Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Nhiễu kết hợp giữa các Femtocell trong mạng LTEAdvanced với tập hợp các sóng mang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.05 KB, 15 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
ĐỀ TÀI: Nhiễu kết hợp giữa các Femtocell trong mạng
LTE-Advanced với tập hợp các sóng mang.
Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS ĐÀO NGỌC CHIẾN
Sinh viên thực hiện : NGUYỄN KHẮC TÍNH
Lớp : 11B KTTT1
MSSV : CB110920
Môn học : Tương thích điện từ
Hà nội, tháng 1 năm 2012
1
Nhiễu kết hợp giữa các Femtocell trong mạng
LTE-Advanced với tập hợp các sóng mang.
Tóm tắt: Công nghệ Femtocell đã nổi lên như một giải pháp đầy hứa hẹn để
cung cấp vùng phủ trong các tòa nhà sử dụng cho mạng 3G cũng như mạng LTE và
mạng LTE – Advance sau này.
Trong phạm vi bài báo này, chúng tôi đề xuất một lược đồ hai bước của nhiễu kết
hợp để giải quyết vấn đề nhiễu giữa các Femtocell trong mạng LTE – Advanced với tập
hợp các sóng mang. Mỗi Femtocell được gắn với một sóng mang mà không bị chồng lấn
với nhiễu của các femtocell hoặc ít nhất là nhiễu trong bước đầu tiên. Tiếp theo, trong
bước thứ 2, nhiều các sóng mạng được cố gắng sử dụng bởi một Femtocell với yêu cầu
cải thiện hiệu suất phổ cho hệ thống dựa vào các chức năng và tiện ích đặc biệt. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi đã chứng minh được hiệu quả của lược đồ nhiễu kết hợp khi
thực hiện trong một giới hạn của thông lượng.
I. GIỚI THIỆU
Như là một giải pháp hiệu quả cho việc phủ sóng trong các tòa nhà, công nghệ
femtocell đã được đề xuất áp dụng trong mạng 3G của tổ chức 3GPP để giải quyết vấn đề
gặp phải trong quá trình phủ sóng cho các mạng UMTS, mạng LTE và LTE – advance.
Không chỉ có các thuê bao (user) được hưởng lợi mà cả các nhà cung cấp dịch vụ cũng
nhận được lợi ích từ giải pháp femtocell này. Khi chúng ta so sánh với giải pháp


macrocell, thì các giải pháp femtocell cung cấp các kết nối vô tuyến có chất lượng tốt hơn
tới các user trong khi công suất tiêu thụ của các thiết bị user lại nhỏ hơn trong các môi
trường bên trong của tòa nhà. Trong giải pháp này, đối với các nhà cung cấp dịch vụ, một
số lượng lớn lưu lượng truy cập từ các thuê bao có thể được cho phép di chuyển từ mạng
macrocell sang mạng femtocell, do đó giải pháp sử dụng Femtocell sẽ giúp các nhà cung
cấp dịch vụ giảm các chi phí liên quan tới triển khai hạ tầng. Tuy nhiên, công nghệ này
vẫn đang được phát triển và có nhiều vấn đề cần phải được nghiên cứu thêm như: Điều
khiển truy nhập, định thời và đồng bộ, nhiễu kết hợp.
Khi mà mạng sử dụng femtocell để phát triển cho khách hàng mà không thực hiện
quá trình quy hoạch một cách phù hợp, chính xác thì nhiễu trong mạng femtocell có xu
hướng phức tạp hơn rất nhiều so với mạng di động tế bào truyền thống. Bởi vậy, nhiễu kết
hợp trong mạng femtocell không thể được xử lý bằng các phương án, giải pháp sẵn có mà
đã được thiết kế, áp dụng và triển khai trong mạng macrocell trước đây. Thông thường, sẽ
2
tồn tại hai loại nhiễu truy cập trong phân chia tần số trực giao (OFDMA) là nhiễu giữa
các thiết bị mạng macrocell với femtocel và nhiễu giữa các mạng femtocell với femtocell.
Các nguồn trực giao trong miền tần số và (hoặc) trong miền thời gian khi cung cấp cho
các macrocell và femtocell có thể giúp tránh được nhiễu giữa các macrocell và femtocell
mặc dù phương pháp này không hiệu quả trong việc tái sử dụng phổ trong giới hạn. Như
vậy, lược đồ phân chia tần số đã được đề xuất cho các mạng femtocell và từ đó chúng ta
có thể giả sử là đã tránh được nhiễu giữa macrocell và femtocell. Mặt khác, vì số lượng và
vị trí của các trạm gốc (base stations) trong mạng femtocell với một nửa là cố định và một
nữa là thay đổi, do đó nhiễu giữa femtocell với femtocell, giữa các kênh trong cùng
femtocell sẽ được giải quyết bằng quá trình thiết kế phân bố theo lược đồ tài nguyên vô
tuyến. Tuy nhiên, với thông tin mới nhất mà chúng tôi có, vấn đề chỉ định nguồn tài
nguyên cho việc phối hợp nhiễu giữa các femtocell chưa được đề cập một cách rõ ràng
trong các tài liệu trước đây và tới tận bây giờ.
Trong khi ấy, sự kết hợp giữa các sóng mang nơi mà hai hay nhiều các thành phần
sóng mạng được kết hợp, đã được yêu cầu bởi mạng LTE – Advance với mục đích cần
phải hỗ trợ băng thông truyền dẫn lớn và phổ tập chung. Trong bài báo này, trước tiên

chúng tôi đưa ra một công thức về nhiễu kiết hợp giữa các femtocell trong mạng LTE –
Advance như một vấn đề để tối ưu hóa. Thay vì đó, một biểu đồ CA dựa vào nhiễu kết
hợp được đề xuất cho vấn đề nhiễu giữa các femtocell trong mạng LTE – Advance. Nơi
mà các trạm đặt các femtocell và các user thường xuyên tham chiếu tới trạm Node B (còn
gọi là HeNB- Home evolved NodeB) và các thiết bị của các user (HUE). Dựa vào các kết
quả đo được tại các HeNB, mỗi HeNB được chỉ định tới một sóng mang mà nó không
chồng lấn với các nhiễu của các HeNB hoặc ít nhất là nhiễu trong bước thứ nhất. Bởi vậy,
trong yêu cầu để tăng hiệu suất phổ của mạng, các sóng mang đã sử dụng bởi một HeNB
có thể được chia sẽ tới các HeNB khác dựa vào tiện ích đã được tính toán tại HUE trong
bước tiếp theo. Cuối cùng, các kết quả của giải pháp chứng minh tính hữu dụng của biểu
đồ đề xuất trong giới hạn của thông lượng băng thông.
Trong bài báo này được cấu trúc theo từng phần. Trong phần II đưa ra một cách
tổng quan ngắn gọn của hệ thống và đưa ra các vấn đề. Phần III trình bày biểu đồ đề xuất
nhiễu kết hơp. Phần IV đưa ra kết quả mô phỏng. Phần V trình bày kết luận của bài báo.
II. MÔ HÌNH HỆ THỐNG.
Trong phạm vị bài báo này chúng ta quan tâm tới hướng downlink trong mạng
LTE-Advanced với các femtocell. Có một số các user rất ít hay thậm trí là không có sự di
chuyển trong nhà hoặc trong các văn phòng. Bởi vậy để đơn giản, giả định chỉ có một
HUE được kết nối tới HeNB trong mỗi cell. Phương pháp phân tích cũng có thể dễ dàng
mở rộng với các trường hợp có nhiều hơn một UE trong mỗi cell.
3
Chúng ta xem xét hướng downlink với N người dùng và K sóng mang trong mạng.
Để đơn giản, chúng ta giữ cho công suất giống nhau trên mỗi sóng mang của mỗi cell.
Xét ma trận nhị phân mô tả tài nguyên phân bổ tài
nguyên giữa các người dùng , nơi mà biểu thị sóng mang k được gán cho
người dùng thứ n. Trong trường hợp còn lại thì Do đó, tỉ lệ trên sóng mang k
của femtocell được cho bởi công thức
Với W là băng thông của sóng mang, là tổn hao đường (PL) từ khách hành đang
được phục vụ HeNB tới HUE thứ n, và là công suất nhiễu được thêm vào từ nhiễu
Gaussian (AWGN).

Vấn đề của nhiễu kết hợp là tìm A như là một hàm mục tiêu được tối ưu hóa.
Thông thường, những vấn đề tối ưu hóa với các mục tiêu khác nhau cần được giải quyết
cho vấn đề nhiễu kết hợp bao gồm:
• Tối đa hóa thông lượng (Max-TP). Giả sử mục tiêu cần đạt được là giá trị lớn
nhất của hiệu suất phổ, hàm mục tiêu của vấn đề này có thể xây dựng như sau
• Tối đa hóa tỉ lệ cân bằng (Max-PF). Giả sử mục tiêu là đạt được thông lượng
hệ thống cao nhất trong khi vẫn đảm bảo sự cần bằng tỷ lệ giữa các femtocell
như sau:
4
Bằng cách kết hợp (1) vào (2) hoặc (3) chúng ta có thể dễ dàng nhận ra rằng vấn
đề để tối ưu hóa là không dễ. Để tìm giải pháp tối ưu của nó, cần phải tìm kiếm một cách
toàn diện trên tất cả giải pháp khả thi là cần thiết, trong đó tính phức tạp hóa trong tính
toán là rất cao. Vì vậy, khi xem xét tính khả thi để thực hiện là rất cần thiết để giải quyết
các vấn đề nhiễu kết hợp trong mạng LTE – Advance.
III. NHIỄU KẾT HỢP GIỮA CÁC FEMTOCELL.
Khi mà các hành vi của HeNB trong mạng femtocell được điều kiển bới khách
hành, cấu trúc mạng của hệ thống femtocll thay đổi nửa động nữa tĩnh dẫn đến kết quả
nhiễu đồng kênh giữa các femtocell tới femtocell ngày càng phức tạp. Nhiễu giữa các
femtocell phải được kết hợp để đạt được sự cân bằng tốt nhất việc tái sử dụng tài nguyên
phổ và nhiễu đồng kênh. Một CA được dựa trên biểu đồ nhiễu kết hợp hai bước được đề
xuất trong phần này. Để đảm bảo sự cân bằng giữa các Femtocell trong bước đầu tiên thì
chỉ một sóng mạng được phân bổ cho mỗi femtocell dựa trên sự đo lường nhiễu bên trong
một cell. Sau đó, nhiều sóng mang được cố gắng sử dụng bởi một femtocell với yêu cầu
để cải thiện hiệu hiệu suất phổ của hệ thống trong bước thứ 2.
A. Bước 1: Phân chia tần số trực giao (OFP)
Khi mà một HeNB bật nguồn lên. Nó đo công suất tham khảo tín hiêu nhận (RSRP)
của các HeNBs xung quanh và quyết định thiết lập tới các HeNB có khả năng và mối
quan hệ về nhiễu với nó bằng các kiểm tra liệu RSRP có trên một ngưỡng nhất định
không. Ví dụ như . Sau đó HeNB sẽ được chỉ định một sóng mang mà nó không
chồng chéo với nhiễu của HeNB khác. Nếu tất cả các sóng mang đã bị chiếm bới các

HeNB khác, HeNB sẽ lựa chọn sóng mang mà có sự can thiệp ít nhất: Ví dụ như sóng
mang mà tổng của RSRP từ các HeNB xung quanh là nhỏ nhất. Các sóng mang được giao
cho HeNB trong bước này được gọi là sóng mang trực giao. Sau bước này, một sóng
mang chỉ được dùng cho mỗi femtocell mà cung cấp kết nối giữa HeNB với các UE.
B. Bước 2: Tái sử dụng lại tần số thích nghi
Dựa vào kết quả đo được tại các HUE, HeNB thứ n được lựa chọn cho nó và có thể
chia sẻ các sóng mang được sử dụng bởi nó là nhiễu của các HeNB trong bước này. Từ
đó, chúng ta giả sử rằng chỉ có một HUE được kết hợp với một HeNB, HUE và HeNB có
5
thể chia sẻ cùng một chỉ số để đơn giản ký hiệu. HUE thứ n đó không chỉ có RSRP của
HUE được chỉ định phục vụ bởi HeNB mà còn có các RSRP của các HeNB khác can
thiệp. Sau đó, nếu HeNB phục vụ nó, tức là HeNB thứ n sử dụng một sóng mang trực
giao k, tỉ số nhiễu trên tạp âm (SIR) của HUE thứ n trên sóng mang k có thể được tính
như:
Nơi mà r
n
,
m
biểu thị cho RSRP đã đo được tại HUE thứ n từ HeNB thứ n và HeNB thứ m,
biểu thị nhiểu của các HeNb của HeNb thứ n mà hiện tại đang sử dụng sóng mang
thứ k. Nếu SIR của nó là cao hơn một ngưỡng nhất định (ví dụ như ngưỡng giải điều chế
của kênh dữ liệu), HeNB thứ n quyết định nó có thể sử dụng sóng mang thứ k. Sau đó nó
sẽ gửi một yêu cầu tái sử dụng tần số cho những HeNB trong mà hiện đang sử dụng
sóng mang thứ k. Bản tin yêu cầu tái sử dụng tần số mang với một giá trị hữu ích được
xác định bởi các mục tiêu khác nhau. Tương ứng với một trong hai mục tiêu của Max-TP
hoặc Max-PF, tiện ích có thể được tính bằng một trong hai công thức sau đây là
• Kiểu A:
6
Hình1: Minh họa một ví dụ của phương pháp AFR nơi mà giả thiết tồn tại 3 sóng mang
trong mạng.

• Kiểu B:
Ở đó là thông lượng khuếch đại của HUE thứ n nếu sóng mang k được hỗ trợ nó
(thông lượng của HUE thứ n trên sóng mang k là hàm chức năng của , là thông
7
lượng hiện tại của HeNB thứ n mà không sử dụng sóng mang k, và là biểu hiện
kích thước của . Trong khi trong phương trình số (5) chỉ quan tâm tới thông lượng lớn
nhất cuả tất cả các femtocell. Trong khi phương trình (6) thì xem xét vấn đề một cách
tổng quan hơn.
Khi mà một HeNB thứ m nhận được yêu cầu tái sử dụng tần số, chúng có thể tính
toán được SIR của nó mà đã được kết hợp với UE thứ m trên sóng mang k ví dụ .
Trong khi chúng ta giả sử rằng sóng mang này cung cấp tới HeNB thứ n. Bởi vậy, HeNB
thứ m tính toán một giá trị độ lợi với một trong hai công thức sau đây.
• Kiểu A:
• Kiểu B:
Chú ý rằng khi so sánh biểu thức (5) và (6), kích thước của nhiễu HeNB không tồn
tại trong phần mẫu của biểu thức. Điều này là vì nếu sóng mang thứ k được phục vụ cho
HeNB thứ n, tất cả nhiễu của các HeNB sẽ có thông lượng giảm sút trong khi chỉ
có HeNB thứ n là có thông lượng tăng lên.
Nếu độ lợi của HeNB thứ m mà ít hơn so với HeNB thứ n, HeNB thứ m quyết định
rằng sóng mang thứ k có thể phục vụ cho HeNB thứ n. Nó gửi thông tin cho phép tái sử
dụng tần số tới HeNB thứ n. Còn lại nó sẽ gửi các bản tin từ chối tái sử dụng tần số tới
HeNB thứ n. Nếu HeNB thứ n nhận được sự cho phép tái sử dụng tần số từ tất các các
HeNB trong miền . Nó có thể bắt đầu sử dụng sóng mang thứ k. Trong trường hợp
còn lại nó sẽ không tái sử dụng sóng mang này.
Hình 1 minh họa một ví dụ về quá trình AFR, nơi mà 03 sóng mang được giả sử
tồn tại trong mạng. “O” là viết tắt cho các sóng mang trực giao trong khi “R” viết tắt cho
8
sóng mang tái sử dụng. Sau khi HeNB g bật nguồn nó sẽ lựa chọn sóng mạng trực giao
của nó. Nó sẽ kiểm tra xem có thể tái sử dụng sóng mang với các phần tử láng giềng của
nó. Trong ví dụ này chúng ta giả sử rằng sóng mang thứ 2 là sóng mang tái sử dụng của

HeBB g. Sau đó HeNB g sẽ gửi một bản tin yêu cầu tái sử dụng tần số tới các HeNB khác
thuộc . Mà đang sử dụng sóng mang thứ 2. Trong bản tin yêu cầu, HeNB g gửi giá trị
của nó là hoặc . Sau khi nhận được tín hiệu yêu cầu, nếu hoặc
, HeNB m sẽ gửi bản tin cho phép tái sử dụng tần số tới HeNB g. Trong
trường hợp còn lại, nó sẽ gửi bản tin từ chối cho phép tái sử dụng tần số. HeNB g không
thể sử dụng sóng mang thứ 2 khi tất cả các HeNB phúc đáp lại bản tin “Cho phép tái sử
dụng tần số”.
Hình 2: Các Femtocell được triển khai trong mạng LTE-Advanced.
BẢNG I: CÁC THAM SỐ GIẢ ĐỊNH TRỌNG MẠNG LTE-ADVACE VỚI CÁC
FEMTOCELL.
9
Tham số Giá trị
Băng thông sóng mang 5Mhz
Số lượng sóng mang 3
Số lượng các kênh con 50
Khoảng cách phân chia nhỏ nhất giữa UE
và HeNB
0.2m
Số antenna nhận của UE 2
Độ tăng ích của antenna HeNB 5dBi
Tổn hao đường trong mô hình từ HeNB
tới UE (dB)
Comlex Model 2 [2]
Độ chênh lệnh chuẩn tại vật chắn LOS:3 dB/NLOS 4 dB
Biểu đồ nhiễu tại UE 9dB
Công suất phát HeNB 20 dBm
Số lượng User của femtocell 1
Kiểu lưu lượng Full buffer
IV. KẾT QUẢ MÔ PHỎNG.
Trong phần này, các kết quả mô phỏng được đưa ra để đánh giá sự hoạt động của

đề xuất biểu đồ nhiễu kết hợp trong mạng LTE – Advance với các femtocell. Với mục
đích là so sánh sự hoạt động của mạng với việc tất cả các sóng mang được tái sử dụng
giữa các HeNB mà được đề cập tới.
10
Hình 3: Thông lượng của mạng với các giá trị ngưỡng OFP khác nhau
Chúng tôi đã xem xét chi tiết tới các khu đô thị mà có mật độ dân số cao. Nơi mà
sẽ có rất nhiều các ngôi nhà và các trung cư với nhiều các căn hộ có kích thước nhỏ trong
các toàn nhà này (tham khảo hình 2). Các tham số chi tiết phục vụ cho mô phỏng bao
gồm: Mô hình kênh và các tham số giả định được đưa ra trong bảng I. Để đơn giản, chỉ có
một khối femtocell được xem xét đến (trong hình 2). Mỗi khối femtocell bao gồm 2 dãy
nhà, mỗi khối nhà lại có hai căn hộ áp sát nhau (trong hình vẽ thể hiện mỗi dãy gồm
N
D
=10 căn hộ kép). Mỗi căn hộ có kích thước là 10mx10m có thể có một femtocell, giữa
hai dãy nhà sẽ có một hành lang khoảng 10m. Mỗi khối femtocell sẽ có khoảng 1- 10 ngôi
nhà như thế và chúng ta có thể chọn ngẫu nhiên ở đây chúng ta chọn là L
D
= 6 ngôi nhà
cho mô phỏng.
Để mô phỏng các trường hợp thực tế nơi mà các căn hộ có thể không có các
femtocell, một tham số của tỉ lệ triển khai femtocell là được sử dụng để qyết định xem
một căn hộ có cần phải triển khai femtocell hay không. Khi mà các femtocell không được
triển khai toàn bộ. Chúng ta định nghĩa thêm một tham số tỉ lệ nữa gọi là tỉ lệ hoạt động β
để mô tả tỉ lệ phần % active của các femtocell. Chỉ khi một femtocell hoạt động (active),
nó sẽ truyền lại lưu lượng của các kênh con. Mặt khác, nó sẽ ở trạng thái slient nếu không
11
có lưu lượng của các kênh con. Tỉ lệ hoạt động β có thể biến đổi từ 0- 100%. Cả HeNB và
UE đều giảm một cách có hệ thống tại ngẫu nhiên các căn hộ. Trong mô phỏng của chúng
tôi, tỉ lệ hoạt động của các femtocell β được lấy là 50% trong khi tỉ lệ phát triển các
femtocell đặt là 0.2 và 1.

Trong hình 3, chúng tôi đưa ra thông lượng hoạt động trung bình của mạng với đề
xuất phương pháp phân bổ kênh. Trong khi sử dụng các giá trị ngưỡng khác nhau trong
bước đầu tiên tức là OFP. Với giá trị nhỏ hơn ngưỡng, thông lượng trung bình có thể nhận
được bởi vì các sóng mang được tái sử dụng bởi các femtocell thường xuyên hơn. Như
vậy thông lượng biến đổi ít hơn khi mà giá trị ngưỡng nhỏ hơn 90dB. Mặt khác, các
femtocell với SINR thấp thì sẽ dễ cảm nhận nhiễu do đó thông lượng nhỏ hơn với mức
giảm ngưỡng ngay cả khi có nhiều sóng mang được phân bổ vì vậy việc thực hiện thông
lượng tại điểm +5% hàm phân phối tích lũy CDF trở lên ít tồi hơn khi ngưỡng giảm
xuống dưới 90dB. Bởi vậy chúng tôi lựa chọn giá trị ngưỡng là 90bB trong các bài mô
phỏng.
12
Hình 4: CDF thông lượng của cell với có/không biểu đồ đề xuất nhiễu kết hợp trong
mạng là 0.2 và β = 50%.
Hình 5: CDF thông lượng của cell với có/không biểu đồ đề xuất nhiễu kết hợp trong
mạng là và β = 50%.
Tiếp theo, các CDF hoạt động của các mạng có hoặc không có biểu đồ đề xuất
nhiễu kiết hợp được so sánh trong hình 4 và hình 5, tương ứng với tỉ lệ phát triển là 0.2
và 1. So sánh các mạng với các sóng mạng được tái sử dụng hoàn toàn giữa các femtocell,
thông lượng vận hành của các mạng với biểu đồ đề xuất thì tốt hơn khi không có vấn đề
chức năng tiện ích được áp dụng. Hơn nữa để xác minh rõ ràng sự ảnh hưởng các bước
khác nhau trong biểu đồ đề xuất. Chúng tôi cũng đưa ra phương pháp vận hành của mạng
trong bước đầu tiên tức là OFP. Khi mà mỗi sóng mang được cung cấp bởi OPF tới mỗi
13
sóng mang, thông lượng tương ứng với mức thông lượng thấp được thể hiện trong hình 4
và 5. Mục đích của OFP là đảm bảo rằng mỗi sóng mạng sẽ có ít nhất một sóng mang
được sử dụng.
BẢNG II: SO SÁNH THÔNG LƯỢNG GIỮA BIẾU ĐỒ KHÁC NHAU TRONG
MẠNG LTE- ADVANCE VỚI CÁC FEMTOCELL.
Thông lượng trung bình TP
(Mbps)

5% CDF TP (Mbps)
= 0.2 = 1 = 0.2 = 1
Tái sử dụng toàn bộ 72.2420 35.9421 18.0160 5.2953
OFP+AFR (Type A) 75.0090 39.5478 24.3308 5.3974
OFP+AFR (Type B) 74.0236 36.3689 30.1927 11.0766
Thông lượng trung bình cell và 5% thông lượng CDF trong các mạng với có hoặc
không biểu đồ đề xuất cũng được so sáng chi tiết trong bảng II. Quá trình vận hành của
mạng với biểu đồ tái sử dụng đầy đủ bị ảnh hưởng bởi nhiễu giữa các femtocell đặc biệt
cho các HUE với SIRN thấp. Chúng ta có thể nhận thấy rằng lợi ích biểu đồ do đề xuất
tồn tại không chỉ thông lượng trung bình cell cũng như 5% thông lượng CDF. Từ việc
xem xét các điểm trung bình thông lượng, biểu đồ đề xuất với loại A có thể đạt được hiệu
suất tốt nhất. Chúng ta nhận ra rằng không chỉ thông lượng trung bình nhưng cũng như
5% thông lượng CDF trong mạng đang sử dụng biều đồ đề xuất với tiện ịch loại B tốt hơn
nhiều so với phương pháp tái sử dụng toàn bộ.
V. KẾT LUẬN
Trong bài báo này, chúng tôi lần đâu tiên trình bày các vấn đề nhiễu kết hợp trong
mạng LTE – Advance với các femtocell. Sau đó, một biểu đồ dựa trên CA thực tế với hai
bước được đề xuất nhằm giải quyết vấn đề nhiễu giữa các femtocell. Để đảm bảo sự công
bằng giữa các femtocell, chỉ một sóng mạng được ấn định cho mỗi femtocell dựa trên quá
trình đo kiểm nhiễu xuyên cell trong bước đầu tiên. Sau đó, sau khi tính toán một trong
hai chức năng tiện ích được đề xuất, nhiều sóng mang sẽ được sử dụng bởi một femtocell
để nâng cao hiệu suất phổ trong bước thứ 2. Kết quả mô phỏng của chúng tôi đã chỉ ra
rằng biểu đồ đề xuất cho nhiễu kết hợp sẽ tốt hơn so với biểu đồ tái sử dụng tài nguyên
đầy đủ. Đặc biệt, không chỉ thông lượng trung bình và cũng không phải 5% CDF thông
lượng có thể cải thiện tốt bằng việc đề xuất biểu đồ với tiện ích kiểu B. Biểu đồ này có thể
dễ dàng mở rộng với các trường hợp với các đơn vị tài nguyên vô tuyến nhỏ.
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
[1] D. N. Knisely, T. Yoshizawa, and F. Favichia, “Standardization of femtocells in
3GPP,” IEEE Communications Magazine, vol. 47, no. 9, pp. 68-75, Sept. 2009.

[2] 3GPP TR 36.814, v2.0.0, “Further Advancements for E-UTRA, Physical Layer
Aspects”, Mar. 2010.
[3] V. Chandrasekhar, J. Andrews, and A. Gatherer, “Femtocell networks: a survey” IEEE
Communications Magazine, vol. 46, no. 9, pp. 59-67, Sept. 2008.
[4] V. Chandrasekhar and J. G. Andrews, “Spectrum allocation in two-tier networks,”
Asilomar Conference on Signals, Systems and Computers,2008, pp. 1583-1587, Oct.
2008.
[5] I. Guvenc, J. Moo-Ryong, F. Watanabe, and H. Inamura, “A hybrid frequency
assignment for femtocells and coverage area analysis for co-channel operation,” IEEE
Communications Letters, vol. 12, no. 12, pp. 880-882, Dec. 2008.
[6] Femto Forum Working Group 2 Document, “OFDMA Interference Study: Evaluation
Methodology Document,” Mar. 2009.
[7] Jean-Yves Boudec, “Rate adaptation, Congestion Control and Fairness: A Tutorial,”
fl.ch/PS files/LEB3132.pdf.
15

×