cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn
ra trên toàn thế giới. Đó là sự chuyển biến từ thời kì công nghiệp sang thời kì phát
triển của công nghệ thông tin và nền kinh tế trí thức, làm tác động lên tất cả các mặt
của đời sống xã hội. Đặc điểm của xã hội hiện đại ngày nay, bao gồm 3 mặt tác
động chủ yếu là: cuộc cách mạng khoa học công nghệ, xu thế toàn cầu hóa và sự
phát triển về nền kinh tế trí thức.
• Cuộc cách mạng khoa học công nghệ:
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ trong nửa cuối thế kỷ XX phát triển tăng tốc
và vượt bậc hơn so với nhiều thế kỷ trước. Đó là sự tăng tốc của một loạt các ngành
công nghệ cao như: công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ thông tin, nó
đã làm ảnh hưởng rộng rãi tới từng cá nhân, các tổ chức và quốc gia trên thế giới.
GD đào tạo cung cấp nguồn nhân lực, nhân tài cho sự phát triển của khoa học và
công nghệ, đồng thời sự phát triển của khoa học công nghệ lại tác động vào toàn bộ
cơ cấu hệ thống giáo dục, làm thay đổi cơ cấu nguồn nhân lực lao động trong XH,
phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế XH.
• Xu thế toàn cầu hóa
Đặc trưng cơ bản của xu thế toàn cầu hóa hiện nay là sự phát triển cải tiến không
ngừng của công nghệ thông tin, kinh tế thị trường, sự gia tăng nhu cầu mở rộng thị
trường và xuất khẩu tư bản, sự xuất hiện các công ty đa quốc gia, các tổ chức
thương mại kinh tế quốc tế, sự hình thành hệ thống tài chính và tiền tệ thế giới với
khối lượng trao đổi lớn. Như vậy, không có toàn cầu hóa kinh tế một cách thuần
nhất mà toàn cầu hóa còn là quá trình được mở rộng tới mọi lĩnh vực khác của đời
15
sống XH, trong đó có văn hóa. Đó là quá trình giao lưu, hội nhập, đấu tranh một
cách tự nhiên giữa các nền văn hóa. Vì vậy, GD cần đào tạo những con người biết
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đồng thời biết tiếp thu, kết hợp những tinh hoa văn
hóa nhân loại, đó là điều kiện cần và đủ để tiếp cận với xu thế toàn cầu hóa trong
giai đoạn hiện nay.
• Phát triển nền kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức là nền kinh tế, trong đó tri thức đóng vai trò quan trọng đối với sự
phát triển về kinh tế – xã hội loài người. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức:
- Tri thức trở thành yếu tố chủ yếu nhất của nền kinh tế, là nguồn lực hàng đầu tạo
ra sự tăng trưởng, quan trọng hơn cả vốn tài nguyên và đất đai.
- Cơ cấu các ngành kinh tế chuyển đổi ngày càng nhanh theo hướng tăng nhanh giá
trị gia tăng.
- Tốc độ đổi mới nhanh, sản xuất công nghệ trở thành ngành sản xuất đặc biệt quan
trọng.
- Công nghệ thông tin và viễn thông được ứng dụng rộng rãi và ngày càng sâu trong
mọi lĩnh vực đời sống kinh tế – xã hội.
- Đặc tính, cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri thức thay đổi
căn bản.
1.3.2. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh trung học phổ thông
a. Đặc điểm chung về tâm sinh lý lứa tuổi THPT
Ở Việt Nam quy định độ tuổi vị thành niên là từ 10 đến 18 tuổi. Như vậy HSTHPT
là lứa tuổi vị thành niên, giai đoạn này các em phát triển mạnh về thể chất, nhận
thức, sinh lý và các cảm xúc xã hội. Đây là thời kỳ, các em thường có xu hướng
muốn được khẳng định chính mình. Trong lứa tuổi này các em muốn tìm tòi, khám
phá về những điều chưa biết trong cuộc sống, luôn nhiệt tình hăng hái, năng nổ
trước những thử thách những chân lý mới, không muốn chịu sự ràng buộc của gia
đình, bố mẹ, người lớn.
16
Đối với HS lứa tuổi này thì nhu cầu được giao tiếp với bạn bè cùng trang lứa là
một trong những nhu cầu cần thiết và quan trọng. Các em thường có xu hướng tụ
tập thành từng nhóm bạn, có cùng chung sở thích, tính tình giống nhau để cùng vui
chơi và học tập. Trong giai đoạn này, quá trình phát triển tâm sinh lý sẽ ảnh hưởng
đến tính cách của các em, đó là sự dễ xúc động khi có một tác động nào đó, bản
thân các em cũng dễ bị lôi kéo, lòng kiên trì và khả năng tự kiềm chế còn kém.
Nhận thức về cuộc sống ở các em có phần đơn giản, luôn tự tin cho rằng việc gì
cũng đơn giản và sẽ dễ dàng vượt qua. Một số em tự tin quá cao vào bản thân do đó
dẫn đến những hành động thiếu suy nghĩ, thậm chí nhiều lúc vi phạm chuẩn mực về
đạo đức mà không hề hay biết. Chính vì vậy các bậc phụ huynh các thầy cô giáo,
các tổ chức xã hội cần phải có trách nhiệm quan tâm sát sao, động viên kịp thời
nhằm hướng các em có những suy nghĩ và hành động đúng đắn hơn.
b. Đặc điểm về đạo đức của học sinh trung học phổ thông hiện nay
Trong những năm gần đây, khi xu thế toàn cầu hoá hội nhập với thế giới, mở ra
cho nước ta những thời cơ vận hội mới. Những tác động mạnh mẽ về kinh tế, văn
hóa cũng ảnh hưởng sâu sắc tới thế hệ thanh thiếu niên hiện nay đặc biệt là lứa tuổi
THPT:
- Đây là lứa tuổi các em muốn khẳng định vị trí cá nhân trong xã hội nhiều hơn.
Ở các em xuất hiện sự quan tâm tới bản thân, tới những phẩm chất nhân cách đạo
đức của mình.
- Lứa tuổi THPT tình cảm của các em phát triển mạnh và khá phong phú, các
em dần hình thành những tình cảm như tình yêu quê hương đất nước, yêu những giá
trị văn hóa truyền thống, lòng nhân ái bao dung độ lượng, sống có ý thức trách
nhiệm với xã hội. Giai đoạn này những cảm xúc về tình cảm với bạn khác giới trở
nên rõ rệt hơn.
- Nhận thức về cuộc sống, về trách nhiệm với bản thân gia đình và xã hội cùng
dần được hình thành. Tuy nhiên giai đoạn này các em vẫn còn có những suy nghĩ
nông nổi, bồng bột, dễ nổi cáu, chưa có sự chín chắn độc lập trong suy nghĩ và hành
động.
17
Hiện nay cùng với sự phát triển và đi lên của xã hội, mỗi chúng ta được sống trong
môi trường văn minh, hiện đại, nhưng kéo theo đó cũng có nhiều vấn đề nảy sinh
làm ảnh hưởng ít nhiều đến đời sống XH. Đối với HSTHPT do khả năng nhận thức
của các em trong giai đoạn này còn mang tính tự phát, nên những tác động tiêu cực
của xã hội ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình hình thành nhân cách, phẩm chất đạo
đức ở các em. Không ít em đã xa ngã vào những tệ nạn của XH. Một số em đua đòi
theo những thói hư tật xấu, có lối sống theo hướng hưởng thụ, coi nặng giá trị vật
chất, tiêu xài hoang phí, lười lao động, sống ích kỷ, đi ngược lại với các giá trị đạo
đức XH.
Đặc điểm về đạo đức của HSTHPT phát triển phong phú, đa dạng và phức tạp. Vì
vậy các bậc phụ huynh, nhà trường, xã hội cần tạo mọi điều kiện cho các em được
thể hiện tính độc lập trong hoạt động, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cá nhân
trong cuộc sống. Đồng thời, cần kịp thời sửa đổi uốn nắn hành vi đạo đức của các
em cho phù hợp với chuẩn mực của XH.
1.3.3. Mục tiêu giáo dục THPT và những định hướng giáo dục đạo đức cho
học sinh trung học phổ thông
* Mục tiêu giáo dục THPT
Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết
quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu
biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá
nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học
nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. ( Luật Giáo dục 2005 ).
* Định hướng giáo dục đạo đức cho học sinh THPT
Đạo đức luôn được coi là nền tảng trong phẩm chất nhân cách của một con người
và là cái gốc của con người. Trong Luật giáo dục năm 2005 cũng chỉ rõ: “ Mục tiêu
của giáo dục đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, có tri
thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc
và CNXH, hình thành và bồi dưỡng nhân cách phẩm chất và năng lực của công dân,
đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
18
Chính vì vậy, việc định hướng giáo dục đạo đức cho HS nói chung và HSTHPT nói
riêng hiện nay là một trong những vấn đề cấp thiết, cần được sự quan tâm kịp thời
của các cấp các ngành giáo dục.
Những nội dung cơ bản của GDĐĐ cho HS hiện nay đó là:
- Nền GD Việt Nam là nền GD XHCN, có tính dân tộc, khoa học, hiện đại lấy
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.
- Nguyên lý: Học đi đôi với hành, GD kết hợp lao động sản xuất, lý luận gắn
liền với thực tiễn, GD nhà trường kết hợp GD gia đình và GD xã hội.
Về nội dung và phương pháp :
- Nội dung: Phải bảo đảm tính cơ bản, toàn diện, thiết thực hiện đại có hệ
thống, coi trọng GD tư tưởng và có ý thức công dân.
- Phương pháp: Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của
học sinh.
- Trách nhiệm của gia đình: Tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển toàn
diện về đạo đức, trí tuệ thẩm mỹ của con em.
- Trách nhiệm của XH: Xây dựng phong trào học tập và môi trường GD lành
mạnh, ngăn chặn những hoạt động xấu ảnh hưởng tới thanh thiếu niên và nhi đồng.
Giáo dục đức cho học sinh THPT phải được tiến hành bằng nhiều biện pháp, có
mục tiêu phù hợp, phải xây dựng nội dung, kế hoạch cụ thể, hình thức phải phong
phú đa dạng, phải biết kết hợp chặt chẽ giữa gia đình - nhà trường - xã hội, để tạo
nên sức mạnh tổng hợp góp phần nâng cao phẩm chất năng lực cho HS.
19
Kết luận chương I
GDĐĐ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc hình thành phát triển nhân cách
năng lực toàn diện cho HS. Để GDĐĐ cho HSTHPT đạt hiệu quả cao, đòi hỏi các
nhà GD phải nắm bắt được những yếu tố tác động đến công tác GDĐĐ cho HS.
Công tác GDĐĐ cho HS phải được kế hoạch, thực hiện thường xuyên, bằng nhiều
hình thức, nhiều biện pháp để phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của HS.
Các biện pháp GDĐĐ muốn khả thi phải dựa trên hai yếu tố là cơ sở lý luận và
thực tiễn. Do đó, ngoài việc xác lập cơ sở lý luận, thì đòi hỏi các cấp quản lý, các
nhà GD tất yếu phải điều tra khảo sát, phân tích thực trạng GDĐĐ cho HS nói
chung và HSTHPT nói riêng, từ đó có thể đề xuất đưa ra các biện pháp GDĐĐ phù
hợp với HS giúp HS tự uốn nắn hành vi, hành động của mình, để dần hoàn thiện
nhân cách và phẩm chất đạo đức lối sống cho phù hợp với các yêu cầu chuẩn mực
của XH.
20
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC
SINH TRƯỜNG THPTDL ĐINH TIÊN HOÀNG – HÀ NỘI.
2.1. Giới thiệu khái quát về trường THPTDL Đinh Tiên Hoàng – Hà Nội
a. Cơ cấu nhà trường
* Trường THPTDL Đinh Tiên Hoàng được UBND Thành phố Hà Nội cho phép
thành lập từ năm học 1989 – 1990 vào ngày 1/11/1989. Hiện nay trụ sở chính của
trường đặt tại số 67 phố Phó Đức Chính, Quận Ba Đình - Hà Nội. Cơ sở 2: Số 5 -
Phố Phạm Sư Mạnh, Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội.
* Cơ sở thiết bị đầy đủ phục vụ học tập, giảng dạy.
* Tổng số cán bộ giáo viên của trường hiện nay là 82 người, trong đó có 56 giáo
viên, ngoài ra trường còn có các giáo viên thỉnh giảng từ các trường THPT khác của
Thành Phố Hà Nội.
- Các đoàn thể gồm: Công đoàn, Chi đoàn giáo viên, BCH Đoàn Thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh
- Cán bộ quản lý: 1 hiệu trưởng, 2 hiệu phó
- Tổ chuyên môn: Tổ KHTN, Tổ KHXH, Tổ văn phòng
- Tổng số HS năm học 2011- 2012 là: 1012 HS, với 29 lớp học tại 2 cơ sở
b. Chất lượng giáo dục của nhà trường.
* Trường THPTDL Đinh Tiên Hoàng có mô hình giáo dục với mục tiêu nhân văn
của mình, đặc biệt là công tác GDĐĐ cho HS với phương châm: “Xây dựng mô
hình giáo dục đặc biệt không chọn lọc đầu vào nhưng phải đảm bảo chất lượng
giáo dục toàn diện, giúp đỡ những học sinh trung học phổ thông Hà Nội gặp khó
khăn về học tập và rèn luyện đạo đức”.
* Mỗi cán bộ, giáo viên trường THPTDL Đinh Tiên Hoàng đều thực hiện phương
châm “ Người thầy giáo không nên dùng quyền hạn của mình để ép buộc học sinh,
họ sẽ được tôn trọng nhờ ở phẩm chất, tri thức và lòng nhân ái của mình.”.
21
* Học sinh trường THPT Đinh Tiên Hoàng được chú ý rèn luyện nhân cách theo
phương châm: “ Nhân cách không được hình thành bởi những gì được nghe và nói
mà chủ yếu được hình thành bằng sự nỗ lực hành động thực sự của mỗi cá nhân ”.
* Hàng năm tỷ lệ HS tốt nghiệp lớp 12 đều vượt tỷ lệ trung bình của thành phố;
trong các kỳ thi đại học, cao đằng trường có từ 30% - 40% HS thi đỗ. Tuy nhiên,
chất lượng GDĐĐ của nhà trường trong những năm gần đây có phần giảm sút, tỷ lệ
HS vi phạm đạo đức, HS xếp loại hạnh kiểm trung bình, thậm chí yếu kém buộc
thôi học hoặc chuyển trường do chậm tiến về đạo đức ngày càng gia tăng. Chính
thực tế này, đòi hỏi các cơ quan quản lý cùng với BGH nhà trường cần có những
biện pháp cụ thể và thiết thực nhằm giải quyết vấn đề nêu trên.
2.2. Thực trạng vấn đề GDĐĐ cho HS trường THPTDL Đinh Tiên Hoàng - Hà
Nội.
2.2.1. Thực trạng công tác GDĐĐ cho HS trường THPTDL Đinh Tiên Hoàng -
Hà Nội.
a. Thực trạng nhận thức của CBQL và GV về vấn đề GDĐĐ cho học sinh
Bảng 2.1: Thực trạng nhận thức của CBQL và GV về tầm quan trọng của việc
GDĐĐ cho HSTHPT hiện nay.
TT
Tầm quan trọng của việc GDĐĐ cho
HSTHPT
Số lượng Tỷ lệ %
1 Rất quan trọng 37/53 69.81
2 Quan trọng 9/53 16.98
3 Tương đối quan trọng 7/53 13.20
4 Không quan trọng 0 0
Kết quả khảo sát cho thấy có tới 37 GV trên tổng số 53 GV ( tỷ lệ 69.81% ) của
nhà trường khi được khảo sát cho rằng công tác GDĐĐ cho HS là một trong những
việc làm cấp thiết và rất quan trọng. Tuy nhiên cũng có tới 13.20% GV cho rằng việc
GDĐĐ cho HS là việc làm chỉ mang tính tương đối. Qua trao đổi với một số GVCN
và GVBM, tôi nhận thấy họ rất ngán ngại đối tượng HS cá biệt trong lớp, chính đối
tượng này làm ảnh hưởng đến phong trào lớp, lôi kéo các thành phần khác. Nhưng
hầu hết GVCN đều lúng túng vì mỗi một HS cá biệt có những biểu hiện khác nhau và
hiệu quả GD cũng khác nhau. Đồng thời, việc phối hợp với các lực lượng bên ngoài
22
lại không được GV quan tâm cũng như việc để HS tự quản và tổ chức các hoạt động
NGLL. Chính những nhận thức nêu trên, mà phần nào đó làm giảm chất lượng
GDĐĐ của nhà trường trong những năm trở lại đây. Số lượng HS cá biệt, thậm chí là
số HS vi phạm pháp luật và các chuẩn mực XH ngày càng đáng báo động.
b. Thực trạng thực hiện các mục tiêu giáo dục đạo đức cho HS
Bảng 2.2: Bảng tổng hợp đánh giá thực hiện các mục tiêu GDĐĐ cho HS
( Tỷ lệ % )
TT Mục tiêu giáo dục
Mức độ
Tốt
Tương đối
tốt
Chưa tốt
1 GD ý thức đạo đức 58,25 39.13 2,62
2 GD tình cảm thái độ 43.72 54.53 1,75
3 GD hành vi đạo đức 60.02 38.93 1.05
Mục tiêu được đánh giá đạt mức độ cao là GD hành vi đạo đức cho HS, chiếm tỷ
lệ 60.02 % và GD ý thức đạo đức chiếm 58,25%. Tuy nhiên mục tiêu GD cho HS
về mặt tình cảm thái độ lại chưa được quan tâm đúng mức, chỉ có tới 43.72% ý kiến
đánh giá mục tiêu GD tình cảm thái độ cho HS tại nhà trường là tốt, trong khi đó có
tới 54.53 % ý kiến đánh giá mục tiêu này đang chỉ thực hiện ở mức tương đối. Điều
này cho thấy, nhà trường thực hiện các mục tiêu GDĐĐ cho HS chưa thật sự đồng
bộ và thống nhất giữa các mục tiêu với nhau. Chúng ta hướng HS đi đúng hướng là
việc giúp các em bớt đi những việc làm sai trái, đồng thời tăng tính GD toàn diện
hơn nhưng bên cạnh đó, những mục tiêu để giáo dục HS tự giác thực hiện những
chuẩn mực đạo đức của XH lại có phần bị đánh giá thấp đi.
c. Thực trạng thực hiện nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh
Bảng 2.3: Thực trạng mức độ thực hiện các nội dung giáo dục đạo đức cho học
sinh ( Tỷ lệ %).
Nội dung GDĐĐ
CBQL - GV HS
TX TT CTH TX TT CTH
GD lòng yêu nước 76.15 23.04 0.81 63.81 34.14 2.05
Ý thức thực hiện nội quy trường
lớp
50.13 47.46 2.41 45.62 53.4 0.98
Tinh thần đoàn kết, giúp đỡ bạn
bè
34.26 62.67 3.07 37.61 35.23 27.16
23
Kính trọng ông bà, cha mẹ,
thầy cô giáo
100 0 0 96.52 3.48 0
Tinh thần lạc quan yêu đời 46.15 51.98 1.87 55.23 40.16 4.61
Trung thực, dũng cảm 39.82 59.29 3.21 35.41 61.54 3.05
Ý thức tuân theo pháp luật 37.5 59.29 3.21 32.17 64.85 2.98
Ý thức tiết kiệm thời gian, tiền
của
40.1 57.23 2.67 51.19 45.15 3.66
Tinh thần tập thể 26.72 67.74 5.54 30.21 66.67 3.12
Yêu quý lao động, quý trọng
người lao động
30.4 68.08 1.52 29.34 67.94 2.72
TX: thường xuyên, TT: Thi thoảng, CTH: Chưa thực hiện
Trong các nội dung GDĐĐ cho HS thì: Kính trọng ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo là
nội dung được cả GV và HS quan tâm nhiều nhất, có tới 100% ý kiến của CBQL và
GV cho rằng họ thường xuyên sử dụng và 96.52% HS cho rằng đây là nội dung
được thầy cô sử dụng thường xuyên nhất. Tuy nhiên các nội dung còn lại như tinh
thần tập thể và yêu quý lao động, quý trọng người lao động vẫn chưa được áp dụng
nhiều. Các nội dung GD khác như tinh thần đoàn kết giúp đỡ bạn bè, lòng trung
thực dũng cảm đã được BGH nhà trường đưa vào công tác GD cho HS, nhưng chưa
thường xuyên nên chất lượng GDĐĐ vẫn còn khá nhiều hạn chế. Đặc biệt nội dung
định hướng HS có ý thức tuân theo pháp luật, một trong những nội dung quan trọng
trong việc GDĐĐ dường như chưa được sử dụng thường xuyên và hiệu quả, có đến
64.85% các em HS cho rằng, nội dung này thi thoảng mới được sử dụng và đề cập
đến. Điều này cho thấy nội dung GD ý thức pháp luật chưa được nhà trường quan
tâm tuyên truyền tới HS, vì vậy dẫn tới việc hiện nay có khá nhiều HS trong nhà
trường thường xuyên vi phạm pháp luật.
Để đánh giá khách quan về sự quan tâm, tích hợp lồng ghép các nội dung GDĐĐ
của nhà trường vào các hoạt động ngoại khóa, hoạt động NGLL, tôi đã tiến hành
phiếu điều tra với CBQL - GV và HS nhà trường, và có được kết quả theo biểu đồ
sau:
24
Biểu đồ về sự quan tâm lồng ghép, tích hợp các nội dung GDĐĐ cho HS trong nhà
trường vào các hoạt động GD ngoài giờ lên lớp
* Qua biểu đồ trên, ta nhận thấy 82.34% CBQL – GV và 67.37% HS cho rằng các
GV đã thường xuyên quan tâm lồng ghép các nội dung GDĐĐ vào các hoạt động
ngoại khóa của nhà trường, còn 11.86% CBQL – GV và 28.53% HS cho rằng chỉ
thi thoảng GV mới lồng ghép các nội dung GDĐĐ áp dụng vào các hoạt động ngoại
khóa, 6.1% số HS còn lại cho rằng GV chưa thực hiện các nội dung GDĐĐ vào các
hoạt động ngoài giờ lên lớp tới HS. Khi tiến hành phỏng vấn GV hiệu phó phụ trách
chung các hoạt động của HS thì tôi được biết nhà trường thường xuyên tổ chức các
hoạt động ngoại khóa cho HS vào tuần thứ 2 hàng tháng, tuy nhiên khi được phỏng
vấn về nội dung để thực hiện các hoạt động GD thì hầu như các nội dung lại ít đề
cập tới vấn đề đạo đức và GDĐĐ cho HS trong nhà trường. Đa phần các GV đều có
ý kiến cho rằng các hoạt động NGLL chủ yếu xoay quanh các chủ đề về tình bạn,
tình thầy trò mà chưa đề cập hay lồng ghép cụ thể các nội dung GDĐĐ tới HS.
d. Thực trạng thực hiện các hình thức giáo dục đạo đức cho học sinh
Với câu hỏi “ Mức độ sử dụng các hình thức GDĐĐ cho HS ?” khảo sát 53 GV và
300 HS trong nhà trường có được số liệu theo bảng 2.4 dưới đây:
25