Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện lập địa đến sinh trưởng rừng trồng Keo lai ở tỉnh Bình Phước.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (939.62 KB, 82 trang )


1
ĐẶT VẤN ĐỀ

Hiện nay, trên thế giới nhu cầu sử dụng gỗ cho công nghiệp khoảng 1,5
tỷ mét khối mỗi năm (trích dẫn bởi Phạm Xuân Hoàn)[3]. Tuy nhiên do diện
tích và chất lượng rừng tự nhiên ngày một giảm nên một số quốc gia, trong đó
có nước ta đã giảm khai thác rừng tự nhiên, thay thế dần gỗ rừng tự nhiên
bằng gỗ rừng trồng. Trên thế giới xu hướng tiêu thụ gỗ rừng trồng, bảo vệ
rừng tự nhiên ngày càng được khẳng định rõ nét với việc quy định cấp chứng
chỉ rừng, quy định tiêu thụ sản phẩm gỗ thân thiện với môi trường. Do đó đẩy
mạnh việc trồng rừng bằng các loài cây mọc nhanh là tất yếu. Dự án trồng
mới 5 triệu ha rừng đã đạt ra mục tiêu trồng mới 2 triệu ha rừng sản xuất,
trong đó có 1,4 triệu ha rừng nguyên liệu. Keo lai là một trong những loài cây
được chọn để đáp ứng nhu cầu này vì có nhiều ưu thế trong trồng rừng
nguyên liệu, là cây ưa sáng mọc nhanh, có khả năng cải tạo đất, chống xói
mòn, có thể sinh trưởng tốt trên nhiều loại đất, thậm chí trên các loại đất xấu.
Mức tăng trưởng một số dòng Keo lai hiện nay có thể đạt 30 - 35 m
3
/ha/năm
và có thể khai thác sau 6 đến 7 năm trồng với năng suất đạt 200 -250 m
3
/ha .
Hiện tại trên địa bàn tỉnh Bình Phước đã có 4 nhà máy chế biến gỗ rừng
trồng với công suất khoảng 6.000.000 m
3
gỗ các loại. Sản lượng gỗ như vậy
tương đương với việc khai thác khoảng 30.000 ha Keo lai mỗi năm. Đây là
nhu cầu vô cùng lớn đối với việc trồng rừng nguyên liệu của tỉnh Bình Phước.
Tỉnh Ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã đề ra mục tiêu trồng 30.000 ha cây Keo lai,
để cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến. Do đó trong thời gian tới


quy hoạch vùng nguyên liệu và phát triển diện tích rừng trồng Keo lai nhằm
phục vụ ổn định một phần nguyên liệu cho các nhà máy chế biến là nhiệm vụ
trọng tâm của nghành lâm nghiệp tỉnh bình phước.
Mặt khác, Bình Phước là một tỉnh thuộc khu vực miền Đông Nam bộ,
với lợi thế là tài nguyên đất đai, có tiềm năng lớn trong phát triển sản xuất

2
nông lâm nghiệp có thể trồng các loài cây công nghiệp, cây ăn trái và trồng
rừng. Tuy nhiên, hiện tại nguồn tài nguyên này đang bị thu hẹp dần. Trước
năm 2005 đất lâm nghiệp Bình phước là 341.005 ha chiếm 49,5% tổng diện
tích tự nhiên. Sau rà soát quy hoạch rừng hiện nay quỹ đất lâm nghiệp còn lại
178.200 ha, giảm đi 48 %. Do đó, mặc dù áp lực về nguyên liệu gỗ ngày càng
tăng, nhưng việc mở rộng diện tích trồng Keo lai cần phải xem xét một cách
hợp lý trên cơ sở sử dụng hiệu quả quỹ đất phát triển sản xuất nông lâm
nghiệp với nhiều loại cây trồng chủ lực khác của tỉnh. Vì vậy đánh giá, lựa
chọn những diện tích phù hợp để quy hoạch trồng Keo lai nhằm không ngừng
nâng cao năng suất rừng trồng cũng như hiệu quả sử dụng đất là việc làm rất
quan trọng và cần đi trước một bước.
Các phương pháp đánh giá đất đai phục vụ cho sản xuất nông lâm
nghiệp đã được áp dụng từ những năm đầu thế kỷ 20 ở một số nước. Ở nước
ta các phương pháp đánh giá đất đai cũng đã được thử nghiệm từ năm 1990 và
đã có những thành tựu quan trọng. Một trong những phương pháp đánh giá
đất đai được áp dụng trong sản xuất lâm nghiệp là đánh giá đất đai trên cơ sở
lập địa. Phương pháp này dựa trên việc đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố
cấu thành lập địa như đá mẹ, đất đai, khí hậu đến sinh trưởng và năng suất của
cây trồng, phân chia mức độ phù hợp của từng dạng lập địa đối với từng loại
cây trồng, từ đó chọn loại cây trồng phù hợp với từng dạng lập địa.
Từ yêu cầu xây dựng vùng nguyên liệu gỗ cho chế biến và trên cơ sở
các phương pháp đánh giá đất đai, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài Nghiên
cứu ảnh hưởng của điều kiện lập địa đến sinh trưởng rừng trồng Keo lai ở

tỉnh Bình Phước.




3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Đánh giá ảnh hưởng của điều kiện lập địa đối với sinh trưởng của
rừng trồng
1.1.1. Trên thế giới
1.1.1.1. Lập địa và phân chia lập địa
Có khá nhiều khái niệm về lập địa nhưng về bản chất thì “Lập địa là
một phạm vi lãnh thổ nhất định với tất cả những yếu tố của ngọai cảnh, ảnh
hưởng tới sinh trưởng của cây cối”. Lập địa theo nghĩa hẹp bao gồm 3 thành
phần là: khí hậu, địa hình và thổ nhưỡng; lập địa theo nghĩa rộng hơn bao
gồm 4 thành phần là: khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng và thế giới động thực
vật [15].
Pogrebnhiac đã phân chia lập địa làm cơ sở cho trồng rừng và xác định
các kiểu rừng dựa trên hai chỉ tiêu chính là độ phì và độ ẩm của đất. Độ phì
được chia làm 4 cấp: rất xấu (A), xấu (B), trung bình (C), tốt (D). Độ ẩm đất
được chia làm 6 cấp: rất khô (0), khô (1), ẩm vừa (2), ẩm (3), ướt (4), lầy (5).
Các kiểu lập địa được tổng hợp từ hai chỉ tiêu trên như bảng sau:
Bảng 1.1 Các kiểu lập địa theo phân chia của Pogrebnhiac
Độ phì
Độ ẩm
0
1
2
3

4
5
A
A0
A1
A2
A3
A4
A5
B
B0
B1
B2
B3
B4
B5
C
C0
C1
C2
C3
C4
C5
D
D0
D1
D2
D3
D4
D5


(Đỗ Đình Sâm và ctv, 2005) [15]


4
1.1.1.2. Ảnh hưởng của điều kiện lập địa đối với sinh trưởng của rừng trồng
Tổng kết các nghiên cứu ở các nước nhiệt đới Tổ chức nông lương
quốc tế (FAO, 1994), khẳng định khả năng sinh trưởng của rừng trồng phụ
thuộc rất rõ vào 4 nhân tố chủ yếu liên quan đến điều kiện lập địa là khí
hậu, địa hình, loại đất và hiện trạng thực bì (Trích dẫn bởi Trần Thị Duyên,
2008) [1].
Khi đánh giá khả năng sinh trưởng của loài thông Pinus.Patula ở
Swaziland, Evan (1992) đã chứng minh khả năng sinh trưởng về chiều cao
của loài cây này có quan hệ khá chặt với các yếu tố địa hình và đất thông qua
phương trình tương quan sau:
Y= -18,75 + 0,0544x
3
– 0,000022x
2
3
+ 0,0185x
4
+ 0,0449x
5
+ 0,5346x
11
(1.1)
Phương trình có hệ số xác định R = 0.81, trong đó:
Y là chiều cao vút ngọn tại thời điểm 12 tuổi (m).
X

3
là độ cao so với mặt nước biển (m).
X
4
là độ dốc chênh lệch giữa đỉnh và chân đồi.
X
5
là độ cao tuyệt đối của khu trồng rừng.
X
11
là cấp độ phì đất (theo 5 cấp 1, 2, 3, 4, 5).
(Trích dẫn bởi Trần Thị Duyên, 2008)[1]
Khi khảo sát rừng trồng ở các điều kiện lập địa khác nhau, Pandey
(1993) [18] nhận thấy Bạch đàn trắng Eucalyptus camaldulensis trồng ở vùng
nhiệt đới khô với chu kỳ kinh doanh từ 10 - 20 năm thường chỉ đạt năng suất
từ 5 - 10 m3/ha/năm, nhưng ở vùng nhiệt đới ẩm có thể đạt 30 m
3
/ha/năm.
Như vậy với điều kiện lập địa khác nhau thì sinh trưởng và năng suất của
rừng trồng cũng khác nhau rõ rệt.




5
1.1.2. Tại Việt Nam
1.1.2.1. Lập địa và phân chia lập địa
Ở Việt Nam đánh giá lập địa được áp dụng từ khá sớm. Đỗ Đình Sâm
(1990) [15] trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm sinh khí hậu của Việt Nam, đặc
biệt là chế độ khô hạn mùa khô, ảnh hưởng mạnh tới sinh trưởng của rừng và

hình thành các kiểu rừng khác nhau nên đã đề xuất tiêu chí mức độ khô hạn
mùa khô cùng mức độ thoát nước để xác định các nhóm lập địa ở Việt nam.
Mức độ khô hạn được chia làm 4 cấp: rất khô, khô, ẩm và ẩm thường xuyên
dựa trên chế độ nhiệt ẩm, đai cao so với mặt nước biển, đặc điểm đất, địa
hình. Các nhóm lập địa đất rừng chính ở Việt Nam theo tác giả phân chia là:
- Nhóm lập địa thoát nước mạnh, rất khô hạn
- Nhóm lập địa thoát nước mạnh, khô hạn mùa khô;
- Nhóm lập địa thoát nước mạnh, ẩm thường xuyên;
- Nhóm lập địa thoát nước, rất khô hạn
- Nhóm lập địa thoát nước, khô hạn;
- Nhóm lập địa thoát nước, ẩm thường xuyên;
- Nhóm lập địa thoát nước không tốt, rất khô hạn
- Nhóm lập địa thoát nước không tốt, ẩm;
- Nhóm lập địa thoát nước yếu, ẩm;
- Nhóm lập địa thoát nước yếu, khô hạn
Từ 1991 đến 1995 đề tài cấp nhà nước “Đánh giá tiềm năng sản xuất
đất lâm nghiệp và hoàn thiện phương pháp điều tra lập địa”, Đỗ Đình Sâm và
cộng sự [15] đã xác định hệ thống tiêu chuẩn phân chia dạng lập địa và đề
xuất 3 nhóm yếu tố tham gia phân chia lập địa như sau:
- Nhóm yếu tố thổ nhưỡng: gồm 3 yếu tố là nhóm và loại đất, thành
phần cơ giới và độ dày tầng đất.

6
- Nhóm yếu tố địa hình: gồm 2 yếu tố là vị trí và độ dốc. Vị trí được
phân theo 3 cấp là chân, sườn, đỉnh. Độ dốc được phân chia tùy theo điều
kiện cụ thể.
- Nhóm yếu tố chế độ thoát nước và ngập nước: gồm 2 yếu tố là chế độ
thoát nước và chế độ ngập nước. Chế độ thoát nước có 4 cấp đánh giá là thoát
nước mạnh, thoát nước trung bình, thoát nước yếu và thoát nước rất yếu. Đối
với yếu tố chế độ ngập nước thì các cấp phân chia phụ thuộc vào đối tượng và

điều kiện thực tế.
Năm 1996, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt nam khi tiến hành điều tra
khảo sát vùng dự án Việt – Đức (KfW1) tại Bắc giang và Lạng sơn đã đề xuất
phương pháp ứng dụng điều tra lập địa phục vụ cho trồng rừng. Các yếu tố
chủ đạo để phân chia lập địa được xác định là: loại đất và đá mẹ, độ dốc, độ
dày tầng đất và thực bì chỉ thị (trích dẫn bởi Đỗ Đình Sâm, 2005) [15].
1.1.2.2. Ảnh hưởng của điều kiện lập địa đối với sinh trưởng của rừng trồng
Trong khuôn khổ của đề tài “Phân hạng đất trồng rừng sản xuất một số
loài cây chủ yếu ở các vùng trọng điểm, 2006 - 2009” Nguyễn Văn Thắng và
Ngô Đình Quế [10] đã tiến hành đánh giá ảnh hưởng của một số điều kiện lập
địa đến sinh trưởng của rừng trồng với một số loài cây chủ yếu trong đó có
Keo tai tượng. Các tác giả đã đánh giá mức độ thích nghi với khí hậu, địa hình
và đất đai của Keo tai tượng, trong đó đặc biệt chú ý đến ảnh hưởng của các
yếu tố đất đai đến năng suất cây Keo tai tượng. Kết quả cho thấy 3 yếu tố có
ảnh hưởng quan trọng nhất đến năng suất rừng trồng là độ dày tầng đất, hàm
lượng mùn tổng số và hàm lượng lân dễ tiêu. Trên cơ sở đó, các tác giả đã xây
dựng phương trình hồi quy tuyến tính đa biến về mối quan hệ giữa sinh
trưởng với 3 yếu tố trên như sau:



7
∆V
c
= -0,003 + 0,0001*DD + 0,001*OM + 0,0001*Pdt R = 0,940 (1.2)
Trong đó:
∆V
c
: Sinh trưởng bình quân năm của cây (m
3

/cây/năm).
DD: Độ dày tầng đất (cm).
Pdt: Lân dễ tiêu (ppm).
OM: Mùn tổng số (%).

Khi nghiên cứu áp dụng phương pháp đánh giá đất của FAO để đề xuất
hướng sử dụng đất lâm nghiệp trên địa bàn huyện Đồng Phú, tỉnh Bình
Phước ,Trần Quốc Hoàn (2007) [2] đã đưa ra yêu cầu sử dụng đất và mức độ
thích hợp của một số loại cây trồng như bảng 1.2.
Bảng 1.2: Yêu cầu sử dụng đất và khả năng thích hợp
của các loại hình sử dụng đất.

LUT
Yếu tố chẩn đoán
Phân cấp thích nghi theo các yếu tố (*)
S
1

S
2

S
3

N
Cao
su
Loại hình thổ nhưỡng
Fk, Fu
Fp, X

Fs
Xg, D
Độ dốc địa hình
< 15
o

15 - 25
o

> 25
o


Độ dày tầng đất
>100 cm
50 - 100 cm
< 50 cm

Thành phần cơ giới
d, e, c
b


Khả năng tưới
F,T



Trạng thái thực vật
nn, dn

tr

ru
Điều
Loại hình thổ nhưỡng
Fk, Fu,
X, Fp, Fs
Xg, D

Độ dốc địa hình
0 - 15
o

15 - 25
o

> 25
o


Độ dày tầng đất
>100 cm
50 - 100 cm
< 50 cm

Thành phần cơ giới
c, d, e
b



Khả năng tưới
F,T



Trạng thái thực vật
nn, dn
tr

ru
Tiêu
Loại hình thổ nhưỡng
Fk, Fu,
Fp, X
Fs, Xg
D
Độ dốc địa hình
0 - 8
o

8 - 15
o

15 - 25
o

> 25
o

Độ dày tầng đất

> 50 cm
< 50 cm



8
Thành phần cơ giới
d, e,c
b


Khả năng tưới
T


F
Trạng thái thực vật
nn, dn
tr

ru

Cây
ăn
trái

Loại hình thổ nhưỡng
Fk, Fu
Fp, X
Fs, Xg

D
Độ dốc địa hình
< 15
o

15 - 25
o

> 25
o


Độ dày tầng đất
> 100 cm
50 - 100 cm
< 50 cm

Thành phần cơ giới
d, e,c
b


Khả năng tưới
T


F
Trạng thái thực vật
nn, dn
tr


ru
Keo
lai

Loại hình thổ nhưỡng
Fk, Fp, Fu
X , Fs
D, Xg

Độ dốc địa hình
< 25
o

> 25
o



Độ dày tầng đất
> 50 cm
< 50 cm


Thành phần cơ giới
c
b, c, e


Khả năng tưới

F,T



Trạng thái thực vật
nn, tr
dn, ru


Sao
đen

Loại hình thổ nhưỡng
Fk,Fp, Fu
X , Fs
D, Xg

Độ dốc địa hình
< 25
o

> 25
o



Độ dày tầng đất
> 50 cm
< 50 cm



Thành phần cơ giới
b, c
d, e


Khả năng tưới
F,T



Trạng thái thực vật
dn, ru
tr, nn


Dầu
rái
Loại hình thổ nhưỡng
Fk,Fp, Fu
X , Fs
D, Xg

Độ dốc địa hình
< 25
o

> 25
o




Độ dày tầng đất
> 50 cm
< 50 cm


Thành phần cơ giới
b, c
d, e


Khả năng tưới
F, T



Trạng thái thực vật
dn, ru
tr, nn


Keo

tràm
Loại hình thổ nhưỡng
Fk, Fp, Fu
X , Fs
D, Xg


Độ dốc địa hình
< 25
o

> 25
o



Độ dày tầng đất
> 50 cm
< 50 cm


Thành phần cơ giới
d
b, c, e


Khả năng tưới
F, T



Trạng thái thực vật
nn, tr
dn, ru




9
Tếch
Loại hình thổ nhưỡng
Fk, Fp, Fu
X , Fs
D, Xg

Độ dốc địa hình
< 25
o

> 25
o



Độ dày tầng đất
> 50 cm
< 50 cm


Thành phần cơ giới
b, c
d, e


Khả năng tưới
F, T




Trạng thái thực vật
tr, nn,
dn, ru


Xoan
ta
Loại hình thổ nhưỡng
Fk, Fp, Fu
X , Fs
D, Xg

Độ dốc địa hình
<25
o

> 25
o



Độ dày tầng đất
> 50 cm
< 50 cm


Thành phần cơ giới
b, c
e, d



Khả năng tưới
F, T



Trạng thái thực vật
tr, nn
dn,ru



bầu
Loại hình thổ nhưỡng
Fs, Fu, Fk
X, Fp
D, Xg

Độ dốc địa hình
< 15
o

15 - 25
o

> 25
o



Độ dày tầng đất
> 100 cm
50 - 100 cm
< 50 cm

Thành phần cơ giới
b, c
e,d


Khả năng tưới
F, T



Trạng thái thực vật
dn, ru
nn, tr



(*) Ghi chú:
S1: rất thích nghi; S2: thích nghi vừa; S3: kém thích nghi; N: không
thích nghi
T: có khả năng tưới; F: không có khả năng tưới;
b: cát pha; c: thịt nhẹ; d: thịt trung bình - nặng; e: sét;
nn: cây ngắn ngày; dn: cây dài ngày; tr: đất trống (I
A
, I
B

, I
C
); ru: rừng.
1.2. Các nghiên cứu về Keo lai
1.2.1. Trên thế giới
Keo lai là loài cây lai giữa Keo lá tràm ( Acacia auriculiformis ) và Keo
tai tượng (Acacia mangium). Lần đầu tiên được Messir Herbern và Shim phát
hiện vào năm 1972 trong số các cây Keo tai tượng trồng ven đường ở Sook

10
Telupid thuộc bang Sabah – Malaixia, (Trích dẫn bởi Trần Thị Duyên,
2008)[1].
Zobel và Talbert (1984) nhận thấy Keo lai có đặc điểm là những tính
trạng tốt nhất và mong muốn nhất của bố mẹ được thể hiện trong cây lai,
nhưng những tính trạng xấu nhất của bố mẹ cũng có thể xuất hiện trong cây
lai. Tuy nhiên, phần lớn cá thể ở đời F1 có ưu thế lai rõ rệt về sinh trưởng [4]
Pinso và Nasi (1991) đánh giá tổng hợp về Keo lai thấy cây lai có ưu
thế lai và ưu thế lai này có thể chịu ảnh hưởng của cả yếu tố di truyền lẫn điều
kiện lập địa. Tác giả cũng chỉ ra rằng sinh trưởng Keo lai thế hệ F1 là tốt nhất,
từ thế hệ F2 trở đi cây bắt đầu sinh trưởng không đồng đều và khẳng định
Keo lai F1 rất phù hợp với chương trình trồng rừng thương mại [17].
1.2.2. Tại Việt Nam
1.2.2.1. Một số đặc điểm sinh vật học của cây Keo lai
Keo lai là loài cây gỗ lớn, có chiều cao đến 30 m, đường kính (D
1,3m
) có
thể đạt tới 80 cm; gỗ thẳng, màu vàng trắng, có vân, có lõi giác phân biệt, gỗ
có tác dụng nhiều mặt: kích thước nhỏ làm nguyên liệu giấy, kích thước lớn
sử dụng trong xây dựng, đóng đồ mộc, mỹ nghệ, làm hàng xuất khẩu.
Ở Việt Nam, Keo lai được trồng rộng rãi trên toàn quốc. Cây mọc tốt ở

hầu hết các dạng đất, nơi có lượng mưa từ 1.500 - 2.000 mm/năm. Mọc tốt
trên đất có độ pH từ 3 đến 7, phân bố ở độ cao dưới 800 m so với mực nước
biển. Là cây ưa sáng mọc nhanh, có khả năng cải tạo đất. Keo lai phân bố
thích hợp trong những vùng có điều kiện: Nhiệt độ bình quân từ 22
0
C đến
28
0
C, lượng mưa trung bình trên 1.000 mm, tối thích 1.600 mm, số tháng mưa
bình quân: 4 tháng, tối thích: 6 tháng.
- Đất đai: Chủ yếu trồng trên loại đất feralit, tầng dầy tối thiểu 35 cm.
Đất phù sa cổ, đất xám bạc màu, đất phèn lên luống không bị ngập nước đều
có thể trồng được (Kỹ thuật trồng Keo lai, 2001)[11].

11
1.2.2.2. Ảnh hưởng điều kiện lập địa đến sinh trưởng của cây Keo lai
Nghiên cứu về quan hệ giữa Keo lai với điều kiện lập địa trước đây chủ
yếu tập trung theo hướng khảo nghiệm đánh giá khả năng thích nghi của Keo
lai trên những điều kiện lập địa mới, nhằm mở rộng diện tích trồng rừng Keo
lai cung cấp gỗ nguyên liệu. Hướng nghiên cứu này hầu hết là thành công vì
Keo lai có khả năng thích nghi với rất nhiều loại lập địa, ngay cả những nơi
có điều kiện khó khăn rất cực đoan.
Nguyễn Huy Sơn (năm 2006) khi nghiên cứu về khả năng sinh trưởng
của Keo lai trên đất bazan thoái hóa ở thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai cho thấy
các dòng Keo lai tự nhiên BV5, BV10 và BV33 được nhân giống bằng
phương pháp giâm hom được trồng trên các loại đất phát triển trên đá ba zan
bị thoái hóa ở các mức độ khác nhau, đất có độ ẩm thấp, chua, bí chặt, tỷ
trọng và dung trọng đều rất cao với các trị số tương ứng là 2,68 và 1,02 thì
đến năm thứ 6 tỷ lệ sống của cây Keo lai biến động từ 75 - 87 % (trung bình
đạt 80,2 %), đường kính trung bình 10,59 cm chiều cao bình quân đạt 11,72

m, (Tạp chí NN&PTNT số 3/2008) [15].
Một vài năm gần đây, theo xu hướng nghiên cứu khả năng hấp thụ và
giá trị thương mại carbon của một số dạng rừng trồng, Vỏ Đại Hải đã nghiên
cứu sinh khối Keo lai trồng thuần loài theo cấp đất và tuổi, xây dựng quan hệ
giữa sinh khối với các nhân tố điều tra lâm phần chủ yếu như D
1.3m
, H
vn
, tuổi.
Đề tài được thực hiện tại Bắc, Bắc Trung bộ và miền Đông Nam bộ, trong đề
tài này cấp đất được phân làm 4 cấp I, II, III , IV (Tạp chí NN&PTNT, số
2/2008) [15].
Cũng theo xu hướng này, Nguyễn Viết Khoa thực hiện xác định sinh
khối cây cá thể và lâm phần Keo lai theo cấp đất và tuổi, xây dựng mối quan
hệ giữa tổng sinh khối lâm phần với các nhân tố điều tra chủ yếu như D
1.3m
,
H
vn
, mật độ trồng và tuổi. Kết quả cho thấy, sinh khối cây cá thể Keo lai có

12
sự biến đổi rất lớn theo các cấp đất và các giai đoạn tuổi khác nhau. Cấu trúc
sinh khối cây bụi thảm tươi dưới tán rừng trồng Keo lai tập trung nhiều nhất ở
tầng thảm tươi (cỏ) chiếm trung bình 42,04 %, tiếp theo là rễ cây bụi, chiếm
trung bình 29,68 %, thân và cành cây bụi chiếm trung bình 19,37 % và thấp
nhất là ở lá cây bụi chỉ chiếm trung bình 8,91 %. Sinh khối lâm phần Keo lai
cũng có sự biến động rất lớn theo cấp đất và các tuổi khác nhau. Trong đó,
trong cùng một cấp đất sinh khối lâm phần Keo lai tăng dần theo tuổi, trong
cùng một tuổi sinh khối lâm phần giảm theo cấp đất. Ở mọi cấp đất sinh khối

khô lâm phần Keo lai tập trung chủ yếu ở tầng cây gỗ, sinh khối khô tầng cây
gỗ giảm dần theo cấp đất tiếp theo là vật rơi rụng và cuối cùng là cây bụi
thảm tươi, hai loại sinh khối này có xu hướng tăng theo cấp đất, (Tạp chí
NN&PTNT, 9/2010)[15].
Nghiên cứu sinh trưởng Keo lai trồng trên hai loại đất khác nhau ở
Đông Nam bộ, Phạm Thế Dũng và cộng sự (2004) nhận thấy Keo lai cho
năng suất khác nhau trên các lập địa khác nhau. Sau 7 năm trồng năng suất
Keo lai đạt 33 m
3
/ha/năm ở đất đỏ vàng trên phiến sét tại trạm Phú Bình,
trong khi ở đất xám trên phù sa cổ tại trạm Bàu Bàng năng suất chỉ đạt 25
m
3
/ha/năm. Như vậy, mặc dù được áp dụng các biện pháp kỹ thuật chăm sóc
như nhau, nhưng trên đất nâu đỏ Keo lai sinh trưởng tốt hơn trên đất xám phù
sa cổ [10].
Nghiên cứu về các biện pháp thâm canh rừng trồng Keo lai tại Đồng
Hỷ, Thái Nguyên, Trần Thị Duyên (2008) [1] nhận thấy các biện pháp kỹ
thuật như mật độ trồng, bón phân, bón vôi, chăm sóc hợp lý đều có tác dụng
nâng cao năng suất và chất lượng gỗ Keo lai, đồng thời cải thiện tính chất lý
hóa của đất theo hướng tích cực hơn.



13
1.3. Nhận xét chung về tổng quan nghiên cứu
1.3.1. Một số vấn đề đã được giải quyết
Khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng và thế giới động thực có quan hệ rất mật
thiết và ảnh hưởng qua lại với nhau và 4 nhóm yếu tố này được gọi chung là
điều kiện lập địa. Khi nghiên cứu sinh trưởng và phát triển của thực vật nói

chung và rừng trồng nói riêng cần phải xem xét đến sự ảnh hưởng tổng hợp
của các yếu tố khí hậu, địa hình và thổ nhưỡng.
Việc đánh giá ảnh hưởng của điều kiện lập địa đến sinh trưởng của
rừng trồng đã được nghiên cứu từ những năm 70 của thế kỷ trước và áp dụng
có hiệu quả trong trồng rừng nguyên liệu. Ở nước ta, trên cơ sở đánh giá lập
địa, các nhà lâm nghiệp đã phân hạng đất cho một số đối tượng quan trong
trong trồng rừng nguyên liệu như Hồi, Quế, Thông nhựa, Bồ đề, Keo tai
tượng. Mục đích là xác định mối tương quan giữa năng suất cây trồng và các
yếu tố về đất trồng rừng được phân chia theo một số tiêu chí cụ thể. Đây là cơ
sở quan trọng cho việc định hướng quy hoạch xây dựng vùng nguyên liệu gỗ
cho công nghiệp chế biến.
Giữa sinh trưởng và năng suất rừng trồng với các yếu tố của điều kiện
lập địa có mối tương quan với nhau và có thể mô phỏng bằng các phương
trình hồi quy. Mức độ chặt chẽ của tương quan này phụ thuộc vào loài cây cụ
thể, trong những điều kiện sống nhất định. Nếu xác lập được mối quan hệ này,
người ta có thể dự báo về các chỉ tiêu sinh trưởng như đường kính, chiều cao
và năng suất rừng trồng trong tương lai, trên điều kiện lập địa cụ thể. Điều
này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc quy hoạch vùng trồng rừng và
tính toán hiệu quả của việc trồng rừng trên những khu vực được quy hoạch.
Các nghiên cứu về Keo lai cho thấy, mặc dù cây Keo lai có thể trồng
được ở nhiều loại đất khác nhau, thậm chí là trên các loại đất xấu, tuy nhiên
hiệu quả trồng Keo lai sẽ rất khác nhau trên những điều kiện lập địa khác

14
nhau. Năng suất nói riêng và tổng sinh khối của cây cá thể hay của lâm phần
Keo lai nói chung có quan hệ chặt chẽ với cấp đất. Cấp đất cao hay điều kiện
lập địa càng thuận lợi thì năng suất và sinh khối của cây cá thể hay cả lâm
phần đều tăng và ngược lại. Vì vậy, xác định được ảnh hưởng của điều kiện
lập địa sinh trưởng và năng suất của cây Keo lai, có ý nghĩa rất lớn trong việc
quyết định đầu tư trồng rừng, đặc biệt là trồng Keo lai trên quy mô công

nghiệp.Việc xác định ảnh hưởng của điều kiện lập địa đến sinh trưởng và
năng suất rừng trồng cũng là cơ sở để áp dụng các biện pháp thâm canh rừng
trồng.
1.3.2. Một số vấn đề tồn tại chưa được đề cập
Mặc dù Keo lai là một loài cây quan trọng trong chiến lược trồng rừng
nguyên liệu và các công trình nghiên cứu về cây Keo lai đã cho thấy năng
suất và hiệu quả của việc trồng Keo lai có quan hệ chặt chẽ với cấp đất. Tuy
nhiên ở Bình Phước chưa có nghiên cứu nào đánh giá về ảnh hưởng của điều
kiện lập địa đến sinh trưởng của Keo lai. Vì vậy việc quy hoạch vùng trồng
Keo lai còn thiếu những cơ sở khoa học.
Từ những nhận xét nêu trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này,
nhằm đánh giá ảnh hưởng của điều kiện lập địa tới sinh trưởng của rừng trồng
Keo lai trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Trên cơ sở đó đề tài bước đầu phân
hạng đất trồng Keo lai, đồng thời đề xuất những giải pháp nâng cao năng suất
Keo lai trên những dạng lập địa đó. Đây là cơ sở để quy hoạch vùng trồng
Keo lai tập trung, nhằm sử dụng hợp lý tài nguyên đất, phục vụ cho chương
trình phát triển cây Keo lai trên địa bàn tỉnh Bình Phước.





15
Chương 2
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH BÌNH PHƯỚC
2.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1. Vị trí địa lý
Bình Phước là một tỉnh thuộc khu vực miền Đông Nam bộ có tổng diện
tích tự nhiên là 6.871,5 km
2

(chiếm 19,78 % diện tích khu vực miền Đông
Nam bộ và chiếm 2,09% diện tích cả nước) và có vị trí địa lý, cụ thể như sau:
- Về ranh giới hành chính:
+ Phía Bắc và Tây bắc giáp Vương quốc Campuchia.
+ Phía Đông giáp tỉnh Đắc Nông và tỉnh Lâm Đồng.
+ Phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và Vương quôc Campuchia.
+ Phía Nam giáp tỉnh Bình Dương và tỉnh Đồng Nai
- Tọa độ địa lý
+ Từ 106
0
24’36’’ đến 107
0
25’33’’ kinh độ Đông.
+ Từ 11
0
18’20’’ đến 12
0
18’11’’ vĩ độ Bắc.
2.1.2. Địa hình
Địa hình Bình Phước thuộc dạng chuyển tiếp từ bậc thềm phù sa cổ đến
đồi núi thấp và núi thấp. Xen trong số các dạng địa hình chính như trên là
những thung lũng nhỏ hẹp kéo dài ven hợp thủy và một số đồi núi sót, cao
dốc, mọc vượt trội lên như núi Bà Rá (cao 723 m), núi Nam Đô (cao 289 m)
và núi Gió (cao 169 m). Nhìn chung địa hình Bình Phước có hướng nghiêng
nhẹ từ Bắc Đông bắc xuống Nam Tây nam
Về kiểu địa hình có 4 dạng chính sau:
+ Địa hình núi thấp: diện tích 251.165 ha (36,55% DTTN); phân bố chủ
yếu ở phía Bắc Đông bắc tỉnh bao gốm các huyện Bù Gia mập, Bù Đăng, thị

16

xã Phước long và phía Đông bắc huyện Đồng Phú. Có cao độ tuyệt đối phổ
biến trong khoảng từ 300 – 500 m. Tạo thành từ các núi sót, rải rác thuộc
phần cuối của dãy Trường Sơn từ Tây Nguyên đổ xuống. Địa hình chia cắt
mạnh, dốc nhẹ đến khá dốc, độ dốc phổ biến từ 8-30
0
. Đất đai phổ biến là đất
nâu vàng, nâu đỏ trên đá bazan và đất đỏ vàng trên đá phiến.
+ Địa hình đồi núi thấp: diện tích 231.517 ha (33,69 % DTTN); phân bố
chủ yếu ở phần trung tâm tỉnh. Cao độ tuyệt đối từ 100 – 300 m, có bề mặt
lượn sóng nhẹ. Các đồi có đỉnh bằng, sườn dốc thoải, độ dốc phổ biến dưới
15
0
. Đất đai phổ biến là đất nâu vàng, nâu đỏ trên đá bazan và một ít đất đỏ
vàng trên đá phiến. Trên kiểu địa hình này rất thuận tiện cho việc bố trí sử
dụng đất nông nghiệp nói chung.
+ Địa hình bậc thềm: diện tích 157.476 ha (22,92 % DTTN); phân bố ở
phía Nam và viền ranh phía Tây, Tây Bắc tỉnh. Địa hình dạng bậc thềm khá
bằng phẳng hoặc nghiêng nhẹ, độ dốc phổ biến dưới 8
0
, độ cao phổ biến từ 30
– 50 m, đất đai phổ biến là đất xám và đất nâu vàng trên phù sa cổ
+ Địa hình bằng trũng: diện tích 25.021 ha (3,64% DTTN); phân bố rải
rác xen kẽ giữa 3 dạng địa hình chính nêu trên. Đây là vùng địa hình thấp
thuộc các vùng đất tích tụ, là các bồi trũng, các vùng phẳng. Các loại đất
chính là đất phù sa, đất dốc tụ và đất xám glây.
Nhìn chung: địa hình Bình Phước đa số có độ dốc < 15
0
, thuận lợi cho sử
dụng đất trong nông nghiệp chiếm 70 % diện tích tự nhiên, địa hình không
thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp chỉ có khoảng 15,6% diện tích tự nhiên

của tỉnh. Tổng hợp diện tích theo địa hình được thể hiện trong bảng 2.1.




17
Bảng 2.1: Thống kê diện tích theo địa hình

Độ dốc
Diện tích
(ha)
Tỷ lệ
(%)
Ghi chú
I (< 3
o
)
160.230
24.09
Rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp
II (3-8
o
)
182.840
27.49
Rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp
III (8-15
o
)
125.331

18.84
Thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp
IV (15-20
o
)
92.987
13.98
Ít thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp
V (20-25
o
)

28.901

4.34

Không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp
VI (>25
o
)

74.891

11.26

Không có khả năng sản xuất nông nghiệp
Tổng
665.180
100%



(Nguồn: Phạm Quang Khánh, 2010)[7]
2.1.3. Khí hậu
Nhìn chung, khí hậu tỉnh Bình Phước có tính chất khí hậu nhiệt đới gió
mùa cận xích đạo, với nền nhiệt độ cao và phân phối khá đều trong năm,
lượng mưa khá lớn và phân bố theo mùa rõ rệt, không có mùa đông lạnh, gió
bão hay sương muối, với các yếu tố khí tượng cụ thể như sau:
- Nhiệt độ: Nhiệt độ bình quân hàng năm toàn tỉnh khoảng 24,6
0
C; nhiệt
độ bình quân tháng cao nhất: 38,7
0
C (tháng 4); nhiệt độ bình quân tháng thấp
nhất: 17,8
0
C (tháng 12);
- Lượng mưa: Lượng trung bình năm là 1.646 mm, lượng mưa phân bố
theo mùa rõ rệt, mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng
11 đến tháng 4 năm sau; có khoảng 85- 90% tổng lượng mưa rơi trong mùa
mưa. Tháng mưa tập trung nhất là tháng 8, tháng mưa ít nhất là tháng 2
- Độ ẩm: Độ ẩm không khí khá cao, độ ẩm tương đối trung bình năm 82
% và cũng biến đổi theo hai mùa khá rõ; trong các tháng mùa mưa độ ẩm

18
thường vào khoảng 80 – 90 %, nhưng trong các tháng mùa khô độ ẩm chỉ vào
khoảng 70 %. Đặc biệt độ ẩm tối thấp trong tháng 3 có thể đạt 41 %.
- Gió: Bình Phước có hai hướng gió chủ đạo là hướng gió Tây, Tây Nam
thịnh hành trong mùa mưa với vận tốc trung bình 1,8 - 2,1 m/s và hướng gió
Đông, Đông Bắc thịnh hành trong mùa khô, vận tốc trung bình 2,0 - 2,2 m/s.
Bình Phước hầu như không chiụ ảnh hưởng trực tiếp của gió bão. Tuy

nhiên mùa mưa có thể xuất hiện các cơn lốc có vận tốc 20 - 25 m/s gây tác hại
cục bộ cho cây trồng và nhà cửa.
2.1.4. Thủy văn
Tổng lượng nước mưa rơi bình quân hàng năm của tỉnh khoảng 16 tỷ m
3
.
Tuy nhiên nguồn nước này phân phối không đều.
Nước mặt cung cấp cho sản xuất và đời sống thông qua hệ thống sông
suối của tỉnh. Trên địa bàn tỉnh Bình Phước có 4 lưu vực sông lớn chảy qua,
đó là Sông Sé; sông Sài Gòn; sông Đồng Nai; sông Măng. Trong đó sông Bé
và sông Đồng nai là hai hệ thống sông chính, đã được khai thác xây dựng
nhiều công trình thủy điện và thủy lợi. Hệ thống các hồ thủy lợi và thủy điện
lớn trên các sông này như hồ Thác Mơ, hồ Dầu Tiếng, hồ Cần Đơn, hồ sork
Phu Miêng, hồ Phước Hòa góp phần tích cực trong việc điều hòa nguồn nước
tưới, độ ẩm đất, độ ẩm không khí trong khu vực. Hệ thống sông hồ trên địa
bàn tỉnh đặc biệt có ý nghĩa trong mùa khô Bình phước có tới 4 tháng trong
năm lượng mưa hầu như không đáng kể.
Chất lượng nước mặt trên địa bàn tỉnh tương đối tốt, tuy nhiên tại một số
khu vực gần các khu dân cư nước có hiện tượng bị ô nhiễm do các chất thải.




19
2.1.5. Đất đai
Kết quả điều tra, chỉnh lý xây dựng bản đồ đất tỉnh Bình Phước tỷ lệ
1/100.000 năm 2010 cho thấy tỉnh Bình Phước có 11 loại đất thuộc 6 nhóm
đất chính, cụ thể như sau:
Bảng 2.2: Diện tích các loại đất trên địa bàn tỉnh
Tên Việt nam

Ký hiệu
Diện tích
(ha)
Tỷ lệ
(%)
I. Nhóm đất đỏ vàng

551.012,77
80,19
- Đất nâu đỏ trên đá bazan
Fk
300.429,88
43,72
- Đất nâu vàng trên đá bazan
Fu
105.362,57
15,33
- Đất nâu vàng trên phù sa cổ
Fp
70.369,02
10,24
- Đất đỏ vàng trên đá phiến
Fs
73.809,85
10,74
- Đất vàng đỏ trên đá granít
Fa
1.041,45
0,15
II. Nhóm đất xám


90.117,94
13,20
- Đất xám trên phù sa cổ
X
87.107,33
12,68
- Đất xám gley
Xg
3.610,61
0,53
III. Nhóm đất dốc tụ

20.578,27
2,99
- Đất dốc tụ thung lũng
D
20.578,27
2,99
IV. Nhóm đất đen

1.765,47
0,26
- Đất nâu thẩm trên đá bọt và bazan
Ru
1.765,47
0,26
V. Nhóm đất phù sa

832,08

0,12
- Đất phù sa không được bồi
P
832,08
0,12
VI. Nhóm đất xói mòn TSĐ

273,16
0,04
- Đất xói mòn trơ sỏi đá
E
273,16
0,04
VII. Đất khác

21.974,61
3,2
- Sông, suối và mặt nước chuyên dùng
MN
21.974,61
3,2
Tổng diện tích

687.154,3
100,00
(Nguồn: Phạm Quang Khánh và ctv, 2010)[7]
Như vậy trong 6 nhóm đất có trong tỉnh, nhóm đất đỏ vàng có tỷ lệ cao
nhất, chiếm 80,19 % diện tích tự nhiên, kế đến là nhóm đất xám 13,20 %,
nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ 0,04 %. Các loại đất thuộc
nhóm đất xám và đất đỏ vàng đều là những loại đất tốt, phù hợp với nhiều loại


20
cây trồng. Đây là thuận lợi cơ bản để Bình Phước phát triển sản xuất nông
lâm nghiệp với nhiều loại cây trồng có giá trị kinh tế cao.
2.2. Điều kiện kinh tế xã hội
2.2.1. Dân số
Theo Niên giám thống kê tỉnh Bình Phước năm 2010 thì tính đến ngày
31/12/2010 dân số trên địa bàn tỉnh 893,3 ngàn người, bằng khoảng 1,2 % dân
số toàn quốc, mật độ dân số 130 người/km
2
.
- Tốc độ tăng dân số khá cao, nhưng có chiều hướng giảm trong những
năm gần đây. Năm 2000, tỷ lệ tăng dân số là 5,23 %/năm, năm 2003 là 3,57
%, năm 2004 là 2,78 %, năm 2005 là 1,65 % và năm 2009 là 1,62 %.
- Giới tính: Nam chiếm 50,47 %; Nữ: 49,53 %.
Dân cư tập trung với mật độ cao ở thị xã Đồng Xoài, huyện Bình Long,
Chơn Thành. Huyện Bù Đăng và huyện Bù Gia Mập là hai huyện có mật độ
dân số thấp nhất tỉnh. Đây là hai huyện thuộc vùng sâu của tỉnh, điều kiện sản
xuất và giao thông đi lại còn nhiều khó khăn
Về phân bố dân cư theo địa bàn 83,21% dân số thuộc vùng nông thôn,
16,79% dân số thuộc các khu dân cư thành thị. Như vậy tỉnh Bình phước là
tỉnh nông nghiệp với đa số dân cư tập trung nông thôn
2.2.2. Lao động
Nguồn lao động có 484,6 ngàn người (chiếm 54,2% dân số), trong đó ở
độ tuổi lao động là 466,6 ngàn người (có khả năng lao động là 458,0 ngàn
người). Phân bố nguồn lao động: lao động trong các ngành kinh tế: 401,0
ngàn người; trong độ tuổi lao động: 33,3 ngàn người; không việc làm: 50,3
ngàn người.




21
2.2.3. Giao thông
Mạng lưới đường giao thông của tỉnh tương đối phát triển. Hệ thống
đường đã đến 100 % số xã trong tỉnh, 108/111 xã có đường nhựa đến trung
tâm xã, tính đến năm 2010, toàn tỉnh có 402 tuyến đường, trong đó 2 tuyến
quốc lộ chiều dài 193 km, 13 tuyến tỉnh lộ (525 km), 387 tuyến liên huyện
(2.991 km).
2.2.4. Sản xuất nông lâm nghiệp
2.2.4.1. Nông nghiệp
Bình Phước trồng các loài cây công nghiệp lâu năm, cây lương thực, cây
ăn trái diện tích một số loài cây trồng chính trên địa bàn tỉnh như sau:
Bảng 2.3: Diện tích một số cây trồng chính trên địa bàn tỉnh Bình Phước
(Đơn vị tính: ha)
STT
Loài cây trồng
2005
2008
2009
2010
A
Cây hàng năm
57.382
55.448
53.305
51.446
1
Cây lương thực
22.228
19.978

22.176
21.340
2
Cây công nghiệp
3.872
1.947
1.537
1.309
B
Cây lâu năm
236.894
313.806
323.057
343.457
1
Điều
92.071
131.866
143.481
144.413
2
Cà Phê
9.636
10.215
10.350
10.978
3
Cao su
77.489
86.598

91.143
98.262
4
Hồ tiêu
9.368
9.313
9.823
9.181
5
Dừa
102
46
62
50
6
Ca cao
-
153
279
439
C
Cây ăn trái
13.738
9.805
9.418
7.821

(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bình Phước, 2010)

22

Có thể nhận thấy đến năm 2010, thế mạnh của tỉnh Bình phước là cây
công nghiệp lâu năm với 85% diện tích trong cơ cấu cây trồng của tỉnh, tiếp
đến là cây hàng năm với 13%, cây ăn trái chỉ chiếm 2%. Trong số các loại cây
lâu năm thì cây Điều và cây Cao su được ưu tiên phát triển và chiếm tới 71%;
Cây Điều chiếm 42% diện tích, cây cao su chiếm 29%. Lý do là các loài cây
Điều và Cao su ngoài việc phù hợp với đất đai khí hậu của tỉnh, chúng đều là
những loài cây dễ tính, không đòi hỏi thâm canh cao; các loài cây khác như
Cà phê, Hồ tiêu và cây ăn trái tuy cho thu nhập khá, nhưng đòi hỏi phải có
nước tưới và thâm canh cao, nên chỉ phát triển được tại một số khu vực có
khả năng chủ động tưới nước.
2.2.4.2. Lâm nghiệp
a) Hiện trạng quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp
Tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh Bình Phước là 687.154,3 ha, diện tích
quy hoạch cho lâm nghiệp là 178.976 ha, chiếm 26,05%. Theo số liệu quy
hoạch ba loại rừng năm 2007, diện tích quy hoạch rừng sản xuất là 102156,6
ha chiếm 57,08% diện tích đất lâm nghiệp, rừng phòng hộ là 45537,5 ha
chiếm 25,44% và rừng đặc dụng là 31281,9 ha chiếm 17,48%. Theo kết quả
điều tra quy hoạch bảo vệ phát triển rừng giai đoạn 2010 – 2020 và kế hoạch
sử dụng đất chi tiết giai đoạn 2010 – 2015, hiện trạng sử dụng đất lâm nghiệp
đến tháng 12/ 2010 như sau:







23
Bảng 2.4: Hiện trạng sử dụng đất lâm nghiệp đến tháng 12/ 2010
( ĐVT: ha)

Chỉ tiêu
Tổng
cộng
Rừng
sản xuất
Rừng phòng hộ
Rừng
đặc
dụng
Tổng
Đầu
nguồn
Biên
giới
Tổng diện tích

178.976
102.156,6
45.537,5
36.712,2
8825,27
31.281,9
a) Đất có rừng


163.536

91.599,5

41.368,7

33.246,0
8122,7
30.567,6
- Rừng tự nhiên


62.677

20.307,6

12.289,9
10.395,9
1894

30.079,5
- Rừng trồng


100.859

71.291,9

29.078,8
22.850,1
6228,7

488,1
Rừng trồng cây nguyên
liệu



6.255


5.148,4


1.030,7


1.030,0

0,7



76,1

Rừng trồng cây đa mục
đích

94.604

66.153,5

28.048,1
21.820,1
6228

412,0

b) Đất chưa có rừng


12.719

9.271,2

2.773,7

2.149,8
623,9

674,4
- Đất chưa có rừng
(I
A
, I
B
, I
C
)


3.904

2.807

655

211


443

443
- Đất trồng cây hàng
năm


8.815

6.464,4

2.119,0

1.938,3
180,7

231,4
c) Đất khác


2.710

1.275,1

1.395,1

1.316,4
78,67


40,0
(Nguồn: Sở NN và PTNT Bình Phước, năm 2011)[12]
b) Trồng rừng
- Trồng rừng mới phòng hộ: Từ năm 1998 đền năm 2010 toàn tỉnh đã
thực hiện 4.948,6 ha trong đó thành rừng 2.374 ha đạt 57 %; tính riêng năm
2010 trồng rừng được 766,74 ha, gồm:
- Trồng mới rừng đặc dụng được 134 ha, thành rừng 45 ha đạt 33 %.
- Trồng mới rừng sản xuất được 11.713 ha, thành rừng 10.283 ha đạt
88%.

24
Công tác trồng rừng được quan tâm tại Bình Phước, từ những năm 1985
tỉnh Sông Bé đã có chương trình bắt buộc trồng lại rừng sau khai thác bằng
nguồn vốn trích từ quỹ nuôi rừng. Chương trình này được nối tiếp đến
Chương trình 327 và mới đây là Dự án 661. Các chương trình trồng rừng đã
để lại một số khu rừng tập trung với diện tích khá lớn với các loài cây bản địa,
hoặc nhập nội có giá trị kinh tế cao như Sao đen, Dầu rái, Xà cừ, Tếch, Keo lá
tràm, Keo lai. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau như do nhu cầu
mở rộng đất sản xuất của người dân dẫn đến hiện tượng phá rừng lấn chiếm
đất trồng rừng để canh tác, do việc quy hoạch và quản lý đất trồng rừng chưa
phù hợp và do hiệu quả kinh tế chưa cao nên hiện tại diện tích rừng trồng
thành rừng đạt tỷ lệ khá thấp. Đây cũng là những khó khăn cho công tác trồng
rừng của tỉnh Bình Phước [14].
c) Trồng cây công nghiệp
Với lợi thế khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp với nhiều loài cây cây công
nghiệp có giá trị như cây cao su, điều, cà phê, hồ tiêu trong những năm qua
tỉnh Bình Phước đã tăng nhanh diện tích những loài cây này, kể cả thực hiện
theo quy hoạch của địa phương và tự phát. Tổng diện tích của các loài cây đa
mục đích trồng trên đất lâm nghiệp hiện nay là 74.722,4 ha,
d) Hoạt động chế biến gỗ và lâm sản

Trên địa bàn tỉnh Bình phước hiện tại đã có 4 nhà máy chế biến gỗ rừng
trồng quy mô lớn với tổng công suất thiết kế là 1.322.000 m
3
sản phẩm/năm.
Ngoài ra, còn có 197 cơ sở sản xuất đồ mộc có sử dụng một phần nguyên liệu
là gỗ rừng trồng bao gồm: 61 xưởng cưa, xẻ; 128 xưởng mộc và 8 xưởng ván
lạng (Nguồn: Sở NN và PTNT, 2011) [14].
Như vậy để đảm bảo đủ nguyên liệu cho các nhà máy chế biến gỗ và các
xưởng mộc dân dụng hoạt động mỗi năm cần khoảng 6.000.000 m
3
gỗ rừng

25
trồng các loại. Với năng suất hiện tại trung bình khoảng 120 m
3
/ha thì cần
phải khai thác 50.000 ha/năm tương đương với diện tích rừng trồng nguyên
liệu là 350.000 ha (nếu tính chu kỳ kinh doanh Keo lai là 7 năm). Đây là đòi
hỏi rất lớn đối với nghành lâm nghiệp tỉnh và việc trồng rừng là nhiệm vụ cấp
bách trong thời gian tới của tỉnh Bình Phước.
2.3. Nhận xét chung về điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội của tỉnh
2.3.1. Thuận lợi
Đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Phước hầu hết là những loại đất tốt
với độ dốc nhỏ, tầng đất tương đối dày, độ phì còn cao nên rất phù hợp với
cây Keo lai. Có thể nói Bình Phước có thể trồng Keo lai trên hầu hết diện tích
quy hoạch cho lâm nghiệp. Đây là một lợi thế rất lớn của tỉnh trong việc phát
triển trồng rừng nguyên liệu gỗ.
Khí hậu ở đây cũng rất thuận lợi cho cây Keo lai phát triển, không có bão,
lũ, sương muối; nhiệt độ và lượng mưa phù hợp với yêu cầu sinh trưởng của
cây Keo lai. Vì vậy khả năng sinh trưởng và năng suất rừng trồng thường cao

hơn so với các vùng nguyên liệu tại các khu vực khác trong cả nước.
Lực lượng lao động dồi dào đảm bảo đủ nguồn nhân lực cho việc phát
triển nghành trồng rừng và chế biến gỗ.
Hệ thống giao thông khá phát triển và các nhà máy chế biến công suất
cao, đảm bảo cho việc vận chuyển và chế biến gỗ nguyên liệu Bình Phước
thuận lợi. Với vị trí địa lý cửa ngõ thông thương với Cămpuchia qua các cửa
khẩu quốc tế, như: Hoa Lư, Hoàng Diệu, Tà Vạt và là cầu nối giữa Tây
nguyên với các tỉnh phía Nam nên tiêu thụ gỗ và các sản phẩm gỗ rừng trồng
tương đối dễ dàng.
Nhu cầu thị trường lâm sản ngày một tăng mạnh; nền kinh tế - xã hội
của tỉnh và cả nước tiếp tục phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng cao và

×