Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

lịch sử địa phương lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.61 KB, 20 trang )

Khởi nghĩa N’Trang Gưh
Căn cứ vào sử liệu địa phương và lời kể của một số già làng ở Krông Nô thì N’Trang Gưh,
tên thật là Y Gưh H’Đớk, là người dân tộc Ê đê, sinh khoảng năm 1845, tại buôn Choáh Kplang,
nay thuộc xã Buôn Choáh (Krông Nô). Tương truyền, N’Trang Gưh là người tài cao, đức rộng
và là một thành viên săn bắn giỏi của buôn nên có nhiều của cải quý giá như sừng tê giác, ngà
voi. Không những thế, ông còn biết tính toán làm ăn giỏi nên mỗi khi đến mùa luôn thu được
nhiều lúa, ngô, nuôi được nhiều trâu, bò, heo, gà có uy tín trong buôn gần, làng xa, được mọi
người yêu quý. Ngoài giàu có về của cải, ông còn là người giàu lòng thương người vì luôn
hướng dẫn bà con những kinh nghiệm săn bắt, chăn nuôi, trồng trọt và sẵn sàng giúp đỡ người
nghèo khó, hoạn nạn, mất mùa. Cuộc sống bà con buôn làng trong vùng đang bình yên, hạnh
phúc thì tai họa ập đến. Năm 1884, quân Xiêm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược, đánh chiếm
vùng hạ lưu sông Krông Nô và Krông Ana. Hưởng ứng lời kêu gọi của N’Trang Gưh, người dân
ở 20 buôn người Bih sống trên lưu vực sông Krông Nô và Krông Ana đã đứng lên chống ngoại
xâm. Nghĩa quân do N’Trang Gưh chỉ huy có đến 600 người, không có súng, chỉ dùng các loại
vũ khí thô sơ: cung tên, giáo mác… Nhằm tăng thêm sức mạnh, N’Trang Gưh đã tạo ra một loại
nỏ khá đặc biệt, chưa ở đâu có. Nỏ có chiều dài quá đầu người, thành nỏ rộng một gang tay, mỗi
lần bắn ra 3 mũi tên. Với thứ vũ khí lợi hại này, cộng với tinh thần dũng cảm, kiên cường và
mưu trí, năm 1887, nghĩa quân N’Trang Gưh đã bao vây tiêu diệt toàn bộ quân Xiêm ngay trên
cánh đồng buôn Tur và buôn Phok (một làng người Ê đê nằm trên hạ lưu sông Krông Ana).
Chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân N’Trang Gưh đã đập tan cuộc xâm lược của quân Xiêm,
giúp đồng bào yên tâm lao động sản xuất, xây dựng buôn làng.
Những năm đầu thế kỷ XX, bộ máy cai trị của chính quyền thực dân Pháp đã thâu tóm và
kiểm soát gần như toàn bộ số buôn, bon của đồng bào bản địa trên vùng đất Tây Nguyên. Buốc
Gioa (Bourgeois), công sứ Pháp đầu tiên tại Đắk Lắk đã ngang nhiên dùng vũ lực quân sự xua
đuổi người Ê đê, M’nông đi nơi khác, chiếm lấy buôn, bon, đất đai, nương rẫy, bến nước để thiết
lập các đồn điền và xây dựng hệ thống đồn bốt. Quy mô các đồn điền ngày càng mở rộng thì chế
độ bắt xâu đối với người Ê đê, M’nông ở các buôn, bon càng ráo riết và tàn bạo. Đồng bào bị bắt
vào làm phu trong các đồn điền của Pháp, mỗi ngày họ phải lao động từ 14 đến 15 giờ. Chính
sách thống trị hà khắc, tàn bạo của thực dân đã làm cho người dân địa phương lâm vào cảnh bần
cùng, khổ ải nên căm phẫn cao độ. Đầu năm 1900, quân Pháp đánh chiếm các buôn của người
Bih dọc lưu vực sông Krông Nô và Krông Ana. N’Trang Gưh đã lãnh đạo nghĩa quân chiến đấu


chống lại quân xâm lược, nổi tiếng nhất là trận tiêu diệt đồn buôn Tur. Vào một buổi sáng năm
1901, dưới sự chỉ đạo của N’Trang Gưh, nghãi quân đã vượt sông Krông Nô bao vây đồn Tur,
dùng ná bắn được nhiều tên giặc rồi tấn công vào đồn. Chỉ một thời gian ngắn, toàn bộ quân địch
đồn trú tại đây bị tiêu diệt, tên thực dân Buốc Gioa, kẻ có nhiều nợ máu với nhân dân chết gục
trước sân đồn. Thừa thắng, nghĩa quân tiếp tục tiến công, lần lượt tiêu diệt các đồn khác của thực
dân như đồn buôn Jiăng, đồn buôn Dur (nay là buôn Jiăng thuộc xã Ea Bông, buôn Dur thuộc
xã DurKmăn, huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk). Từ năm 1901 đến 1913, quân Pháp liên tục mở
nhiều cuộc hành quân khá quy mô, truy quét, nhằm tiêu diệt và thôn tính phong trào. Nhưng với
sự lãnh đạo tài tình và dũng cảm của N’Trang Gưh, nghĩa quân đã chiến đấu trong suốt 13 năm.
Năm 1914, do trong hàng ngũ nghĩa quân có người phản bội, địa điểm đóng quân của N’Trang
Gưh bị tiết lộ, nên ông bị Pháp bắt, kết án tử hình.

Sau khi N’Trang Gưh mất, thi thể của ông được nhân dân đưa về chôn cất tại quê hương, nơi
ông sinh ra là buôn Choáh (nay thuộc thôn 1, xã buôn Choáh (Krông Nô).
Khởi nghĩa Ôi H’Mai
Ôi H’Mai và MaDla là thủ lĩnh của người Êđê Mthur vùng M’Drăk, Ch eoreo, Krông Puk,
Krông Păk, lãnh đạo cuộc kháng chiến của đồng bào từ 1901-1922.
Đầu năm 1901, đại uý Pê-ra chỉ huy một toán lính khố xanh từ Củng Sơn lên vùng suối Ea H’ly
nhằm kiểm soát vùng người Mthur. Tù trưởng Buôn Ea H’ly lúc này là Ôi H’Mai (tên thật là Y
Tòng). Trước việc quân Pháp ngang nhiên lập đồn ở buôn của mình, tháng 7-1901, Ôi H’Mai, Ôi
H’Phai cùng 40 nghĩa quân tấn công tiêu diệt đồn Ea H’ly, giết chết tên Pê-ra và gần hết toán
lính khố xanh. Sau thất bại này, quân Pháp bắt đầu cử những đơn vị lớn hơn tung vào lùng sục
khắp nơi nhưng vô hiệu. Ôi H’Mai vẫn kiên cường hoạt động. Khoảng năm 1905, ông lâm bệnh
từ trần ở Ea H’ly. Ôi H’Phai và những người khác tiếp tục chiến đấu đến tháng 3-1909 thì bị
địch bắt.
Sau khi cuộc khởi nghĩa của Ôi H’Mai và các đồng chí của ông thất bại, MaDla, tù trưởng Buôn
MaDla tiếp tục tục đứng dậy lãnh đạo phong trào, lan rộng khắp vùng M’Drăk, xuống Củng
Sơn, qua Cheoreo và phía Krông Păk. Trong suốt 5 năm (1915-1920), bằng chiến thuật du kích
quen thuộc, nghĩa quân đã lập nên nhiều thắng. Tuy nhiên, đến tháng 6-1920, MaDla bị bắt và bị
xử tử. Phong trào còn kéo dài đến năm 1922 mới chấm dứt

Khởi nghĩa Ama-jhao
Ama Jhao tên thật là Y Yên, họ Ayũn, sinh năm 1840 tại buôn Tung, cách thành phố Buôn Ma
Thuột ngày nay 16km về phía đông bắc, (có tài liệu cho là buôn Kô Tăm). Sinh ra trong một gia
đình Êđê có uy tín trong vùng, nổi tiếng nhờ tài săn voi cho nên ông được nhiều người yêu quý,
kính trọng. Lớn lên, Y Yên lấy cô H’Pang Niê Blô, con tù trưởng Ama Phi buôn Ea Yông (xã Ea
Yông, huyện Krong Pak) và sang ở rể bên phía nhà vợ.
Khi bố vợ ông mất, ông được dân làng bầu lên làm Tù trưởng-địa vị được dân làng kính trọng và
có thể đại diện cho dân làng trong nhiều trường hợp. Ama Jhao là một tù trưởng giàu có, ngôi
nhà của ông rộng 4m, dài 220m, có trong tay 1.000 con trâu, 15 con voi và hàng trăm nô lệ. Uy
tín của ông nổi lên mạnh mẽ và lan sang những vùng khác. Tài liệu của Pháp công nhận: “Ama
Jhao là một lãnh tụ Rađê lừng lẫy được cả vùng Hinterland cũng như Khánh Hoà, Phú Yên biết
đến với một cái tên khá khoa trương: “Vua của người Mọi”.
Ama Jhao sinh trưởng trong thời buổi mà người Pháp bắt đầu xúc tiến những bước đi đầu tiên
nhằm thiết lập quyền kiểm soát của mình trên miền Thượng. Những cố gắng thâm nhập vào
vùng nam cao nguyên theo lối truyền thống đã tỏ ra bế tắc khi mà năm 1859, hai nhà thờ Tinh
Sư và Bralam ở vùng M’nông và Stiêng bị người dân phá huỷ ngay sau khi xây dựng xong. Các
cố gắng tiếp theo của người Pháp cử những phái đoàn thám hiểm kèm theo các đơn vị vũ trang
từng bước xâm nhập vào sâu trong khu vực người Thượng. Chúng vừa sử dụng bạo lực đàn áp,
khủng bố tinh thần người dân, lại vừa phỉnh nịnh, mua chuộc những người tù trưởng, già làng.
Nhận thấy được tầm ảnh hưởng to lớn của Ama Jhao, hết Bourgeois (công sứ đầu tiên của tỉnh
Darlac), Yersin (người phát hiện ra cao nguyên Lang Biang năm 1893)… đã tìm mọi cách lôi
kéo ông về phía Pháp. Tên Khâm sứ tại Lào là Tournier đến hăm doạ: “Ông rất dễ dàng nhận ra
là ông thuộc quyền cai trị của ai. Nếu ông uống nước chảy xuôi phía biển Đông là thuộc quyền
của ông lớn người Pháp như tôi bên kia Trường Sơn. Còn nếu ông uống nước chảy về phía Tây
thì thuộc quyền cai trị của tôi”. Ama Jhao đã bình tĩnh trả lời rằng: “Tôi biết rõ là các ông muốn
gì. Nhưng tôi chỉ uống nước ao”. Những cố gắng kiểu đó của Pháp đã không có hiệu quả, còn về
phần mình, Ama Jhao không thể duy trì tình trạng hoà bình được lâu trước dã tâm ngày càng bộc
lộ rõ của thực dân Pháp, ông đã chuẩn bị cho khởi nghĩa.
Năm 1889, thực hiện ý đồ xây dựng một con đường nối liền Buôn Ma Thuột với Ninh Hòa (tỉnh
Khánh Hoà) (trước là quốc lộ 12, nay là quốc lộ 26, dài 130km), nhà cầm quyền thực dân đã cho

thi hành nhiều biện pháp cưỡng chế buộc các bộ tộc Êđê Kpẵ vùng Krông Păk phải di dời làng.
Công trình của thực dân đã đụng chạm đến những vùng đất, những khu rừng, khe suối thiêng
liêng của người dân, cùng với những biện pháp mất lòng khác đã gây nên nỗi bất bình sâu sắc
trong lòng Ama Jhao và dân làng. Ông nói: “Đất là lưng ông bà ta, rừng cây, khe suối là của ông
bà ta, sao ta lại chịu bỏ nhà, bỏ buôn đi làm đường cho bọn Ó trắng để chúng giẫm lên lưng ông
bà ta, phá phách rừng núi của ông bà ta”. Năm 1890, Ama Jhao tổ chức mai phục một toán quân
Pháp trên đường từ Củng Sơn (huyện Sơn Hoà, tỉnh Phú Yên) tiến lên chiếm Buôn Ma Thuột.
Tại Ea Yông, toán quân này đã bị các nghĩa quân Ama Jhao chặn đánh dữ dội. Ông tuyên bố:
“Đây là đất của người Rađê, sào huyệt của Ama Jhao, không một ai có quyền đặt chân đến, nếu
không có sự mời đón của tù trưởng; các ông phải lui quân, nếu không tức khắc sẽ bị tiêu diệt”.
Bất lực và sợ hãi, toán quân Pháp rủ nhau rút chạy.

Năm 1901, Ama Jhao dẫn đầu một đoàn các tù trưởng, già làng kéo xuống Phú Yên phản đối
việc mở đường, tự tiện sáp nhập đất đai của ngưởi Êđê vào Lào. Sự kiện này làm cho tên Công
sứ Phú Yên lúng túng, hứa hẹn hàm hồ cho qua. Những cam kết của người Pháp tỏ ra không
đảm bảo, trong khi đó, các cánh quân của họ cũng rục rịch hành động, do vậy, Ama Jhao nhận
thấy cần phải tăng cường liên kết với các tù trưởng khác, như Ama Gơm, Ama Hap bộ tộc Êđê
Kiăh; nhóm Êđê Mlô do Ma Dak, Ama Jak chỉ huy, đồng thời hưởng ứng các cuộc kháng chiến
khác đang nổi lên lúc đó của N’Trang Gưh, Ôi H’Mai và MaDla… tạo thành mạng lưới chống
đối rộng khắp cao nguyên Êđê, gây cho giặc Pháp rất nhiều khó khăn. Năm 1903, Ama Jhao tổ
chức phục kích một toán lính Pháp ở km 42 đường 21, tiêu diệt hai tên và thu 2 xe bò chở muối.
Pháp ra lệnh bao vây khu vực buôn Ea Yông; đồng thời phái một tiểu đoàn bộ binh thuộc phân
khu Huế cùng lực lượng bảo an M’Drăk tạo thành mũi bao vây thứ nhất, một tiểu đoàn khác
cùng lực lượng bảo an Buôn Ma Thuột tạo thành mũi bao vây thứ hai tấn công khu vực hoạt
động của nghĩa quân. Ama Jhao rút sang vùng núi Cư Quie, dự tính tiếp tục kéo dài cuộc kháng
chiến. Thực dân Pháp treo thưởng cho bất cứ ai giết hoặc chỉ điểm Ama Jhao. Tháng 1-1905,
nhờ có tin mật báo, quân Pháp vây và bắt ông. Chúng tra tấn ông tàn khốc, Ama Jhao dũng cảm
mắng giặc rằng: “Dùng hèn kế để bắt ta sao gọi là thắng ta được, điều ấy đâu có gì đáng vẻ vang
cho các ngươi. Cứ trả ta về lại núi rừng xem ai thắng ai!”. Ama Jhao hy sinh vào tháng 3-1905.
Khởi nghĩa Y-jút

Y Jut H'Wing hay còn gọi ngắn gọn là Y Jút. Ông là một nhân sỹ yêu nước người dân tộc Êđê, một
người con ưu tú của núi rừng Tây nguyên. Ông sinh năm 1888 (Có tài liệu ghi 1885) tại Buôn Krăm xã
Ea Tiêu huyện Krông Ana. Ông mất năm 1934, tên ông hiện được đặt làm tên một con đường phố chợ
sầm uất nhất Buôn Ma Thuột từ ngay trước giải phóng và được giữ nguyên cho đến nay Ngòai ra còn
có rất nhiều trường học ở Đắk Lắk được vinh dự mang tên ông. Vợ ông là H’ Yih Niê là người ở buôn
Păm Lăm – Thành phố Buôn Ma Thuột. Dù ông qua đời từ rất lâu nhưng tên tuổi của ông vẫn còn lưu
lại, sống mãi trong lòng người dân Đắk Lắk quê hương ông.
Y Jút là một trong số ít ỏi trí thức người dân tộc thiểu số thời Pháp thuộc. Lúc nhỏ ông là học sinh
Trường Tiểu học Pháp – Êđê Buôn Ma Thuột, sau đó ra Huế học. Là một học sinh xuất sắc nhưng khi
tốt nghiệp ông tình nguyện trở về trường Pháp-Êđê ở quê hương để dạy chữ cho đồng bào mình chứ
không làm quan lại để cầu vinh hoa phú quy cho riêng mình. Do rất giỏi tiếng Pháp, Y Jút cùng bạn bè
như Y Ut, Y BLul tìm hiểu mẫu tự La tinh và vần Êđê đặt ra bộ chữ viết Êđê ngày nay. Sau đó bộ chữ
này được đốc học Angtoamaki và Sabatier tu chỉnh lại vào năm 1920. Bộ chữ sớm được phổ cập rộng
rãi trong cộng đồng người Êđê. Đến năm 1935, người Pháp ở Đông Dương chính thức công nhận các bộ
chữ này và cho phép phổ cập ở Tây nguyên.
Thời đó, viên công sứ Pháp được giao quyền cai trị vùng Tây nguyên là Sabatier. Đây là một tên thực
dân khét tiếng tàn bạo và hiểm độc. Hắn một mặt khinh miệt người bản xứ, coi họ như những người mọi
rợ, một mặt lại lại chủ trương “Đất Tây Nguyên của người Tây Nguyên” để ru ngủ người Tây nguyên
và coi đó là “nguyên lý chỉ đạo nên cai trị các xứ Mọi”, kiên quyết không cho người lạ mặt vào Đắk
Lắk. Sự cấm đóan này làm Tây nguyên như bị tách rời khỏi Việt Nam và trở thành một vùng lõm
nghèo nàn và lạc hậu tất cả đã gây ra nhiều sự bất bình trong đồng bào dân tộc Tây Nguyên. Ông và
Y Út bí mật tổ chức lực lượng định ám sát viên Công sứ này nhưng chưa không thành công. Đầu tháng
10-1925, hai ông chuyển sang tổ chức đấu tranh công khai và tập hợp được đông đảo học sinh và giáo
viên trường Pháp-Êđê tham gia biểu tình phản đối Sabatier, gửi thư tố cáo hành vi tội ác của tên này đi
khắp nơi. Chính nhờ những lá đơn tố cáo của Y Jút và những người cùng chí hướng và chính chủ
trương “Đất Tây Nguyên của người Tây Nguyên” của Sabatier cũng không làm hài lòng Chính quốc và
các nhà tư bản Pháp đang lăm le muốn nhảy vào khai thác vùng đất trù phú này nên Toàn quyền Đông
Dương và Khâm sứ Trung Kỳ, Tổng Thanh tra Đông Dương đã quyết định buộc Sabatier phải rời khỏi
Đắk Lắk.
Dưới sự dạy dỗ chỉ bảo của ông, nhiều học trò của ông như Y Wang Mlô, Y Bih Aleo đã trở thành

những người lãnh đạo các phong trào cách mạng. Ngày nay, bộ Từ điển Việt – Êđê, sách giáo khoa
chuyên dạy chữ dân tộc Êđê cho chương trình phổ thông cơ sở cấp I đã được hòan thiện trong đó có sự
đóng góp rất lớn của Thầy giáo Y Jút ngày xưa.
Một số câu nói đã đi vào lịch sử của thầy giáo Y Jút:
Là một người có tinh thần tiến bộ, ham học tập để vươn lên, Y Jut thường hay nói: “Chúng ta phải có
chữ của người Êđê, chúng ta cũng cần học tiếng Pháp thật giỏi để người Pháp không dám gọi ta là Mọi”
.
Tên Công sứ Darlac lúc này là Sabatier hay tỏ ra khinh miệt người Thượng là “không đủ tư cách mặc
quần dài”. Sự kỳ thị của Sabatier đã xúc phạm đến lòng tự hào dân tộc của Y Jut, ông nói: “Thằng rê-đi-
răng (résident, chỉ Sabatier) nó không phải là người Êđê, người M’nông hay người Kinh… Tôi làm việc
với nó, tôi hiểu lắm. Chúng nó chỉ là những con giun, con sán nằm trong bụng ta, ăn hại ta. Vậy thì
chúng ta, những người Êđê, người Kinh, người M’nông phải đoàn kết lại để vươn lên. Chúng ta có đủ
trí tuệ và tài năng; không thể để mặc bọn Pháp muốn đè đầu chúng ta thế nào cũng được” .
Khởi nghĩa N’TRANG LƠNG
I. N’TRANG LƠNG VÀ BƯỚC ĐẦU HÌNH THÀNH CUỘC KHỞI NGHĨA CHỐNG
PHÁP TRÊN CAO NGUYÊN M’NÔNG.

1. Vài nét về đồng bào M’nông, S’tiêng trên cao nguyên M’nông Đắk Lắk.

Từ lâu đời, cao nguyên M’nông đã là quê hương của hai dân tộc M’nông và S’tiêng. Một dân
tộc chia thành nhiều nhóm khác nhau, mỗi nhóm có một địa vực cư trú riêng. Người S’tiêng chia
thành hai nhóm Bu Lơ và Bu Đeh, phân bổ từ miền lưng chừng sườn phía Nam cao nguyên (Bu
Lơ) đến miền đất cao kế cận thuộc Đông Nam Kỳ (Bu Đeh). Người M’nông phân bố trên phần
còn lại của cao nguyên, gồm các nhóm Biêt, Bu Nor, một bộ phận nhóm Rơhong phân bổ trên
đất Campuchia, các nhóm Nông, Prông, Preh và một bộ phận nhóm Rơhong phân bổ trên đất
Việt Nam. Người M’nông cư trú chủ yếu trên một vùng đất khá bằng phẳng của cao nguyên Đắk
Lắk và Đắk Nông ngày nay, địa hình khá bằng phẳng, hơi lượn sóng, xen kẽ với các thung lũng,
nhiều sông suối, hồ đầm, chung quanh bao bọc bởi núi cao… Địa bàn cư trú của người M’nông
là những cánh rừng tự nhiên mênh mông, nơi cung cấp lương thực, thực phẩm dồi dào cho nhu
cầu hàng ngày của đồng bào như: măng, nấm, rau rừng, tôm cá trong các khe suối, các loài chim,

thú đa dạng. Đặc biệt, từ xa xưa, người M’nông đã có nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng,
biến chúng thành voi nhà, một phương tiện vận chuyển thuận lợi của đồng bào. Không chỉ có
mối quan hệ vật chất với rừng, người M’nông từ xa xưa đã tự nhiên hình thành mối quan hệ tinh
thần, mối quan hệ văn hóa với rừng; rừng là mái nhà che chở, bao bọc người M’nông, là nơi ở
của các vị thần linh mà người M’nông có thể khẩn cầu sự giúp đỡ mỗi khi gặp khó khăn trong
cuộc sống. Có thể nói, tuy dân số không nhiều, song người M’nông đã khẳng định một vị trí khá
đặc biệt của mình bởi một nền văn hóa phong phú, đa dạng, truyền thống lịch sử đấu tranh kiên
cường, bền bỉ với những phong trào đấu tranh chống xâm lược, giành và giữ nền độc lập cho dân
tộc.

Người M’nông và người S’Tiêng là hai dân tộc láng giềng gần gũi từ lâu đời, là hai dân tộc anh em có
quan hệ nguồn gốc lịch sử nói chung, đến thời kỳ Pháp thuộc vẫn cùng một giai đoạn phát triển kinh tế - xã
hội. Ngôn ngữ M’nông và ngôn ngữ S’tiêng đều thuộc ngữ hệ Môn - Khơ Me, cùng tộc hệ ngôn
ngữ với các dân tộc như Mạ, Cơ Ho, Ba Na, Xơ-đăng v.v Đối với đồng bào M’nông, trong quá
trình lịch sử và cuộc sống hằng ngày, họ đã sáng tạo ra được một số loại nhạc cụ độc đáo: bộ gõ
có đàn chiêng (cĩng), trống (Ding Gơr), đàn môi (guốc). Truyền thống văn hóa đồng bào dân tộc
M’nông hết sức đặc sắc, gắn với hệ thống nghi lễ - lễ hội, liên quan chặt chẽ đến hệ thống thần
linh và tín ngưỡng đa thần. Đặc biệt, đồng bào M’nông và S’tiêng luôn giữ được truyền thống
bình đẳng, dân chủ, tương thân, tương trợ, tính cố kết cộng đồng.
2. Phái bộ Henri Maitre, âm mưu và tội ác đối với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

Thực hiện kế hoạch đặt ách cai trị lên vùng đất phía Nam Tây Nguyên, thực dân Pháp tiếp tục
đem quân tiến vào cao nguyên M’nông. Cuối năm 1908, “Phái bộ khảo sát - hành chính Đông
Cao Miên” được thành lập. Henri Maitre được chỉ định cầm đầu phái bộ này. Nhiệm vụ của
Henri Maitre là trong hai năm 1909-1910 phải hoàn thành điều tra khảo sát toàn bộ cao nguyên
M’nông và đặt được ở đây một nền móng ban đầu cho chính quyền thực dân Pháp. Ban đầu,
Henri Maitre chỉ có trong tay một lực lượng bảo an và khố xanh nhỏ gồm 9 tên, nhưng con số đã
nhanh chóng tăng lên đến một trung đội rút từ Buôn Ma Thuột và Xrây Ktum. Để thành công
trong chính sách nô dịch và bóc lột các dân tộc, hắn chủ trương thực hiện một phương sách hành
động kết hợp mị dân với bạo lực, lấy bạo lực làm chủ yếu. Khi Henri Maitre kéo quân vào cao

nguyên M’nông, cao nguyên này đã nằm lọt trong một vành đai đồn bốt dựng lên từ trước.
Chính với những lực lượng vòng trong vòng ngoài này, trong hai năm 1909-1910, Henri Maitre
đã tung hoành khắp cao nguyên M’nông thu thập tài liệu và tìm cách nắm dân. Tháng 6-1910,
Henri Maitre tuyên bố hoàn thành nhiệm vụ được giao. Sự thành lập hạt đại lý Pu Sra tháng 9-
1910 và việc Henri Maitre được cử làm đại lý hạt hành chính này được bọn cầm quyền chóp bu
ở Đông Dương coi là một thắng lợi to lớn của cuộc tiến quân vào cao nguyên M’nông. Nhưng
đối với người dân trên cao nguyên M’nông thì đó là kết quả của trăm nghìn hành động tàn bạo
của Henri Maitre đối với đồng bào, là nguyên nhân buộc hắn phải đền tội năm 1914.

Sáu năm Henri Maitre có mặt trên cao nguyên M’nông (1909-1914) là những năm hắn gây ra
những tội ác chồng chất, khủng bố giết chóc những người chống lại hắn, đàn áp buôn làng họ;
vơ vét, cướp bóc lương thực, xâu thuế nặng nề, hà hiếp dân của bọn tay chân của hắn. Căm phẫn
trước những tội ác chồng chất đó, nên khi N’Trang Lơng lãnh đạo phong trào nhân dân nổi dậy
đánh đồn Pu Sra đã có mấy chục làng M’nông Biêt và Bu Nor tham gia hưởng ứng. Sau đó, một
phong trào chống Pháp dấy lên rầm rộ khắp cao nguyên, lan xuống đến vùng S’tiêng; vai trò là
ngọn cờ chống Pháp trên cao nguyên đã được hai dân tộc M’nông và S’tiêng trao cho người anh
hùng N’Trang Lơng.

3. N’Trang Lơng và cuộc chiến đấu giải phóng quê hương.

N’Trang Lơng sinh khoảng năm 1870, mất ngày 23 tháng 5 năm 1935, gốc là người M’nông
Biêt. Vợ ông, bà Lal, cũng là người M’nông Biêt, theo tập tục dân tộc M’nông, ông đến ở rể tại
quê bà, một làng M’nông Biêt - làng Bu Par, dưới chân núi Đrônh, ăn nước Đắk Đưr chảy xuống
sông Prêk Tê, cách Pu Sra khoảng hai ngày đường về phía Tây - Bắc.

N’Trang Lơng và bà Lal có với nhau bốn người con, người con gái đầu lòng tên là Trang, sau
Trang là hai con gái: Hplang, Phiang và một trai Rkang. Ông bà là người làm ăn cần cù, giỏi
giang nên kinh tế khá giả, đời sống gia đình vui vẻ, hạnh phúc. Nhưng rồi tai họa đã ập đến tổ
ấm gia đình ông bà từ đồn Pu Sra, mùa khô 1910-1911, vợ ông và Trang bị lính của Henri
Maitre hãm hiếp. Để trả thù nhà, N’Trang Lơng bắt bọn chúng phải đền tội thì Henri Maitre tấn

công vào làng của ông, bắt và tra tấn dã man bà Lal và Trang rồi bỏ chết đói. Giữa mùa khô sau
đó, vào đầu năm 1912, ông nổi dậy trả thù nhà, tiêu diệt đồn Pu Sra thì Henri Maitre lại mở
chiến dịch đàn áp khốc liệt cuối mùa khô 1912-1913, đốt sạch, phá sạch tài sản gia đình ông, dồn
ông vào cảnh vong gia bại sản. Từ đó, ba người con còn lại của ông cũng bị đẩy vào cảnh phiêu
bạt rồi mất tích. Đời vợ sau của ông là bà Pang, một bà góa có một con, gốc R’Hong, quê ở Bu
Rơlâm, một làng R’Hong trước kia ở trên đầu nguồn sông Prêk Chlong, nhưng sau nhiều lần du
canh du cư đã đến cắm tại hữu ngạn trung lưu sông Đắk Huich. Đầu năm 1913, khi bị Henri
Maitre truy lùng ráo riết nhằm trả thù trận ông đánh sập đồn Pu Sra của hắn, N’Trang Lơng cùng
một số nghĩa quân đã chuyển vùng đến nguồn Đắk Huich để lánh giặc, đồng thời gây dựng cơ sở
mới, bắt nối lại phong trào ở vùng này. Ông đã gặp bà Pang và làm bạn với bà trong khoảng thời
gian này. Từ khi quê hương được giải phóng, ông về ở hẳn với bà ở Bu Rơlâm và làm đầu làng
của làng này. Đến khi ông cầm súng lên đường đi đánh Pháp xâm lược trở lại cao nguyên, bà đã
đi theo ông, trở thành người bạn chiến đấu của ông. Đến khi ông ngã xuống trước họng súng của
quân thù tại Bu Par, bà đã hy sinh bên cạnh ông.

Vị đầu làng Bu Par N’Trang Lơng bước vào lịch sử giữa mùa khô 1911-1912, năm ông
khoảng 40 tuổi. Từ đó, ông hiến dâng tất cả những năm tháng của đời mình cho cuộc kháng
chiến chống xâm lược Pháp. Ngay cả trong những năm dài quê hương được giải phóng, tuy trở
lại với cuộc sống bình thường của một người đầu làng nơi quê hương vợ, nhưng từng lúc, từng
nơi, khi tình hình cuộc chống Pháp lấn chiếm cao nguyên trở lại đòi hỏi, ông vẫn có mặt ở vị trí
cần thiết, làm nhiệm vụ của người thủ lĩnh phong trào. Như vậy, N’Trang Lơng là một tấm
gương tiêu biểu nhất về tinh thần thiết tha yêu quê hương, về chí căm thù giặc Pháp xâm lược
sâu sắc, về lòng dũng cảm và ý chí quyết tâm chiến đấu bảo vệ cuộc sống độc lập và tự do của
quê hương trong lịch sử chống Pháp ở miền sơn nguyên Nam Đông Dương. Dân tộc M’nông rất
tự hào về người thủ lĩnh của mình. Từ năm 1912 khi ông mới đứng lên cho đến khi ông phải
dừng chiến đấu vào tháng 5/1935, lớp lớp người đầu làng M’nông, S’tiêng đã kế tiếp nhau đứng
lên chiến đấu dũng cảm, ngoan cường.
**QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CUỘC KHỞI NGHĨA N’TRANG LƠNG
(1912 - 1936).


I. GIAI ĐOẠN KHỞI PHÁT CỦA CUỘC KHỞI NGHĨA N’TRANG LƠNG (1912-
1913).

Bước vào những năm cuối thập kỷ 1910, khi tiếng súng của phong trào Cần Vương đã không
còn, hầu hết các cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam đã lần lượt thất bại. Trong khi đó, điểm
nóng nhất của các phong trào chống đối cùng thời nhưng nằm ngoài phong trào Cần Vương,
cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo cũng đang trải qua những đêm cuối
cùng (cuộc khởi nghĩa chấm dứt vào tháng 2/1913, khi Hoàng Hoa Thám hy sinh). Lúc này, ở
vùng Cao nguyên M’nông, dưới sự lãnh đạo của N’Trang Lơng, cuộc khởi nghĩa của đồng bào
M’nông, S’tiêng bước vào giai đoạn khởi phát với trận mở đầu đánh vào đồn Pu Sra của Pháp.

N’Trang Lơng cùng các thủ lĩnh tiến hành xây dựng căn cứ địa kháng chiến tại thung lũng
rừng già Bu Siết (tức Bu Jeng Kiet hay Bu Jang Chet) giáp ranh với Bu N’Drung ở thượng
nguồn suối Buk Xô thuộc núi Nâm Nung. Đây là cơ quan đầu não của nghĩa quân, với lực lượng
từ 150 – 170 tay súng thoát ly buôn làng. Phần lớn nghĩa quân là người M’nông Biêt và M’nông
Nông do N’Trang Lơng trực tiếp chỉ huy. Họ xây dựng lán trại, kho lương, nhà chứa vũ khí, đào
hầm, cắm chông gài bẫy xung quanh căn cứ. Bên cạnh căn cứ là những nương rẫy trồng lúa, bắp,
khoai của nghĩa quân. Bên cạnh N’Trang Lơng - vị thủ lĩnh tài ba, trong hàng ngũ nghĩa quân,
còn có những thủ lĩnh khác như B’Heng Reng, R’Đing, R’Ong Leng, N’Xinh. Họ là những thủ
lĩnh yêu nước, là những cánh tay đắc lực của N’Trang Lơng.

Trong quá trình chiến đấu chống thực dân Pháp, hầu hết người M’nông, S’tiêng tích cực tham
gia cuộc chiến chống kẻ thù chung dưới sự lãnh đạo của N’Trang Lơng. Nếu tính trung bình mỗi
buôn có khoảng 10 người tham gia nghĩa quân thì có thể ước tính lực lượng trực tiếp chiến đấu
của N’Trang Lơng khoảng gần 5.000 người. N’Trang Lơng đã phiên chế lực lượng này thành hai
loại: lực lượng trong buôn và lực lượng ra rừng; ngoài ra còn có một lực lượng đặc biệt làm công
tác tuyên truyền và thám báo. Về vũ khí, ngoài cung, tên, giáo, mác, rìu, xà gạc, thuẫn, dao găm,
nghĩa quân chủ lực còn có súng kíp, súng mút cơ tông lấy được của Pháp. Xung quanh căn cứ và
trên những con đường địch hay di chuyển, nghĩa quân bố trí các loại bẫy, chông lợi hại nhằm
tiêu hao sinh lực của chúng. Ngoài nghĩa quân chủ lực, các thủ lĩnh khu vực thường điều động

nghĩa quân địa phương của các buôn đi chiến đấu. Họ được trang bị vũ khí tự có và được
N’Trang Lơng phân phát thêm súng tịch thu của giặc Pháp.
1. Trận Pu Sra.

Sau quá trình N’Trang Lơng vận động, tập hợp lực lượng hình thành nghĩa quân, tích trữ
lương thảo và xây dựng các căn cứ chiến đấu, đến đầu năm 1912, N’Trang Lơng quyết định mở
cuộc tấn công đồn Pu Sra - Sở chỉ huy của Pháp.

Trận Pu Sra được các tài liệu chính thức của Pháp thời bấy giờ miêu tả là một trận đánh tiêu
biểu hoàn toàn thắng lợi của nghĩa quân. Số làng liên minh với N’Trang Lơng trong trận đánh
này khoảng vài chục làng, phần lớn là người M’nông Biêt và Bu Nor ở các vùng nguồn Prêk Tê,
Đắk Rpa và Đắk Plai. Diễn biến trận đánh đồn Pu Sra, trong đêm tối, dưới sự chỉ huy trực tiếp
của N’Trang Lơng và các thủ lĩnh, khoảng 150 đến 170 nghĩa quân cùng tiến sát đồn, diệt tên
lính gác rồi ào ạt xung phong, dùng hỏa công thiêu rụi đồn Pu Sra, diệt được 13 tên địch. Trong
đó, có tên Balat Mau, quyền trưởng đồn, người Cao Miên, khét tiếng gian ác cùng tên Nđjrak Ot,
đầu làng làng Pu Sra, nổi tiếng là tay chân đắc lực của Henri Maitre cũng bị nghĩa quân trừng trị
đích đáng.

Số thủ lĩnh đầu làng và già làng tham gia chỉ huy trận đánh bên cạnh N’Trang Lơng rất đông.
Chiến thắng Pu Sra làm nức lòng dân chúng và làm tên tuổi N’Trang Lơng vang dội khắp Tây
Nguyên, Ông trở thành con người vĩ đại của dân tộc M’nông bất khuất.

Chiến thắng Pu Sra như một luồng gió mạnh thổi lên khắp cao nguyên M’nông, mở đầu một
phong trào vũ trang nổi dậy chống Pháp mạnh mẽ. Đối với Pháp, Pu Sra thất thủ là một thất bại
nặng nề. Việc cắm được đồn Pu Sra và việc thành lập được đại lý Pu Sra được chúng coi là một
thành công lớn của phái bộ khảo sát - hành chính Đông Cao Miên, tức là của Henri Maitre, thì
nay toàn bộ “sự nghiệp” đó đã bị nghĩa quân N’Trang Lơng xóa sạch.

2. Cuộc chống càn thắng lợi của nghĩa quân N’Trang Lơng mùa khô 1912-1913


Cuối năm 1912, Henri Maitre trở lại cao nguyên M’nông với nhiệm vụ “trả đũa” N’Trang
Lơng vì nghĩa quân của ông đã xóa sổ đồn Pu Sra. Trong mấy tháng mùa khô năm 1913, hắn
liên tục hành quân lùng sục khắp vùng Biêt - Bu Nor, thi hành chính sách đốt sạch nhằm dồn
nghĩa quân vào cảnh đói cực và chết chóc trong núi rừng. Chính trong cuộc càn quét trả đũa này,
Henri Maitre đã cho N’Trang Lơng, (theo lời của hắn) “một bài học nên thân”, triệt phá nốt số ít
gia sản còn lại của ông, đẩy ba người con còn lại của ông vào cảnh phiêu bạt rồi mất tích.

Bị Henri Maitre truy lùng ráo riết, N’Trang Lơng đã tạm lánh vào vùng nguồn Đắk Huich và
tiếp tục hoạt động ở đây. Nguồn Đắk Huich là một vùng có phong trào chống Pháp sôi sục, nhất
là từ khi Henri Maitre mở những cuộc hành quân càn quét N’Trang Lơng ở phía Bắc. Người
Rơhong ở đây có khoảng 25 hoặc 30 khẩu súng mua của những thương lái từ phía sông Mê
Kông đem tới. Vị đầu làng có uy tín nhất trong vùng là Bu Luk Amprah, ông cùng với N’Trang
Lơng bí mật tuyên truyền, vận động và tổ chức đồng bào M’nông trong vùng đứng lên chống
Pháp. Đầu năm 1913, Bu Luk Amprah nhiều lần đem quân đánh, quấy rối đồn Xrây Ktum. Ông
cũng vượt qua cao nguyên Đồi Cỏ, lên phía Bắc đánh vào đồn Pu La mới thành lập. Henri
Maitre đã tỏ ý e sợ và không ngừng trông chừng người thủ lĩnh đầu làng quan trọng này. Thực tế
cho thấy, vị thủ lĩnh Bu Luk Amprah đã đóng góp quan trọng vào các chiến công đánh Pháp của
nghĩa quân N’Trang Lơng.
II. NGHĨA QUÂN N’TRANG LƠNG LIÊN TỤC TẤN CÔNG, GIÀNH LẠI QUYỀN
LÀM CHỦ TÂY NGUYÊN (1913 – 1915).

Bước sang năm 1913, trên cao nguyên M’nông, phong trào khởi nghĩa do N’Trang Lơng lãnh
đạo đang bước những bước tiến mới, chuẩn bị thế và lực liên tiếp mở những trận tấn công tiêu
diệt địch.

1. Trận liên hoàn Bu Nor - Bu Mêra - Bu Bông.

Tình hình cao nguyên M’nông trong mùa khô 1913-1914 rất căng thẳng. Trên phần cao
nguyên thuộc Cao Miên do bị Henri Maitre tàn phá trong chiến dịch trả đũa mùa khô trước nên
nhiều diện tích rẫy không làm được. Vụ thu hoạch cuối năm 1913 bị giảm sút nghiêm trọng, kéo

theo là một nạn đói trầm trọng trong cả mùa khô 1913-1914. Trong khi đó, năm 1913, thuế thân
tăng lên đến 7 đồng bạc Đông Dương một người. Đời sống của người M’nông Biêt, Bu Nor và
R’Hong vì vậy rất khổ cực. Khắp phần cao nguyên này lại nổ ra những trận chiến đấu chống
thực dân Pháp, phong trào xây dựng làng chiến đấu chuẩn bị chống giặc diễn ra rầm rộ, đặc biệt
ở nguồn sông Đắk Huich.

Đối với thực dân Pháp, lúc này việc lập một lỵ sở cho hạt đại lý đã trở thành một việc cấp
bách. Do đó, cuối tháng 2/1914, Galchiê và Henri Maitre đến Bu Mêra, một làng M’nông Nông
trong lưu vực Đắk R’tíh để xây dựng đồn đại lý. Bu Mêra là một làng đông dân và khá giả,
nằm trên bờ Búk Xô có vị trí chiến lược cơ động nhất trong lưu vực Đắk R’tíh và đối với
toàn phần cao nguyên M’nông. Bao quanh có nhiều làng khác như Bu Jâng Chet (cũng gọi là
Bu Xiêt), Bu Ya, Bu Pu (U) Min và Bu Nđrung. Hành động của chúng bị nhân dân trong
khu vực phản đối gay gắt.

Giữa tháng 6/1914, đồn Mêra bước vào thời kỳ sắp hoàn thành. Lực lượng vũ trang của
Henri Maitre đã tăng lên đến 25 lính khố xanh Trung Kỳ và bảo an Cao Miên; ngoài ra có 4 tên
phiên dịch, cai culi và bồi bếp, do một số tên đội khố xanh chỉ huy. Để bảo đảm hậu cần cho số
quân đồn trú và bọn nhân viên phục vụ, khoảng giữa tháng 6/1914, Henri Maitre đi Giring lấy
tiếp tế, hẹn sau 1 tháng sẽ trở về. N’Trang Lơng và hội đồng thủ lĩnh M’nông Nông quyết định
nắm lấy thời cơ này để khởi sự.

Quyết định của hội đồng thủ lĩnh dưới sự lãnh đạo và chỉ huy của N’Trang Lơng là: ngày
Henri Maitre vừa về đến Mêra, bất ngờ dụ hắn đi Bu Nor ngay, lấy cớ N’Trang Lơng đang uy
hiếp mạnh các làng M’nông Nông đang chứa chấp hắn, hắn cần đến hợp lực với các làng đánh
N’Trang Lơng. Mục tiêu trận Bu Nor là tiêu diệt Henri Maitre và một bộ phận quan trọng lực
lượng vũ trang của hắn. Mục tiêu thứ hai phải đánh liền sau đó là đồn Mêra, tiêu diệt nốt số lính
còn lại, cướp đoạt vũ khí và lương thực dự trữ.

Vị đầu làng Bu Jâng Chet là R’Đing vốn được Henri Maitre coi là một “đồng minh”, nên là
người có danh nghĩa nhất đứng ra kêu gọi Henri Maitre liên minh với người M’nông Nông đi

đánh N’Trang Lơng, và là người chủ trì lễ “kết minh”.

R’Ong Leng và Bơ Rơi Njưng là chỗ Henri Maitre đã qua lại nhiều lần, được hắn coi là chỗ
quen thân, được giao nhiệm vụ thay R’Đing đến gặp Henri Maitre kêu cứu, dụ hắn đến Bu Nor
để làm lễ “kết minh” trước khi xuất quân đi đánh N’Trang Lơng. Với tư cách là người đầu làng
Bu Nor, R’Ong Leng sẽ phụ trách tổ chức lễ “kết minh” và tiếp đãi Henri Maitre. Việc bảo vệ từ
xa, đón đánh viện quân địch có thể từ Ban Mê Thuột hay Krôchiê đến được giao cho người đầu
làng làng Bu Bông. Khi trận Bu Nor đã kết thúc, R’Ong Leng có nhiệm vụ thu dọn chiến trường,
còn N’Trang Lơng, R’Đing, Xning và Njưng hành quân cấp tốc đánh đồn Mêra vào ngày hôm
sau.

Đúng hẹn và với một thái độ lạc quan, hoàn toàn yên tâm về người M’nông Nông “tuy còn
độc lập nhưng đã chịu khuất phục” ngày 24/7/1914, Henri Maitre từ Giring lên đường trở về
Mêra, đến tối ngày 28 thì hắn về đến đồn. Thời điểm nghĩa quân mong đợi đã đến, khi Henri
Maitre vừa xuống ngựa thì R’Ong Leng và Bơ Rơi Njưng đã chờ sẵn ở đồn, khẩn cấp kêu cứu,
yêu cầu hắn xuất quân ngay phối hợp với các làng M’nông Nông đi đánh N’Trang Lơng.

Cuộc gặp chóng đi tới thỏa thuận lập một liên minh Pháp với người M’nông Nông chống
N’Trang Lơng, Henri Maitre quyết định xuất quân ngay sáng hôm sau. Bu Nor được chọn làm
điểm hội quân và một lễ “kết minh” sẽ được tổ chức trước khi hai bên cùng ra quân. Bu Nor,
như đã biết, là một làng của R’Ong Leng, và đây lại là làng cửa ngõ đi lên phía Bắc và phía Tây
vào các vùng M’nông: Biêt, Bu Nor và R’Hong.

Sáng 29/7, Henri Maitre lên đường đi Bu Nor với một lực lượng 15 lính khố xanh, cả bọn
phiên dịch, cai culi và bồi bếp tháp tùng. Ba voi vừa mới từ Giring về, trong đó có voi của
Nchuh, đều bị Henri Maitre điều đi luôn để chở đạn, gạo và hành lý. R’Ong Leng đề nghị Henri
Maitre không cần đem nhiều lính và Pactiđăng. Ông hứa sẽ cung cấp Pactiđăng cho hắn. Henri
Maitre để lại giữa đồn Mêra chỉ một tên đội khố xanh và 7 lính với những thùng vũ khí mới đem
ở Giring về.


Henri Maitre đến Bu Nor ngay chiều ngày 29/7, hắn được R’Ong Leng tiếp đãi theo đúng phong tục
mến khách của người M’nông. Lễ “kết minh” tổ chức ngay hôm sau, vào khoảng 8 giờ ngày
30/7/1914, tổ chức tại nhà R’Ong Leng. Lễ chính thức là cúng giàng, làm một lễ hiến sinh lấy
nước phép rưới cầu may cho vũ khí. Vũ khí của cả đôi bên được chất thành đống, kể cả khẩu
súng lục của Henri Maitre. Khi Lễ chính thức bắt đầu, hắn vừa được đưa cần rượu cho uống
trước thì N’Trang Lơng bước đến bên cạnh, ông hỏi y một câu có tính chất thách thức, và bằng
một động tác chính xác, N’Trang Lơng rút dao ngắn đâm Henri Maitre một nhát trúng tim.
Những nhát dao ngắn đâm tiếp theo là của các vị thủ lĩnh theo thứ tự quan trọng của mỗi người:
Bơ Xing Rđing, R’Ong Leng, Bơ Ning Xning, Bơ Rơi Njưng. Đồng thời reo lên khắp nhà tiếng
hô “Lơh! Lơh!” (Giết! Giết!). Nghĩa quân, cả đàn bà, nhảy xô vào bọn lính và tay chân của
Henri Maitre, diệt kỳ hết, trừ người nài voi Nchuh đi thả voi mới về, ngồi xa đàn lễ, nghĩa quân
không thấy nên thoát chết và được giữ lại làm tù binh.

Trận đánh đồn Mêra diễn ra ngay sau trận Bu Nor, trưa ngày 31/7/1914. N’Trang Lơng đích
thân chỉ huy trận đánh với sự tham gia của Bơ Xing Rđing và Bơ Ning Xning. Vào lúc đứng
bóng, đồn Mêra bị dân hai làng Bu Mêra và Bu Jâng Chet tràn vào, không chỉ đàn ông mà cả đàn
bà. Nghĩa quân hóa trang thành lính khố xanh với trang phục lột được ở Bu Nor, trà trộn trong
dân vệ để lọt vào đồn. Trận đánh đã tiêu diệt số ít lính và chỉ huy còn lại trong đồn diễn ra một
cách nhanh chóng. Đây cũng là một trận thắng trọn vẹn nữa của nghĩa quân theo đúng kế hoạch
đã định.

Trận Bu Bông, trận thứ ba trong thế đánh liên hoàn, là một trận đánh nhỏ, diễn ra như một
ngẫu nhiên của lịch sử. Đây là một bằng chứng nữa nói lên sự đúng đắn của phương án tác chiến
đã vạch ra, lòng trung thành vô hạn của nghĩa quân Bu Bông đối với N’Trang Lơng, ý thức chấp
hành nghiêm túc quân lệnh của vị thủ lĩnh ở Bu Bông. Kết quả trận đánh, nghĩa quân đã tiêu diệt
được một toán lính khố xanh của đại lý Buôn Ma Thuột áp giải tù đi Mêra.

Ngoài trận liên hoàn Bu Nor - Bu Mêra - Bu Bông, nghĩa quân N’Trang Lơng đã lần lượt tiêu
diệt hai đồn Pu Klia và Pu Thông ở thượng lưu hai sông Prêk Tê và Prêk Chlong, giáng một đòn
mạnh mẽ vào hệ thống đồn bốt của thực dân Pháp.

2. Trận Bu Tiên.

Bước vào mùa khô 1914-1915, thực dân Pháp chủ trương mở một cuộc hành quân càn quét
xuyên suốt cao nguyên M’nông từ tây xuống đông, một mặt để tìm diệt N’Trang Lơng và nghĩa
quân; mặt khác cũng thăm dò khả năng đặt lại sự có mặt của chính quyền Pháp một mức nào đó
trên cao nguyên.

Nhiệm vụ cuộc hành quân được giao cho tên công sứ Truphô (Trouffot) tỉnh Krochê với một
tên quan một khố xanh Macgăng (Margand) làm phụ tá quân sự và tên đồn trưởng kiểm lâm
Cuôcsăng (Coursante) làm người dẫn đường, xuất phát từ Xrây Chis đầu tháng 1/1915, nhằm
hướng sông Đắk Ghbar (Tioba, gọi theo tiếng Khơme). Nghĩa quân do N’Trang Lơng trực tiếp
chỉ huy bí mật theo dõi, bám sát địch và nhiều lần đã đánh quấy rối chúng dọc đường. Đến chiều
14/1/1915, Truphô dừng chân trú quân trong một khe núi thuộc làng Bu Tiên, ở phía Đông Bắc
Xrây Chis, cách Krochiê khoảng 60km về phía Đông. Sau một đêm không trăng bao vây và phục
kích toàn khu vực trú quân của địch, sáng sớm ngày 15/1/1915, nghĩa quân từ các phía trườn
theo sườn núi đổ xuống đánh ập vào lều giết Truphô và Macgăng, tiêu diệt bọn lính không sót
một tên, thu toàn bộ vũ khí, quân trang quân dụng, thu được bốn voi.

Trận Bu Tiên, là một trận tiêu diệt hoàn toàn thắng lợi nữa của N’Trang Lơng và nghĩa quân
của ông, góp phần khẳng định ý chí, khả năng chiến đấu tiêu diệt địch, đồng thời, bẻ gãy ý chí
xâm lược của thực dân Pháp trong một thời gian dài.

III. CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN THẮNG LỢI, MỞ RỘNG ĐỊA BÀN
KHỞI NGHĨA (1916 - 1927).

Từ khi cao nguyên M’nông sạch bóng giặc Pháp, cuộc sống nơi đây dần trở lại nếp sống cổ
truyền, nhưng đã phải trải qua những khó khăn chưa từng thấy. Những hậu quả phá hoại kinh tế
do Henri Maitre gây ra trong chiến dịch trả đũa đàn áp mùa khô 1912-1913 vẫn chưa khắc phục
được thì nay giặc Pháp lại triệt đường tiếp tế muối, gây nên nạn lạt muối nghiêm trọng. Một số
thủ lĩnh của phong trào nảy sinh dao động, nộp cho giặc một số súng mà nghĩa quân đã cướp

được. Để giữ vững phong trào, dưới sự lãnh đạo của N’Trang Lơng (lúc này đã trở về với gia
đình ở Bu Rlâm và đứng đầu làng này), nghĩa quân đã tiến hành một đợt thanh trừng bọn phản
bội và bọn tay chân cũ của Pháp.

Do ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc khởi nghĩa N’Trang Lơng, phong trào đấu tranh chống thực
dân Pháp trên vùng cao nguyên Nam Đông Dương đã lan rộng ra nhiều khu vực, đặc biệt nổi lên
là phong trào chống Pháp của người S’tiêng ở Bà Rá. Đầu năm 1925, vùng Bà Rá vẫn còn nằm
ngoài tầm với của thực dân Pháp ở đại lý Phú Riềng. Trước tình hình không chịu khuất phục của
nhân dân S’tiêng, thực dân Pháp chuyển sang dùng quân sự đánh chiếm vùng S’tiêng Bà Rá.
Cuộc xâm lược này được giao cho tên quan tư Cariê (Carrier) tiến hành với sự tài trợ của các
công ty đồn điền cao su ở Nam Kỳ, với sự phối hợp và yểm trợ của các tên đại lý đồn trưởng các
đồn Bu Đốp và Chlong Phlas cả về quân sự và chính trị. Trong hai mùa khô 1925-1926 và 1926-
1927, Cariê liên tiếp càn quét vùng S’tiêng Tây Bà Rá, rồi vùng S’tiêng Đông Bà Rá; càn quét
đến đâu, y cho làm đường đến đó. Mạng lưới đường y làm thọc sâu dần về phía Bắc vào vùng
M’nông – S’tiêng. Do các cuộc càn quét ác liệt của Cariê, phong trào chống Pháp của đồng bào
S’tiêng khu vực Bà Rá tạm thời lắng xuống.

Đến đây, kết thúc giai đoạn (1916-1927) của cuộc kháng chiến chống Pháp lấn chiếm cao
nguyên trở lại của hai dân tộc M’nông và S’tiêng. Với truyền thống chống xâm lược từ lâu đời,
tấm gương chiến đấu và các chiến công oanh liệt của N’Trang Lơng đã động viên và cổ vũ đồng
bào M’nông và S’tiêng tiến hành một cuộc chiến đấu anh dũng, giữ vững được phần lớn nhất đất
đai, bảo vệ tự do trên quê hương, góp phần cổ vũ sức chiến đấu chống thực dân Pháp của đồng
bào các dân tộc nhiều vùng trên Tây Nguyên, Nam Kỳ. Song, trước mắt đồng bào là một kẻ thù
tàn bạo, ngày càng mạnh và càng quyết tâm chinh phục trở lại cao nguyên.

IV. ĐẤU TRANH QUYẾT LIỆT CHỐNG LẠI NHỮNG THỦ ĐOẠN TÀN BẠO,
NHAM HIỂM CỦA KẺ THÙ (1928-1936).

Năm 1928, thực dân Pháp lộ rõ âm mưu chính thức xâm chiếm trở lại cao nguyên M’nông.
Cho đến lúc này, sức ép của việc khai thác đồn điền và xây dựng căn cứ quân sự chiến lược Tây

Nguyên đã rất cấp bách, mặt khác, chúng còn phải đối phó với sự nổi dậy đấu tranh mãnh liệt
của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Chúng đã nhận ra “kẻ thù đáng gờm nhất” trên các bước
đường đánh chiếm miền cao nguyên đất đỏ là N’Trang Lơng, “từ sau vụ giết Henri Maitre (năm
1914), ông đã có một ảnh hưởng cực kỳ to lớn đối với các nhóm cư dân còn chưa chịu khuất
phục trên miền cao nguyên”, chỉ khi diệt được ông thì “mới gây được ấn tượng mạnh mẽ, có lợi
cho cuộc xâm lấn ”. Vì vậy, đồng thời với tăng cường đàn áp đánh phá miền Bắc Tây Nguyên,
chúng tập trung ra sức tìm diệt N’Trang Lơng. Quá trình thực dân Pháp xâm lược trở lại cao
nguyên M’nông là một cuộc đối đầu ngày càng quyết liệt, một mất một còn giữa N’Trang Lơng
và chúng.
Cuộc kháng chiến của nghĩa quân N’Trang Lơng từ năm 1928 đến năm 1936, có thể chia giai
đoạn này làm ba thời kỳ:

1. Thời kỳ từ 1928 đến giữa mùa khô 1930-1931.

Thời kỳ này, thực dân Pháp mở đầu lấn chiếm cao nguyên M’nông bằng phương pháp hòa
bình, âm mưu đó của thực dân Pháp đã bị N’Trang Lơng kết thúc bằng trận đánh tiêu diệt tên đại
lý Xnul vào tháng 1/1931.

Mở đầu thời kỳ thực dân Pháp âm mưu lấn chiếm “hòa bình” cao nguyên M’nông, chúng
quyết định làm đoạn đường chiến lược 14 qua phần cao nguyên này thuộc đất Cao Miên để hoàn
thành việc nối liền ba xứ và dùng làm đường hành quân bình định phong trào chống lại chúng;
mặt khác, chúng quyết định thành lập tiểu đoàn pháo thủ sơn cước Nam Trung Kỳ, dùng làm
công cụ đàn áp các phong trào chống lại chúng trên vùng núi và cao nguyên chúng đã kiểm soát
được, chỉ huy sở đóng tại Buôn Ma Thuột, một lực lượng lớn đóng tại Buôn Ma Thuột trấn giữ
cao nguyên M’nông, bộ phận còn lại đóng tại Kon Tum trấn giữ vùng Bắc Tây Nguyên.

Tuyến đường 14 trên đất Cao Miên chạy qua một vùng M’nông cho đến năm 1928 vẫn còn là
một vùng tự do hay vùng ly khai với Pháp. Để yểm trợ cho công trường làm đường, thực dân
Pháp ở đồn đại lý Xnul (Cao Miên) thường xuyên cho một lực lượng bảo an mạnh tuần tiễu dọc
tuyến đường. Đồng thời, sự yểm trợ từ xa cũng được giao cho hai đồn đại lý Chlong Phlas (Cao

Miên) và Bu Đốp (Nam Kỳ). Trong tháng 2/1928 và những tháng tiếp theo, hai đồn này đã liên
tục mở những cuộc hành quân phối hợp càn quét từ phía Nam lên theo lưu vực Đắk Glun (đầu
nguồn sông Bé) và các chi lưu của con sông này. Trước sức ép nhiều phía của quân Pháp, người
R’hong và người M’nông trong khu vực tạm thời nằm yên hoặc lánh sâu vào rừng ly khai với
giặc.

Trong tình hình đó, khi con đường 14 vừa lên tới đỉnh dốc đường phân thủy để đi vào cao
nguyên Đồi Cỏ thì nghĩa quân N’Trang Lơng tổ chức phục kích ngày 26/1/1931, tại La Pam, km
70 (kể từ biên giới Nam kỳ - Cao Miên), nghĩa quân đã đánh và tiêu diệt tên đại lý đồn trưởng
Xnul kiêm chỉ huy công trường đường Gati (Gatille). Tin N’Trang Lơng và nghĩa quân diệt được
Gati đã có tác động như một hiệu lệnh làm dấy lên trên toàn cao nguyên một phong trào chống
Pháp sôi sục, bùng lên khắp nơi một phong trào dấp rừng, lập làng chiến đấu, chuẩn bị chống
giặc, khí thế bừng bừng như thời kỳ đầu của cuộc khởi nghĩa. Các công trình làm đường, các
đồn điền của Pháp liền bị dìm vào cảnh thiếu công nhân và hoàn toàn tê liệt. Tình hình trên cao
nguyên đã trở nên cực kỳ nghiêm trọng, làm kinh động cả bọn cầm quyền chóp bu ở Đông
Dương. Từ đây diễn ra một cuộc đối đầu thật sự giữa một bên là nghĩa quân N’Trang Lơng và
đồng bào M’nông và S’tiêng, một bên là tên toàn quyền Đông Dương Pie Paxkiê và tên tướng
Biôt (Billote), tổng chỉ huy quân đội thuộc địa Pháp ở Đông Dương với lực lượng quân sự và
phương tiện chiến tranh to lớn của chúng, một cuộc đối đầu kéo dài hơn 3 năm và đã kết thúc
bằng thắng lợi của nghĩa quân N’Trang Lơng và đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

2. Thời kỳ từ giữa mùa khô 1931-1932 đến giữa mùa khô 1933-1934.

Thời kỳ bọn thực dân Pháp chóp bu ở Đông Dương ra tay trực tiếp cầm quân, ba xứ Nam Kỳ,
Trung Kỳ, Cao Miên phối hợp ra quân liên tục càn đi quét lại cao nguyên M’nông, nhưng cuối
cùng đã thất bại; đánh dấu sự thất bại này là hai trận đánh phối hợp của nghĩa quân N’Trang
Lơng và nghĩa quân S’tiêng hai ngày đầu tháng 1/1934.

Mở màn của thời kỳ đối đầu này là những cuộc họp từ tháng 2 đến tháng 8/1931 của P.Paxkiê
và Biôt bàn về chủ trương và kế hoạch đưa lực lượng quân đội thuộc địa của chúng vào đánh

dẹp cuộc nổi dậy của người M’nông và người S’tiêng dưới sự lãnh đạo của N’Trang Lơng. Dưới
sự chỉ huy trực tiếp của P.Paxkiê và của Biôt, đến tháng 10/1931, kế hoạch bình định cao
nguyên M’nông của Pháp đã vạch xong. Mục tiêu của kế hoạch này là càn quét tiêu diệt
N’Trang Lơng và nghĩa quân của ông kết hợp với việc đẩy mạnh làm đoạn đường 14 từ Xrây
Ktum (Cao Miên) đi Buôn Ma Thuột. Lực lượng để dập tắt phong trào N’Trang Lơng là một tiểu
đoàn quân đội thuộc địa làm chủ lực, một phân đội không quân làm nhiệm vụ thám thính và
oanh kích. Ngoài ra, các chi đội khố xanh Buôn Ma Thuột, bảo an của Bu Đốp và của Chlong
Phlas dùng làm lực lượng phối hợp hay hỗ trợ tác chiến. Chúng sẽ tiến hành những cuộc càn
quét ngang dọc theo nhiều hướng khác nhau trên toàn bộ khu vực trong đường tròn khép kín từ
Buôn Ma Thuột qua Kinda, Girinh, Võ Đắt (Trung Kỳ), Bà Rá, Bù Đốp (Nam Kỳ), Xrây Ktum,
Chlong Phlas (Cao Miên).
Giữa mùa khô 1931-1932, vào tháng 12/1931, Biôt ra lệnh xuất quân. Ngay từ đầu, kế hoạch
xuất quân đã phải điều chỉnh. Thay vì 6 cánh quân đã dự kiến cùng một lúc tung ra càn ngang
quét dọc trên toàn địa bàn cao nguyên M’nông, Biôt chỉ tổ chức được ba mũi tiến công: hai mũi
theo hướng chính, tức theo trục con đường 14 tương lai, trong đó một mũi xuất phát từ Xrây
Ktum (Cao Miên) và một mũi xuất phát từ Buôn Ma Thuột (Trung Kỳ), điểm tụ quân của hai
mũi chính là ngã ba biên giới. Còn mũi thứ ba xuất phát từ Bu Đốp (Nam Kỳ) là mũi theo hướng
phụ, mục tiêu của mũi này là vùng trung lưu sông Đồng Nai - lưu vực Đắk R’tíh.

Cánh quân Buôn Ma Thuột do quan ba Maya (Maillard) chỉ huy, lực lượng gồm một đại đội
của tiểu đoàn pháo thủ sơn cước Nam Trung Kỳ và một chi đội khố xanh của Buôn Ma Thuột.
Cuộc hành quân của Maya từ bên kia bờ sông Sêrêpốk bị đồng bào Preh liên tục đánh quấy rối.
Xuất phát từ Ea Tul đầu tháng 1/1932, sau hơn một tháng lội rừng, cho đến ngày 12/2/1932,
quân của Maya mới tới được Bu Jâng Đrâm, một làng M’nông trên hữu ngạn Đắk Đăm, cách Ea
Tul chỉ khoảng 70 km. Tại Bu Jâng Đrâm, Maya đã cắm đồn đặt ngay đại lý Đắk Đăm, hòng
khống chế vùng này và mở rộng kiểm soát vào vùng M’nông Nông tại Đắk R’tíh.

Cánh quân Xrây Ktum cũng xuất phát trong tháng 1/1932, nhưng muộn hơn cánh quân Buôn
Ma Thuột, lực lượng gồm một đại đội quân thuộc địa, điều từ Phnôm Pênh tới và nhiều lính bảo
an địa phương, tất cả do quan ba Ghiô (Guillot) chỉ huy. Cánh quân này được giao nhiệm vụ càn

quét trên một đoạn độc đạo của con đường 14. Trên đường đi, chúng bị nghĩa quân liên tục đánh
phá, phải mất gần 9 tháng mới tiến được 75 cây số, 40 lính chết, 200 bị trọng thương.

Còn cánh quân Bu Đốp gồm một trung đội lính bảo an Nam Kỳ do Giecbe (Gerbar) đồn
trưởng kiêm đại lý chỉ huy cũng xuất phát vào giữa tháng 1/1932 và hành quân theo thượng lưu
sông Bé để đi vào vùng Nâm Nung - Đắk R’tíh- trung lưu sông Đồng Nai. Cánh quân này đã bị
đánh bật trở lại khi chúng vừa đặt chân lên vùng đất của người M’nông Nông.

Cuộc phản kích đầu tiên của nghĩa quân N’Trang Lơng nổ ra giữa mùa khô 1932-1933 với
lực lượng hơn 200 người (tương ứng với hơn 20 làng liên minh) đánh vào đồn Gati, cứ điểm vệ
tinh lớn của đồn đại lý Lơ Rôlăng, cắm tại cây số 65 đoạn đường 14 trên đất Cao Miên. Trận
đánh xảy ra ngày 6/1/1933, bằng tên nỏ và súng trường, một cánh quân dưới sự chỉ huy trực tiếp
của N’Trang Lơng đánh vào mặt đồn Gati. Đồng thời, một cánh nghi binh khác được bố trí để
đánh diệt viện ở xa về phía Tây Nam, tại km 50. Cuộc tập kết của nghĩa quân bị lộ nên tên quan
ba Bruynê (Brunet) chỉ huy tập đoàn cứ điểm Lơ Rôlăng đã kịp thời điều quân tăng cường các
đồn bốt dọc đường 14. Cuộc tấn công của nghĩa quân không vì vậy mà kém phần quyết liệt. Lực
lượng Pháp ở Gati gồm có 60 lính khố đỏ, dưới sự chỉ huy của đồn trưởng Caxtel (Castel), bắn
liên thanh ra rất dữ dội. Nghĩa quân rút vào các công sự đã đào sẵn, nổi lửa đốt cỏ tranh quanh
đồn đánh hỏa công. Trong khi chờ viện binh, quân Pháp rút xuống hầm cố thủ, phản kích bằng
lựu đạn phóng bằng súng. Quân cứu viện của Pháp do tên đội Lơcôngtơ (Lecote) chỉ huy, gồm
30 tên rút từ đồn cây số 55. Khi chúng vừa tới cây số 58 thì bị nghĩa quân đón đánh, bắn hỏng
chiếc ôtô chở chúng, buộc chúng phải hành quân lội bộ qua rừng. Đến cây số 62, Lơcôngtơ trúng
chông bị loại ra ngoài vòng chiến đấu, phải khiêng đến đồn cây số 63 để cấp cứu. Từ đó Pháp
phải dời đồn Gati lên đóng ở một điểm cao và xây dựng kiên cố hơn, có hầm hào và hàng rào
dây thép gai vây quanh.

Sau trận đánh đó, những người M’nông Biêt và R’Hong đi theo N’Trang Lơng rất đông. Về
phía thực dân Pháp, chúng phản ứng quyết liệt, cho máy bay ném bom khủng bố hai làng Bu
Than và Bu Ju, gần Gati mà chúng nghi là nơi để nghĩa quân dùng làm chỗ tập kết trước trận
đánh. Hai tháng sau, chúng mở một chiến dịch lớn nhằm càn quét nghĩa quân, chặn đứng phong

trào chạy theo liên minh với N’Trang Lơng. Địa bàn càn quét của chiến dịch lớn này là toàn bộ
vùng R’Hong và vùng M’nông Nông. Lực lượng Pháp đưa vào các mũi hành quân càn quét gồm
có 60 lính khố đỏ đồn Bu Jâng Đrâm do Huya chỉ huy, 60 lính bảo an đồn Bu Đốp do Giecbe chỉ
huy và 60 lính khố đỏ đồn Lơ Rôlăng do Bruynê chỉ huy, hình thành 3 mũi giáp công mở vào
ngày 15/3 nhằm vùng trung tâm của khu vực đang có phong trào đấu tranh mạnh mẽ. Cũng trong
chiến dịch này, Pháp dựng thêm hai đồn mới: đồn Bu Koh ở vùng M’nông – S’tiêng đặt dưới
quyền chỉ huy trực tiếp của đồn đại lý Bu Đốp, và đồn Met vẫn quen gọi là Bốt Met (Poste
Maitre) gần ngã ba biên giới, tại giao điểm của bốn nhóm M’nông: Biêt, Bu Nor, R’Hong và
Nông, dùng làm lỵ sở mới cho đại lý Đắk Đăm, thay đồn Bu Jâng Đrâm, để trực tiếp khống chế
phong trào của bốn nhóm này.

Đầu tháng 1/1934, hai trận đánh nổ ra liền nhau như hưởng ứng lẫn nhau: trận ngày 1/1 đánh
vào đồn Lơ Rôlăng do chính N’Trang Lơng chỉ huy, và trận ngày 2/1 đánh vào đồn Bu Koh của
nghĩa quân M’nông – S’tiêng vùng khuỷu sông Đồng Nai. Tham gia trận đánh đồn Lơ Rôlăng có
tới 400 hoặc 500 nghĩa quân của khoảng 50 làng thuộc nhóm M’nông: Biêt, R’Hong, Bu Nor và
Nông liên minh với N’Trang Lơng trong mùa mưa. Một bộ phận nghĩa quân khi kéo đến địa
điểm tập kết ở Bu Krak đã bị địch phát hiện. Vì vậy địch ở Lơ Rôlăng, một mặt đã kịp thời tăng
viện bố phòng kiên cố, mặt khác mở một cuộc hành quân đánh đón đường. Một bộ phận của
nghĩa quân đã lọt được vào đồn và xung phong mãnh liệt, nhưng rốt cuộc bị hỏa lực của địch
quét mạnh nên nửa chừng phải bỏ dở cuộc tấn công.
3. Thời kỳ thứ ba cũng là thời kỳ cuối cùng từ giữa mùa khô 1934-1935 đến giữa mùa khô
1935-1936.

Thực dân Pháp tăng cường lực lượng, thống nhất chỉ huy ba xứ, liên tục vây quét khu vực đầu
não của phong trào kháng chiến; cũng là thời kỳ N’Trang Lơng và các bạn chiến đấu của ông
liên tục tiến công địch “quyết tâm bằng mọi giá đánh đuổi Pháp một lần nữa ra khỏi cao
nguyên”.

Bước vào mùa khô 1934-1935, khắp cao nguyên, nhân dân M’nông và S’tiêng lại nổi lên rào
làng, dấp rừng chống Pháp. Cuộc đối đầu ngày càng quyết liệt giữa nghĩa quân N’Trang Lơng và

giặc Pháp.

Nổi dậy sớm nhất, ngay từ đầu mùa khô, là các làng M’nông Biêt phía Bắc đồn Lơ Rôlăng. Đây
là những làng đã tham gia đánh đồn này hồi đầu năm “mưu giết tên đại lý Chlong Phlas”. Xa
hơn về phía Bắc, cuộc nổi dậy của người M’nông Biêt càng sôi sục. Giặc Pháp ở Chlong Phlas
đã buộc phải mở một cuộc hành quân càn quét về hướng đó cho đến bờ sông Sêrêpốk. Ngày
4/3/1935, một đồn Pháp - đồn Đêhay (Deshsyes), đã được dựng lên ở vùng M’nông Biêt xa xôi,
hẻo lánh cách Lơ Rôlăng 82 cây số. Nhưng đồn này vừa dựng lên hôm trước thì ngày hôm sau
đã nổ ra trận đánh lớn thứ hai của N’Trang Lơng vào đầu Lơ Rôlăng, trận đánh đã kinh động
một lần nữa bọn cầm quyền chóp bu buộc chúng sau đó phải thay tướng, tăng quân.

Một phong trào chống Pháp lại bùng lên trên gần 80 cây số từ tây đến đông và 50 cây số từ nam tới bắc. Giặc
Pháp truy lùng nghĩa quân ráo riết buộc nghĩa quân phải không ngừng di chuyển, nhưng khi giáp mặt với quân
thù, nghĩa quân vẫn chiến đấu rất anh dũng. Chính viên quan tư Nyô, kẻ đang đối mặt với N’Trang Lơng cũng
buộc phải nhìn nhận rằng: “Thủ lĩnh N’Trang Lơng hồi này đã chừng 50 tuổi nhưng vẫn rất khỏe
mạnh và hàng chục vị thủ lĩnh kiên cường, dũng cảm khác, tất cả đều quyết tâm bằng mọi giá
đánh đuổi ta (Pháp) ra khỏi cao nguyên Trung Tâm (cao nguyên M’nông) một lần nữa”.

4. N’Trang Lơng anh dũng hy sinh - phong trào khởi nghĩa đi vào thoái trào và kết thúc.

Sau trận N’Trang Lơng đánh đồn Gati ngày 29/4/1935, thực dân Pháp thấy rõ bị uy hiếp mạnh,
nên từ đầu tháng 5/1935 trở đi, chúng tung quân ra sức truy lùng nghĩa quân, bất chấp các cơn
mưa đầu mùa xối xả, núi cao, rừng sâu. Trong hoàn cảnh đó, N’Trang Lơng tạm lánh về quê cũ,
ẩn náu trong một vùng rừng gần Bu Par. Sự có mặt của ông ở đây đã bị tên phản bội Bơ Mpông
Phê, chỉ điểm của Pháp phát hiện. Bơ Mpông Phê vốn là đầu làng làng Bu Rtung và là một thủ
lĩnh nghĩa quân thời kỳ đầu cuộc khởi nghĩa. Thời kỳ sau năm 1915, thời kỳ khó khăn trên cao
nguyên, hắn đã giao động chạy theo giặc, nộp cho giặc một số súng mà nghĩa quân đã cướp
được, nên bị nghĩa quân trừng phạt nghiêm khắc. Vào lúc N’Trang Lơng bị hắn phát hiện thì
một cánh quân của Nyô do tên quan hai Lơ Bel (Le Belle) chỉ huy với sự hiệp lực của tên Bêxret
(Besrest), quan một bảo an ở Chlong Phlas, đang ráo riết săn lùng ông, cách nơi ông ẩn náu

khoảng một ngày đường, Bơ Mpông Phê đã tìm Pháp, đưa chúng đến bao vây ông. Tại đây, diễn
ra trận chiến đấu cuối cùng, bất ngờ và không cân sức, buộc ông phải chấp nhận. N’Trang Lơng
mất sáng ngày 23/5/1935 tại Bu Par, ít ngày sau khi ông bị Pháp bắn trọng thương trong trận
chiến đấu cuối cùng tại làng này. Ông ngã xuống trong tay vẫn còn cầm khẩu súng theo ông
chiến đấu đã hơn hai mươi năm; và lúc này vẫn còn nóng bỏng những viên đạn cuối cùng mà
người anh hùng chống Pháp bắn vào đầu giặc.

N’Trang Lơng hy sinh, phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp trên cao nguyên M’nông lắng
xuống, đi vào thoái trào nhưng ảnh hưởng của phong trào đã không ngừng vươn cao, vươn xa.
Chỉ sau đó không lâu, phong trào đấu tranh của đồng bào các dân tộc Đắk Nông nói riêng và
đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, Nam Bộ nói chung lại bùng lên và lan rộng hơn trước, trong
đó phong trào “Nước Xu” do Săm Brăm lãnh đạo là một điển hình.
** Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA CUỘC KHỞI NGHĨA N’TRANG LƠNG (1912 -
1936) VÀ TRUYỀN THỐNG ANH HÙNG BẤT KHUẤT CỦA CÁC DÂN TỘC TÂY
NGUYÊN.

I. Ý NGHĨA LỊCH SỬ.

Hơn 24 năm (1912 - 1936) đấu tranh kiên cường chống thực dân Pháp xâm lược, nhân dân
các dân tộc Tây Nguyên và Đắk Nông cùng với đồng bào M’nông, S’tiêng dưới sự lãnh đạo của
anh hùng dân tộc N’Trang Lơng đã ghi những chiến công oanh liệt, buộc quân địch phải rút khỏi
cao nguyên trong một thời gian dài (1915-1928). Nghĩa quân đã tiêu diệt hàng trăm tên địch,
trong đó có những tên thực dân sừng sỏ như Henri Maitre, Truffot, Gatille, Margand hàng
ngàn súng ống, đạn dược và nhiều kho tàng phục vụ chiến tranh của địch bị tịch thu hay phá
hủy. Các giai đoạn của cuộc khởi nghĩa kết thành một quá trình liên tục, diễn ra trên toàn địa bàn
cao nguyên M’nông. Lực lượng chủ yếu của phong trào là các nhóm M’nông: Biêt, R’hong,
Nông và Prâng. Người S’tiêng hưởng ứng phong trào này từ đầu về sau trở thành một lực lượng
đồng minh của nghĩa quân.

Có thể nói, đây là một phong trào chống Pháp có quy mô lớn, địa bàn rộng, cuộc đấu tranh

diễn ra hết sức quyết liệt, liên tục và bền bỉ. Dưới sự lãnh đạo của N’Trang Lơng, phong trào
chống Pháp đã nổ ra hơn một phần tư thế kỷ. Trong thời gian đó, do ảnh hưởng của N’Trang
Lơng, toàn miền sơn nguyên Nam Đông Dương liên tục mở ra nhiều phong trào chống Pháp
khác, gây cho Pháp nhiều tổn thất nặng nề. Tính cho đến giữa năm 1930, sau gần 80 năm xâm
lược Việt Nam (1858), thực dân Pháp cơ bản chưa khuất phục được hết các dân tộc trên miền
sơn nguyên quan trọng này. Đó là một thất bại lớn của chúng, đồng thời là một thắng lợi lớn của
phong trào N’Trang Lơng, một đóng góp vẻ vang vào sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân
hai nước Việt Nam và Campuchia. Đóng góp vẻ vang đó đã được chi bộ Đảng Cộng sản Đông
Dương ở hải ngoại đánh giá cao: “Dân chúng người Lào, người Cao Miên, người Thượng, người
Thổ đang hăng hái chung vai sát cánh với anh em giai cấp người Việt Nam mà chống đế quốc
phong kiến , ai ai cũng nhớ rằng từ năm 1933 đến nay, dân tộc Thượng ở Đồng Nai Thượng
(Trung Kỳ) không chịu đầu hàng đế quốc Pháp”.

Phong trào khởi nghĩa N’Trang Lơng, đã thể hiện rõ tinh thần chiến đấu kiên cường, anh
dũng của N’Trang Lơng và nghĩa quân của ông. Thật vậy, trong suốt gần 25 năm cuộc đấu tranh,
bất kể hoàn cảnh chiến đấu khó khăn nguy hiểm như thế nào, ông và nghĩa quân luôn nêu cao
tinh thần quyết chiến quyết thắng, ý chí sắt đá không sợ hy sinh gian khổ, không đầu hàng thỏa
hiệp dù lực lượng của kẻ thù hùng hậu đến mức nào. Vì chính sách tàn bạo của kẻ thù, N’Trang
Lơng và nghĩa quân đã cầm vũ khí đứng lên chiến đấu. Kẻ thù càng hung hãn, tàn bạo, cuộc
chiến đấu của ông và nghĩa quân càng kiên quyết, mãnh liệt. Khi ngã xuống, ông vẫn trong tư
thế chiến đấu mặt đối mặt với quân thù. Chính kẻ thù cũng buộc phải thừa nhận tinh thần sắt đá
và lòng tự tôn không gì lay chuyển nổi của ông. Như vậy, chúng ta khẳng định, chính tinh thần
chiến đấu kiên cường, anh dũng của N’Trang Lơng là nhân tố hàng đầu đã làm nên các chiến
công oanh liệt của phong trào chống Pháp do ông lãnh đạo; đưa phong trào đó lên vị trí là ngọn
cờ chống Pháp chung của dân tộc ông cũng như của các dân tộc khác trên miền sơn nguyên Nam
Đông Dương.
Săm brăm
Sămbrăm là người dân tộc Chăm tên thật là KsoLơ, dân làng gọi là Ma Chàm (cha của Chàm) theo tập tục khi đã
sinh người con đầu. Cũng có tài liệu viết Sămbrăm tên là Mang Lơ, Mang Chàm, Hội Chàm. Ông sinh vào
khoảng những năm đầu thập niên 70 thế kỷ XIX tại buôn Suối Ché, tổng Bầu Bèn, nay là thôn Tân Hải, xã

Phước Tân (huyện Sơn Hòa).


Buôn Suối Ché cùng nhiều buôn làng khác ở gần dãy núi La Hiên miền Tây Phú Yên đã từng là hậu cứ của
phong trào Tây Sơn vào cuối thế kỷ XVIII, phong trào Cần Vương chống Pháp ở Phú Yên vào cuối thế kỷ XIX,
cuộc khởi nghĩa Võ Trứ, Trần Cao Vân (1898 – 1900). Sămbrăm sinh ra và trưởng thành trên vùng đất qua bao
lần là căn cứ địa của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Điều đó có tác động mạnh mẽ đến việc hình thành
ý thức chống thực dân Pháp ở ông. Từ lúc còn là thanh niên, Sămbrăm đã từng tham gia phong trào chống pháp
do Nguyễn Hào Sự tổ chức và ủng hộ khởi nghĩa Võ Trứ.

Trước khi tổ chức phong trào chống Pháp, Sămbrăm là một thầy cúng có uy tín. Ông thường đi lại nhiều nơi ở
miền núi và đồng bằng. Sự giao du, tiếp xúc rộng rãi ấy giúp Sămbrăm thấy được cảnh cơ cực lầm than của đồng
bào do ách áp bức, bóc lột tàn bạo của thực dân phong kiến. Ông cũng thấy được nơi đồng bào ước mơ chính
đáng là đánh đuổi giăïc Pháp, đòi lại quyền tự do làm ăn sinh sống, không phải đi phu, nộp thuế. Từ đó,
Sămbrăm quyết định tổ chức lực lượng đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập cho các dân tộc. Những hoạt động
chống Pháp bắt đầu diễn ra vào đầu năm 1935, để quy tụ và đoàn kết nhân dân xây dựng lực lượng, Sămbrăm
thiết lập đàn cúng Giàng và tổ chức lễ rải nước phép. Thông qua hoạt động đó, Sămbrăm đã thông báo cho
những người đến dự biết mục tiêu chống Pháp của mình, ai tán thành mục tiêu này, người đó trở thành thành
viên của phong trào. Họ được nhận chức sắc và huấn thị rồi trở về buôn làng, thực hiện mục tiêu khởi nghĩa.

Ngôi nhà sàn rộng lớn của Sămbrăm trở thành nơi tập hợp dân làng đại biểu các làng, các dân tộc gần xa. Các
buôn làng Ê đê, Ba na, Chăm ở miền núi Phú Yên đều hướng về Sămbrăm. Phong trào lan rộng đến các tỉnh Tây
Nguyên và vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh phía bắc Phú Yên. Người Ba na từ Vân Canh, An Lão
(Bình Định) người H’Rê, Ca Dong, từ Ba Tơ, Sơn Hà, Trà Bồng (Quảng Ngãi), người Kor, Xơ Đăng từ Trà My,
Phước Sơn (Quảng Nam) vượt hàng trăm cây số đường rừng để đến với Sămbrăm. Người dân ở các buôn làng
gần thì đi bộ, ở các buôn làng xa dùng ngựa, voi, có người phải qua hành trình hàng tháng mới đến được buôn
Suối Ché. Các đoàn người càng về sau càng đông, nối tiếp nhau kéo về miền núi Phú Yên(1).

Công sứ Pháp ở Phú Yên nhiều lần đi đến thị sát tình hình. Sămbrăm giải thích đó là ý của Giàng, là phong tục
tập quán của đồng bào Thượng, phải cúng trời khi nắng hạn, mưa dầm thì mùa màng mới tươi tốt, cây cối muôn

loài mới mong sống được. Đó cũng là lập luận mang tính hợp pháp để bọn thực dân không thể bắt bẻ, ngăn cấm
Sămbrăm thực hiện ý định của mình (2). Các đại biểu đến với Sămbrăm đều mang theo một số xu đồng do dân
làng quyên góp, một ít lễ vật, và khi ra về họ mang theo một chai nước phép. Số xu đồng mà các làng gần xa góp
lại, có người cho rằng Sămbrăm định mua vũ khí cho cuộc chiến đấu. Có ý kiến đoán rằng bằng cách mỗi người
góp một xu, Sămbrăm tính ra được số người tham gia phong trào. Còn thứ nước phép ban phát thực ra là nước
sông Cà Lúi. Nó có tác dụng truyền bá rộng rãi, cổ vũ phong trào và như mối liên hệ giữa buôn làng này với
buôn làng khác, dân tộc này với dân tộc khác, làm cho phong trào ngày càng có quy mô rộng lớn lan xa, và cuộc
đấu tranh phát triển với một khí thế mạnh mẽ (3).

Trước những hoạt động yêu nước có tiếng vang rộng lớn của Sămbrăm, năm 1936, công sứ Pháp tại Đắk Lắk đã
cử đồn trưởng cảnh sát Buốc- gơ -ri (Bougerie) đến vây bắt ông đem về giam tại nhà giam Buôn Ma Thuột.
Trong phiên tòa ngày 2/9/1938, tòa án phong tục thiểu số tỉnh Đắk Lắk xử Sămbrăm 10 năm tù giam và buộc
nộp phạt 500 đồng (4). Sămbrăm bị thực dân Pháp giam cầm ở nhiều nơi như nhà tù Buôn Ma Thuột, nhà lao
Sông Cầu, nhà lao Thanh Hóa… Mãi đến năm 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, ông mới được trả tự do.

Cách mạng Tháng Tám thành công, Sămbrăm ngoài 70 tuổi, vẫn tiếp tục làm công tác cách mạng, ông tham gia
Mặt trận Liên việt tỉnh Phú Yên và Mặt trận Liên việt huyện Đồng Xuân. Ngôi nhà của ông là nơi cán bộ công
tác ở địa bàn miền Tây Phú Yên và đơn vị vũ trang trung đoàn 84 thường xuyên đi lại làm việc, ăn nghỉ, được cả
gia đình ông quan tâm giúp đỡ (5). Sămbrăm mất năm 1949.
Ý nghĩa lich sử
I. Ý NGHĨA LỊCH SỬ.

đấu tranh kiên cường chống thực dân Pháp xâm lược, nhân dân các dân tộc Tây Nguyên và
Đắk Nông cùng với đồng bào M’nông, S’tiêng ghi những chiến công oanh liệt, buộc quân địch
phải rút khỏi cao nguyên, đã tiêu diệt hàng trăm tên địch, trong đó có những tên thực dân sừng
sỏ như Henri Maitre, Truffot, Gatille, Margand hàng ngàn súng ống, đạn dược và nhiều kho
tàng phục vụ chiến tranh của địch bị tịch thu hay phá hủy. Các giai đoạn của cuộc khởi nghĩa kết
thành một quá trình liên tục, diễn ra trên toàn địa bàn cao nguyên M’nông. Lực lượng chủ yếu
của phong trào là các nhóm M’nông: Biêt, R’hong, Nông và Prâng. Người S’tiêng hưởng ứng
phong trào này từ đầu về sau trở thành một lực lượng đồng minh của nghĩa quân.


Có thể nói, đây là một phong trào chống Pháp có quy mô lớn, địa bàn rộng, cuộc đấu tranh
diễn ra hết sức quyết liệt, liên tục và bền bỉ. Phong trào chống Pháp đã nổ ra hơn một phần tư thế
kỷ. Trong thời gian đó, do ảnh hưởng của Trang Lơng, toàn miền sơn nguyên Nam Đông Dương
liên tục mở ra nhiều phong trào chống Pháp khác, gây cho Pháp nhiều tổn thất nặng nề. Tính cho
đến giữa năm 1930, sau gần 80 năm xâm lược Việt Nam (1858), thực dân Pháp cơ bản chưa
khuất phục được hết các dân tộc trên miền sơn nguyên quan trọng này. Đó là một thất bại lớn
của chúng, một đóng góp vẻ vang vào sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân hai nước Việt
Nam và Campuchia. Đóng góp vẻ vang đó đã được chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương ở hải
ngoại đánh giá cao: “Dân chúng người Lào, người Cao Miên, người Thượng, người Thổ đang
hăng hái chung vai sát cánh với anh em giai cấp người Việt Nam mà chống đế quốc phong
kiến , ai ai cũng nhớ rằng từ năm 1933 đến nay, dân tộc Thượng ở Đồng Nai Thượng (Trung
Kỳ) không chịu đầu hàng đế quốc Pháp”.

×