Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Luận văn tốt nghiệp Tăng cung kích cầu hàng hóa cho thị trường chứng khoán việt nam (nguyễn Thị Hoài Thương ĐHTM)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.43 KB, 28 trang )

ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

TÊN ĐỀ TÀI LUẬN
Tăng cung – kích cầu hàng hóa cho thị trường
chứng khốn Việt Nam

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Mơn: Thị trường chứng khốn
Sinh viên: Nguyễn Thị Hoài Thương
Lê Thị Hằng Ngân

Hà Nội – 2014


LỜI NĨI ĐẦU
Việc ra đời Thị trường chứng khốn ngày 20/07/2000 đánh dấubước phát
triển quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Đến nay sau gần 5năm hoạt động số tài
khoản giao dịch chứng khoán của khách hàng được mởgần 20.000 tài khoản. Tăng
gấp 7 lần. Trong đó có hơn 200 nhà đầu tưchuyền nghiệp (chiếm 0,95%), 190 nhà
đầu tư nước ngoài (chiếm 0,75%).Điều này cho thấy thị trường chứng khốn Việt
Nam trong thời gian quachưa có nhiều nhà đầu tư chuyên nghiệp và nhà đầu tư
nước ngoài tham gia,chủ yếu là các nhà đầu tư trong nước do đó quy mơ giao dịch
cịn rất nhỏ lẻ. Mục tiêu của thị trường chứng khoán Việt Nam từ nay đến
năm2010 là: tiếp tục ổn định và phát triển thị trường chứng khốn, góp phần
pháttriển nền kinh tế, đồng thời thúc đẩy q trình cổ phần hố doanh nghiệpNhà
nước. Đặc biệt nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động thịtrường, hạn chế
tối đa các ảnh hưởng tiêu cực, bảo vệ lợi ích của người đầutư, thúc đẩy q trình tự
do hố Tài Chính và hội nhập thị trường Tài Chínhquốc tê. Để thực hiện được các
mục tiêu trên thì việc mở rộng, phát triểnquy mơ thị trường chứng khốn tập trung


ở Việt Nam có ý nghĩa quyết định.Đặc biệt “tăng cung – kích cầu” hồng hố cho
thị trường chứng khốn làhết sức quan trọng khơng những trước mắt mà cịn cả về
lâu dài ở nước ta.Để tìm hiểu kỹ và sâu sắc hơn về vấn đề này em chọn đề tài
“Tăng cung –kích cầu hàng hóa cho thị trường chứng khoán Việt Nam” để
nghiên cứu. Em xin trân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của cơ giáo: Lê Thị
Hằng Ngân - giảng viên bộ môn Thị trường chứng khốn đã giúp đỡ emtrong q
trình nghiên cứu và hồn thành bài tiểu luận này. Với sự hiểu biếthạn hẹp của một
sinh viên, cộng với thời gian eo hẹp nên khơng tránh khỏi những sai sót trong việc
nghiên cứu cũng như hồn thành bài tiểu luận, em kính mong sự tham gia góp ý
của các thầy, cơ để em có thể hoànthành tốt hơn những đề tài sau.Em xin trân
thành cảm ơn.

CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
I- TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN.
1.1. Nguồn gốc ra đời của thị trường chứng khoán. Vào khoảng giữa thế kỷ
XV ở tại những trung tâm buôn bán của Phương Tây, các thương gia thường tụ tập
ở các quán cafe để thương lượng việc mua bán, trao đổi các loại hàng hố (nơng
sản, khống sản, ngoại tệ và giá khoán động sản…) đặc biệt là trong các cuộc
thương lượng này, các thương gia chỉ dùng lời nói để trao đổi với nhau khơng có
hàng hố, ngoại tệ, giá khoán động sản hay bất kỳ một loại giấy tờ nào. Những
cuộc thương lượng này nhằm thống nhất với nhau các hợp đồng mua bán, trao đổi,


thực hiện ngay kể cả những hợp đồng thực hiện vào thời điểm 3 tháng, 6 tháng, 1
năm. Những cuộc trao đổi này lúc đầu chỉ là một nhóm nhỏ, dần dần số người tăng
lên. Đến thời trung cổ, phiên chợ riêng này trở thành một thị trường và thời gian
họp chợ rút xuống hàng tuần và sau đó là hàng ngày. Trong các phiên họp chợ họ
thống nhất với nhau những quy ước cho các cuộc thương lượng. Dần dần các quy
ước đó được tu bổ hồn chỉnh thành những quy tắc có tính chất bắt buộc đối với
người tham gia. Từ đó thị trường chứng khốn bắt đầu hình thành. Buổi họp đầu

tiên của giai đoạn này diễn ra vào năm 1453 ở Bruges (Bỉ) với cái tên là “mậu dịch
trường”. Mậu dịch trường gồm 3 nội dung: -Mậu dịch trường hàng hoá . -Mậu dịch
trường ngoại tệ. -Mậu dịch trường giá khoán động sản. Đến năm 1547 Mậu dịch
trường tại Bruges bị suy sụp. Thị trường được chuyển đến Auves (Bỉ). Mậu dịch
trường ở đây phát triển nhanh và từ kinh nghiệm của nó, các mậu dịch trường trên
thế giới bắt đầu phát triển. Các mậu dịch trường lần lượt được hình thành ở
London (thế kỷ XVIII), ở Pháp, Đức, Italia và Bắc Âu với ít nhiều cải tiến tuỳ theo
từng điều kiện ở mỗi quốc gia. Sau một thời gian hoạt động, mậu dịch trường
khơng cịn đáp ứng đủ nhu cầu các giao dịch với 3 nội dung hồn tồn khác nhau
vì vậy giao dịch hàng hoá được tách ra thành khu vực thương mại, giao dịch ngoại
tệ tách ra thành thị trường hối đoái, giao dịch giá khoán động sản tách ra thành thị
trường chứng khoán và các giao dịch hợp đồng trong tương lai được tách ra thành
các thị trường tương lai. Như vậy thị trường chứng khoán được xuất hiện từ thế kỷ
XV sự hình thành thị trường chứng khốn cùng đồng thời với thị trường hối đoái
và các thị trường khác.
1.2. Khái niệm thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán (TTCK) là
một bộ phận của thị trường tài chính được chuyên mơn hố về mua bán các loại
chứng khốn cả ngắn hạn , dài hạn và trung hạn. Có thể hiểu TTCK là nơi chứng
khoán được phát hành và trao đổi. TTCK là một bộ phận của thị trường vốn do đặc
tính của TTCK trong việc huy động vốn dài hạn.
1.3. Đặc điểm của TTCK. - TTCK được đặc trưng bởi hình thức tài chính
trực tiếp người cần vốn và có khả năng cung ứng vốn đều được trực tiếp tham gia
vào thị trường, giữa họ khơng có các trung gian tài chính. - TTCK là thị trường gần
với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Tất cả mọi người đều được tự do tham gia vào
thị trường. Khơng có sự áp đặt về giá cả trrên TTCK mà giá cả ở đây được xác
định trên quan hệ cung cầu của thị trường và phản ánh các thơng tin có liên quan
đến chứng khoán. - TTCK về cơ bản là một thị trường liên tục, sau khi các chứng
khoán được phát hành trên thị trường sơ cấp nó có thể được mua bán nhiều lần trên
thị trường thứ cấp. TTCK đảm bảo cho những người đầu tư có thể chuyển các
chứng khốn mà họ nắm giữ thành tiền bất cứ lúc nào họ muốn.



1.4. Phân loại TTCK.
1.4.1. TTCK sơ cấp. - Khái niệm TTCK sơ cấp: TTCK sơ cấp là thị trường
cho việc phát hành mới các chứng khoán, là nơi mua và bán các chứng khốn đã
được phát hành trước đó. Một thị trường được gọi là sơ cấp nếu người phát hành
chứng khoán nhận được tiền từ việc bán chứng khoán. Như vậy thị trường sơ cấp
là một thị trường cung cấp vốn, qua hoạt động của thị trường những nguồn tiền
nhàn rỗi trong dân chúng và các tổ chức kinh tế xã hội có thể được chuyển thành
vốn đầu tư dài hạn cho người phát hành chứng khoán. - Đặc điểm TTCK sơ cấp: +
Đây là thị trường cung cấp vốn, qua hoạt động của thị trường của nguồn tiền nhàn
rỗi trong nhân dân và các tổ chức kinh tế xã hội có thể làm tăng vốn đầu tư trên thị
trường. + TTCK sơ cấp hoạt động không liên tục, chỉ hoạt động khi có các đợt phát
hành chứng khốn.
1.4.2. TTCK thứ cấp. - Khái niệm TTCK thứ cấp
Việc mua bán lại những chứng khoán đã phát hành trên thị trường sơ cấp, là hoạt
động của TTCK thứ cấp. TTCK thứ cấp là nơi mua đi bán lại các loại chứng khoán
- Đặc điểm TTCK thứ cấp: + Thị trường có tính chất cạnh tranh hồn hảo nghĩa là
thơng qua việc mua bán chứng khoán được thực hiện chủ yếu thơng qua cạnh
tranh. Mặt khác giá chứng khốn hình thành trên cở sở cung cầu, không một người
hoặc một tổ chức nào có quyền áp đặt, hoặc định gía độc đốn theo ý của mình. +
TTCK thứ cấp là thị trường liên tục bởi thị trường này tạo ra cở hội để mua chứng
khoán bất cứ lúc nào miễn là các chứng khoán được niêm yết tại Sở giao dịch
chứng khoán (SGDCK) hoặc được giao dịch trên thị trường phi tập trung.

II- VAI TRÒ, CHỨC NĂNG VÀ MỤC TIÊU CỦA TTCK.
2.1. Vai trò của TTCK. Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực với sự ra
đời của tổ chức thương mại quốc tế (WTO), của liên minh Châu Âu, của các khối
thị trường chung, đòi hỏi các quốc gia phải thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và
hiệu quả cao. Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đã khẳng định

vai trò quan trọng của TTCK trong phát triển kinh tế: Một là, TTCK, với việc tạo
ra các công cụ có tính thanh khoản cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối vốn,
chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế. Yếu tố thông tin
và yếu tố cạnh tranh trên thị trường sẽ bảo đảm cho việc phân phối vốn một cách
có hiệu quả. Thị trường tài chính là nơi tiên phong áp dụng công nghệ mới và nhạy
cảm với môi trường thường xuyên thay đổi. Thực tế trên TTCK, tất cả các thông
tin được cập nhật và được chuyển tải tới tất cả các nhà đầu tư, nhờ đó họ có thể
phân tích và định giá cho các chứng khốn. Chỉ những cơng ty có hiệu quả bền


vững mới có thể nhận được vốn với chi phí rẻ trên thị trường. TTCK tạo ra một sự
cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường tài chính, điều này buộc các ngân hàng
thương mại và các tổ chức tài chính phải quan tâm tới hoạt động của chính họ và
làm giảm chi phí tài chính. Việc huy động vốn trên TTCK có thể làm tăng vốn tự
có của các cơng ty và giúp họ tránh các khoản vay có chi phí cao cũng như sự kiểm
sốt chặt chẽ của các ngân hàng thương mại. TTCK khuyến khích tính cạnh tranh
của các công ty trên thị trường. Sự tồn tại của TTCK cũng là yếu tố quyết định để
thu hút vốn đầu tư nước ngồi. Đây chính là các yếu tố bảo đảm cho sự phân bổ có
hiệu quả các nguồn lực trong một quốc gia cũng như trong phạm vi quốc tế. Hai là,
TTCK góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông qua việc buộc các
tập đồn gia đình trị phát hành chứng khốn ra cơng chúng, giải toả sự tập trung
quyền lực kinh tế của các tập đoàn, song vẫn tập trung vốn cho phát triển kinh tế.
Việc tăng cường tầng lớp trung lưu trong xã hội, tăng cường sự giám sát của xã hội
đối với quá trình phân phối đã giúp nhiều nước tiến xa hơn tới một xã hội công
bằng và dân chủ. Việc giải toả tập trung quyền lực kinh tế cũng tạo điều kiện cạnh
tranh cơng bằng hơn, qua đó tạo hiệu quả và tăng trưởng kinh tế. Ba là, TTCK tạo
điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp. Khi quy mô của
doanh nghiệp tăng lên, môi trường kinh doanh trở nên phức tạp hơn, nhu cầu về
quản lý chuyên trách cũng tăng theo. TTCK tạo điều kiện cho việc tiết kiệm vốn và
chất xám, tạo điều kiện thúc đẩy q trình cổ phần hố doanh nghiệp Nhà nước. Cơ

chế thơng tin hồn hảo tạo khả năng giám sát chặt chẽ của TTCK đã làm giảm tác
động của các tiêu cực trong quản lý, tạo điều kiện kết hợp hài hồ giữa lợi ích của
chủ sở hữu, nhà quản lý và những người làm công. Bốn là, hiệu quả của quốc tế
hoá TTCK. Việc mở cửa TTCK làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường
quốc tế. Điều này cho phép các công ty có thể huy động được nguồn vốn rẻ hơn,
tăng cường đầu tư từ nguồn tiết kiệm bên ngoài, đồng thời tăng cường khả năng
cạnh tranh quốc tế và mở rộng các cơ hội kinh doanh của các công ty trong nước.
Năm là, TTCK tạo cơ hội cho Chính phủ huy động các nguồn tài chính mà khơng
tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thưc hiện chính sách tài
chính tiền tệ của Chính phủ. Sáu là, TTCK cung cấp một dự báo tuyệt vời về các
chu kỳ kinh doanh trong tương lai. Việc thay đổi giá chứng khốn có xu hướng đi
trước chu kỳ kinh doanh cho phép Chính phủ cũng như các cơng ty đánh giá kế
hoạch đầu tư cũng như việc phân bổ các nguồn lực của họ. TTCK cũng tạo điều
kiện tái cấu trúc nền kinh tế.
2.2. Chức năng của TTCK. TTCK thực hiện các chức năng chủ yếu sau: Chức năng huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế. Thật vậy, chúng ta đã biết sự hoạt
động của TTCK tạo ra một cơ chế chuyển các nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Thị trường cung cấp phát hành phương tiện huy động vốn trong dân cư cho các
doanh nghiệp, được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau như đầu tư phát triển


sản xuất, xây dựng cở sở vật chất mới. Khi mua chứng khốn do các cơng ty phát
hành số tiền nhàn rỗi của các nhà đầu tư đã được đưa vào sản xuất kinh doanh và
qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. - Chức năng cung cấp khả năng thanh
khoản cho các chứng khoán. Nghĩa là, TTCK là nơi các chứng khoán được mua
bán, trao đổi bởi vậy nhờ các TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng
khoán mà họ sỡ hữu thành tiền hoặc các loại chứng khoán khác mà họ muốn. Đây
là một chức năng quan trọng đảm bảo cho TTCK hoạt động một cánh năng động
và có hiệu quả. - Chức năng đánh giá giá trị của doanh nghiệp và tình hình của nền
kinh tế. Ở đây, TTCK là nơi đánh giá giá trị của một doanh nghiệp và tình hình của
nền kinh tế một cách tổng hợp và chính xác thơng qua chỉ số giá chứng khốn trên

thị trường. Từ đó tạo ra một mơi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. - Chức
năng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. TTCK là nơi cung và
cầu vốn dài hạn gặp nhau. Trên TTCK giá cả các chứng khoán phản ánh phát triển
các doanh nghiệp nói riêng và các ngành kinh tế nói chung, giá chứng khốn tăng
lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng và ngược lại khi giá
chứng khoán giảm sẽ cho thấy dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Chính vì vậy,
TTCK được gọi là “phong vũ biểu” của nền kinh tế và là cơng cụ quan trọng giúp
Chính phủ thực hiện chính sách kinh tế vĩ mơ.
2.3. Mục tiêu của TTCK TTCK ln hướng tới những mục tiêu nhất định,
nhìn chung có 3 mục tiêu lớn đặt ra đối với TTCK. - Hoạt động có hiệu quả. + Một
TTCK có hiệu quả là một thị trường có tính hiệu quả về mặt thông tin và cơ chế
giao dịch. Để đạt được điều này TTCK cần phải đảm bảo được hình thành trên thị
trường giá cân bằng cung và cầu, phản ánh được tức thời các thơng tin liên lạc có
thể ảnh hưởng tới giá cả.
+ Cơ chế và các thủ tục giao dịch chứng khoán cần được tiêu chuẩn hoá để
có thể thực hiện tốt một số lượng lớn các giao dịch một cách thơng suốt. TTCK
đảm bảo tính thanh khoản cao giúp cho nhà đầu tư có thể mua và bán chứng khoán
bất kỳ lúc nào họ muốn.
+ Chi phí giao dịch trên thị trường phải được tối thiểu hố, đảm bảo những
lợi ích thu được từ đầu tư chứng khốn khơng bị chi phí giao dịch ăn mịn. Muốn
vậy, hệ thống giao dịch chứng khoán được tổ chức sao cho tiết kiệm nhất về mặt
chi phí.
+ TTCK phải được tổ chức một cách thuận tiện cho những người sử dụng,
có như vậy mới thu hút được nhiều nhà đầu tư tham gia vào thị trường.


- Điều hành công bằng. Điều hành công bằng TTCK là việc đảm bảo sự bình
đẳng giữa người tham gia vào thị trường muốn vậy thực hiện điều hành công băng
TTCK cần đảm bảo:

+ Các cơ quan điều hành thị trường phải xác lập các quy chế đảm bảo sự
cạnh tranh tự do, bình đẳng trên thị trường. Các nhà đầu tư và các tổ chức có liên
quan đến chứng khoán được tự do tham gia và rút lui khỏi thị trường.
+ Bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư thơng qua việc duy trì thị trường hoạt
động lành mạnh, chống lại các trường hợp lũng đoạn thị trường và bóp méo giá
gây ra thiệt hại cho nhà đầu tư.
- Phát triển ổn định TTCK. Để đảm bảo cho TTCK phát triển ổn định và
lành mạnh cần chú trọng phát triển và loại trừ các khả năng xảy ra, khủng hoảng
của thị trường do mất khả năng thanh khoản hoặc do biến động giá cả quá lớn.
Trên TTCK do nhiều khi người mua hoạt động biết rõ người bán và khả năng
thanh tốn của họ nên có thể gây ra khủng hoảng của toàn bộ thị trường. Để giải
quyết vấn đề này cần có một cơ chế giao dịch đảm bảo thông suốt, thành lập các tổ
chức tài trợ chứng khoán hỗ trợ thị trường nhằm ngăn ngừa khả năng, mất khả
năng thanh khoản đối với các TTCK của các công ty vẫn hoạt động tốt.

III- CƠ CẤU VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA TTCK.
3.1. Cơ cấu của TTCK. Nghiên cứu về cơ cấu TTCK là phân tích xem
TTCK bao gồm những bộ phận nào và tìm hiểu mối quan hệ giữa các bộ phận đó. Căn cứ vào tính chất các chứng khoán được giao dịch trên thị trường chứng khốn
có thể dược chia thành thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu và thị trường phái
sinh.
+ Thị trường cổ phiếu là thị trường nơi các cổ phiếu được phát hành và giao
dịch. Thị trường cổ phiếu gồm thị trường cổ phiếu sơ cấp và thị trường cổ phiếu
thứ cấp. + Thị trường trái phiếu là thị trường nơi các trái phiếu được phát hành và
giao dịch. Thị trường trái phiếu bao gồm thị trường trái phiếu sơ cấp và thị trường
trái phiếu thứ cấp.
+ Thị trường các sản phẩm phái sinh bao gồm thị trường các hợp đồng tương
lai, các hợp đồng lựa chọn.
- Căn cứ vào luân chuyển các nguồn vốn: TTCK được chia thành thị trường
sơ cấp và thị trường thứ cấp.



+ Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các loại chứng khoán lần đầu
được phát hành. Sự hoạt động của thị trường sơ cấp tạo ra một “kênh” thu hút huy
động nguồn tiền nhàn rỗi của dân chúng chuyển thành vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Thông qua thị trường này nhà phát hành được thực hiện việc bán các chứng khoán
mới cho nhà đầu tư thu được tiền về tăng thêm một lượng vốn mới.
+ Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành
trên thị trường sơ cấp. Sự hoạt động của thị trường thứ cấp tạo ra khả năng dễ
dàng, thuận tiện trao đổi chứng khoán tthành tiền. Trên thị trường, diễn ra việc
mua bán chứng khoán giữa các nhà đầu tư, tiền thu được từ việc bán chứng khốn
khơng thuộc về nhà phát hành mà thuộc về nhà đầu tư bán chứng khoán nhường lại
quyền sỡ hữu chứng khoán cho các nhà đầu tư khác.
3.2. Các nguyên tắc hoạt động của TTCK.
- Nguyên tắc cạnh tranh tự do: TTCK phải hoạt động trên cơ sở cạnh tranh
tự do. Nghĩa là các nhà phát hành, các nhà đầu tư tự do tham gia và rút khỏi thị
trường. Giá cả trên thị trường phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khốn và thể
hiện tương quan cạnh tranh giữa các cơng ty.
- Ngun tắc giao dịch cơng bằng: có nhiều người tham gia TTCK với
những mục đích khác nhau. Để đảm bảo lợi ích cho những người này, TTCK phải
hoạt động dựa trên nguyên tắc giao dịch công bằng, những người tham gia thị
trường đều bình đẳng trong việc thực hiện những quy định này.
- Nguyên tắc công khai: để hoạt động của TTCK có hiệu quả và cơng bằng
thì các tin tức có tác động đến sự thay đổi giá cả của TTCK cần phải công khai
cung cấp cho các nhà đầu tư nhằm tạo cơ hội đầu tư như nhau, đồng thời cũng là
biện pháp quan trọng để ngăn chặn các hành vi gian lận trong kinh doanh chứng
khoán, lũng đoạn trên thị trường. Các thông tin được công khai thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng của SGDCK, các cơng ty chứng khốn và các tổ
chức có liên quan khác.
- Nguyên tắc trung gian mua bán: trên TTCK, các giao dịch được thực hiện
thông qua các tổ chức mơi giới để đảm bảo các loại chứng khốn được giao dịch là

chứng khoán thực tế và pháp, tránh sự giả mạo, lừa đảo trong giao dịch. Các công
ty chứng khoán bằng việc thực hiện các nghiệp vụ của mình đảm nhận vai trị trung
gian cho cung và cầu chứng khoán gặp nhau.


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA THỊTRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
Như đã biết, TTCK là một thể chế tài chính bậc cao của nền kinh tế thị
trường, nhưng ở nước ta nó cịn đang ở trinh độ sơ khai và quy mô bé. Sau hơn hai
năm xây dựng và trưởng thành bắt đầu từ tháng 7 năm 2000, TTCK Việt Nam mới
chỉ bước đầu tạo lập một thị trường vốn mới và là bước đột phá trong tiến trình đổi
mới nền kinh tế thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng, phát triển và hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam theo hướng hội nhập với khu
vục và quốc tế. Đối với nước ta - một nước non trẻ, nền kinh tế đang bước đầu phát
triển, hội nhập kinh tế quốc tế nên TTCK bước đầu đã mở một kênh huy động vốn
mới cho nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù thời gian ra đời của TTCK còn quá ngắn để
đánh giá một cách chính xác những hoạt động của thị trường này. Cùng với sự nỗ
lực của các cơ quan quản lý vận hành TTCK hoạt động từ TW đến địa phương đã
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của TTCK. Qua đó chúng ta có thể thấy
được những gì đã đạt được và những điểm còn hạn chế trong hoạt động của TTCK
hiện nay.
I- TÌNH HÌNH CUNG CẦU CHỨNG KHỐN TRÊN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHỐN THỜI GIAN QUA
1.1 Cung chứng khốn trên thị trường: Việc ra đời trung tâm giao dịch
chứng khốn TP Hồ Chí Minh ngày20 tháng 7 năm 2000 đã đánh dấu một bước
phát triển rất quan trọng của thịtrường chứng khoán Việt Nam. Từ một thị trường
ban đầu chỉ có 4 loại cổphiếu với số lượng: 38.708.000 cổ phiếu, tổng giá trị niêm
yết là 387,008 tỷđồng và hai loại trái phiếu với tổng giá trị niêm yết 600 tỷ đồng,
nay đã đưatổng giá trị hàng hoá niêm yêt trên toàn thị trường đạt trên 20.000 tỷ
đồng. Trong gần năm năm hoạt động của thị trường, số tài - khoản giao dịchchứng

khoán của khách hàng được mở tại các cơng ty Chứng khốn là gần20.000, tăng
gấp 7 lần. Trong đó, có hơn 200 nhà đầu tư có tổ chức (chiếm tỷlệ 0,95%) và gần
190 nhà đầu tư nước ngoài chiếm (0,87%), điều này chothấy thị trường chứng
khoán Việt Nam trong thời gian qua chưa có nhiều nhàđầu tư chuyên nghiệp và
nhà đầu tư nước ngoài tham gia mà chủ yếu là cácnhà đầu tư cá nhân trong nước.
Do vậy qui mơ giao dịch cịn rất nhỏ bé. Tuy nhiên, nếu xem xét về khả năng cung
ứng chứng khoán cho thịtrường thì cịn rất hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng.
Mặc dù hàng hoátrên thị trường tuy đã tăng về số lượng nhưng thực tế là chưa
nhiều, chưa đadạng chỉ có 2 loại hàng hố là cổ phiếu và trái phiếu, trong đó chủ
yếu là tráiphiếu chính phủ. Cịn cổ phiếu hiện tại tổng cộng chỉ có được 30 cơng ty
niêmyết cổ phiếu. Trên một khía cạnh nào đó, với con số 30 có thể coi đó là
sựthắng lợi và cố gắng lớn của thị trường chứng khoán Việt Nam, nhưng 30 làcon
số quá nhỏ bé so với số lượng các doanh nghiệp có nhu cầu huy động vốnvà nếu so


với tổng số doanh nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế thì con số đó lạicàng khơng
đáng kể. Mặt khác, phần lớn các cơng ty niêm yết có qui mơ rấtnhỏ, sản phẩm của
các cơng ty này giá thành cịn cao nên khả năng cạnh tranhthấp ở cả thị trường
trong nước và xuất khẩu, dẫn đến chất lượng nguồn cung ứng chứng khoán trên thị
trường chưa cao, sức cầu chứng khốn thấp là điềukhơng tránh khỏi.
1.2 Về khả năng cầu chứng khoán : So với thời gian đầu, số lượng nhà đầu
tư, khối lượng giao dịch vàtổng giá trị thị trường được tăng dần song cũng rất hạn
chế. Trên thị trườngchứng khoán Việt Nam hiện tại chủ yếu các nhà đầu tư cá nhân
vốn ít, sự hiểubiết về chứng khốn và thị trường chứng khốn cịn rất hạn chế nên
trong đầutư còn dè dặt, đầu tư theo phong trào, theo tin đồn, và cịn rất ít các nhà
đầu tưchun nghiệp có tổ chức, đầu tư với qui mơ lớn và dài hạn. Chỉ có
0,87%nhà đầu tư nước ngồi, hoạt động mua bán chứng khốn của họ cũng cịn
gặpmột số khó khăn như: Trong các văn bản pháp qui hiện hành chưa qui định
rõkhái niệm nhà đầu tư nước ngoài, chưa có sự thống nhất về tỷ lệ tham gia củabên
nước ngoài khi đầu tư cổ phiếu ở thị trường sơ cấp và khi mua bán giaodịch trên

thị trường thứ cấp… Mặt khác, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam cóqui mơ nhỏ,
thiếu vốn kinh doanh nên khơng có khả năng tham gia đầu tư trênthị trường chứng
khốn. Một số ít doanh nghiệp kinnh doanh có hiệu quả cóvốn nhà rỗi, có thể sử
dụng để đầu tư kiếm lời song do đầu tư vào chứngkhoán là một lĩnh vực đầu tư
mạo hiểm, độ rủi ro cao và còn mới mẻ đối vớicác doanh nghiệp nước ta nên nhiều
doanh nghiệp không mạnh dạn tham giađầu tư vào thị trường chứng khoán dẫn đến
sức mua cầu chứng khốn trên thịtrường cịn thấp.

II- MỘT SỐ NGUN NHÂN:
Từ những phân tích trên có thể khẳng định rằng khả năng cung cầuchứng khoán
trên thị trường chứng khoán Việt Nam cịn thấp, có nhiềungun nhân, có thể nêu
ra những nguyên do chủ yếu, đó là:
+ Sự hiểu biết của cơng chúng đầu tư về chứng khốn và thị trườngchứng
khốn cịn hạn chế nên chưa tin tưởng vào thị trường chứng khốn nhưtính cơng
bằng, khả năng thanh tốn của thị trường… Do vậy, thị trường chưathu hút được
nhiều nhà đầu tư.
+ Các yếu tố để đảm bảo cho sự vận hành an tồn, cơng bằng, minhbạch, và
có hiệu quả của thị trường như qui chế về công khai thông tin, cơ chếquản lí, giám
sát hoạt động thị trường… cịn nhiều bất cập nên chưa tạo đượcniềm tin cho các
nhà đầu tư.


+ Các chính sách hỗ trợ và khuyến khích nhà đầu tư trong nước vànước
ngoài tham gia vào thị trường chứng khoán chưa đồng bộ, chưa thực sựhấp dẫn các
nhà đầu tư. + Thị trường chưa có sự tham gia của các cơng ty, các tập đồn kinhtế
mạnh nên chất lượng nguồn cung ứng chứng khốn trên thị trường cịnthấp, cầu
chứng khốn khơng cao.
+ Thị trường cịn thiếu vắng các tổ chức tài chính mạnh về cầu chứngkhốn
như Quỹ đầu tư chứng khốn, các cơng ty Tài chính…
+ Mơi trường pháp lí cho hoạt động thị trường chứng khốn chưa đầyđủ,

đồng bộ, thậm chí cịn mâu thuẫn nhau.
+ Khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp còn rất hạn chế, nhiềudoanh
nghiệp chưa có chiến lược đầu tư hoặc huy động vốn đầu tư dài hạnqua thị trường
chứng khoán nên khả năng cung chứng khoán trên thị trườngthấp.
+ Việc mở rộng đối tượng được cung cấp tín dụng ưu đãi của Nhànước với
lãi suất thấp cũng làm cho các doanh nghiệp này ỷ lại Nhà nướckhông phát hành
trái phiếu ra thị trường.
+ Chưa có nhiều cơng ty chứng khốn mạnh để giúp các doanhnghiệp phát
hành chứng khoán ra thị trường và tạo thị trường cho khách hàngở khắp các địa
phương trên cả nước.
+ Các Ngân hàng Thương mại chưa đảm nhận được vai trị vừa làtrung gian
Tài chính, vừa là nhà đầu tư có tổ chức trên thị trường chứngkhốn.
Những vấn đề trên đang cản trở rất lớn đến khả năng cung cầu chứngkhoán trên thị
trường chứng khoán ở nước ta những năm qua.
III- ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
THỜI GIAN QUA:
3.1- Những mặt đạt được trong hoạt động của TTCK Việt Nam trong thời
gian qua. TTCK ra đời đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển nhanh
chóng và tham gia hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong đó hoạt động
của TTCK đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Một là, trong bối cảnh nền kinh
tế hiện nay nước ta đã phải đối mặt với những khó khăn, thử thách trước những
vấn đề đặt ra trong quá trình mở cửa, TTCK ra đời đã đánh dấu một bước tiến mới
trong quá trình phát triển thị trường tài chính Việt Nam, thể hiện quyết tâm xây
dựng thể chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta. Hai là, về cơ
bản nước ta đã xây dựng được một hệ thống văn bản pháp luật và hướng dẫn hoạt


động, quản lý thị trường tương đối đầy đủ,đảm bảo cho sự vận hành năng động của
TTCK. Như thông báo số 91/ TP/TW, ngày 28/9/1991 của thường vụ Bộ chính trị
về việc chuẩn bị thành lập TTCK ở Việt nam, Nghị định số 48/ 1998/NĐ-CP ngày

11/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về TTCK và chứng khoán, quyết định số
128/1998/QĐ - UBCK5 ngày 1/8/1998 của Chủ tịch Uỷ ban chứng khoán Nhà
nước (UBCKNN) về quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng
khoán (TTGDCK), đây là hệ thống văn bản pháp luật cơ sở bước đầu cho hoạt
động TTCK Việt Nam. Chúng ta đã có thêm nhiều bộ luật mới, tiến hành sửa đổi,
bổ sung hoàn chỉnh hệ thống luật hiện hành.
Đây là môi trường pháp luật thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của TTCK.
Ba là, hoạt động TTCK Việt Nam đã tổ chức và vận hành được TTGDCK tập
trung bán tự động với hơn 600 phiên giao dịch hồn tồn sn sẻ kể từ ngày
30/07/2004. Hệ thống giao dịch của TTGDCK ban đầu cho phép đấu lệnh 500.000
lệnh/phiên với thời hạn giao dịch là 4 ngày (T+4), cho đến nay đã được nâng cấp
làm giảm thời gian thanh toán xuống 3 ngày (T+3). Bốn là, hoạt động quản lý,vận
hành thị trường của UBCKNN và TTGDCK TP.HCM đã có nhiều cải tiến và từng
bước hoàn thiện trên cơ sở rút kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn. UBCKNN đã

đề ra biện pháp, chính sách, biện pháp thích hợp kịp thời nhằm đảm bảo
thị trường hoạt động ổn định, công khai, công bằng và hiệu quả. Bên
cạnh đó, UBCKNN tham gia, phối hợp với Bộ tài chính trong việc xây
dựng các chính sách, chế độ phát triển TTCK trong dài hạn như “định
hướng phát triển TTCK ”, “lộ trình phát triển thị trường vốn ”. Tại thị
trường giao dịch chứng khoán TP.HCM đã đạt được đáng kể, thực hiện
được 900 phiên giao dịch với tổng khối lượng chứng khoán đạt tổng giá
trị giao dịch 13.082 tỷ đồng. Thời gian đầu TTGDCK áp dụng biên độ
dao động giá (+/-) 2 sau đó tăng lên (+/-) 7 và (+/-) 3%, dự kiến năm
2003 sẽ áp dụng biên độ dao động giá là (+/-) 5 nhằm ổn định thị trường
và bảo vệ các nhà đầu tư trong thời kỳ hoạt động ban đầu của TTCK.
Năm là, với sự tham gia của các chủ thể trên TTCK như TTGDCK, cơng
ty niêm yết (CTNY), cơng ty chứng khốn (CTCK), các nhà quản lý và
các nhà đầu tư đã bắt đầu trưởng thành một bước, tham gia vào thị
trường với vai trị ngày càng tích cực và hiệu quả. Trong năm 2004 hoạt

động của TTCK Việt Nam có sự đóng góp của 10 công ty cổ phần được
cấp phép phát hành, một công ty phát triển vốn và đăng ký niêm yết cổ
phiếu cho 11 công ty, nâng tổng giá trị cổ phiếu trên TTCK lên 17.000
tỷ đồng. Ngoài ra trong thị trường trái phiếu đã thực hiện được 40 đợt


đấu thầu qua TTGDCK và bảo lãnh phát hành trái phiếu cổ phần đạt
1.362 tỷ đồng. Đến nay có 41 loại trái phiếu niêm yết trên TTCK trong
đó có 39 loại trái phiếu Chính Phủ và 2 trái phiếu doanh nghiệp với tổng
giá trị trái phiếu niêm yết trên thị trường đạt 4.276,338 tỷ đồng. Tính
đến ngày 30 tháng 07 năm 2004 số tài khoản giao dịch chứng khoán của
khách hàng mở tại các cơng ty chứng khốn là trên 20.000 trong đó có
hơn 200 nhà đầu tư có tổ chức và 191 nhà đầu tư nước ngoài. Sáu là,
hiện nay TTCK từng bước có sự phát triển, so với thời gian đầu khá
khiêm tốn đến nay đã có được 30 CTNY và 9 CTCK tham gia vào
TTCK Việt Nam. Điều đáng chú ý là một số công ty niêm yết đã hoặc
đang có đề án phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn mở rông sản
xuất kinh doanh thơng qua TTCK. Để huy động được vốn thì mở cửa
TTCK là cơ hội quan trọng để thu hút được nguồn vốn đầu tư, nhất là
vốn nước ngoài. TTCKVN tuy có điểm xuất phát chậm hơn nhưng cũng
đã nhận được sự hưởng ứng của một số nhà đầu tư nước ngoài, thúc đẩy
sự tham gia của các nhà đầu tư trong nước. Bên cạnh đó, cũng tiến hành
mở rộng phạm vi hoạt động của TTCK ra rộng khắp, ngoài Hà Nội và
TP.HCM, hiện nay TTCK được mở rộng ra các tỉnh như Hải Phịng, Đà
Nẵng, Đồng Nai, Bình Dương, Long An. Bảy là, Nhà nước ta đã chú
trọng tới công tác và đào tạo và tuyên truyền sâu rộng trong công chúng,
cung cấp những kiến thức cơ bản cũng như hiểu biết về chứng khoán và
TTCK làm cho hoạt động này ngày càng phát triển rộng rãi và mạnh mẽ.
Tám là, hầu hết các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá cùng với
sự tham gia của các doanh nghiệp kinh doanh, của các công ty tham gia

vào sản xuất theo chiều hướng tốt. Vì vậy các cơng ty chứng khoán đang
được triển khai, mở rộng phạm vi hoạt động. Ngồi ra, cơ cấu doanh thu
của các cơng ty chứng khốn đã có sự thay đổi đáng kể nó làm tiền đề
cho sự phát triển của TTCK Việt Nam còn non trẻ. Với những thành tựu

đã đạt được trong tình hình hoạt động của TTCK trong thời gian qua
đã thúc đẩy tiến trình cổ phần hố doanh nghiệp trong thời kỳ cơng
nghiệp hố - hiện đại hố đất nước, đồng thời đưa kinh tế của đất
nước phát triển theo kịp và hoà nhập vào thị trường thế giới.
3.2- Những mặt còn hạn chế trong hoạt động TTCK Được mở
cửa ngay từ khi thị trường mới đi vào hoạt động khi mà các nhà đầu


tư và các nhà quản lý cịn q ít kinh nghiệm thì việc TTCK phải
đối mặt với nhiều khó khăn trong quá trình hội nhập là một điều tất
yếu. Nên bên cạnh những mặt đạt được trong hoạt động của TTCK
vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định trong tình hình kinh tế hiện
nay. Trước hết, nói về hoạt động của TTCK phải nói về các quy
định của nhà nước đối với hoạt động này, được quy định bằng các
văn bản pháp lý. Cho đến nay, văn bản pháp lý cao nhất của TTCK
Việt Nam là nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính
phủ được soạn thảo và ban hành trong điều kiện TTCK ở Việt
Nam chưa đi vào hoạt động, do vậy sau khi đưa TTCK vào vận
hành một số nội dung trong nghị định khơng cịn phù hợp với hoạt
động của thị trường hiện nay cũng như với nôị dung mới của Luật
doanh nghiệp. Mặt khác các quy định này chưa rõ ràng làm cho các
nhà đầu tư thường hiểu sai lệch về các quy định hoặc hệ thống pháp
luật của nước ta chưa có văn bản giải thích rõ những trường hợp vi
phạm nghị định 48 của Chính Phủ. Mặc dù trong q trình vận hành
thị trường UBCKNN đã ban hành, sửu đổi, bổ sung các quy định

pháp luật cho phù hợp với các yêu cầu của thị trường nhưng nhìn
chung vẫn chưa đáp ưng được địi hỏi của hoạt động TTCK. Thứ
hai, loại hàng hoá hoạt động trên TTCK tuy đã tăng nhưng chưa
nhiều, chưa đa dạng về chủng loại. Như chúng ta đã biết trên thị
trường hiện nay chỉ có 2 loại hàng hố là cổ phiếu và trái phiếu. Sự
biến động của 2 loại hàng hoá này rất phức tạp trên TTCK làm cho
hoạt động kinh doanh của các cơng ty niêm yết có tỷ lệ doanh thu
cao nhưng quy mô vốn lại nhỏ, sản phẩm của các cơng ty có khả
năng cạnh tranh nhưng còn khiêm tốn trên thị trường nhất là thị
trường ngoài nước. Thực tế cho thấy, qua hơn hai năm hoạt động chỉ
số giao dịch chứng khoán phong phú TTCK đã bộc lộ sự biến động
thăng trầm và thể hiện tính đặc trưng cơ bản của quy luật thị trường.
Trong giai đoạn đầu, khi mới ra đời TTCK Việt Nam đã phát triển
quá nhanh, giá cổ phiếu tăng lên một cách “chóng mặt”, nhiều nhà
đầu tư hám lợi đã bỏ tiền mua cổ phiếu ở mức giá quá cao (giá ảo).


Hiện tượng này xảy ra là do trên TTCK có sự khan hiếm về hàng
hố, tình trạng chênh lệch cung- cầu chứng khốn q lớn, số lượng
cơng ty niêm yết cịn ít, lượng đặt mua cổ phiếu thường lớn gấp
nhiều lần lượng cổ phiếu bán ra khiến giá cổ phiếu liên tục tăng.
Trong khi đó các loại trái phiếu lại khơng có giao dịch hay nếu có
thì chỉ là số lượng không đáng kể. Sự “háo hức” này cộng với tâm lý
của các nhà đầu tư khi mới tham gia vào thị trường. Khi giá cổ
phiếu liên tục tăng, các nhà đầu tư ln tìm mọi cách mua bằng
được để hưởng chênh lệch giá mà họ đi rằng giá cổ phiếu phản ánh
tương đối chính xác tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là
nguyên nhân thúc đẩy giá cổ phiếu của các công ty niêm yết tăng
quá cao. Sự tăng giá này hồn tồn khơng dẫn đến sự tăng giá trị
doanh nghiệp của những công ty niêm yết mà chỉ cho thấy một

“bong bóng” tài chính đang được hình thành trên TTCKVN. Cụ thể
tại phiên giao dịch ngày 25/6/2001 với chỉ số giao dịch Việt NamIndex của TTCK Việt Nam là 571,04 điểm sau đó rớt xuống điểm
đáy 174,62 điểm tại phiên giao dịch ngày 07/11/2002. Cho đến
những tháng đầu năm 2003 chỉ số giá giao dịch có nhích lên một
chút, tại phiên giao dịch tháng 1 năm 2003 chỉ còn 30.300 cổ phiếu
với khối giao dịch khớp lệnh chỉ còn 651 triệu so với 2.479,80 triệu,
cuối tháng 8 năm 2000 chỉ có hai loại cổ phiếu giao dịch. Tại phiên
giao dịch ngày 14/01/2003 giá giao dịch nhích lên một chút đạt 870
triệu với 37.700 cổ phiếu. Nhưng chỉ số giao dịch gần đây giảm
đáng kể, kết thúc phiên giao dịch ngày 11/3/2003 Việt Nam-Index
đã giảm xuống lập kỷ lục đáy mới là 162,86 điểm thấp nhất từ trước
cho đến nay, tổng giá trị giao dịch của toàn thị trường đạt
1.399.620.000 đồng. So với chỉ số Việt Nam-Index đỉnh cao nhất
trong các phiên giao dịch với giá trị giao dịch là 23 tỷ, điều này
chứng tỏ TTCK Việt Nam hiện nay đang rơi vào tình trạng “ngủ
gật”. Tình trạng này là vì trong năm vừa qua trên thị trường vốn ở
Việt Nam, tỷ giá ngoại tệ, lãi suất huy động vốn, giá vàng và giá bất
động sản tăng. Cụ thể, trong năm 2002 tỷ giá đôla Mỹ (USD) so với
VND tăng 2,1% (15.085 đồng/USD-16.043 đồng/USD), lãi suất tiết


kiệm USD loại kỳ hạn 12 tháng bình quân trong năm 2002 là 2,2%,
lãi suất tiền gửi tiết kiệm VND loại kỳ hạn 12 tháng từ 0,555/tháng,
tăng lên 0,67%/tháng, giá vàng tăng 26,9% ( 796.000 đồng-805.000
đồng/chỉ), giá bất động sản tại thành phố và khu đơ thị có nơi có lúc
tăng 60-75%. Các nhà đầu tư trên TTCK hiện nay phần lớn là do
cán bộ hưu trí, học sinh, “nhà đầu tư chuyên nghiệp ” chiếm tỉ lệ
thấp. Bên cạnh đó, chiến lược của các nhà đầu tư cịn mang tính chất
“thử nghiệm”, chủ yếu là đầu tư ngắn hạn, mua nhanh, bán nhanh.
Hiện nay trên thị trường vẫn chịu áp lực lớn từ phía cầu, chênh lệch

cung - cầu lớn, số lượng và chủng loại hàng hoá chưa đáp ứng được
nhu cầu của công chúng đầu tư. Hiệu quả của sự khan hiếm hàng
hoá là giá cổ phiếu trên thị trường tăng một cách giả tạo, giá cổ
phiếu không phản ánh được giá trị hiện thực của công ty phát hành.
Đây cũng chính là một trong những yếu tố tạo điều kiện cho hoạt
động đầu cơ, “làm giá” trên thị trường.
Các hiện tượng tiêu cực trên đang là mối đe doạ lớn đối với
một thị trường mới đi vào hoạt động như TTCKVN hiện nay. Ba là,
cơ chế quản trị hoạt động của các CTCK, CTNY chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế, quy định đối với hoạt động TTCK chưa sâu rộng
nên ý thức thực hiện chưa cao do đó đã hạn chế hiệu quả hoạt động
của TTCK. Mặt khác, cơ chế vận hành của TTCK tạo ra môi trường
hết sức thuận lợi cho hoạt động đầu cơ phát triển. Nhưng các nhà
đầu cơ đã lợi dụng triệt để các yếu tố tiêu cực của TTCK để khai
thác các mặt trái của nó và dẫn đến việc các giao dịch chứng khốn
khơng cơng bằng. Ngồi ra cịn dẫn đến khả năng mất giá đồng nội
tệ, gây ra các hiện tượng lạm phát mà Chính Phủ khơng thể kiểm
sốt được. Các CTNY cịn e ngại khi phải cơng bố thơng tin trên thị
trường, thực hiện chế độ kiểm tốn nghiêm ngặt cũng như các mối
đe doạ vì khả năng cạnh tranh. Bản thân các doanh nghiệp đã được
niêm yết trên thị trường với số lượng chứng khoán thực tế được đưa
vào giao dịch còn hạn chế. Các CTCK chưa được thực hiện nghiệp
vụ tự kinh doanh. Mà nghiệp vụ này các CTCK có thể thực hiện


chức năng để ổn định thị trường, cân đối cung cầu thơng qua việc
mua bán chứng khốn khi có sự chênh lệch qúa lớn trên thị trường.
Về mặt vĩ mô, tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, môi trường đầu tư
kém hấp dẫn nên các CTNY chưa có nhu cầu phát hành thêm trái
phiếu mới, bên cạnh đó chưa tạo ra được nhu cầu lớn về vốn. Thứ

tư, TTCK còn là một khái niệm mới mẻ đối với công chúngViệt
Nam. TTGDCK đi vào hoạt động còn quá non trẻ với đội ngũ cán
bộ chưa có nhiều kinh nghiệm, hàng hố trên thị trường cịn nghèo
nàn trong khi đó các nhà đầu tư nước ngoài am hiểu và nhạy cảm
trong lĩnh vực này lại đang thiếu vắng. Thực tế cho thấy TTCK Việt
Nam vẫn cịn ít nhà đầu tư có tổ chức, đầu tư có quy mơ lớn và dài
hạn. Có thể nói rằng hoạt động của TTCK Việt Nam thời gian qua
chưa tác động một cách mạnh mẽ đến nền kinh tế đất nước, chưa
chiếm một vị thế như mong muốn của Đảng và Nhà nước ta trong
hệ thống tài chính với tư cách là kênh huy động vốn trung và dài
hạn cho đầu tư phát triển. Nhất là trong xu thế mở cửa TTCK hiện
nay chính là sự dịch chuyển của các dịng tiền nóng mà các luồng
vốn, lãi suất này cực kỳ nhạy cảm với các mức lãi suất khác nhau,
với sự tăng trưởng của nền kinh tế và lợi nhuận kỳ vọng từ việc nắm
giữ cổ phiếu. Như vậy tại sao nhiều nhà đầu tư nước ngoài chưa
tham gia vào TTCK Việt Nam? Câu trả lời được căn cứ vào quyết
định số 145/1999/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ n gày 28-061999 ban hành về quy chế bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài,
quyết định này được áp dụng cho việc mua bán cổ phiếu của những cơng
ty khơng niêm yết. Cịn đối với cơng ty niêm yết thì việc mua bán của
các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện theo quyết định 139/1999/ QĐ- TTg của Thủ
tướng Chính phủ ban hành ngày 10-06-1999 quy định các cơng ty niêm yết đã có
cổ phần của người đầu tư nước ngồi trên 20% thì chỉ được tham gia bán mà
khơng được phép mua. Vì vậy TTCK Việt Nam chưa thực sự thu hút được sự quan
tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Thứ năm, vấn đề đưa thơng tin về TTCK cịn
hạn chế, hầu như cả cơ quan quản lý lẫn người tham gia vào TTCK đều chưa nhận
thức được vai trò đặc biệt quan trọng của thông tin trong hoạt động của TTCK do
đó khơng bảo đảm được u cầu kịp thời, chính xác thông tin trên thị trường. Thứ
sáu, hoạt động của đội ngũ nhân viên làm nghề kinh doanh chứng khoán còn yếu



về trình độ, kinh nghiệm làm việc. Mặt khác, hoạt động hầu hết của các cơng ty
chứng khốn chỉ tập trung vào hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.HCM chưa tạo
được điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư ở các tỉnh, thành phố khác tham gia
vào TTCK. Chúng ta đều biết chứng khoán và TTCK là một lĩnh vực mới của nước
ta hiện nay cho nên thực tiễn và kinh nghiệm quản lý vận hành của các cơ quan, tổ
chức trong TTCK còn rất sơ khai và yếu kém, đối với quần chúng là một hoạt động
mới mẻ nên khơng thể tránh được những thiếu sót trong q trình hoạt động. Mặt
khác, mơi trường kinh tế của Việt Nam kém sôi động, khả năng hấp thụ vốn của
các doanh nghiệp cịn hạn chế, do đó TTCK tuy đã đi vào hoạt động nhưng sẽ gặp
nhiều khó khăn với tình hình hiện nay của Việt Nam trong nhiều mặt.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP “TĂNG CUNG – KÍCH CẦU” CHO THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TRONG ĐIỀU KIỆN NƯỚC TA HIỆN NAY

Mục tiêu tổng quát cho sự phát triển của thị trường chứng
khoánViệt Nam từ nay đến năm 2010 đã được xác định là: tiếp tục ổn
định và pháttriển thị trường chứng khốn, góp phần phát triển thị trường
Tài chính ViệtNam; tiếp tục đẩy mạnh việc huy động vốn đầu tư phát
triển kinh tế, đồng thời thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp
Nhà nước; nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động thị trường,
hạn chế tối đa các ảnh hưởng tiêu cực, bảo vệ lợi ích của người đầu tư,
thúc đẩy qúa trình tự do hố Tài chínhvà hội nhập thị trường Tài chính
quốc tế. Để thực hiện được các mục tiêu trên, việc tăng cung và kích
cầuchứng khốn trên thị trường có ý nghĩa quan trọng đặc biệt khơng
những đốivới trước mắt mà cịn cả về lâu dài ở nước ta. Có thể nêu ra
một số giải phápchủ yếu sau: Một là, khuyến khích, thu hút nhiều loại
hình doanh nghiệp thamgia vào thị trường chứng khốn để tăng số lượng
và tính hấp dẫn của hànghố chứng khoán trên thị trường. Trong số 30
doanh nghiệp đang tham gia và thị trường chứng khốnthì các doanh
nghiệp đó đều là những doanh nghiệp nhà nước được cổ phầnhoá, hiện
tại thị trường cịn thiếu vắng nhiều loại hình doanh nghiệp khác. Dovậy,

để đa dạng hố các loại hình doanh nghiệp tham gia vào thị trườngchứng
khốn cần phải có những chính sách biện pháp:
+ Khuyến khích thành lập mới các doanh nghiệp theo hình thức cơngty
cổ phần. Về lâu dài, chứng khốn của các cơng ty cổ phần thuộc
thànhphần kinh tế tư nhân sẽ đóng vai trị chủ yếu của thị trường, nhưng


hiện tạiphần lớn các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân ở
nước ta đềuđược thành lập theo hình thức công ty TNHH hoặc doanh
nghiệp tư nhân.Theo pháp luật hiện hành, các loại hình doanh nghiệp
này khơng được phépphát hành chứng khốn mà chỉ có cơng ty cổ phần
mới đủ điều kiện pháp lí đểphát hành. Vì vậy, Nhà nước cần có chính
sách khuyến khích thành lập mớicác cơng ty cổ phần để tăng hàng hoá
cho thị trường.
+ Khuyến khích các doanh nghiệp Nhà nước huy động vốn qua
pháthành trái phiếu như giảm chi phí phát hành; giảm thuế thu nhập đối
với doanhnghiệp sử dụng vốn tài trợ bằng trái phiếu; qui định tỷ lệ vay
nợ ngân hàng;giảm sự phụ thuộc quá đáng vào nguồn vốn tín dụng ưu
đãi của Nhà nước.
+ Khuyến khích doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước
ngồichuyển đổi sang cơng ty cổ phần và đưa cổ phiếu ra niêm yết để đa
dạng hoávà nâng cao chất lượng hàng hoá - cổ phiếu trên thị trường.
+ Khuyến khích các cơng ty bảo hiểm tham gia vào thị trường
chứngkhoán để tăng cường yếu tố đầu tư dài hạn, khắc phục xu hướng
đầu tư ngắnhạn băng các qui định bắt buộc một số loại hình bảo hiểm
trách nhiệm nghềnghiệp nhằm tạo niềm tin cho các nhà đầu tư.
+ Khuyến khích sự ra đời và hoạt động của các quĩ đầu tư chứngkhốn,
quĩ tính thác đầu tư, quĩ hưu trí nhằm đa dạng hố đầu tư và thu hútđông
đảo công chúng tham gia đầu tư, giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư
cánhân. Hai là: đẩy mạnh phát hành trái phiếu chính phủ qua trung

tâmgiao dịch chứng khoán. Trong khi các loại trái phiếu doanh nghiệp
đủ tiêu chuẩn niêm yếtgiao dịch cịn hạn chế thì trái phiếu chính phủ sẽ
là loại chứng khốn giaodịch chính tại trung tâm giao dịch. Để phát huy
vai trò của loại trái phiếu nàytrên thị trường, cần chú trọng những vấn đề
sau: + Nhà nước cần kế hoạch hoá nhu cầu vốn và các nguồn vốn dài
hạnđể có kế hoạch huy động vốn qua phát hành các loại trái phiếu chính
phủ.
+ Đa dạng hố thời hạn trái phiếu chính phủ, chủ yếu tập trung pháthành
loại trái phiếu trung và dài hạn.


+ Phải coi trọng việc đảm bảo đúng mức lợi ích chính đáng và hợp lýcho
người đầu tư là biện pháp cơ bản đảm bảo cho việc phát hành trái
phiếuChính phủ thành cơng.
+ Mở rộng phát hành theo hình thức bán buôn thông qua bảo lãnhphát
hành và đấu thầu qua trung tâm giao dịch chứng khốn.
+ Cần có cơ chế bắt buộc bán lại lượng trái phiếu nắm giữ vượt quásố
lượng và thời gian đối với các tổ chức đấu thầu và bảo lãnh phát hành.
Ba là: tăng số lượng và nâng cao chất lượng cơng ty niêm yếtchứng
khốn. Sau hơn 5 năm hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khốn
TPHồ Chí Minh mới chỉ có 30 cơng ty niêm yết, nếu so với trên 1600
doanhnghiệp Nhà nước được cổ phần hố hoặc chuyển đổi hình thức sở
hữu thì sốlượng cơng ty niêm yết cịn qúa ít ỏi. Do vậy, để thị trường
chứng khoán ngàycàng phát triển về quy mơ, hoạt động có hiệu quả cần
phải có sự tham gia tíchcực của các doanh nghiệp vào thị trường bằng
các biện pháp:
+ Cần đẩy mạnh cổ phần hoá và kết hợp q trình cổ phần hố
doanhnghiệp Nhà nước với việc lựa chọn các doanh nghiệp đủ tiêu
chuẩn đưa raniêm yết.


+ Cần có chính sách và biện pháp khuyến khích các tổng cơng ty
Nhànước thực hiện cổ phần hố và niêm yết chứng khốn trên thị
trường để tăngsố lượng và tính hấp dẫn chứng khoán trên thị trường.
+ Giảm bớt sự khắt khe về tiêu chuẩn niêm yết và đơn giản hố
thủtục niêm yết.
+ Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài niêm yết
cổphiếu và phát hành trái phiếu.
+ Cho phép thành lập các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồidưới hình thức cơng ty cổ phần và thực hiện tham gia niêm yết
chứng khoán.


+ Cần có những chính sách ưu đãi về mặt tài chính đối với các
cơngty niêm yết như miễn giảm phí niêm yết, giảm thu phí kiểm
tốn, ưu đãi vềthuế đối với những công ty niêm yết…
Bốn là: nâng cấp cải tiến hoạt động, mở rộng phạm vi và loại
hìnhnghiệp vụ của các cơng ty chứng khốn. Hiện nay đã có 9 cơng
ty chứng khốn được thành lập và cung cấpdịch vụ cho thị trường
nhưng phần lớn các công ty chứng khoán hiện chỉdừng lại cung cấp
các dịch vụ đơn giản như môi giới, tư vấn niêm yết, rấtnhiều dịch vụ
tạo sự tăng trưởng và phát triển của thị trường cịn chưa đượctriển
khai mạnh mẽ như bảo lãnh, đại lí phát hành, quả lí danh mục đầu
tư,quả lí quĩ đầu tư… để làm được những điều đó các cơng ty chứng
khốn cần:
+ Nâng cấp qui mơ vốn. Để tăng vốn cho các cơng ty chứng khốn
cóthể thực hiện bằng cách cho phép các cơng ty chứng khốn chủ
động pháthành để tăng vốn hoặc miễn trừ thuế thu nhập phần lợi
nhuận được sử dụngđể tăng vốn điều lệ.
+ Mở rộng phạm vi hoạt động và triển khai toàn bộ nghiệp vụ
hoạtđộng kinh doanh đã được cấp phép cho các công ty chứng

khoán.
+ Mở rộng mạng lưới dịch vụ chi nhánh, đại lí nhận lệnh của các cơngty
chứng khốn ở các khu đông dân cư, các tỉnh, thành phố trong cả
nướcnhằm mở rộng qui mơ thị trường và gia tăng tiện ích để thu hút các
nhà đầutư.
+ Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơng ty chứng khốnnhư
hiện đại hố hệ thống thơng tin nối mạng giữa cơng ty chứng khoán
vớitrung tâm giao dịch và người đầu tư.
+ Tăng cường chất lượng quản trị công ty, nâng cao trình độ và đạođức
hành nghề của các nhân viên mơi giới, hành nghề chứng khoán. Năm là:
Tăng cường sự tham gia của các ngân hàng thương mạivào thị trường
chứng khoán. Theo qui định tại nghị định số 48/1998/NĐ-CP của chính


phủ vềchứng khốn và thị trường chứng khốn thì các ngân hàng thương
mại khôngphải là ứng cử viên vào chức danh mơi giới chứng khốn mà
các ngân hàngThương mại muốn tham gia các hoạt động kinh doanh
chứng khoán phảithành lập cơng ty chứng khốn có tư cách pháp nhân
riêng, khơng được thựchiện theo kiểu mâu “khơng có sự tách biệt giữa
cơng nghiệp ngân hàng vàcơng nghiệp chứng khốn”. Chúng tơi cho
rằng thực hiện mơ hình tổ chức cơng ty chứng khoán như qui định tại
nghị định số 48/NĐ-CP là chưa hồntồn phù hợp với nước ta. Vì theo
mơ hình đó, các cơng ty chứng khốnkhơng thể là người hiểu biết tường
tận về các doanh nghiệp- người phát hànhchứng khốn; khơng phải là
người sẵn có những phương tiện kỹ thuật cầnthiết phù hợp với yêu cầu
của người đầu tư, không thể có sẵn đội ngũ cán bộ,nhân viên có nghiệp
vụ chuyên môn liên quan chặt chẽ và gần gũi với nhữngnghiệp vụ về
chứng khoán như các ngân hàng Thương mại. Và cũng theo đódẫn đến
khơng thể có đủ số cơng ty chứng khốn đủ mạnh và phát triển ởtrình độ
cao để giúp các doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra thị trường,giúp

các doanh nghiệp phát triển các hình thức chứng khốn mới và
cũngkhơng có khả năng chống đỡ cao đối với những biến động bất lợi
trên thịtrường chứng khoán. Điều này đã được chứng minh chứng từ
hoạt thực trạnghoạt động của các cơng ty chứng khốn trên thị trường
hơn 2 năm qua. Dovậy trong thời gian tới, theo chúng tôi cần tăng cường
sự tham gia của cácngân hàng Thương mại và thị trường chứng khoán
với tư cách vừa là trunggian Tài chính vừa là các nhà đầu tư có tổ chức:
- Trên thị trường sơ cấp, các ngân hàng Thương mại tham gia hoạtđộng
với tư cách là người phát hành để tạo ra hàng hoá cho thị trường
chứngkhoán, cung cấp các dịch vụ về tư vấn phát hành chứng khoán,
làm đại lí pháthành chứng khốn, bảo lãnh phát hành chứng khốn. Trên thị trường thứ cấp, các ngân hàng Thương mại tham gia với tưcách
là một trung gian môi giới, một nhà đầu tư có tổ chức. Nhưng để tránh
những trường hợp đầu cơ gây lộn xộn trên thị trườngchứng khoán do các
ngân hàng Thương mại gây ra cần phải có các qui địnhsau: + Qui định
các ngân hàng Thương mại không được sử dùng tiền gửingắn hạn của
công chúng để đầu tư chứng khoán. + Qui định bắt buộc các ngân hàng
Thương mại phải bán lượng chứngkhoán nắm giữ vượt quá thời gian và
số lượng theo qui định.


Sáu là: tăng cường quảng bá kiến thức về chứng khốn, thị trườngchứng
khốn và lợi ích đầu tư chứng khốn cho cơng chúng. Chứng khốn và
thị trường chứng khốn là một lĩnh vực hồn tồnmới mẻ đối với cơng
chúng đầu tư. Sự hiểu biết của công chúng đầu tư vềchứng khốn và thị
trường chứng khốn ở nước ta cịn rất hạn chế nên nhiềunhà đầu tư vẫn
đầu tư chứng khoán theo cảm tính, nên thị trường chưa thu hútđược
nhiều cơng chúng tham gia đầu tư chứng khốn. Chính vì vậy, cần
phảităng cường công tác tuyên truyền, phổ cập kiến thức về chứng
khoán và thịtrường chứng khoán trên phạm vi cả nước bằng cách phát
hành và phân phốicác tài liệu hướng dẫn thật đơn giản và dễ hiểu về

chứng khoán và giao giaodịch chứng khốn cho đơng đảo cơng chúng;
đào tạo miễn phí, phổ cập vànâng cao kiến thức chứng khốn và tuyên
truyền rộng rãi đến công chúng ởcác tỉnh thành phố và đội ngũ các
doanh nghiệp trẻ Việt Nam… Để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động của thị trường, hạn chếảnh hưởng tiêu cực và bảo vệ lợi ích của
người đầu tư, ngoài việc thực hiệncác giải pháp tăng cung, kích cầu nêu
trên, cịn phải thực hiện đồng bộ cácgiải pháp Tài chính, giải pháp kinh
tế vĩ mơ khác ./.

KẾT LUẬN
Thị trường chứng khoán ra đời đã đánh dấu một bước tiến
mớitrong quá trình phát triển thị trường tài chính Việt Nam. TTCK ra
đời đã gópphần thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển nhanh chóng và
tham gia hộinhập nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong đó hoạt động
của TTCK đạt đượcmột số kết quả đáng khích lệ. Chỉ sau năm năm hoạt
động, thị trường chứngkhoán Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn. Là kênh huy động vốn quan trọng cho các tổ chức kinh tế trong nền
kinh tế quốc dân; là cầu nối giữadoanh nghiệp và nhà đầu tư, giữa nơi
thừa và nơi thiếu vốn. Tuy nhiên nếu xét về khả năng cung ứng chứng
khốn cho thịtrường thì cịn rất hạn chế về cả số lượng lẫn chất lượng.
Hàng hoá trên thịtrường chứng khoán đã tăng nhưng thực tế là chưa
nhiều, chưa đa dạng. Khảnăng hấp thụ vốn của doanh nghiệp còn rất hạn
chế, nhiều doanh nghiệp chưacó chiến lược đầu tư hoặc huy động vốn


đầu tư dài hạn qua thị trường chứngkhoán nên khả năng cung chứng
khốn trên thị trường thấp. Bên cạnh đó, sốlượng nhà đầu tư, khối lượng
giao dịch rất thấp. Các nhà đầu tư chứng khoántrên thị trường chứng
khoán Việt Nam chủ yếu là các nhà đầu tư nhỏ, khôngchuyên. Không
mạnh dạn đầu tư vào chứng khốn – một loại hình kinh doanhmạo hiểm.

Do đó cầu chứng khốn thấp. Việc “Tăng cung – kích cầu” hàng hố cho
thị trường chứng khốntập trung ở Việt Nam là một yêu cầu đặt ra cho
các nhà quản lí. Tăng cung –kích cầu hàng hố cho thị trường chứng
khốn chính là một trong những giảipháp quan trọng và bức thiết hiện
nay.


* Tài liệu tham khảo:
1- Giáo trình Thị trường chứng khốn. Học Viện Tài chính.
NXB Tài Chính – 2003
2- Giáo trình Lý thuyết Tài chính – NXB Tài chính – 2002
3- Giáo trình Thị trường chứng khốn. ĐH Kinh tế quốc dân.
NXB Tài Chính
4- Tạp chí Đầu tư
5- Tạp chí Chứng khoán tháng 12 năm 2001; tháng 10,11,12
năm 2002
6- Tạp chí chứng khốn tháng 3,4,7,12 năm 2003.
7- Sở giao dịch chứng khốn Việt Nam mơ hình và bước đi-TS
Trần ĐắcSinh.
8- Phân tích và đầu tư chứng khốn –Hồng Anh.


×