Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

bài điều kiện môn thủ tục hành chính công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.8 KB, 11 trang )

Họ và tên: Hồ Văn Khương
Lớp: KS13-TCNS1
SBD: KS13A-041
BÀI ĐIỀU KIỆN
Môn: Thủ tục Hành chính
Điểm Nhận xét
Câu 1: Phân biệt Thủ tục hành chính theo cơ chế cũ và Thủ tục hành chính theo
cơ chế mới?
Cải cách thủ tục hành chính là một trong những nội dung quan trọng của cải
cách hành chính. Từ sau đổi mới 1986, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta ngày càng phát triển, quá trình hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng
mạnh mẽ.
Để đáp ứng được sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, đồng thời tạo môi
trường đầu tư thông thoáng cho cả trong và ngoài nước, cải thiện và nâng cao đời sống
nhân dân thì việc cải cách nền hành chính được xem là một trong những chủ trương
quan trọng và đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta mà bước đi đầu tiên là Cải cách thủ
tục hành chính.
Vấn đề cải cách thủ tục hành chính được đưa ra lần đầu tiên tại Nghị Quyết số
38/1994/NQ-CP về Cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết công
việc của công dân và tổ chức. Nghị quyết đã thùa nhận sự rườm rà, phức tạp và thiếu
đồng bộc của thủ tục hành chính đương thời nên cải cách thủ tục hành chính là việc
làm rất cần thiết.
Trải qua 20 năm cải cách thủ tục hành chính, nền hành hính nước ta đã đạt được
nhiều thành tựu. Vợi sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng – Nhà nước, nhiều chương trình,
hướng đi mới cho công cuộc cải cách thủ tục hành chính lại mở ra. Không chỉ cải
cách, chúng ta còn đang từng bước hiện đại hóa các thủ tục hành chính nhằm giảm
thiếu sức ép cho các cơ quan Nhf nước và mang lại lợi ích to lớn cho nhân dân.
Tiếp tục thực hiện đề án 30c/2011 về cải cách tổng thể nền hành chính trong đó
có cải cách hành chính đến năm 2020 và thực hiện mô hình “một cửa-một cử liên
thông”, “một cửa-một dấu” tiến đến sử dụng chữ ký điện tử-con dấu điện tử (Quy định
tai Quyết định 181/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số


93/2007/QĐ-TTg), chúng ta vẫn đang thực hiện thí điểm nhiều mô hình cải cách thủ
tục hành chính và bước đầu mang lại những kết quả tích cực, hứa hẹn mang đến những
hiệu quả tốt trong tương lai. Vậy 20 năm qua, Thủ tục hành chính theo cơ chế mới đã
thay đổi đến mức nào? Có thể so sánh thủ tục hành chính theo cơ chế cũ với thủ tục
hành chính theo cơ ch mới để rút ra nhận xét.
Tiêu chí Cơ chế cũ Cơ chế mới Ví dụ cụ thể
Chủ thể Nhà nước Nhà nước, các tổ
chức tư nhân được
ủy quyền (Văn
phòng công chứng
tư, Thừa phát lại )
Trong thời bao cấp,
Nhà nước quản lý
toàn bộ các hoạt
động xã hội (tất cả
các quá trình sản
xuất và tiêu dùng)
băng chế độ tem
phiếu. Việc thực
hiện các thủ tục
hành chính chỉ
được thực hiện bởi
các cơ quan Nhà
nước có thẩm
quyền. Sau đổi mới,
do nhu cầu thực
hiện thủ tục hành
chính ngày càng
tăng (dân số tăng,
các loại thủ tục

hành chính mới ra
đời do chuyển đổi
cơ cấu kinh tế…),
việc chuyển đổi
một phần thủ tục
hành chính cho các
tổ chức tư nhân
thực hiện là cần
thiết để giảm áp lực
cho cơ quan Nhà
nước, đáp ứng kịp
thời yêu cầu của
nhân dân. Do đó
Nhà nước đã ủy
quyền cho những tổ
chức tư nhân có
điều kiện, các đơn
vị sự nghiệp Nhà
nước thự hiện một
số thủ tục hành
chính: dịch vụ công
chứng, xin cấp
điện-nước…
Đối tượng, khách Không nhiều Đa dạng hơn (do sự Trước cải cách
thể xuất hiện các chủ
thể kinh tế- xã hội
mới sau cải cách
1986… quá trình
hội nhậ quốc tế)
1986 , không có các

công ty tư nhân,
hợp doanh, công ty
vố nước ngoài như
hiện nay,…
Trình tự thủ tục Rườm rà, chồng
chéo
Thồng nhất, nhanh
gọn
Trường hợp
chuyển hộ khẩu:
+Điều 11 Nghị
định 104-CP năm
1964 của Chính
phủ về những yêu
cầu khi chuyển hộ
khẩu đến một thành
phố, thị xã có quy
định như sau:
“Trong trường hợp
chuyển chỗ ở đến
một thành phố, thị
xã, thì khi đến đăng
ký lấy giấy "Chứng
nhận chuyển đi",
đương sự phải đem
theo một trong
những giấy tờ sau
đây:
Giấy thuyên chuyển
công tác; Giấy

chứng nhận được
tuyển dụng do cơ
quan quản lý lao
động ở thành phố,
thị xã nơi chuyển
đến cấp; Giấy
chứng nhận trúng
tuyển vào học các
trường đại học hay
trường chuyên
nghiệp của thành
phố, thị xã đó; Giấy
"cho phép chuyển
đến" do cơ quan
công an của thành
phố, thị xã đó cấp.”
+ Trong khi đó,
Luật Cư trú 2013
quy định như sau:
Để tạo điều
kiện thuận lợi cho
công dân, cũng như
minh bạch, công
khai trong đăng ký,
quản lý cư trú, Điều
28 Luật Cư trú qui
định về giấy chuyển
hộ khẩu như sau:
1. Công dân khi
chuyển nơi thường

trú thì được cấp
giấy chuyển hộ
khẩu.
2. Giấy chuyển hộ
khẩu được cấp cho
công dân trong các
trường hợp sau đây:
a) Chuyển đi
ngoài phạm vi xã,
thị trấn của huyện
thuộc tỉnh;
b) Chuyển đi
ngoài phạm vi
huyện, quận, thị xã
của thành phố trực
thuộc trung ương;
thị xã, thành phố
thuộc tỉnh.
3. Thẩm quyền
cấp giấy chuyển hộ
khẩu được quy định
như sau:
a) Trưởng Công
an xã, thị trấn cấp
giấy chuyển hộ
khẩu cho trường
hợp quy định tại
điểm a khoản 2
Điều này;
b) Trưởng Công

an huyện, quận, thị
xã của thành phố
trực thuộc trung
ương, Trưởng Công
an thị xã, thành phố
thuộc tỉnh cấp giấy
chuyển hộ khẩu cho
trường hợp quy
định tại điểm b
khoản 2 Điều này.
4. Hồ sơ cấp giấy
chuyển hộ khẩu bao
gồm sổ hộ khẩu và
phiếu báo thay đổi
hộ khẩu, nhân
khẩu.
So sánh hai quy
định về cùng một
vấn đề ở hai thời kì
khác nhau như trên,
ta dễ dàng nhận ra
sự rườm rà, phức
tạp của Thủ tục
hành chính cơ chế
cũ so với cơ chế
mới. Sơ lượng hồ
sơ để giải quyết
một thủ tục cụ thể
của cơ chế thủ tục
hành chính theo cơ

chế cũ tương đối
nhiều nên dễ dẫn
đến sự rườm rà,
phức tạp nêu trên.
Còn rất nhiều ví dụ
khác cũng có thể
nêu bật vấn đề này.
Thời gian giải
quyết
Chậm Nhanh, quy định cụ
thể cho từng loại
thủ tục.
Trước đây đăng kí
kinh doanh (thành
lập doanh nghiệp)
hồ sơ gairi quyết từ
6 tháng đến 1 năm,
giờ chỉ còn từ 3 đến
6 tháng. Một bước
giảm đáng kể
nhưng cần tiếp tục
giảm nữa để tạo
điều kiện thuận lợi
cho sản xuất-kinh
doanh.
Số lượng thủ tục Ban đầu ít sau đó
tăng dần đến số
lượng lớn (Do sự
phát triển, thống
nhất nhà nước giữa

2 miền, chế độ tem
phiếu bao cấp)
Ngày càng được
tinh giảm phù hợp
với yêu cầu phát
triển của đất nước
(Những thủ tục mới
vẫn phát sinh
nhưng chủ yếu là
do xuất hiện những
đối tượng, quan hệ
quản lý mới)
Không có số lượng
thống kê cụ thể
nhưng thủ tục hành
chính theo cơ chế
cữ đa được cắt
giảm nhiều từ cải
cách, những thủ tục
không còn phù hợp
như :Nghị Định
184-CP của Chính
phủ năm 1972 về
thể lệ sát sinh trâu
bò… và nhiề thủ
tục khác. Nhìn
chung, từ khi cải
cách, số lượng thủ
tục hành chính đã
giảm đáng kể (nhất

là do việc xóa bỏ
chế độ tem phiếu).
Dù có nhiều Thủ
tục hành chính mới
nhưng thực chất
được xuất phát từ
yêu cầu quản lý do
các yêu cầu kinh tế-
xã hội, quá trình
hội nhập (những
lĩnh vực sản xuất-
kinh doanh mới
xuất hiện: điện tử-
viễn thông….)
Cơ chế giải quyết
thủ tục
Nhiều cửa, nhiều
dấu, hồ sơ qua
nhiều cơ quan có
liên quan mới được
giải quyết. Mối liên
hệ giữa các cơ quan
liên quan không
trực tiếp.
Một cửa, một dấu,
một của liên thông.
Hồ sơ đươc tiếp
nhận và trả ở một
bộ phận duy nhất.
Các cơ quan liên

quan tự luân
chuyển hồ sơ để
giải quyết theo thời
hạn quy định. Quan
hệ giữa các cơ quan
mang tính trực tiếp.
Trước đây, người
dân phải tự mình
chạy khắp các cơ
quan Nhà nước có
liên quan để giải
quyết một loại thủ
tục (mua bán đất,
hộ tịch, ). Giờ chỉ
cần nộp và nhận lại
hồ sơ tại bộ phận
tiếp nhận và trả hồ
sơ trong một thời
gian nhất định. Tiếp
xúc với một cửa
duy nhất.
Cán bộ công chức Quan liêu, thiếu
trách nhiệm. Quan
hệ với dân chưa tốt
Nhiệt tình, có trách
nhiệm với công
việc, tích cự trong
công việc, quan hệ
tốt với dân.
Những vụ quan

liêu, sách nhiễu,
giảm dần… là ví dụ
cụ thể nhất lcho yếu
tố này.
Bộ thủ tục hành
chính chung
Chưa có bộ thủ tục
chung
Có bộ thủ tục
chung, được công
khai, viêm yết ở các
cơ quan Hành
chính.
Lệ phí thực hiện
thủ tục hành chính
Không được quy
định rõ rang, cacsn
bộ-công chức dễ
Được quy định rõ
rang, công khai tại
các cơ quan hành
sách nhiễu, nhận
hối lộ khi thục hiện
thủ tục hành chính.
chính cùng với bộ
thủ tục hành chính
chung.
Tính chất việc thực
hiện thủ tục hành
chính

Đơn xin phép,
hướng đến quản lý,
Nhà nước làm chủ
điều hành tất cả ,
chú trọng nghĩa
vụ ,thủ tục hành
chính hướng đến
kết quả không
hướng đến hiệu quả
“Hành là chính”
Các quyền đương
nhiên được hưởng
củ người dân.
hướng đến phục vụ
nhân dân, đảm bảo
quyền và nghĩa vụ,
chú trọng vào hiệu
quả. Nhà nước
đóng vai trò người
cung cấp dịch vụ.
Vai trò của nhân
dân trong việc thực
hiện thủ tục hành
chính
Nghĩa vụ phải làm,
không thể giám sát
quá trình thực hiện
thủ tục, đóng góp ít.
Đóng vai trò quan
trọng trong việc

thực hiện thủ tục
hành chính (có thể
đánh giá thủ cán bộ
công chức thực
hiện thủ tục hành
chính ), quan trọng
là có thể giám sát
việc thực hiện thủ
tục hành chính của
mình. Đóng góp ý
kiến cho cán bộ-
công chức thực
hiện thủ tục. Vai trò
khách hàng.
Tóm lại, thủ tục hành chính là một phương tiện quan trọng để nhân dân thực
hiện mối quan hệ giữa nhân dân với Nhà nước. Mối quan hệ này có bền vững và tốt
đẹp hay không thì thủ tục hành chính cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Do
đó, cải cách thủ tục hành chính hướng tới phục vụ nhân dân tốt hơn là việc làm rất cần
thiết và cần được quan tâm, cũng như chú trọng đẩy mạnh hơn nữa trong thời gian tới
để xây dựng một cơ chế thủ tục hành chính ngày càng mới, ngày càng hiện đại, đáp
ứng kịp thời sự phát triển kinh tế-xã hôi của đất nước./.
Câu 2: Tại sao nói việc xây dựng Thủ tục hành chính phải đảm bảo nguyên tắc
phù hợpc thực tế khách quan và sựu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để thực
hiện tốt những nguyên tắc này cần phải làm gì?
Khái niệm thủ tục hành chính
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng, thủ tục là “cách thức tiến hành một công
việc với nội dung, trình tự nhất định, theo quy định của Nhà nước”. Theo đó, hoạt
động quản lý nhà nước nào cũng đều được tiến hành theo những thủ tục nhất
định.Tương ứng với ba lĩnh vực hoạt động của nhà nước: lập pháp, hành pháp, tư pháp
là ba nhóm thủ tục: thủ tục lập pháp, thủ tục hành chính, thủ tục tư pháp. Trong đó,

khái niệm thủ tục hành chính có rất nhiều cách hiểu khác nhau. Nhưng theo tinh thần
nội dung các văn kiện của Đảng và các văn bản pháp luật gần nhất thì “thủ tục hành
chính được hiểu là tổng thể những hành vi pháp lý cần thiết phải thực hiện theo cách
thức, trình tự do pháp luật xác định nhằm tổ chức nhiệm vụ, quyền hạn hay quyền,
nghĩa vụ của các chủ thể trong quản lý hành chính nhà nước”.
Thủ tục hành chính bảo gồm những nội dung cơ bản sau:
- Số lượng các hoạt động cụ thể cần thực hiện để tiến hành những hoạt động
quản lý nhất định;
- Trình tự của các hoạt động cụ thể, mối liên hệ giữa các hoạt động đó;
- Nội dung, mục đích của các hoạt động cụ thể
- Cách thức tiến hành, thời hạn tiến hành các hoạt động cụ thể
Cách hiểu này cho phép đánh giá đúng ý nghĩa, vai trò của thủ tục hành chính
trong quản lý nhà nước, tạo điều kiện cho việc tìm hiểu nhu cầu, định ra phương
hướng, biện pháp thích hợp để cải cách thủ tục hành chính nhằm xây dựng nền hành
chính hiện đại đáp ứng nhu cầu quản lý nhà nước trong điều kiện hiện nay. Vì vậy có
thể nói đây là cách hiểu đầy đủ nhất về thủ tục hành chính.
Có thể chi thủ tục hành chính thàng 2 loại chủ yếu: Thủ tục hành chính nội bộ
trong cơ quan Nhà nước (Thủ tục tuyển dụng, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động; thủ
tục thẩm định, ban hành văn bản quy phạm….) và các thủ tục hành chính trong mối
quan hệ Nhà nước với Nhân dân (Thủ tục tiếp dân; thủ tục đăng kí sử dụng đất; xin
giấy phép xây dựng…) Thủ tục hành chính đóng vai trò quan trọng trong hoạt động tổ
chức của các cơ quan Nhà nước và hoạt động điều hành các mối quan hệ đời sống xã
hội, nhât là hoạt động của các cơ quan Hành pháp. Chính vì vai trò quan trọng đó, Thủ
tục hành chính được xây dựng, ban hành và thực hiện theo quy trình nghiêm ngặt, tuân
thủ những quy tắc nhất định.
Một thủ tục hành chính muốn mang lại hiệu quả cho hoạt động quản lý thì cần
tuân thủ những nguyên tắc sau:
Đầu tiên,nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: thủ tục hành chính xây dựng phù
hợp với pháp chế xã hội chủ nghĩa, phù hợp với Hiến pháp- Luật và các Văn bản quy
phạm pháp luật khác có liên quan vì suy cho cùng các hoạt động tổ chức bộ máy Nhà

nước, các hoạt động điều hành các quan hệ xã hội đều là hoạt động hiện thức hóa Hiến
pháp- Luật của Nhà nước và các chủ trương, đường lối, chính sách cảu Đảng. Đáp ứng
được nguyên tắc này, thủ tục hành chính mới có thể trở thành một công cụ hữu hiệu
cho hoạt động quản lý nội bộ và quản lý xã hội của Nhà nước. Nguyên tắc này đảm
bảo các cơ quan ban hành, sủa đổi và thực hiện thủ tục đúng thẩm quyền, trình tự do
luật định, tránh những thủ tục hành chính tự phát hay những bất cập trong quá trình
thực hiện thủ tục hành chính.
Nguyên tắc tiếp theo đòi hỏi phải tuân thủ khi xây dựng thủ tụa hành chính là phải
phù hợp với thực tế khách quan,phù hợp với sự phát triẻn kinh tê –xã hội của đất nước.
Nguyên tắc này xin được bàn sau.
Cuối cùng, một thủ tục hành chính muốn áp dụng hiệu quả cần phải đơn giản, dễ
hiểu và tiện lợi thực hiện. Càng đơn giản, dễ hiểu, thủ tục hành chính càng dễ đến với
người dân để họ dễ dàng sử dụng và còn tránh sự sách nhiễu, quan liêu của đội ngũ
thực hiện thủ tục, không chỉ tiết kiệm về thời gian mà còn kinh phí cho hoạt động thực
hiện thủ tục.
Quay trở lại với nội dung chính, việc xây dựng thủ tục hành chính cần đảm bảo
phù hợp thực tế khách quan, phù hợp sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc
xây dựng thủ tục hành chính phải dựa trên cơ sở nhận thức đầy đủ nhứng yêu cầu
khách quan của tiến trình phát triển xã hội. Lý do vì sao cần tuân thủ nguyên tắc này,
xin lấy một vài ví dụ:
Đầu tiên, Thông tư 27/2012/TT-BCA về việc đổi mẫu giấy chứng minh mới, có
tên cha mẹ và có mã vạch để quản lý. Thông tư này ra đời với ý nghĩa tạo sự thuận lợi,
dễ dàng cho cơ quan quản lý nhưng cuối cùng không thức hiện vì sự phản ứng của
người dân bởi khá tốn kém, phiền phức và đụng chạm đến nhiều người (không thích
người khác gọi tên cha mẹ). Sự thất bại của Thông tư này thể hiện tính thiếu thực tế,
khách quan trong việc ban hành thủ tục hành chính.
Bên cạnh Thông tư 27 của Bộ Công An, còn nhiều văn bản Pháp luật “từ trên trời
rới xuống khác” trong thời gian qua như: Thông tư 02 của Bộ Công an quy định mỗi
người chỉ được đăng ký 1 xe máy; Thông tư liên tịch quy định tiêu chuẩn sức
khỏe người lái xe, khám sức khỏe định kỳ đối với người lái xe ô tô và quy định về cơ

sở y tế khám sức khỏe của người lái xe của liên bộ Y tế - Giao thông vận tải; Thông tư
liên tịch số 06 giữa bộ KH&CN, Công Thương, Công an, GTVT, trong đó cho phép
các lực lượng chức năng xử phạt người đội mũ bảo hiểm kém chất lượng khi tham gia
giao thông; Quy định lưu thông xe theo ngày chẵn, lẻ; Nghị định 105 về tổ chức lễ
tang cán bộ, công chức, viên chức mà bộ VH-TT&DL chủ trì soạn thảo là cấm lắp ô
cửa kính trên nắp quan tài với lập luận để tránh ảnh hưởng đến môi trường, sức khỏe
người dự tang lễ; Thông tư 33 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn quy định
“thịt heo 8 tiếng”… và còn nhiều văn bản quy pham khác nữa. Những văn bản “Thiếu
thực tế, khách quan này” nếu đi vào thực tế và được quy định thành các thủ tục hành
chính thì thử hỏi sẽ thế nào? Thịt heo muốn được đem ra chợ bán phải có giấy xác
nhận thời gian giết mổ, tang lễ cán bộ, công chức Nhà nước sẽ bị kiểm tra số vòng hoa
xem có vượt quy định “7 vòng” hay không, muốn lái xe phải có giấy chứng nhận
“vòng 1 đủ chuẩn”, xe máy muốn lưu thông ngoài đường thì phải có giấy tờ xác nhận
là chính chủ (như thế mỗi người đều phải mua một chiếc xe?)… còn với việc quy định
lưu thông xe theo ngày chẵn, ngày lẻ thì thậ sự chưa phù hợp với tình hình kinh tê - xã
hội nước ta (nếu gia đình chỉ có một chiếc xe không thể một ngày đi xe, một ngày
không đi được?).
Từ những ví dụ trên có thể thấy việc xây dựng và ban hành thủ tục hành chính rất
cần tuân thủ nguyên tắc phù hợp thực tế khách quan và sự phát triêtn kinh tế xã hội
của đất nước. Thủ tục hành chính có thể xem như phương tiện để người dân thực hiện
các mối quan hệ với Nhà nước nhưng nếu phương tiện không tốt, không phù hợp thực
tế thì sẽ khiến người dân phản đối, mất lòng tin vào Nhà nước. Chỉ có xuất phát từ
thực tế khách quan thì thủ tục hành chính mới có thể đi vào thực tế, đáp ứng yêu cầu
của nhân dân (như việc hợp nhất quyền sử dụng đất với quyền sử dụng nhà và tài sản
gắn liền với đất, việc thực hiện thủ tục kê khai thuế điện tử, giải quyết thủ tục hành
chính theo cơ chế một cửa – một cửa liên thông… đã mang lại nhiều lợi ích cho nhân
dân) và được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng.
Để đảm bảo yêu cầu phù hợp thực tế khách quan và sự phát triển kinh tế- xã hội
của đất nước trong việc xây dựng và ban hành thủ tục hành chính cần phải thực hiện
những nội dung sau:

Đầu tiên, việc xây dựng và ban hành thủ tục hành chính cần thực hiện một cách lâu
dài, căn cứ vào tổng quan tình hình kinh tế -xã hội của đất nước. Không thể cấm người
có tiền mua thêm xe (vi phạm quy tắc đầu tiên: hợp Hiến- hợp Pháp), cũng không thể
ép người không có tiền mua nhiều xe.
Thứ hai, việc xây dựng và ban hành thủ tục hành chính cần cso một thời gian thực
hiện đủ dài, có sự giám định, giám sát chặt chẽ của cơ quan thẩm định nhàm tránh
những sai sót như thời gian qua. Nếu Bộ Tư pháp làm tốt hơn thì có lẽ những quy định
kiểu trên sẽ không xuất hiện.
Việc xây dựng, ban hành các thủ tục hành chính cần lắng nghe và tiếp thu thật
nhiều ý kiến của Nhân dân và những cá nhân có tâm huyết, tầm nhìn vì suy cho cùng
thủ tục hành chính nhằm mục đích phục vụ nhân dân và Quản lý xã hội.
Cuối cùng, việc xây dựng và ban hành thủ tục hành chính phải là một việc nghiêm
túc, đòi hỏi những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền phải thật sự tận tâm, nghiêm túc và
nỗ lực hết sức mình nhằm tạp ra những quy định đúng đắn. Không tự tạo ra những thủ
tục hành chính nhằm mục đích vụ lợi các nhân, vi phạm pháp luật. Bản thân ngững
người xây dựng và ban hành thủ tục hành chính phải hường đến mục đích phục vụ
nhân dân. Không ngừng nâng cao năng lực huyên môn, nghiệp vụ, bắt kịp xu thế phát
triển của thời đại nhưng vẫn đảm bảo tính chính xác, hiệu quả.
Với tinh thần đổi mới toàn diện đất nước, trong công cuộc xây dựng nền kinh tế
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa môt nề kinh tế mở, đa phương hóa và đa dạng hóa quan
hệ đối ngoại, việc xây dựng hệ thống thủ tục hành chính sao cho tạo điều kiện tốt cho
các hoạt động của nền kinh tế đó phát triển đúng hướng, đồng thời ngăn ngừa, hạn chế
và khắc phục được các mặt tiêu cực của nó là một yêu cầu bức xúc, một nhiệm vụ
quan trọng trong công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia. Do đó viẹc xây dựng
thủ tục hành chình, hơn bào giờ hết cần đảm bảo yêu cầu thực thê khách quan, phù
hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước./.

×