Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Đánh giá hiệu quả sử dụng đất của một số mô hình nông lâm kết hợp phổ biến tại xã Tân Thanh, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 96 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP





ĐỖ ĐĂNG THỰC





ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT CỦA MỘT SỐ
MÔ HÌNH NÔNG LÂM KẾT HỢP PHỔ BIẾN TẠI
XÃ TÂN THANH HUYỆN LÂM HÀ
TỈNH LÂM ĐỒNG





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP













Hà Nội, 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP




ĐỖ ĐĂNG THỰC





ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT CỦA MỘT SỐ
MÔ HÌNH NÔNG LÂM KẾT HỢP PHỔ BIẾN TẠI
XÃ TÂN THANH HUYỆN LÂM HÀ
TỈNH LÂM ĐỒNG





CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC
MÃ SỐ: 60.62.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.T.S PHẠM XUÂN HOÀN





Hà Nội, 2012
i



LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nghiên cứu nào khác.



ĐỖ ĐĂNG THỰC
ii



LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập và nghiên cứu hoàn thành luận văn tốt nghiệp, tác
giả đã nhận được sự động viên, khích lệ và giúp đỡ của nhiều tập thể và cá nhân.
Trước tiên, tác giả xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến quý Thầy,
Cô tham gia giảng dạy lớp cao học Lâm học khoá 18, quý Thầy, Cô công tác tại
khoa Sau đại học và quý Thầy, Cô công tác tại Cơ sở 2 - Trường đại học Lâm
nghiệp Việt Nam.
Đặc biệt tác giả xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến TS.Phạm Xuân Hoàn,
người đã hết lòng giúp đỡ và hướng dẫn tận tình để tác giả hoàn thành luận văn tốt
nghiệp.
Mặc dầu đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện, song luận văn này sẽ
không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý của quý
Thầy, Cô và các bạn đồng nghiệp.


ĐỖ ĐĂNG THỰC
iii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT v
DANH MỤC CÁC BẢNG v
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3

1.1. Lý thuyết về Hệ thống Nông lâm kết hợp 3
1.1.1 Khái niệm về Nông lâm kết hợp 3
1.1.2. Đặc điểm chung của hệ thống nông lâm kết hợp 4
1.2. Trên thế giới 6
1.3. Ở Việt Nam 9
CHƯƠNG 2. MỤC TIÊU,NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 16
2.1. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 16
2.1.1. Mục tiêu tổng quát 16
2.1.2. Mục tiêu cụ thể 16
2.2. ĐỐI TƯỢNG, GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU 16
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu 16
2.2.2. Giới hạn nghiên cứu 16
2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 16
2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 17
2.4.1. Phương pháp luận 17
2.4.2. Phương pháp và công cụ thu thập số liệu 20
2.4.3. Xử lý, tổng hợp và phân tích số liệu 23
CHƯƠNG 3. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI KHU VỰC
NGHIÊN CỨU 27
3.1 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU 27
3.1.1 Vị trí địa lí 27
3.1.2 Địa hình và khí hậu thủy văn 27
3.1.3 Địa chất, đất đai 28
iv


3.2 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KHU VỤC NGHIÊN CỨU 30
3.2.1 Đặc điểm phân bố dân cư và lao động 30
3.2.2 Thực trạng cơ sở hạ tầng 31
3.3 HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG DẤT 32

3.3.1 Cơ cấu các loại đất 32
3.3.2 Tình hình sản xuất nông nghiệp 34
3.3.3 Tình hình sản xuất lâm nghiệp 34
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 37
4.1. ĐẶC ĐIỂM VÀ PHÂN LOẠI HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP Ở KHU
VỰC NGHIÊN CỨU 37
4.1.1. Quá trình hình thành các PTCT: 37
4.1.2. Hiện trạng các hệ thống canh tác tại địa phương 41
4.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CÁC PTCT 53
4.2.1. Tác động của yếu tố tự nhiên 55
4.2.3. Tác động của các yếu tố chính sách, xã hội 58
4.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC HTCT VÀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA
HGĐ 60
4.3.1. Nguồn lực của hộ gia đình 60
4.4. ĐÁNH GIÁ VÀ SO SÁNH HIỆU QUẢ CỦA CÁC HTCT 62
4.4.1. Hiệu quả kinh tế 62
4.4.2. Hiệu quả xã hội 64
4.4.3. Hiệu quả môi trường 66
4.4.4. Hiệu quả tổng hợp 67
4.5. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH NLKH CẤP NÔNG HỘ HIỆU
QUẢ VÀ BỀN VỮNG 68
4.5.1. Cơ sở đề xuất giải pháp 68
4.5.2. Đề xuất giải pháp 71
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 76
5.1. KẾT LUẬN 76
5.2. TỒN TẠI 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO ix
v



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DTTN: Diện tích tự nhiên
DVMTR: Dịch vụ môi trường rừng
HGĐ: Hộ gia đình
HTCT: Hệ thống canh tác
MHCT: Mô hình canh tác
NLKH: Nông lâm kết hợp
PCCCR: Phòng cháy chữa cháy rừng
PTCT: Phương thức canh tác
QLBVR: Quản lý bảo vệ rừng
UBND: Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Hiện trạng sử dụng đất xã Tân Thanh …………………………… 30
Bảng 3.2: Các loại đất xã Tân Thanh …………………………………………32
Bảng 4.1: Cơ cấu đất đai xã Tân Thanh……………………………………….38
Bảng 4.2: Các PTCT chính tại xã Tân Thanh……………… 45
Bảng 4.3: Mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến MHCT……………………54
Bảng 4.4: Tổng hợp các tiêu chí phân loại nhóm MHCT của HGĐ ……… 57
Bảng 4.5: Một số chính sách, dự án tại xã Tân Thanh.……………………… 59
Bảng 4.6: Mô tả các mô hình…………………………… ………………… 63
Bảng 4.7: Tổng hợp các chỉ tiêu kinh tế của 2 mô hình đại diện…………… 64
Bảng 4.8: Kết quả đánh giá hiệu quả xã hội của các mô hình NLKH …… 65
Bảng 4.9: Tổng hợp và đánh giá hiệu quả môi trường của các PTCT ….… 67
Bảng 4.10: Hiệu quả tổng hợp của các mô hình NLKH ………………….…68



vi


DANH MỤC CÁC HÌNH, ẢNH
Hình 2.1: Các bước thực hiện nghiên cứu………………………… ……… 20
Hình 4.1: Cơ cấu đất đai xã Tân Thanh trước năm 2005……………… …… 38
Hình 4.2: Cơ cấu đất đai xã Tân Thanh năm 2008…….……………… … …40
Hình 4.3: Cơ cấu đất đai xã Tân Thanh năm 2010……………………… …….41
Hình 4.4: Sơ đồ đi lát cắt tại điểm nghiên cứu ………………………… …… 42
Hình 4.5: Biểu đồ khí tượng thủy văn huyện Lâm Hà …………… … … … 43
Hình 4.6: Lịch vụ mùa xã Tân Thanh năm 2011…………………….… ….… 44
Hình 4.7: Sơ đồ tiêu thụ nông sản của xã Tân Thanh ………………… ……….58
Hình 4.8: Sơ đồ mô hình đề xuất tại địa phương …………………… …….……74
Ảnh 4.1: Keo trồng thuần loại bên cạnh cà phê tuổi …………….…… … 46
Ảnh 4.2: Rừng Thông ba lá trồng năm 2000…….… ……… ……… … …… 47
Ảnh 4.3: Lúa nước tại thôn 8 Tân Thanh…………… … …………… 48
Ảnh 4.4: Cây chè được trồng tại Tân Thanh…………………………… … 50
Ảnh 4.5: Cây Dâu tằm, Ngô, Cà phê trồng tại Tân Thanh……………… ……51
Ảnh 4.6: Ngô trồng độc canh tại Tân Thanh…………… ……… ….… …….52
Ảnh 4.7: Sắn trồng độc canh tại Tân Thanh ……………… … 53
1


ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã Tân Thanh, tiền thân là Nông trường trồng Cà phê của khu vực kinh tế
mới Hà Nội và dân di cư tự do của các tỉnh, thành khác trong cả nước đến sinh
sống. Hiện tại trên địa bàn xã có 9 dân tộc anh em ở 34 tỉnh thành đang làm ăn sinh
sống tại 11 thôn, trong đó dân tộc gốc Tây Nguyên chiếm tỷ lệ 55%, dân tộc Kinh
42% còn lại là các dân tộc khác. Đây là một xã đặc biệt khó khăn về kinh tế, do
trình độ dân trí thấp, dân cư chủ yếu là dân di cư tự do từ các tỉnh phía Bắc, tập

quán canh tác vẫn còn lấy kinh nghiệm và truyền từ đời này sang đời khác. Người
dân nơi đây còn nghèo do chưa phát huy hết hiệu quả sử dụng đất, tiềm năng sẵn có
tại địa phương.
Dân số tăng nhanh, nhu cầu về đất tăng đã tạo nên một sức ép không nhỏ đến
tài nguyên đất và diện tích đất canh tác. Mặt khác, tình trạng chặt phá rừng bừa bãi
gây nên hiện tượng lũ lụt làm cho đất bị sạt lở, xói mòn, rửa trôi, bạc mầu làm giảm
diện tích đất canh tác và gây ô nhiễm nguồn nước làm cho áp lực lên đất đai càng
nghiêm trọng hơn. Để nâng cao năng suất, sản lượng cây trồng cần phải đầu tư
giống mới, áp dụng kỹ thuật, thâm canh tăng vụ đó chính là việc quản lý sử dụng
đất hiệu quả và bền vững.
Nông lâm kết hợp (NLKH) từ lâu được xem là một hệ thống canh tác rất
quan trọng ở nước ta, đặc biệt ở những nơi có rừng nhiệt đới với lượng mưa lớn và
địa hình đồi núi có độ dốc cao. Các hệ thống NLKH có ý nghĩa cả về mặt kinh tế xã
hội và môi trường, được đánh giá là một công cụ hữu hiệu trong phát triển nông
thôn miền núi hiện nay. Chính vì vậy mà mỗi khu vực mỗi dân tộc hay mỗi hộ gia
đình có một cơ cấu cây trồng, vật nuôi hay một điều kiện cụ thể cho việc sử dụng
các nguồn tài nguyên đất, nước và môi trường sinh thái là khác nhau. Hệ thống
NLKH ở miền núi nói chung và của xã Tân Thanh nói riêng hiện nay đang còn rất
nhiều các vấn đề bất cập mà chưa tìm ra được các giải pháp cho phù hợp nên dẫn
đến đa số đời sống các HGĐ gặp nhiều khó khăn.
Để góp phần giải quyết những vấn đề đó cần có cách nhìn và quan điểm tổng
hợp, đặc biệt là hỗ trợ và thúc đẩy sản xuất, canh tác và sử dụng đất hợp lý, không
2


thể áp dụng một phương thức canh tác đồng nhất mà cần tính toán đến sự đa dạng
và thích nghi với điều kiện khu vực. Với mục đích phát triển kinh tế bền vững về 3
mặt kinh tế, môi trường và xã hội cho các HGĐ trong xã nói riêng và cho huyện
Lâm Hà nói chung, chúng tôi chọn đề tài: "Đánh giá hiệu quả sử dụng đất của một
số mô hình nông lâm kết hợp phổ biến tại xã Tân Thanh, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm

Đồng".
3


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. LÝ THUYẾT VỀ HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP
1.1.1. Khái niệm về Nông lâm kết hợp
Nông lâm kết hợp là tên gọi mới cho một phương thức canh tác cũ (Nair,
1987), [26] vì vậy nông lâm kết hợp là một lĩnh vực khoa học mới được chú ý vào
thập niên 1960. Qua nhiều năm, nhiều khái niệm khác nhau được phát triển để diễn
tả hiểu biết rõ hơn về nông lâm kết hợp. Sau đây là một số khái niệm khác nhau
được phát triển cho đến hiện nay:
Nông lâm kết hợp là một hệ thống quản lý đất đai trong đó các sản phẩm của
rừng và trồng trọt được sản xuất cùng lúc hay kế tiếp nhau trên các diện tích đất
thích hợp để tạo ra các lợi ích kinh tế, xã hội và sinh thái cho cộng đồng dân cư tại
địa phương (PCARRD, 1979).
Nông lâm kết hợp là tên gọi chung của những hệ thống sử dụng đất trong
đó các cây lâu năm (cây gỗ, cây bụi, các cây họ cau dừa, tre trúc, cây ăn quả, cây
công nghiệp ) được trồng có tính toán trên cùng một đơn vị diện tích qui hoạch
đất với hoa màu và/hoặc với vật nuôi dưới dạng xen theo không gian hay theo thời
gian. Trong các hệ thống nông lâm kết hợp có mối tác động tương hỗ qua lại về cả
mặt sinh thái lẫn kinh tế giữa các thành phần trong hệ thống (Lundgren và
Raintree, 1983).
Nông lâm kết hợp là một hệ thống sử dụng đất trong đó phối hợp cây lâu
năm với hoa màu và/hay vật nuôi một cách thích hợp với điều kiện sinh thái và
xã hội, theo hình thức phối hợp không gian và thời gian, để gia tăng sức sản xuất
tổng thể của thực vật trồng và vật nuôi một cách bền vững trên một đơn vị diện
tích đất, đặc biệt trong các tình huống có kỹ thuật thấp và trên các vùng đất khó

khăn (Nair, 1987) [26].
Trong nỗ lực để định nghĩa nông lâm kết hợp theo ý nghĩa tổng thể và
mang đậm tính sinh thái môi trường hơn, Leaky (1996) đã mô tả nó như là các hệ
4


thống quản lý tài nguyên đặt cơ sở trên đặc tính sinh thái và năng động nhờ vào sự
phối hợp cây trồng lâu năm vào nông trại hay đồng cỏ để làm đa dạng và bền vững
việc sản xuất giúp gia tăng các lợi ích về xã hội, kinh tế và môi trường của các
nông trại nhỏ.
Vào năm 1997, Trung tâm nghiên cứu về nông lâm kết hợp Quốc tế (ICRAF)
đã xem xét lại khái niệm nông lâm kết hợp và phát triển nó rộng hơn như là một hệ
thống sử dụng đất, giới hạn trong các nông trại.
Ngày nay nông lâm kết hợp được định nghĩa như là một hệ thống quản lý tài
nguyên đặt cơ sở trên đặc tính sinh thái và năng động nhờ vào sự phối hợp cây
trồng lâu năm vào nông trại hay đồng cỏ để làm đa dạng và bền vững quá trình sản
xuất cho gia tăng các lợi ích về xã hội, kinh tế và môi trường của các mức độ nông
trại khác nhau từ kinh tế hộ đến "kinh tế trang trại".
Một cách đơn giản ICRAF đã xem “nông lâm kết hợp là trồng cây trên
nông trại" và định nghĩa nó như là một hệ thống quản lý tài nguyên tự nhiên
năng động và lấy yếu tố sinh thái là chính, qua đó cây được phối hợp trồng trên
nông trại và vào hệ sinh thái nông nghiệp làm đa dạng và bền vững sức sản xuất
để gia tăng các lợi ích kinh tế, xã hội và sinh thái cho người canh tác ở các mức
độ khác nhau.
Ngoài ra có thể hiểu nông lâm kết hợp theo nghĩa rộng hơn đó là một phương
thức sử dụng đất tổng hợp trên một vùng hay một lưu vực, trong đó có mối quan hệ
tương tác giữa các hệ sinh thái tạo ra cân bằng sinh thái để sử dụng triệt để tiềm
năng sản xuất của một vùng hay một lưu vực và hệ sinh thái rừng giữ vai trò chủ
đạo. Nông lâm kết hợp không chỉ là sinh kế của một hộ gia đình mà là sinh kế và
mang lại lợi ích cho cả cộng đồng người dân sống tại đó.

1.1.2. Đặc điểm chung của hệ thống nông lâm kết hợp
Một hệ canh tác sử dụng đất được gọi là nông lâm kết hợp cần có các đặc điểm
sau:
- Hệ thống nông lâm kết hợp thường bao gồm hai hoặc nhiều hơn hai loài
thực vật (có thể cả thực vật và động vật) trong đó ít nhất phải có một loài cây trồng
5


lâu năm.
- Có ít nhất hai hay nhiều hơn sản phẩm từ hệ thống.
- Chu kỳ sản xuất thường dài hơn là một năm.
- Đa dạng hơn về sinh thái (cấu trúc và chức năng) và về kinh tế so với canh
tác độc canh.
- Cần phải có một mối quan hệ tương hỗ có ý nghĩa giữa thành phần cây lâu
năm và thành phần khác.
Trong các hệ thống nông lâm kết hợp sự hiện diện của các mối quan hệ tương
hỗ bao gồm về sinh thái và kinh tế giữa các thành phần của hệ thống là đặc điểm cơ
bản.
Theo Nair (1987), [26] các đặc điểm mấu chốt của hệ thống nông lâm kết
hợp đã được đa số các nhà khoa học chấp nhận như sau:
- Nó là tên chung để chỉ các hệ thống sử dụng đất bao gồm việc trồng các
cây lâu năm kết hợp với hoa màu và gia súc trên cùng một đơn vị diện tích.
- Phối hợp giữa sự sản xuất các loại sản phẩm với việc bảo tồn các nguồn tài
nguyên cơ bản của hệ thống.
- Chú trọng sử dụng các loài cây bản địa, đa tác dụng.
- Hệ thống đặc biệt thích hợp cho điều kiện hoàn cảnh dễ bị thoái hóa và đầu
tư thấp.
- Quan tâm nhiều hơn về các giá trị dân sinh xã hội so với các hệ thống sử
dụng đất khác.
- Cấu trúc và chức năng của hệ thống phong phú đa dạng hơn so với canh tác

độc canh.
Tóm lại, nông lâm kết hợp với sự phối hợp có suy tính giữa các thành phần
khác nhau của nó đã mang đến cho các hệ thống sản suất nông nghiệp các điểm
chính sau:
- Tạo nên một hệ thống quản lý đất đai bền vững.
- Gia tăng năng suất và dịch vụ trên một đơn vị diện tích sản xuất.
- Sắp xếp hoa màu canh tác phù hợp giữa nhiều thành phần cây lâu năm, hoa
6


màu và/hoặc vật nuôi theo không gian và thời gian trên cùng một diện tích đất.
- Đóng góp vào phát triển cho các cộng đồng dân cư về các mặt dân sinh,
kinh tế và hoàn cảnh sinh thái mà vẫn tương thích với các đặc điểm văn hóa, xã hội
của địa phương.
- Kỹ thuật mang đậm nét bảo tồn những yếu tố sinh thái môi trường.
1.2. TRÊN THẾ GIỚI
Có thể nói Nông Lâm kết hợp được bắt nguồn từ các nước Đông Nam châu
Á. Những bằng chứng còn sót lại tại Bản Chiềng, Đông Bắc Thái Lan cho thấy
Nông Lâm kết hợp đã được canh tác ở đây trong nhiều thế kỷ (Jiragorn, 1992) [24].
Theo Evan (1982) [21] Nông Lâm kết hợp đã xuất phát từ giữa những năm 1800 ở
Burma (Myanma). Vì vậy những nghiên cứu về nông lâm kết hợp cũng đã được
nghiên cứu nhiều ở các nước Đông Nam châu Á. Trong hệ thống sử dụng đất nông
lâm kết hợp, Năm 1991 với sự trợ giúp của APAN (Asia-Pacific Agroforestry
Network) 10 nước trong khu vực châu Á - Thái bình dương trong đó có Việt Nam
đã tham gia dự án nghiên cứu và phát triển hệ thống nông lâm kết hợp. Trong đó
các mô hình nông lâm kết hợp thành công trong khu vực được nghiên cứu làm cơ sở
mở rộng cho những nơi có thể cạnh tác NLKH. Trên cơ sở nghiên cứu các mô hình
sử dụng đất dốc, Trung tâm đời sống nông thôn (RLC: Rural Life Centre 1992) [20]
ở Baptist (Mindanao-Philippines) đã tổng kết và đưa ra sổ tay hướng dẫn các
phương pháp sử dụng đất dốc trong đó có thể chia ra thành 4 loại mô hình canh tác

đất dốc gồm: SALT1 (Sloping Agricultural Land Technology), SALT2 (Simple
Agro-Livestock Technology), SALT3 (Agro-Forest Land Technology), và SALT4
(Small Agro-Fruit Livelihood Technology). Mục đích của các mô hình trên là đưa
ra những phương pháp sử dụng đất khác nhau nhằm nâng cao sức sản xuất của đất,
đồng thời bảo vệ đất, chống xói mòn, tăng độ phì, từ đó kéo dài thời gian sử dụng
đất một cách có hiệu quả và bền vững. Theo Jiragorn (1992) [24] NLKH có thể giải
quyết 2 vấn đề chính là qua đó có thể xây dựng những rừng gỗ lớn mang lại lợi ích
kinh tế cho sau này đồng thời giúp ổn định đời sống của những người nông dân từ
cây lương thực ngắn ngày và làm giảm tàn phá rừng do lối canh tác đốt nương làm
7


rãy. Tại Malaysia hệ thống NLKH được canh tác với các loài cây chuối, ngô và lúa
nương được trồng xen giữa các hàng tếch (Tectona grandis), lõi thọ (Gmelia
arborea) và một vài loài thông (Sani, 1990) [27]. Tuy nhiên, NLKH ở Malaysia
không mang lại hiệu quả kinh tế cao so với các loài khác như cao su, dầu cọ và hạt
tiêu.Trong nghiên cứu mối quan hệ giữa cây nông nghiệp và cây lâm nghiệp
Hiroyuki (1992) [23] đã nêu lên cả mặt tương tác tiêu cực và tích cực trong mối
quan hệ này và theo tác giả quan trọng nhất là các nhà nghiên cứu cần tìm ra giải
pháp tốt nhất phù hợp theo từng đặc tính của loài cây trồng.
Với quan điểm cho rằng cây trồng rất cần thiết cho con người trong đời sống
hàng ngày. Bằng cách trồng cây trong hệ thống nông lâm kết hợp chúng ta có thể
đáp ứng hầu hết những cần thiết như cung cấp vật liệu làm hàng rào, củi đun, thức
ăn gia súc, thuốc chữa bệnh, phân xanh và những sản phẩm đặc biệt khác như dầu,
lương thực, phẩm nhuộm (Michael, 2003) [25]. Như vậy Nông lâm kết hợp nên bao
gồm nhiều loài cây, từ đó người dân có thể có được hiệu quả kinh tế, an toàn lương
thực, giảm việc thu hái trong rừng tự nhiên để có thể bảo vệ được cảnh quan, môi
trường.
Theo Bunderson (1995) [19], những cây làm băng xanh nên cắt ngắn 50-
70cm nhằm kích thích ra nhiều cành nhánh và cây không mọc quá cao cạnh tranh

với cây ăn quả và cây nông nghiệp. Qua nghiên cứu nhiều loài cây trồng ông đã đưa
ra danh sách những cây có thể trồng trong mô hình nông lâm kết hợp, đa mục đích
nhằm đáp ứng nhu cầu trước mắt cho người nông dân, đồng thời có tác dụng phòng
hộ, chống xói mòn.
John Dixon và Aidan Gulliver (2001), phân loại các HTCT được dựa vào các
tiêu chí chính: (i) có sẵn nguồn tài nguyên cơ bản (đất, nước, rừng, khí hậu, cảnh
quan, kích thước…), (ii) chi phối hoạt động của mô hình trang trại và sinh kế HGĐ.
Với tiêu chí đó, trên thế giới có thể phân thành 7 loại HTCT chính:
- Hệ thống tưới tiêu nông nghiệp, bao gồm một loạt thực phẩm và sản xuất
cây trồng bằng tiền mặt.
- Hệ thống canh tác trên đất ngập nước (trồng lúa).
8


- Hệ thống canh tác trên các khu vực ẩm ướt.
- Hệ thống canh tác trên các khu vực dốc và cao nguyên.
- Hệ thống canh tác trên vùng khô hoặc lạnh.
- Hệ thống canh tác hỗn hợp đánh bắt cá thủ công ven biển.
- Hệ thống canh tác nông nghiệp đô thị.
Đối với sản xuất nông nghiệp trên đất đồi núi, bao gồm canh tác trên đất có
độ dốc, đất bằng trồng cây hàng năm, lâu năm, đất ngập nước ở các thung lũng, các
thềm bậc thang có nguồn nước. Theo FAO, ở vùng đồi núi, đất nông nghiệp có độ
dốc trên 150 thường chiếm tới 50% - 60% trong tổng số đất nông nghiệp được khai
thác. Do đó, nghiên cứu khai thác đất nông nghiệp ở vùng đồi núi thực chất là vấn
đề nghiên cứu canh tác trên đất dốc hay canh tác nương rẫy, nghiên cứu mối quan
hệ giữa HTCT với vấn đề xói mòn rửa trôi (FAO, 1990) [22].
Ở Philippin, nghiên cứu HTCT Ifugao ở dải núi cao do Clofsam (1984) mô
tả là hệ thống canh tác của người dân tộc Ifugao, họ biết canh tác lúa nước ở ruộng
có hệ thống nước tưới kết hợp trồng cây lấy gỗ, lấy củi, cây ăn quả và cây thuốc.
HTCT hỗn hợp đã giúp giữ được nước chống xói mòn và trượt đất (Viện Khoa học

kỹ thuật nông nghiệp, 1996) [18].
Ở Myanma, HTCT Taungya được bắt đầu vào năm 1856. Nhà nước đã cho
trồng cây gỗ Tếch kết hợp trồng cây lúa cạn, ngô trong 2 năm đầu khi rừng chưa
khép tán. Mục tiêu chính của hệ thống này là khôi phục lại rừng bị tàn phá, sản xuất
lương thực là thu nhập phụ. Đây là dạng mô hình chuyển tiếp từ canh tác nương rẫy
sang canh tác nông lâm kết hợp (dẫn theo Phạm Xuân Hoàn, 1996) [6].
Ở Thái Lan, Hoey. M (1990) đưa ra mô hình sử dụng đất dốc nhấn mạnh
việc canh tác trên đường đồng mức, trồng cỏ thành băng, hạn chế làm đất đến mức
tối thiểu góp phần phát triển nông lâm nghiệp ổn định trên đất dốc dưới 200. Những
kết quả nghiên cứu ở Kanđihult Bắc Thái Lan trồng cây ăn quả, cây cà phê theo
băng kết hợp với bón phân đã cho hiệu quả kinh tế cao và có tác dụng cải tạo nâng
cao độ phì của đất (dẫn theo Thái Phiên, Nguyễn Tử Siêm, 1999) [11].
Khi phân tích các hệ thống nông lâm kết hợp, chăn thả… Agbool. A, 1990 đã
9


cho rằng hệ thống đa dạng hoá cây trồng là tốt nhất. Việc sử dụng đất dốc để trồng
các loài cây nào còn tuỳ thuộc vào các yếu tố khác như mưa gây xói mòn, tính chất
của đất và nhất là phụ thuộc vào các biện pháp canh tác được sử dụng để chống xói
mòn vào điều kiện cụ thể của từng địa phương. Trên các vùng đất dốc thường người
ta không gieo trồng độc canh một loại cây liên tục mà trồng gối, trồng xen, luân
canh (dẫn theo Phạm Xuân Hoàn, 1996) [6].
Phương pháp tiếp cận nông thôn một chiều (từ trên xuống) đã được FAO
nhận định không phát huy được tiềm năng của nông trại và cộng đồng nông thôn.
Thông qua nghiên cứu và thực tiễn đã chỉ ra phương pháp tiếp cận mới khi nghiên
cứu các hệ thống canh tác – phương pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân,
nhằm phát triển các hệ thống trang trại và cộng đồng nông thôn trên cơ sở bền vững
(FAO, 1990) [22].
1.3. Ở VIỆT NAM
Nghiên cứu về hệ thống canh tác ở nước ta được đẩy mạnh từ sau khi đất

nước thống nhất, Tổng cục Địa chính đã tiến hành quy hoạch đất 3 lần vào các năm
1978, 1985, 1995. Căn cứ vào điều kiện đất đai đã phân chia toàn quốc thành 7
vùng sinh thái (Trần Văn Châu, 2006) [2]. Trong những năm gần đây, nghiên cứu
HTCT ở nước ta cũng đang được Nhà nước và các nhà khoa học quan tâm, bởi đề
xuất một HTCT hợp lý cho từng vùng là vấn đề cấp thiết do tính chất đất ngày càng
xấu đi. Nhiều kết quả nghiên cứu về HTCT của các Trường, Viện và các cơ quan
nông nghiệp địa phương đã đưa ra các HTCT phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh
tế, xã hội của từng vùng, từng địa phương và từng nông hộ.
Nghiên cứu về hệ thống canh tác ở miền núi và vùng cao tại Việt Nam cho
thấy, hiện nay miền núi và vùng cao ở nước ta đang tồn tại các hệ thống canh tác
nông nghiệp sau: nương rãy du canh du cư, lúa nước và hoa màu định canh, cây lâu
năm tập trung, chăn nuôi đại gia súc, nông lâm kết hợp (Nguyễn Tử Siêm và Thái
Phiên, 1999) [11]. Tại vùng đầu nguồn sông Đà kết quả của dự án Phát triển Lâm
nghiệp xã hội sông Đà đã phân chia thành bốn phương thức sử dụng đất chính như
10


sau: Phương thức sử dụng đất tập trung vào lúa nước; Phương thức sử dụng đất đa
dạng (cả lúa nước và nương rãy); Phương thức sử dụng đất tập trung vào cây lương
thực, nương rãy với vật nuôi lớn trên vùng núi cao và Phương thức sử dụng nương
rãy ở vùng cao trung bình (Chương trình hợp tác kỹ thuật Việt - Đức, 1994).
Theo Nguyễn Tử Siêm và Thái Phiên (1999) [11], đối với vùng núi cao, dân
cư thưa, trình độ dân trí thấp, sản xuất còn ở mức thô sơ, cơ sở hạ tầng thấp, an toàn
lương thực là vấn đề cấp bách, vì vậy hệ thống canh tác có triển vọng là trồng cây
đặc sản, cây ăn quả, cây dược liệu kết hợp với bảo vệ rừng đầu nguồn, cây trồng
dưới tán rừng lâu năm, hạn chế du canh, chuyển đổi du canh thành nương định canh
với các loài cây họ đậu cải tạo đất. Một số công trình nghiên cứu về sử dụng đất
dốc, hạn chế xói mòn và tăng độ phì của đất cho một số vùng với những đối tượng
cụ thể. Việc thiết lập băng cây xanh theo đường đồng mức nhằm cắt dòng chảy bề
mặt có hiệu quả cao, lượng nước trôi có thể giảm 31%-42%, lượng đất trôi có thể

giảm 49%-52% và năng suất cây trồng tăng 41%-43% (Đậu Cao Lộc và các công
tác viên 1998) [8]. Mặc dù hàng rào cây xanh họ đậu chiếm khoảng 10% diện tích,
song năng suất cây trồng vẫn tăng 15-25% so với không làm băng xanh (Nguyễn Tử
Siêm và Thái Phiên, 1999) [11]. Các nghiên cứu của Nguyễn Văn Trường và các
cộng tác viên (1998) [15] cũng cho kết quả tương tự về biện pháp trồng cây băng
xanh cản dòng chảy bền mặt. Kết quả nghiên cứu của Đỗ Đình Sâm và Ngô Đình
Quế (1999) [10] cho thấy cây cốt khí (Tephrosia candia) có khả năng cố định đạm
khá cao và có sinh khối lơn hơn so với nhiều loài cây họ đậu khác. Cây Keo tai
tượng (Acacia mangium), một loài cây họ đậu đã được trồng làm băng xanh, tác
dụng tốt của việc này là tăng khả năng thấm nước vào đất, hạn chế xói mòn, điều
tiết dòng chảy, tuy nhiên do có canh tranh dinh dưỡng nên năng suất cây nông
nghiệp trồng xen bị giảm (Trần Đức Toàn, 1998) [14].
Bên cạnh các loài cây họ đậu vừa có tác dụng cải tạo đất, chống xói mòn,
một số loài cây trồng xen khác cũng đem lại kết quả khả quan. Tại một số địa
phương như Tam Dương, Phú Thọ và Yên Thành, Nghệ An, dứa được trồng xen
dưới tán rừng lim xanh (Erythrophloeum fordii) sau 30 năm năng suất dứa vẫn đạt
11


3-4 tấn quả/ha/năm (Vũ Biệt Linh, Nguyễn Ngọc Bình, 1995) [9], ngoài ra rễ dứa
đã tạo một lớp dày đặc đan xen, bám giữ đất tốt nên có tác dụng hạn chế xói mòn.
Biện pháp sinh học luôn tạo lớp phủ cây trồng có ý nghĩa quyết định trong việc bảo
vệ đất chống xói mòn. Tổ hợp cơ cấu cây trồng theo nông lâm kết hợp có thể tạo
lớp phủ tốt cho đất trong mùa mưa, giảm xói mòn đáng kể.
Ngoài việc hạn chế xói mòn, cải tạo đất bằng cách trồng cây băng xanh thì
việc tăng năng suất cây trồng trong nông lâm kết hợp cũng đã được đặc biệt quan
tâm trong thời gian qua. Điển hình là tổng kết về các hệ thống nông lâm kết hợp cho
từng vùng trên toàn quốc (Nguyễn Ngọc Bình, 1989) [1] trong đó tác giả đã nêu lên
các hệ thống NLKH điển hình cho từng vùng như hệ thống nông lâm kết hợp cho
vùng ven biển, vùng đồng bằng, và vùng đồi núi. Ông đã đề cập tác dụng tương hỗ

giữa các hệ canh tác để tạo sự cân bằng cần thiết cho một hệ sinh thái và trong vùng
sản xuất nông lâm nghiệp thì rừng luôn giữ vai trò cơ bản tạo nên sự cân bằng đó.
Trong hệ thống NLKH trên đất dốc, vùng đồi núi rất nhiều mô hình trồng đã được
tổng kết, trong đó gồm các mô hình lúa nương trồng xen Bồ đề (Styrax tonkinensis),
sau 1 năm chiều cao cây tăng 67%, đường kính gốc tăng 162% so với rừng bồ đề
không trồng xen. Đối với rừng tếch trồng xen lúa nương, sau 4 năm chiều cao tếch
tăng 96% và đường kính tăng 92% so với không trồng xen. Việc trồng xen cây nông
nghiệp với Luồng cũng được đánh giá cao không những tạo ra một sản lượng lương
thực lớn mà còn giảm cho phí chăm sóc rừng trong thời gian trồng xen, đặc biệt
sinh trưởng của luồng cũng tốt hơn so với không trồng xen cây nông nghiêp, sau 2
năm đường kính và chiều cao của luồng là 3,50cm và 6,8m so với 3,42cm và 6,30m
ở rừng luồng không trồng xen cây nông nghiệp (Vũ Biệt Linh, Nguyễn Ngọc Bình,
1995) [9]. Theo Võ Đại Hải (2003) [5], việc cải tiến hệ canh tác nương rẫy theo
hướng sử dụng đất bền vững chính là việc thiết lập các hệ thống nông lâm kết hợp
và hiệu quả do nó mang lại là cơ cấu thu nhập của người dân được thay đổi, thời
gian sử dụng đất kéo dài, năng suất cây trồng ổn định.
Việc xây dựng mô hình rừng nhiều tầng và áp dụng hệ thống nông lâm kết
hợp trong sử dụng đất đã hạn chế xói mòn của đất từ 30-50 tấn/ha/năm tại vùng
12


lòng hồ Hoà Bình (Nguyễn Anh Dũng, 2000) [4].
Từ các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập trên cho thấy rằng
việc sử dụng băng xanh làm hạn chế xói mòn và cải tạo đất đã mang lại lợi ích lớn
trong canh tác trên đất dốc. Việc áp dụng hệ thống nông lâm kết hợp đã đem lại một
hướng sử dụng đất đai hợp lý, tối ưu độ phì của đất, đồng thời bảo vệ và nâng cao
độ phì, mở rộng diện tích đất canh tác. Đã từ lâu, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm
tới việc áp dụng những tiến bộ khoa học trong nông lâm kết hợp để tạo nên một nền
nông nghiệp bền vững. Trong hội nghị Lâm nghiệp toàn quốc năm 1992, cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã nói “Nơi nào biết làm, biết kết hợp nông lâm, bảo vệ

rừng, trồng cây cải tạo đất đai, thâm canh ruộng vườn tạo ra một nền sản xuất thịnh
vượng. Ngược lại, nơi nào không trồng cây, phá rừng lấy đất trồng cây lương thực,
thực phẩm theo kiểu bóc lột đất đai thì khai hoang rồi lại bỏ hoang”.
Phạm Chí Thành, Đoàn Văn Điểm, Phạm Tiến Dũng, Trần Đức Viên (1996)
[13], khi nghiên cứu về phương pháp luận trong nghiên cứu xây dựng hệ thống canh
tác ở miền Bắc Việt Nam đã chỉ ra việc xây dựng hệ thống canh tác phải được tiến
hành ở từng biến sinh thái và cân đối trong phạm vi các nhóm biến sinh thái, nếu
làm đúng và có phương pháp chuyển giao tốt sẽ trở thành lượng vật chất thực sự
góp phần tăng năng suất cây trồng.
Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Đậu và các cộng sự về hệ thống nông
lâm nghiệp ở vùng trung du miền núi phía Bắc Việt Nam cho thấy hiệu quả của các
hệ thống canh tác trên đất dốc như sau: Phương thức canh tác cây lương thực sắn
xen đậu đỗ, lạc với các cây phân xanh chống xói mòn trên các loại đất phát triển
trên sa thạch, phiến thạch sét và phù sa cổ là biện pháp giải quyết phân bón tại chỗ
có hiệu quả cao để thâm canh tăng năng suất sắn trên đất dốc.
Nguyễn Văn Chương (1982), cơ cấu cây trồng được chọn vào hệ thống nông
lâm kết hợp bao gồm cây phòng hộ (Muồng đen, Keo dậu, So đũa, Phi lao, Keo lá
tràm,…), cây dài ngày (Chè, Cà phê, Trám, Hồ tiêu, Cây ăn quả,…) cây ngắn ngày
(Lúa nước, Ngô, Lúa nương, Cây có củ, Đậu đỗ,…) và sắp xếp như sau:
+ Đất dốc trên 25
o
- 30
o
tốt nhất là để rừng che phủ, rừng cây rậm kín, hỗn
13


giao nhiều tầng tán, nhiều cỏ cây trong đó phải có những cây gỗ lớn với số lượng
đông đủ sẽ là chủ thể trong hệ sinh thái rừng và đất dốc.
+ Đất dốc từ 15

o
- 25
o
có thể tạo ra quần xã thực vật theo kiểu vườn rừng với
tỷ lệ cây to khoảng 30% - 40 % còn lại là cây phòng hộ và mương máng giữ đất, giữ
nước.
+ Đất dốc dưới 15
o
nếu sườn đồi ngắn nên san bằng thành ruộng bậc thang ở
phía dưới, có rừng ở phía trên càng tốt. Có thể sử dụng 60% - 70% đất nông nghiệp,
cây công nghiệp từ 20% - 30% cho cây lớn và 10% - 15% đất đai dành cho bờ cây
và mương máng.
Hà Quang Khải, Đặng Văn Phụ (1997) [7], đã đưa ra hệ thống sử dụng đất
và đề xuất một số hệ thống kỹ thuật sử dụng đất bền vững trong điều kiện Việt
Nam. Trong đó tác giả đã đi sâu phân tích về các vấn đề: Quan điểm về tính bền
vững, khái niệm bền vững và phát triển bền vững, hệ thống sử dụng đất bền vững,
kỹ thuật sử dụng đất bền vững, các chỉ tiêu đánh giá tính bền vững trong các hệ
thống và kỹ thuật sử dụng đất.
Nhóm tác giả Nguyễn Hữu Đông, Phạm Chí Thành, Phạm Tiến Dũng (1996)
[13] khảo sát một số mô hình chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên hệ thống canh tác
ruộng chờ mưa tại Tràng Định - Lạng Sơn đã chỉ ra: các loại hình sử dụng đất ruộng
chờ mưa phổ biến (gồm ruộng bậc thang canh tác 1 vụ lúa và 1 vụ cây trồng cạn,
đất thung lũng và đất phiến bãi); các hạn chế khi canh tác trên hệ thống canh tác này
là hệ số quay vòng sử dụng đất và tỷ trọng của hệ canh tác cải tiến thấp, các tác giả
cũng đưa ra một số mô hình chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
Nhóm tác giả YNguyên Mlô, Phạm Văn Hiền, Nguyễn Văn Quý (1996) đã
lựa chọn mô hình phù hợp với 3 cấp độ dốc khác nhau: cấp 1 (00 – 50): lúa rẫy xen
cây phân xanh, cấp 2 (60 – 150): lúa rẫy xen đậu đỏ và cấp 3 (> 150): canh tác nông
lâm kết hợp; đồng thời cũng phân tích được ảnh hưởng của các hệ thống canh tác
môi trường và kinh tế hộ, trong nghiên cứu về HTCT trên đất dốc bạc màu góp

phần định canh cho đồng bào dân tộc ở Đăklak.
Nhóm tác giả Trần Đức Hạnh, Văn Tất Tuyên, Phạm Văn Phê (1996) đã có
14


những kiến nghị về tập đoàn cây trồng nông lâm nghiệp cho xã Thái Thịnh và vùng
ven hồ Hòa Bình, bao gồm: cây nông nghiệp (lúa, sắn, đậu, ngô), cây ăn quả (chuối,
mơ mận, dứa), cây lâm nghiệp (luồng, nứa, vầu, bương, keo).
Vương Văn Quỳnh (2002) [12], khi nghiên cứu luận cứ phát triển kinh tế -
xã hội vùng xung yếu hồ thủy điện Hòa Bình đã chỉ ra được các chính sách kinh tế
xã hội đã được triển khai tại khu vực và tác động của các chính sách đó đến đời
sống người dân và sự phát triển của khu vực. Nghiên cứu tác động của từng hệ canh
tác đến các yếu tố chính của môi trường vật lý và kinh tế - xã hội cho thấy hệ thống
canh tác ruộng nước, nông lâm kết hợp, rừng trồng là có hiệu quả tác động dương
đến môi trường vật lý. Mô hình nương rẫy có biểu hiện tiêu cực đến môi trường
nhưng ở mức độ thấp. Những phương thức canh tác vườn, canh tác màu, canh tác
rừng trồng có hiệu quả tổng hợp chưa cao nên cần được cải tạo phát triển theo
hướng chuyển dần thành canh tác nông lâm kết hợp.
Đặng Thịnh Triều và cộng sự (2004) [16] nghiên cứu một số HTCT ở miền
núi và vùng cao tại Việt Nam cho thấy hiện nay ở nước ta đang tồn tại các HTCT
sau: nương rẫy du canh du cư, lúa nước, hoa màu định canh định cư, cây lâu năm
tập trung, chăn nuôi đại gia súc, nông lâm kết hợp.
Nguyễn Văn Dung, Trần Đức Viên, Nguyễn Thanh Lâm (2005) [3] nghiên
cứu về ảnh hưởng của canh tác nương rẫy đến khả năng phục hồi dinh dưỡng đất
trong giai đoạn bỏ hóa của tỉnh Hòa Bình đã nhận xét việc canh tác nương rẫy trên
đất dốc làm tăng dòng chảy bề mặt, đây là nguyên nhân chính gây nên xói mòn trên
đất dốc, lượng nước chảy mặt trên đất canh tác nương rẫy tăng gấp 1,35 lần (765
mm) so với rừng tái sinh.
Điểm lại các công trình nghiên cứu về HTCT trên thế giới và ở Việt Nam
trong thời gian qua đã đề cập đến nhiều khía cạnh, kết quả nghiên cứu được ứng dụng

vào thực tiễn góp phần nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của người dân. Tuy
nhiên, những kết quả này phần lớn là tổng kết và đánh giá các mô hình hiện có ở một
vùng nông thôn không có biến động nhiều trong đời sống, chưa phân tích được quá
trình hình thành, phát triển của các HTCT và ảnh hưởng của nó đến kinh tế HGĐ.
15


Tại Tân Thanh, dưới tác động của chính sách di dân, bức tranh sinh thái,
kinh tế xã hội đặc trưng cho không gian nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi rất
phức tạp, càng làm tăng thêm tính đa dạng của các HTCT. Trong bối cảnh đó không
thể áp dụng mô hình phát triển nông nghiệp nông thôn đồng nhất mà cần tìm hiểu
quá trình hình thành và phát triển các HTCT để đưa ra đề xuất phù hợp. Chính vì
vậy vấn đề nghiên cứu đặt ra là thực sự cần thiết.
16


CHƯƠNG 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá hiệu quả sử dụng đất của một số mô hình nông lâm kết hợp phổ
biến trên địa bàn xã Tân Thanh, huyện Lâm Hà làm cơ sở đề xuất các giải pháp phát
triển mô hình mang tính bền vững tại địa phương.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng đất về các mặt kinh tế, xã hội… của
một số mô hình Nông Lâm kết hợp phổ biến tại xã Tân Thanh, huyện Lâm Hà, tỉnh
Lâm Đồng.
- Đề xuất các giải pháp phát triển mô hình nông lâm kết hợp theo hướng bền
vững phù hợp tình hình thực tế tại địa phương.

2.2. ĐỐI TƯỢNG, GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số mô hình nông lâm kết hợp phổ
biến tại xã Tân Thanh, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.
2.2.2. Giới hạn nghiên cứu
- Về chuyên môn: Luận văn tập trung vào việc phân tích, đánh giá hiệu quả
kinh tế, hiệu quả xã hội và môi trường tại các mô hình NLKH đã được lựa chọn làm
căn cứ đánh giá hiệu quả tổng hợp của các mô hình đó. Những mô hình NLKH khác
không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Về địa điểm: Đề tài được thực hiện tại xã Tân Thanh, huyện Lâm Hà, tỉnh
Lâm Đồng.
2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:
i) Phân loại hệ thống và lựa chọn các mô hình Nông lâm kết hợp tại địa bàn
nghiên cứu
17


ii) Phân tích cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong các mô hình nông lâm kết hợp
được lựa chọn.
iii) Phân tích mối quan hệ giữa các mô hình nông lâm kết hợp với đặc điểm
kinh tế - xã hội của nông hộ
iv) Đánh giá và so sánh hiệu quả sử dụng đất của các mô hình nông lâm kết
hợp
v) Đề xuất giải pháp phát triển các mô hình nông lâm kết hợp hiệu quả và
bền vững
2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.4.1. Phương pháp luận
2.4.1.1. Quan điểm tiếp cận hệ thống
Hệ thống là một cấu trúc hoàn chỉnh của tự nhiên, nó bao gồm nhiều bộ phận

chức năng liên kết với nhau một cách có tổ chức và trật tự, tồn tại và vận động theo
những quy luật thống nhất. Một hệ thống luôn bao gồm những hệ thống thành phần
hay còn gọi là hệ thống phụ. Mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong hệ thống và mỗi
hệ thống lại nằm trong hệ thống lớn hơn. Tính tổng thể của hệ thống được duy trì
thông qua các quan hệ tương tác do đó tiếp cận hệ thống không phải mô tả cấu trúc
mà là phân tích các mối quan hệ tương tác
Các hệ thống canh tác được xem là hệ thống mở trong tự nhiên. Mối quan hệ
giữa thể chế, chính sách, con người với các hệ thống canh tác chính là quan hệ giữa
hệ thống kinh tế - xã hội với hệ thống tự nhiên. Sự tác động của người dân địa
phương đến các hệ thống canh tác là hoạt động trong hệ thống kinh tế - xã hội và
tác động tới hệ thống tự nhiên.
- Sự tác động của người dân địa phương đến các hệ thống canh tác là hoạt
động trong hệ thống kinh tế, bởi hình thức và mức độ tác động gắn liền với các hoạt
động kinh tế như: sử dụng đất canh tác, khai thác lâm sản, chăn thả gia súc… Sự tác
động này cũng phụ thuộc vào sinh kế, mức sống, nhu cầu thị trường, khả năng đầu
tư, lợi nhuận trước mắt, hiệu quả kinh tế và thường quyết định tới việc lựa chọn hệ
thống canh tác. Ngược lại, các hệ thống canh tác cũng tác động mạnh mẽ tới tổng

×