Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Nông nghiệp và nông thôn Hà Nội số 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.74 MB, 32 trang )

1
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)

Hà Nội, ngày 06 tháng 11 năm 2014
Thân gửi: Các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội

Nhân dòp Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội kỷ
niệm 60 năm ngày thành lập (30/11/1954 -30/11/2014) và vinh dự
đón nhận Huân chương Độc lập hạng Nhất, phần thưởng cao quý mà
Đảng và Nhà nước trao tặng, thay mặt Đảng bộ và nhân dân Thủ đô,
tôi xin nhiệt liệt chúc mừng, biểu dương những thành tích, đóng góp của
các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn. Xin gửi tới các đồng chí cùng toàn thể cán bộ, nhân viên ngành nông
nghiệp Thủ đô những lời chúc mừng tốt đẹp nhất.
Suốt chặng đường 60 năm xây dựng và phát triển Thủ đô, các thế hệ cán bộ, công chức,
viên chức, người lao động Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội (tiền thân là Sở
Canh nông) cùng với đội ngũ cán bộ, nhân viên ngành nông nghiệp Thủ đô luôn phát huy
truyền thống đoàn kết, sáng tạo, phấn đấu vượt mọi khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ, đóng
góp quan trọng vào thành tựu phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới của Thủ đô.
Nông nghiệp Thủ đô có sự chuyển dòch tích cực; năng suất, chất lượng, hiệu quả mỗi năm một
tăng; trình độ canh tác, cơ giới hoá, ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến liên tục
tiến bộ. Diện mạo nông thôn Thủ đô đổi mới mạnh mẽ; hạ tầng kinh tế - xã hội khu vực nông
thôn ngày càng hoàn thiện.Đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và người dân ở nông thôn
không ngừng nâng cao.
Đảng bộ và nhân dân Thủ đô tin tưởng rằng, thời gian tới, cán bộ, công chức, viên chức,
người lao động Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng như ngành nông nghiệp Thủ đô


phát huy truyền thống tốt đẹp, phấn đấu đạt nhiều thành tựu to lớn hơn nữa, góp phần cùng
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Thủ đô
xanh - văn hiến - văn minh - hiện đại.
Chúc các đồng chí sức khoẻ, hạnh phúc và thành công!

Thân ái!

PHẠM QUANG NGHỊ
Uỷ viên Bộ Chính trò
Bí Thư Thành ủy
Ông Phạm Quang Nghò
UV Bộ chính trò
Bí thư Thành ủy
2
Số 3 - năm 2014
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
6
0 năm xây dựng và phát triển, từ ngày thành
lập Sở Canh nông đến nay, dưới sự lãnh đạo
của Thành ủy, UBND Thành phố, đội ngũ cán
bộ, kỹ sư, công nhân viên chức ngành Nông nghiệp
& PTNT là lực lượng trực tiếp thực hiện chủ trương
chính sách phát triển nông nghiệp Thủ đô trên từng
chặng đường vẻ vang, góp phần quan trọng vào công
cuộc xây dựng và bảo vệ Thủ đô Hà Nội.
1. Nông nghiệp Hà Nội sau ngày giải phóng bò

ảnh hưởng do chiến tranh tàn phá nặng nề, nông
nghiệp ngoại thành tiêu điều, ruộng đất hoang hóa,
sâu bệnh, dòch bệnh trên cây trồng vật nuôi hoành
hành, trâu bò ít, sức kéo thiếu, hệ thống thủy lợi hầu
như chưa có… Thực hiện chủ trương của Đảng và
Thành phố, trên cơ sở tiếp quản Sở Nông lâm Bắc
Việt của chính quyền cũ, năm 1955 Sở Nông lâm
Hà Nội được thành lập bao gồm các Ty, Phòng, Trạm
để quản lý chỉ đạo là: Ty canh nông ngoại thành
(thuộc các quận 5, 6, 7), Phòng Canh nông (quận 8),
Phòng nghề cá và 2 trạm phúc kiểm lâm. Nhiệm vụ
của Sở là hướng dẫn nhân dân trồng trọt, chăn nuôi,
nuôi trồng thủy sản với số cán bộ ban đầu là 250
người (trong đó trình độ Cao đẳng có 6 người, trình
độ Trung cấp kỹ thuật có 12 người, còn lại là công
nhân viên). Quá trình cải tạo, phát triển sản xuất
nông nghiệp ngoại thành Hà Nội đã được Thành ủy,
UBND TP chỉ đạo sát sao với phương châm kết hợp
giữa thủy lợi hóa và hợp tác hóa; chỉ đạo bước đầu
thí điểm cơ khí hóa nông nghiệp từ những năm 60
của Thế kỷ XX.
Liên tục trong các năm sau ngày giải phóng, Các
hệ thống thủy nông, thủy lợi lớn đã được xây dựng
dần đáp ứng được yêu cầu tưới, tiêu phục vụ sản
xuất nông nghiệp; nhân dân tích cực khai hoang mở
rộng diện tích sản xuất, đồng thời áp dụng rộng rãi
các biện pháp cải tiến kỹ thuật canh tác nhằm tăng
năng suất, chất lượng, hiệu quả; mở rộng phát triển
thêm các ngành nghề nông thôn nhằm nâng cao thu
nhập, nâng cao đời sống. Qua 10 năm tiến hành

khôi phục, cải tạo, phát triển kinh tế XHCN và thực
hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), nông
nghiệp Thủ đô đã có những bước tiến vượt bậc và đạt
được nhiều thành tựu to lớn. Nông nghiệp phát triển
theo hướng đa canh và thâm canh, từ trồng cây lương
thực là chủ yếu sang trồng cây thực phẩm, cây công
nghiệp và phát triển chăn nuôi, thủy sản. Nông nghiệp
ngọai thành Hà Nội hình thành 3 vùng chuyên canh
(vùng 1: sản xuất rau và chăn nuôi; vùng 2 sản xuất
cây công nghiệp, rau, đậu thực phẩm và chăn nuôi;
vùng 3 sản xuất lương thực và chăn nuôi) từng bước
trở thành vành đai thực phẩm của Thành phố. Năm
1965, diện tích gieo cấy lúa đạt 42.369ha, năng
suất 45,84tạ/ha, sản lượng lúa thu hoạch đạt trên
190.000 tấn). Huy động lương thực cho Nhà nước
đạt 19.280tấn. Chăn nuôi phát triển với tổng đàn lợn
năm 1965 đạt 173.380con; đàn bò đạt trên 25.000
con; đàn gia cầm trên 500.000con; nuôi trồng thủy
sản đạt gần 7.000ha, sản lượng trên 5.000tấn. Tổng
giá trò sản xuất nông nghiệp năm 1965 đạt 76.169
triệu đồng, trong đó trồng trọt đạt 49.554 triệu đồng,
chiếm tỷ trọng 65%;… Đến năm 1967, nông nghiệp
ngoại thành Hà Nội đã đạt mức 5,16tấn thóc/ha,
vượt qua ngưỡng 5tấn (sau tỉnh Thái Bình) trong đó
có nhiều HTX đạt 7tấn/ha như HTX Hà Nội - Huế -
Sài gòn; HTX Đại Từ; HTX Yên Duyên
Trong giai đoạn 1965 - 1975, Ngành Nông nghiệp
Hà Nội vừa thực hiện nhiệm vụ sản xuất vừa thực
hiện nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Thủ đô góp phần
SỞ NÔNG NGHIỆP VÀ

PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI
60 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
Th.S Chu Phú Mỹ
Giám đốc Sở
NN&PTNT
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội tiền thân là Sở Canh
Nông Hà Nội được thành lập theo nghò đònh số 10-CN/ND ngày 30/11/1954
của Bộ Canh Nông. Trải qua quá trình hoạt động, các giai đoạn lòch sử, Sở
Canh Nông Hà Nội đã được đổi tên và nhiều lần thực hiện chia tách, hợp
nhất để phù hợp với tình hình thực tế. Thực hiện Nghò quyết số 15/2008/
NQ-QH12 ngày 29/5/2008 về việc điều chỉnh đòa giới hành chính thành phố
Hà Nội và một số tỉnh liên quan, tháng 8/2008, Sở Nông nghiệp & PTNT Hà
Nội được thành lập lại trên cơ sở hợp nhất nguyên trạng Sở Nông nghiệp &
PTNT Hà Tây (cũ) và Sở Nông nghiệp và PTNT Hà Nội (cũ).
3
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Đế quốc
Mỹ ở Miền Bắc, giải phòng hoàn toàn Miền Nam
thống nhất đất nước. Cán bộ, CNVC của ngành đã
vượt qua khó khăn, gian khổ chống thiên tai, đòch
họa, thực hiện 3 cuộc cách mạng trong nông nghiệp.
Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp được củng cố
thông qua cuộc vận động cải tiến quản lý HTX, đưa
lên HTX bậc cao; thực hiện “3 xây, 3 chống” trong
các cơ sở nông, lâm, ngư nghiệp. Năng suất lúa đạt
trên ngưỡng 5tấn/ha/năm, tổng Giá trò sản xuất nông

nghiệp năm 1975 đạt 90.907 triệu đồng, tăng 19,3%
so với năm 1965.
Đất nước hòa bình thống nhất, cả nước đi lên
CNXH, thực hiện chủ trương của Thành ủy, Ngành
Nông nghiệp đã chỉ đạo tổ chức lại sản xuất, cải tiến
một bước quản lý nông nghiệp theo Chỉ thò của Trung
ương, kiện toàn bộ máy HTX, củng cố, sắp xếp lại
lao động; quy hoạch phân vùng sản xuất. Thực hiện
Chỉ thò số 100 CT/TW ngày 13/01/1981 của Ban Bí
thư TW đảng về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng
khoán sản phẩm cho nhóm lao động và người lao
động trong HTX nông nghiệp” (khoán 100) và Nghò
quyết số 10-NQ/TW ngày 05/4/1988 về “Đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế nông nghiệp (khoán 10); thực
hiện cơ chế khoán sản phẩm đến hộ nông dân là
khâu đột phá trong quá trình đổi mới cơ chế quản
lý, quan hệ sản xuất, đáp ứng nhu cầu thực tiễn và
nguyện vọng của nông dân, tạo ra động lực mới thúc
đẩy mạnh mẽ nông nghiệp phát triển, làm biến đổi
sâu sắc nền nông nghiệp Thủ đô và kinh tế - xã hội
ngoại thành Hà Nội. Sản lượng lương thực quy thóc
đạt 52,9vạn tấn (năm 1989), sản xuất vụ Đông đạt
45% diện tích canh tác. Thực hiện Nghò quyết TW
lần thứ 5 (khóa VII) về “Tiếp tục đổi mới và phát
triển kinh tế xã hội nông thôn”, ngành Nông nghiệp
Thủ đô đã tập trung đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu
sản xuất nông nghiệp, cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng kinh tế hàng hóa, quy hoạch và quản lý đất
đai theo hướng xây dựng vùng chuyên canh gắn với
cơ sở sơ chế, chế biến và bảo quản nông sản; công

tác thủy lợi, đê điều được hiện đại hóa, cứng hóa…
đảm bảo phục vụ sản xuất phòng chống lụt bão.
Giá trò sản lượng, năng suất, chất lượng các loại sản
phẩm nông nghiệp và kinh tế nông thôn đều tăng
trưởng với tốc độ cao.
2. Sau 60 năm xây dựng và phát triển, từ Sở Canh
Nông với hơn 100 cán bộ, CNVC đến nay bộ máy
tổ chức của Sở Nông nghiệp & PTNT Hà Nội đã lớn
mạnh bao gồm Lãnh đạo Sở; 7 phòng chức năng và
Thanh tra Sở; 9 Trung tâm; 8 Chi cục; 8 Ban quản
lý (trong đó có 5 Ban quản lý dự án); với biên chế
hành chính, sự nghiệp được giao năm 2014 là 3.171
chỉ tiêu. Nhìn chung đội ngũ CBCNVC trong ngành
có tinh thần đoàn kết, được đào tạo cơ bản, có trách
nhiệm và kinh nghiệm trong công tác. Các tổ chức
Đảng, đoàn thể quần chúng như Công đoàn, Đoàn
thanh niên, Hội Cựu chiến binh.v.v hoạt động đồng
đều và hiệu quả.
Kết quả đạt được:
Thời tiết diễn biến bất thường liên tục từ năm
2008 đến nay; thiên tai, dòch bệnh, hạn hán kéo
dài, nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn tiếp tục phát
triển luôn đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra;
ngành Nông nghiệp & PTNT Hà Nội đã tiến bước
vững chắc với những thành tích đáng tự hào: Giá
trò sản xuất nông nghiệp liên tục tăng; tổng sản
lượng lương thực luôn vượt chỉ tiêu đề ra hàng năm
và đạt trên 1,2 triệu tấn; tổng đàn gia súc, gia cầm
tăng từ 1,1 - 1,3 lần (đàn bò sữa tăng trên 1,5 lần);
sản lượng thòt hơi xuất chuồng tăng 1,3 lần và đạt

396.000 tấn (năm 2013); cơ sở hạ tầng nông nghiệp
ngày càng được đổi mới, nâng cấp; hệ thống đê
điều, công trình thủy lợi không ngừng được củng cố
đảm bảo phục vụ sản xuất, an toàn phòng chống
lụt bão và khắc phục hậu quả thiên tai; bộ mặt
nông thôn luôn được đổi mới, đời sống vật chất và
tinh thần của nông dân được nâng cao.
* Hiện tại, Thành phố Hà Nội có diện tích tự
nhiên là 332.890 ha, với số dân trên 6,8 triệu người;
trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp là trên
188.600 ha, chiếm tỷ lệ 56,7% và dân số sống ở khu
vực nông thôn gần 4 triệu người chiếm tỷ lệ 57%.
Được sự quan tâm lãnh đạo của các cấp ủy Đảng,
chính quyền, trong các năm qua sản xuất nông nghiệp
Thủ đô tiếp tục được duy trì và phát triển, các chỉ
tiêu phát triển cụ thể như sau:
+ Tổng giá trò sản xuất nông - lâm - thủy sản; năm
2012 đạt 8727 tỷ đồng (giá cố đònh) tăng 18,2% so với
năm 2008; và đạt 37.181tỷ đồng (giá thực tế) tăng 84,6%
so với năm 2008; năm 2013 ước đạt 9.049 tỷ đồng (giá
cố đònh), tăng 22,5% so với năm 2008 và 39.815 tỷ
đồng (giá thực tế), tăng 97,7% so với năm 2008.
+ Cơ cấu giá trò (2013): trồng trọt - lâm nghiệp:
42,4%; chăn nuôi, thủy sản: 54,4%; dòch vụ: 3,2%
+ Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm đạt
304.000ha; trong đó diện tích lúa cả năm đạt 204.000
ha; năng suất bình quân đạt 58,80tạ/ha; sản lượng
bình quân xấp xỉ 1,2triệu tấn/năm, chiếm tỷ lệ 2,75%
sản lượng lúa toàn quốc; diện tích ngô cả năm bình
quân đạt trên 20.000ha, sản lượng bình quân xấp xỉ

100.000tấn/năm; tổng diện tích rau, đậu thực phẩm
các loại gần 30.000ha, sản lượng xấp xỉ 600.000tấn/
năm; diện tích cây đậu tương đông hàng năm bình
quân đạt khoảng 26.000ha, sản lượng bình quân
khoảng 32.000 tấn/năm
+ Chăn nuôi hiện có trên 1,4triệu con lợn; trên
4
Số 3 - năm 2014
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
chí; 148 xã đạt và cơ bản đạt từ 10 - 13 tiêu chí; 50
xã đạt và cơ bản đạt từ 5 - 9 tiêu chí.
Toàn thành phố có 996 HTX nông nghiệp; 1.291
trang trại các loại; 1.350 làng nghề và làng có nghề,
chiếm 58,8% số làng của toàn Thành phố (trong đó
có 286 làng nghề đã được UBND Thành phố công
nhận). Hoạt động của các HTX, các làng nghề và các
trang trại đã thu hút được một lực lượng lao động đáng
kể từ khu vực nông thôn tạo ra nhiều sản phẩm đa
dạng, phong phú như: Hàng dệt may, đồ gỗ, nông sản
chế biến góp phần tích cực trong chuyển dòch cơ
cấu kinh tế, chuyển dòch cơ cấu cây trồng, vật nuôi; phát
triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trò hàng hoá
cao. Tạo nên các mô hình sản xuất, kinh doanh có
hiệu quả; tạo ra nhiều sản phẩm nông sản hàng hoá
chất lượng cao cho thò trường và cho xã hội. Quan hệ
hợp tác phát triển kinh tế trong nông thôn ngày càng

được mở rộng. Nhiều HTX dòch vụ nông nghiệp làm
ăn có hiệu quả, các loại hình dòch vụ về xây dựng,
vận tải, thương mại… phát triển đều khắp các vùng
góp phần thúc đẩy và làm sôi động các hoạt động
kinh tế khu vực nông thôn.
Hạ tầng nông thôn, nhất là giao thông nông thôn,
điện, nước sạch được quan tâm đầu tư. 100% số
thôn, xã có điện sử dụng cho sản xuất và sinh hoạt;
các đường liên xã được nâng cấp, đường liên thôn
và đường làng phần lớn được bê tông hóa; 100% số
xã có trạm y tế (trong đó 77,6% trạm y tế xã có bác
sỹ). Hệ thống trường học và thiết bò dạy học được
đầu tư nâng cấp, góp phần từng bước nâng cao chất
lượng giáo dục ở khu vực nông thôn. Công trình nhà
văn hoá, sân vận động thể thao ở nhiều nơi được đầu
tư xây dựng khang trang, sạch đẹp. Công tác vệ sinh
môi trường bước đầu đã được quan tâm đầu tư, tỷ lệ
xã, thôn được thu gom rác thải trên đòa bàn thành
phố đạt trên 74%.
* Đời sống nông dân không ngừng được cải
thiện và nâng cao, thu nhập bình quân đầu người
khu vực nông thôn đã tăng từ 8,2triệu đồng/năm
ở năm 2008 lên trên 21,3triệu đồng ở năm 2012
và năm 2013 đã đạt 23,7triệu đồng/người/năm.
Nông thôn không còn nhà dột nát, đa số các hộ
gia đình có nhà kiên cố, khang trang; tỷ lệ hộ nghèo
giảm bình quân mỗi năm 1,5% (năm 2008 là
9,27%, năm 2012 còn 5,1%; năm 2013 ước còn
2,6%); tỷ lệ số dân nông thôn được dùng nước
hợp vệ sinh đạt trên 91,5% trong đó có 35,26% số

dân được sử dụng nước sạch; tỷ lệ lao động nông
nghiệp qua đào tạo đạt khoảng 42%; công tác y
tế, chăm sóc sức khỏe nông dân có nhiều tiến
bộ, chất lượng khám chữa bệnh được nâng cao. Trên
90% số hộ gia đình có vô tuyến truyền hình; trên 95%
166.000 con trâu, bò (trong đó Bò sữa trên 13.000
con); trên 24,5triệu con gia cầm (trong đó đàn gà 16
triệu con, đàn vòt, ngan ngỗng 5,7triệu con). Tổng
sản lượng thòt hơi các loại đạt 396.000tấn/năm; sản
lượng sữa tươi đạt 22,8 nghìn tấn/năm; sản lượng
trứng các loại đạt 1000 triệu quả/năm; nuôi trồng
thuỷ sản (2013) với diện tích 21.000ha, sản lượng
cá đạt 76.000tấn.
+ Giá trò sản xuất nông - lâm - thủy sản năm 2013
đạt 212,4 triệu đồng/ha, tăng 65% so với năm 2008.
+ Giá trò tăng thêm ngành nông nghiệp đạt bình
quân 1,75% năm; tổng sản lượng lương thực đạt trên
1,3 triệu tấn/năm. Cơ cấu cây trồng chuyển dòch theo
hướng hiệu quả; diện tích trồng hoa, cây cảnh, cây
ăn quả đặc sản tiếp tục được mở rộng. Việc ứng dụng
kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào sản xuất được coi
trọng, hiện nay 100% giống lúa được cấp I hóa; 100%
diện tích ngô được gieo trồng bằng giống lai. Tỷ lệ lợn
ngoại và lợn hướng nạc đạt 75%; tỷ lệ đàn bò lai sind đạt
trên 70% tổng đàn
Nông nghiệp thủ đô bước đầu đã hình thành một
số vùng chuyên canh sản xuất nông sản hàng hoá tập
trung với năng suất và giá trò thu nhập cao như: vùng
sản xuất lúa chất lượng cao, vùng sản xuất rau an toàn,
vùng trồng cam Canh, bưởi Diễn, vùng chăn nuôi gia

cầm, bò thòt, bò sữa tập trung tại các huyện Đông
Anh, Từ Liêm, Hoài Đức, Đan Phượng, Ba Vì, Thanh
Trì, Mê Linh… Nhiều hợp tác xã dòch vụ nông nghiệp
hoạt động có hiệu quả, các loại hình dòch vụ nông
nghiệp, thương mại, vận tải phát triển mạnh ở các
huyện, thò xã đã góp phần tích cực thúc đẩy các hoạt
động kinh tế khu vực nông thôn.
* Khu vực nông thôn được chú trọng đầu tư, các
chương trình của Thành ủy về phát triển kinh tế -
xã hội ngoại thành được triển khai nghiêm túc, có
hiệu quả. Thành phố đã đầu tư hàng ngàn tỷ đồng
để hỗ trợ phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội khu vực
nông thôn, nhiều dự án đưa các tiến bộ khoa học
kỹ thuật ứng dụng vào sản xuất, chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi, nâng cao năng suất lao động,
tăng thu nhập cho nông dân được triển khai thực
hiện. Các công trình thủy lợi, đê điều, kè chống
sạt lở bờ sông Đà, sông Hồng, sông Đáy, sông Bùi
được đầu tư cải tạo nâng cấp
Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng Nông thôn mới và Đề án xây dựng nông thôn
mới Thành phố Hà Nội. Tính đến hết năm 2013,
trên đòa bàn Thành phố có 19/19 huyện, thò xã phê
duyệt đề án xây dựng NTM cấp huyện, 100% số xã
phê duyệt quy hoạch và đề án xây dựng NTM; đã
có 50 xã đạt chuẩn Nông thôn mới được Thành phố
công nhận; 153 xã đạt và cơ bản đạt từ 14 - 18 tiêu
Tiếp theo trang 5

5

Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
Nơi nông dân mang bao ra đồng mà hứng thóc
Không còn thấy những khuôn mặt đầm đẫm mồ
hôi, những tấm lưng còng gập trầy trầy giữa nắng
gió, mưa sa. Việc nhà nông trở nên nhẹ nhàng hơn
bao giờ hết…
Từ ngàn đời nay làm nông vốn là công việc đọa
đầy thân xác. Nào cày bừa, cấy hái, nào gặt, tuốt,
phơi phóng, toàn những việc nặng nhọc. Thế nên
nghe về một nơi mà nông dân làm ruộng như đi chơi,
đến mùa vụ chỉ việc mang bao tải ra đồng mà hứng
thóc, tôi không khỏi tò mò. Mô hình ấy được gọi là
mạ khay, cấy máy kết hợp cơ giới hóa đồng bộ. Ở
huyện Thạch Thất, Hà Nội, xã Hương Ngải là một
trong những xã đầu tiên đã áp dụng cách làm đó với
kinh nghiệm bốn vụ liên tiếp.
Ông Nguyễn Đỗ Ban - Chủ nhiệm HTX thông tin
với tôi rằng sau khi tham quan mô hình mạ khay ở
Thanh Hóa, lãnh đạo đòa phương quyết đònh làm
khảo nghiệm vụ đầu 15 ha. Dù mô hình được Trung
tâm Khuyến nông Hà Nội hỗ trợ giống, phân bón,
thuốc BVTV cũng như máy móc nhưng vẫn không
thoát khỏi quy luật “vạn sự khởi đầu nan”. Nhìn cái
máy cấy thưa, dảnh mạ nhỏ cây non tưởng chừng
yếu ớt bà con nông dân xót ruột không dám tin vào
kết quả cuối cùng. Dù HTX đứng ra đảm nhiệm tất

các công đoạn từ làm đất, ngâm ủ, cấy, bón phân
đến phun thuốc BVTV nhưng nhiều hộ vẫn ngần
ngừ. Vậy là ông Chủ nhiệm phải thảo ra một văn
bản cam kết bằng giấy trắng mực đen rằng nếu cấy
bằng mạ khay năng suất giảm hơn so với cấy thông
thường đơn vò sẽ xuất tiền bù 100%.
Cam kết mạnh bạo ấy vẫn không xua hết những
hoài nghi, vẫn còn có những hộ cố tình gây khó dễ,
không cho cấy nên lãnh đạo HTX lại cam kết sẽ đổi
ruộng của nhà mình cho họ để thực hiện cho bằng
được mô hình. Ở vụ thứ hai, thời tiết khiến cho mạ
dược mất mùa nhưng mạ khay lại thắng. Ở vụ thứ
ba diện tích mạ khay còn được nâng lên nhiều hơn
bởi phương pháp làm khá linh hoạt. Ở những chân
ruộng trũng không chủ động được tưới tiêu, cây mạ
khay ngắn cấy xuống sẽ bò ngập quá ngọn nên hãy
cứ thả cả khay mạ xuống ruộng đợi dăm bảy ngày,
thân mạ cao hơn, cứng hơn sẽ đem ra cấy. Ở vụ thứ
tư này thì không cần tuyên truyền nhiều, bà con đã
mê tít mạ khay.
Mỗi vụ HTX Hương Ngải xuất bán cho xã viên
trong xã trên 10.000 khay mạ. Nhận thấy lợi ích
của mạ khay nên nhiều bà con xã ngoài cũng tìm
đến Hương Ngải để mua mạ khay về cấy. Mỗi vụ có
khoảng trên 5.000 khay mạ được bán ra ngoài theo
dạng này. Chủ nhiệm Ban bảo với tôi rằng để khuyến
khích cách làm mới thời gian đầu thực hiện dòch vụ
này cho bà con HTX chỉ phấn đấu lo đủ chi phí quản
lý đội ngũ cùng khấu hao máy móc.
Có hai hình thức dùng mạ khay, thứ nhất là vẫn

cấy theo kiểu truyền thống, thứ hai là cấy máy. Dù
cách nào, ưu điểm của mạ khay cũng thể hiện khá rõ
NÉT CHẤM PHÁ
NÔNG NGHIỆP THỦ ĐÔ
Dương Đình Tường
số xã và 30% số thôn có máy tính kết nối Internet;
70% số hộ có điện thoại
Kết quả phong trào thi đua từ năm 2008 đến 2014:
- Chủ tòch nước tặng Huân chương Lao động hạng
Nhì cho 05 cá nhân; tặng Huân chương Lao động ha-
ïng Ba cho 04 tập thể; 08 cá nhân;
- Chính phủ tặng Cờ thi đua xuất sắc cho Sở NN &
PTNT (năm 2013);
- Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen cho 15 tập
thể, 21 cá nhân;
- UBND thành phố tặng Cờ thi đua xuất sắc cho 33
tập thể; tặng danh hiệu “Chiến sỹ thi đua thành phố”
cho 16 cá nhân; tặng danh hiệu “Tập thể lao động
xuất sắc” cho 73 tập thể; tặng Bằng khen cho 79 tập
thể, 108 cá nhân; tặng danh hiệu “Người tốt, việc tốt”
cho 35 cá nhân
- Bộ Nông nghiệp & PTNT tặng Cờ thi đua xuất
sắc cho Sở Nông nghiệp & PTNT Hà Nội (năm 2011);
tặng Bằng khen cho 82 tập thể, 102 cá nhân; tặng Kỷ
niệm chương “Vì sự nghiệp Nông nghiệp và PTNT”
cho 971 cá nhân
- Ngoài ra, hàng trăm tập thể, cá nhân trong ngành
được UBND Thành phố Hà Nội, Bộ Nông nghiệp &
PTNT tặng Bằng khen do có thành tích xuất sắc trong
các chuyên đề thi đua do Thành phố, Sở NN&PTNT

Hà Nội phát động
- Giám đốc Sở tặng danh hiệu “Chiến sỹ thi đua cơ
sở” cho hơn 1000 lượt cá nhân; tặng Giấy khen cho
hàng trăm tập thể, hàng nghìn cá nhân có thành tích
xuất sắc trong các phong trào thi đua
*Đặc biệt năm 2014, Sở Nông nghiệp & PTNT
Hà Nội đã được Chủ tòch nước tặng thưởng Huân
chương Độc lập Hạng Nhất-Đây là phần thưởng xứng
đáng của Đảng và Nhà nước cho những đóng góp của
Ngành Nông nông nghiệp & PTNT Thủ đô qua 60
năm xây dựng và phát triển.

Tiếp theo trang 4

6
Số 3 - năm 2014
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
nét. Ngoài chủ động được thời vụ, cơ cấu giống mạ
khay còn giúp cho năng suất tăng lên so với mạ dược
thông thường khoảng 10% (do mạ non nên khi cấy
xuống bộ rễ phát triển tốt hơn mạ già, cây đẻ nhánh,
quang hợp tốt hơn, bông chắc hơn). Tuy nhiên do sản
xuất nông nghiệp chẳng khác gì một xí nghiệp đặt
ngoài trời nên không thể tránh được những điều kiện
tự nhiên bất khả kháng. Nếu rét đậm mạ non dễ chết
hơn mạ già. Nếu mưa lớn mạ non dễ dập nát. Nếu ở

những chân ruộng không chủ động được tưới tiêu để
ngập úng thì mạ non cũng dễ thiệt hại bởi thân cây
rất ngắn, dễ bò ngập.
Hiện HTX Hương Ngải đã cung ứng tới 7 loại dòch
vụ cho bà con xã viên. Từ lúc làm đất, gieo mạ đến
khi gặt hái ước tính sơ sơ người nông dân ở đây giảm
được khoảng 40% chi phí. Cụ thể, trước công cấy mất
250.000đ/sào nay cả mạ lẫn cấy chỉ 200.000đ, trước
làm đất 150.000đ/sào nay còn 110.000đ/sào, trước gặt
tay mất 200.000đ/sào, tuốt máy 60.000đ/sào nay cả gặt
lẫn tuốt chỉ 150.000đ/sào. Đến mùa thu hoạch nông dân
chỉ việc vác bao tải ra đồng mà hứng thóc về sân mà
phơi. Đó là chưa kể khoản tiết kiệm vô cùng lớn về thời
gian cũng như sức khỏe. Những công việc nặng nhọc
nhất của nghề nông được giải phóng đã giúp cho nông
dân Hương Ngải có thời gian rảnh rỗi phát triển thêm
nghề mộc, nghề làm nhà gỗ tăng thu nhập.
Hiện tại tất cả các xã ở trong huyện Thạch Thất
đều có mô hình khảo nghiệm mạ khay trong đó cấy
máy đã được 4 xã áp dụng. Mạ khay, cấy máy được
dự đoán sẽ còn phát triển ngày một mạnh theo xu thế
chung của xã hội.
Những người gây dựng cho thương hiệu thanh
long ruột đỏ:
Dù có anh cán bộ khuyến nông huyện đi cùng
nhưng khi vừa giới thiệu về tôi, anh đã xua xua tay:
“Nói thật cứ nghó đến đài báo là tôi hãi lắm! Ở mình
cái gì cứ tuyên truyền rầm rộ là lại đua nhau làm, là
giá sản phẩm lại rẻ mạt ngay! Tôi thì cứ cái gì người
ta thua thì mình làm, cái gì người ta thắng thì mình

tránh, cái gì khó tôi vào, cái gì dễ tôi lại ra”. Những
lời nói trên khiến tôi không khỏi tò mò muốn tìm hiểu
về anh - người sấm không sợ chết.
29 tuổi, anh vỡ nợ, dời quê vào thầu 6 héc ta đất sỏi
ruồi ngoài đồi Lại Thượng (Thạch Thất, Hà Nội) làm
trang trạng. Dân làng được dòp kháo nhau: “Đúng là
cái thằng sấm không sợ chết nên mới thầu đất 3 năm
ký hợp đồng một lần như thế để làm ăn lâu dài”. Mặc
người ta nói ra, nói vào, vợ chồng anh cứ quần quật
lăn ra mà làm. Hết trồng cây rồi lại chăn nuôi đủ thứ.
Nào gột ngàn con vòt đẻ, vòt thòt, trăm con lợn thương
phẩm lại thả đến vài héc ta cá. Những đồng tiền lãi từ
mồ hôi, nước mắt cặp vợ chồng trẻ không dùng để tậu
xe đẹp, xây nhà to mà lại ném tất vào trang trại. Trên
mảnh đất 3 năm ký hợp đồng một lần này cho đến nay
anh chò đã đầu tư không dưới vài tỉ.
Hồi nghiên cứu rồi “say” cây Thanh long ruột đỏ,
anh đã thuê xe ủi cả đồi bạch đàn. Được hỗ trợ giống
và một phần vật tư từ Trung tâm Khuyến nông Hà Nội,
anh phủ kín 2.200 cọc thanh long trên diện tích 2ha.
Mọi thứ được quy hoạch thẳng thớm như kẻ chỉ, hệt như
một nông trang ở tận trời tây. Kể từ khi trồng, suốt ngày
người ta thấy bóng của hai vợ chồng trên đồi chăm chút
tỉa cành, uốn cành hay buộc dây. Khi ngọn thanh long
vươn cao vượt trụ thì phải uốn cành. Thời điểm uốn tốt
nhất là vào buổi trưa, càng nắng to càng tốt bởi khi ấy
cành rất dẻo, không bò gãy như lúc uốn vào buổi sáng
hay buổi trời mưa. Mặt cành nhẵn thì gập vào trụ, mặt
cành sần để ra ngoài. Ngoài uốn cây còn cần phải tỉa
cành để hạn chế quả ra nhiều, nhỏ, không đạt chuẩn.

Một năm thanh long 9 lần ra hoa, 6 lần thu hoạch. Loại
cây này cho năng suất tốt nhất từ năm thứ hai, thứ ba
trở đi đến lúc tàn, tuổi đời được khoảng 20 năm.
Dưới một gang đất nơi đây là đã chạm đến tầng đá
ong. Đất cằn bất lợi với các đối tượng cây trồng khác
nhưng lại rất hợp với loài xương rồng cho quả này.
Thanh long trong trang trại được trồng theo phương
pháp sạch, từ lúc trổ hoa là không dùng bất cứ loại
thuốc BVTV nào. Đến ngay cả phân hóa học cũng bò
hạn chế tối đa, thay thế bằng nước ngâm cá. Tất cả
những loại cá tạp nhạp đánh từ ao lên anh chò đều
không bán mà đem đổ vào một cái bể lớn, ngâm cho
thành nước. Thanh long bao tháng là bấy nhiêu lần
tưới phân. Cây vừa tốt quả vừa ngọt, ngon lạ thường!
Bởi thế chỉ bán ngay tại vườn thôi mà cũng không đủ
hàng để xuất. Bởi thế nhiều khách ở xa mấy chục cây
số nhưng đã trót một lần ăn Thanh long ruột đỏ là “ng-
hiện”, là ăn bất cứ thứ Thanh long nào khác cũng đều
thấy nhạt mồm. Bởi thế, nhiều nơi thanh long phải đổ
đi vì ế ẩm nhưng bao giờ anh chò cũng bán được từ
20 - 30.000đ/kg.
Giải thích cho việc này anh chỉ cười bảo có thể
do hợp đất, có thể do chỉ thu hái khi quả đã chín chứ
không bao giờ chòu hái non như người ta. Đợt rằm
tháng tám vừa rồi thanh long tím rất có giá vì đem
bày mâm cỗ trung thu rất đẹp. Nhiều thương lái biết
tiếng, tìm đến vườn nhà chồng tiền đặt mua nhưng
chỉ nhận được cái lắc đầu của gia chủ. Hỏi tại sao,
anh bảo: “Bán giá cao, được tiền ai cũng thích nhưng
thế là bán non, thanh long ăn sẽ bò nhớt, bò nhạt. Tôi

không bán rẻ thương hiệu của mình như vậy!”. Anh là
Vương Văn Hải ở xã Lại Thượng huyện Thạch Thất,
Hà Nội. Hiện Thạch Thất đang có 9,2ha thanh long
ruột đỏ trong mô hình khuyến nông và khoảng trên 10
ha bên ngoài. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh tế
cho đối tượng cây trồng này sắp tới đòa phương sẽ bàn
cách xây dựng thương hiệu kèm theo chỉ dẫn đòa lý.

7
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
C
hỉ còn hơn tháng nữa là kết thúc năm 2014.
Thời điểm này, những xã phấn đấu đạt chuẩn
nông thôn mới (NTM) ở các huyện trên đòa bàn
Thành phố đang chạy đua nước rút để về đích đúng
hẹn. Tuy nhiên, để đạt được mong muốn này không
phải là điều dễ dàng, bởi những tiêu chí chưa đạt đều
là những tiêu chí cần nguồn vốn đầu tư lớn.
Ít mà khó
Ông Tạ Văn Xuyên - Bí thư Đảng ủy xã Tráng Việt, huyện
Mê Linh cho biết, đến thời điểm này, xã Tráng Việt đã hoàn
thành 14/19 tiêu chí, 5 tiêu chí còn lại đang gặp rất nhiều khó
khăn, gồm: giao thông, thủy lợi nội đồng, cơ sở vật chất văn
hóa, trường học “Hiện xã còn 10km thủy lợi nội đồng chưa
được đầu tư nâng cấp. Ngoài ra còn các đường nhánh, đường
ra khu vực sản xuất rau an toàn chưa được đầu tư” - ông nói.

Tại xã Hoàng Kim, huyện Mê Linh, ông Hoàng
Văn Tân - Bí thư Đảng ủy xã cũng lo lắng: Hiện xã đã
hoàn thành 13 tiêu chí, còn 6 tiêu chí chưa đạt, trong
đó 4 tiêu chí khó hoàn thành là trường học, cơ sở vật
chất văn hóa, giao thông và thủy lợi nội đồng. Ông Tân
cho biết, hiện xã ông chưa có trường mầm non trung
tâm, nếu không đầu tư được thì đề nghò đầu tư điểm lẻ.
Nhà văn hóa 3 thôn chưa có nhà văn hóa nào. Theo
ông Đoàn Văn Trọng - Phó Chủ tòch UBND huyện Mê
Linh, đến thời điểm này, ngoài 2 xã đã được công nhận
đạt chuẩn NTM năm 2013, toàn huyện Mê Linh có
9 xã đạt từ 12 đến 16 tiêu chí, dự kiến sẽ đạt chuẩn
NTM vào cuối năm nay. Tuy nhiên, vấn đề hiện nay là
nguồn vốn để thực hiện những tiêu chí chưa đạt là rất
lớn, trong khi khả năng của huyện còn hạn chế.
Không chỉ riêng Mê Linh, hầu hết tại các xã phấn đấu
đạt chuẩn NTM năm nay đều rơi vào tình trạng chung là
thiếu vốn. Ngay cả những xã nỗ lực lớn, đạt nhiều tiêu chí
cũng đang phải gồng mình để tìm cách tháo gỡ khó khăn
này. Ông Đỗ Trung Hải - Chủ tòch UBND xã Minh Khai,
huyện Hoài Đức cho biết, đến nay xã đã có 18 tiêu chí đạt
và cơ bản đạt. Tuy nhiên còn một số tiêu chí, nếu không
quan tâm sẽ xảy ra tình trạng khó đạt, hoặc đạt rồi lại
không đạt, đó là tiêu chí môi trường. Theo ông Hải, những
năm gần đây, tiêu chí môi trường được làm tốt, tuy nhiên
kênh T5 trên đòa bàn xã đang triển khai thì kinh phí không
có, chủ đầu tư tuyên bố dừng, do vậy ô nhiễm môi trường
trở nên nghiêm trọng, dân sinh bức xúc. Vừa qua xã đã
phải đầu tư khoảng 100 triệu đồng để nạo vét, song cũng
chỉ là giải pháp tạm thời. Ngoài ra còn 2 tiêu chí chưa

hoàn thành là giao thông và thủy lợi nội đồng, do kinh phí
quá lớn. Đặc biệt, cũng trên đòa bàn huyện Hoài Đức, xã
La Phù cũng đạt và cơ bản đạt 18/19 tiêu chí. Nhưng do
đặc thù trước đây là nhất xã nhất thôn, sau khi hợp nhất
về Hà Nội thì mỗi xóm thành một thôn, thành thử hiện
nay, xã có 5 thôn. Đây lại là xã có làng nghề phát triển,
đất đai hạn hẹp, nhà cửa san sát như phố nên cả 5 thôn
không có đất để xây dựng nhà văn hóa.
Tháo gỡ
Theo ông Lê Thiết Cương - Chi cục trưởng Chi cục
Phát triển nông thôn, Chánh Văn phòng Ban chỉ đạo
Chương trình 02, năm 2014, Hà Nội phấn đấu sẽ có
thêm ít nhất 62 xã đạt chuẩn NTM. Con số này không
phải là quá khó, bởi đến thời điểm này, trên đòa bàn
các huyện, số xã đạt và cơ bản đạt 18 - 19 tiêu chí là rất
nhiều. Thậm chí tại nhiều huyện còn phấn đấu vượt mức
kế hoạch thành phố giao về số xã đạt chuẩn NTM. Tuy
nhiên, mấu chốt của vấn đề là từ nay đến cuối năm, các
xã phải cố gắng hoàn thành những tiêu chí khá nặng,
liên quan đến nguồn vốn đầu tư lớn.
Với việc phấn đấu có 9 xã đạt chuẩn NTM vào cuối
năm nay, ông Đoàn Văn Trọng - Phó Chủ tòch UBND
huyện Mê Linh cho rằng, giải pháp của huyện là đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, tăng cường kiểm tra đôn đốc, quan
tâm tháo gỡ khó khăn cho các xã trong kế hoạch. Bên
cạnh đó, giải pháp chủ yếu và cơ bản là huyện sẽ tranh
thủ nguồn kinh phí hỗ trợ từ thành phố, đồng thời tăng
cường tổ chức đấu giá đất, huy động tối đa sự đóng góp
của nhân dân trong xây dựng NTM. Tương tự, tại huyện
Đan Phượng, với việc phấn đấu 6 xã đạt chuẩn NTM, ông

Nguyễn Tất Thắng - Bí thư huyện ủy cho rằng, huyện sẽ
tiếp tục rà soát để nâng cao những tiêu chí chưa bền vững,
đồng thời đốc thúc các xã thực hiện thành công các tiêu
chí NTM. Ngoài ra, vận động nhân dân làm tốt công tác
môi trường, xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ trên đòa bàn huyện; ưu tiên đầu tư
hỗ trợ từ ngân sách cho các dự án phát triển sản xuất và
trường học, y tế. Tại Hoài Đức, ông Nguyễn Trung Thuận -
Phó Chủ tòch UBND huyện cho rằng huyện sẽ chỉ đạo các
xã triển khai rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện Đề án
xây dựng NTM để phù hợp với thực tế hiện nay. Huyện
sẽ huy động và tranh thủ tối đa nguồn lực để đầu tư hoàn
thành các công trình cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, giúp
các xã về đích NTM theo đúng tiến độ.
Theo ông Lê Thiết Cương - Chi cục trưởng Chi cục
Phát triển nông thôn, để hoàn thành kế hoạch được giao,
các huyện cần tập trung nguồn lực ưu tiên cho các xã
phấn đấu đạt chuẩn NTM trong năm nay thông qua việc
tận dụng các nguồn lực từ đấu giá đất và nguồn lực từ
các dự án, chương trình. Bên cạnh đó, các xã phải rà
soát, điều chỉnh lại các dự án, đề án NTM của xã mình,
bởi quá trình thực hiện từ khi lập đề án đến nay, thực
tế đã có nhiều thay đổi. Các đòa phương cũng cần làm
tốt công tác tuyên truyền, không ngừng vận động các cơ
quan, doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân tham gia,
ủng hộ chương trình xây dựng NTM. Trước mắt, từ nay
đến cuối năm, thành phố sẽ bố trí 500 tỷ đồng cho các
xã thực hiện Chương trình 02. Theo đó, số tiền này sẽ
dùng thanh toán các khoản chi phí đào đắp, dồn điền
đổi thửa và thưởng cho các xã đạt chuẩn NTM năm

2013. Ngoài ra, các dự án nước sạch trên đòa bàn các
huyện, hiện đang được các cấp ngành phấn đấu thực
hiện theo chủ trương của Thành phố.
CÁC XÃ NÔNG THÔN MỚI NĂM 2014 TẬP TRUNG VỀ ĐÍCH
Hoàng Quyết
8
Số 3 - năm 2014
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
C
hi cục Phát triển Nông thôn Hà Nội được
thành lập theo Quyết đònh số 1896/QĐ-
UBND ngày 7 tháng 11 năm 2008 của UBND
thành phố Hà Nội trên cơ sở hợp nhất 3 đơn vò Chi
cục Hợp tác xã và PTNT Hà Tây, Chi cục Hợp tác
xã & PTNT Hà Nội và Phòng Chính sách thuộc Sở
Nông nghiệp & PTNT Hà Nội. Sau 6 năm triển khai
Nghò quyết 26-NQ/TW của Trung ương và 4 năm
thực hiện Chương trình số 02-CTr/TU của Thành ủy,
cùng với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trò, sự
chung tay góp sức của toàn thể nhân dân và một
phần đóng góp có hiệu quả của tập thể Chi cục Phát
triển nông thôn tình hình nông nghiệp, nông thôn
thành phố Hà Nội có nhiều chuyển biến tích cực, rõ
nét, phát triển đúng hướng; đời sống người nông dân
đã được cải thiện rõ rệt:
Về Nông nghiệp: Cơ cấu sản xuất nông nghiệp

chuyển dòch theo hướng tích cực, so với năm 2008,
hiện nay: Trồng trọt: 40,34%( giảm 11,26%); chăn
nuôi: 56,48 52,3%( tăng 9.98%); Dòch vụ Nông nghiệp:
3,18% (tăng 1,28%). Giá trò sản xuất nông nghiệp
đến nay đã đạt 231 triệu đồng/ha tăng 160,64
triêu đồng/ha. Việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật
mới, đưa công nghệ cao, cơ giới vào sản xuất,
các chương trình sản xuất hàng hóa chất lượng
cao được đẩy mạnh.
Công tác dồn điền đổi thửa (DĐĐT) được coi là
khâu đột phá được chỉ đạo quyết liệt, đến nay, toàn
Thành phố đã thực hiện DĐĐT giao ruộng cho các
hộ gia đình nông dân được 74.158,21/76.365,07,
đạt 97,11% kế hoạch. Nhờ DĐĐT mà toàn Thành
phố đã dôi dư 1.477,66 ha nông nghiệp, tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác quy hoạch cơ sở hạ tầng,
công trình phúc lợi của đòa phương. Nhờ DĐĐT qui
hoạch lại giao thông mương máng nội đồng, thuận lợi
hơn cho áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất nên năng
suất và hiệu quả kinh tế cao hơn trước khi DĐĐT
nhiều, được nông dân rất phấn khởi đồng tình cao.
Hiện nay, trên đòa bàn Thành phố đã có tổng diện
tích chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi ước đạt
62.032,6ha; đã hình thành nhiều cánh đồng mẫu
lớn, nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp theo hình
thức tích tụ ruộng đất hiệu quả cao đã và đang liên
tục ra đời như: mô hình hoa, cây cảnh ở một số xã
thuộc huyện Đan Phượng, Hoài Đức, Mê Linh, Thạch
Thất, Thường Tín với giá trò 0,5 - 1,5 tỷ/ha/năm
thậm chí 2,5 - 3tỷ/ha; mô hình cây ăn quả ở một số

xã thuộc huyện Thanh Oai, Thanh Trì, Gia Lâm, Đan
Phượng, Hoài Đức… với giá trò 0,5 - 1,5 tỷ/ha/năm;
mô hình chăn nuôi xa khu dân cư như ở một số xã
thuộc các huyện: Chương Mỹ, Ứng Hòa, Thanh Oai,
Quốc Oai, Đông Anh Mô hình RAT ở Đan Phượng,
Hoài Đức, Mê Linh, Phúc Thọ, Gia Lâm… Đặc biệt
huyện Phúc Thọ đã thử nghiệm thành công mô hình
trồng Su Hào AT trái vụ, huyện Phú Xuyên thử nghiệm
thành công mô hình Măng Tây đã góp phần nâng
cao thu nhập cho người nông dân.
Về xây dựng nông thôn mới: đến nay 100% số
xã phê duyệt Qui hoạch và Đề án xây dựng NTM;
tính đến cuối tháng 9/2014 (không tính huyện Từ
Liêm cũ) có: 38/386 xã đạt chuẩn NTM được công
nhận; 19/386 xã đạt 19/19 tiêu chí do xã tự đánh
giá; 160/386 xã đạt và cơ bản đạt từ 14 - 18 tiêu
chí; 129/386 xã đạt và cơ bản đạt từ 10 - 13 tiêu chí;
41/386 xã đạt và cơ bản đạt từ 5 - 9 tiêu chí. Các xã
đạt chuẩn NTM đã và đang tiếp tục củng cố, giữ vững
và nâng cao các tiêu chí, triển khai xây dựng và thanh
quyết toán các dự án thành phần theo đúng tiến độ.
Đời sống nông dân từng bước được cải thiện, thu
nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt
24,324triệu đồng/người/năm. Tỷ lệ hộ nghèo giảm
còn 3,54% hộ nghèo; tỷ lệ lao động khu vực nông thôn
có việc làm ổn đònh đạt 97,2%; tỷ lệ lao động nông
nghiệp qua đào tạo đạt 42%. Công tác y tế, chăm sóc
sức khỏe nông dân có nhiều tiến bộ, nông thôn cơ bản
không còn nhà dột nát, tỷ lệ hộ dân có nhà kiên cố,
khang trang ngày càng tăng. Bộ mặt nông thôn thủ đô

Th.S Lê Thiết Cương
Chi cục trưởng Chi cục
PTNT
CHI CỤC PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI

ĐỒNG HÀNH
CÙNG NÔNG THÔN MỚI
9
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
đã có nhiều khởi sắc, kết cấu hạ tầng được đầu tư theo
hướng đồng bộ, hiện đại.
Tuy nhiên, vấn đề đổi mới phát triển nâng cao hiệu
quả hoạt động của HTX NN diễn ra chậm, nhận thức
về HTX mới chưa đầy đủ. Dòch vụ ở HTX chủ yếu vẫn
là dòch vụ mang tính cộng đồng cao, dòch vụ với xã
viên là chính, ít có cạnh tranh. Số lượng HTX vươn lên
kinh doanh ra bên ngoài chưa nhiều, chính sách cán
bộ HTX chưa đảm bảo nên cán bộ chưa yên tâm phục
vụ HTX. Công tác chỉ đạo thực hiện một số quy đònh
của Nhà nước về HTX như: Đại hội xã viên, góp vốn tối
thiểu, phân chia tài sản, phân loại HTX đôi lúc, đôi nơi
làm chưa tốt, việc xử lý các HTX hoạt động yếu kém
còn lúng túng. Các giải pháp hỗ trợ xử lý giảm thiểu ô
nhiễm môi trường làng nghề còn hạn chế
Với những thành tích đạt được trong những năm
qua, Chi cục đã được Chủ tòch nước tặng Huân chương

lao động hạng ba; Chính phủ, Thành ủy, UBND thành
phố Hà Nội, Bộ NN & PTNT tặng nhiều Bằng khen;
Trưởng Ban tuyên giáo Thành ủy, Giám đốc sở Nông
nghiệp và PTNT, Giám đốc sở Công an tăng nhiều
Giấy khen cho các cá nhân, và tập thể.
Nhiệm vụ trong thời gian tới
Kỳ vọng của người dân nông thôn rất nhiều,
những khó khăn thách thức đang ở phía trước. Trong
thời gian tới, Chi cục tập trung tham mưu, thực hiện
một số nhiệm vụ trọng tâm như:
- Tiếp thu nghiêm túc, đầy đủ chỉ đạo của cấp
trên; vận dụng sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với điều
kiện thực tế để đạt hiệu quả cao nhất. Chú trọng
công tác cán bộ, đào tạo nguồn nhân lực. Phối hợp
chặt chẽ với các Sở, ban, ngành và cơ sở để tham
mưu xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ
thực hiện tốt nội dung công việc. Xây dựng chương
trình, kế hoạch triển khai công tác cụ thể, phân công
rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, đặc biệt là đề
cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu. Tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát ở cơ sở, thực hiện
tốt chế độ báo cáo. Thường xuyên cập nhật thông
tin, nắm bắt khó khăn vướng mắc của cơ sở, để kòp
thời tham mưu cho cấp trên tháo gỡ khó khăn, tạo
thuận lợi cho cơ sở trong tổ chức thực hiện. Thường
xuyên giao ban, sơ kết rút kinh nghiệm để tham mưu
chỉ đạo thực hiện, kòp thời đề nghò khen thưởng, biểu
dương, nhân rộng các gương điển hình tiên tiến.
- Tiếp tục làm tốt công tác quản lý nhà nước về
kinh tế tập thể, quản lý ngành nghề và chế biến

nông, lâm, thủy sản, quy hoạch ổn đònh dân cư,
Chương trình giảm nghèo, Chương trình xây dựng
nông thôn mới trên đòa bàn thành phố. Tổ chức
thực hiện tốt các cơ chế, chính sách; đồng thời nâng
cao năng lực quản lý điều hành của các HTX nông
nghiệp, phát triển mới các hợp tác xã ngành nghề,
dòch vụ ở nông thôn; cần tăng cường đầu tư xúc tiến
thương mại, quảng bá sản phẩm. Thực hiện có hiệu
quả các dự án, mô hình hỗ trợ phát triển kinh tế -
xã hội các xã nghèo, các xã đặc biệt khó khăn, các
xã dân tộc trên đòa bàn thành phố. Cần tăng cường
hơn nữa công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về mục đích,
ý nghóa, tầm quan trọng và trách nhiệm xây dựng
nông thôn mới; Thường xuyên chăm lo công tác đào
tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý,
điều hành cho đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền,
đoàn thể ở cơ sở, đáp ứng yêu cầu xây dựng nông
thôn mới; Tập trung huy động các nguồn lực xây
dựng nông thôn mới; Nâng cao vai trò, trách nhiệm
hệ thống chính trò trong xây dựng nông thôn mới, giữ
vững an ninh chính trò và trật tự an toàn xã hội.
- Tiếp tục tham mưu UBND Thành phố ban hành
các cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển
nông nghiệp, xây dựng NTM. Tham mưu thành phố
chỉ đạo các huyện, thò xã hoàn thành thực hiện công
tác dồn điền đổi thửa đất sản xuất nông nghiệp trong
năm 2014; tham mưu tăng cường cho cơ giới hóa, áp
dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ cao tổ chức phát
triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa sau khi thực

hiện xong dồn điền đổi thửa. Tham mưu thành phố
chỉ đạo các Sở Ngành có liên quan và huyện, thò xã
làm các thủ tục cấp lại giấy phép QSDĐ sau DĐĐT
cho các hộ dân. Tham mưu thành phố chỉ đạo các
huyện, thò xã tập trung chỉ đạo 84 xã đăng ký đạt
chuẩn nông thôn mới năm 2014 phấn đấu đến quý
cuối năm 2014 tối thiểu có 60 xã được công nhận
đạt chuẩn NTM; 24/84 xã còn lại phấn đấu đến hết
năm 2015 được công nhận đạt chuẩn NTM.
- Tham mưu Tổ chức thành công Hội nghò sơ kết
4 năm thực hiện Chương trình 02-CTr/TU của Thành
ủy; tổng kết công tác dồn điền đổi thửa trên đòa bàn
thành phố Hà Nội.
Với những kết quả đã đạt được trong tổ chức thực
hiện nhiệm vụ chính trò được giao, với những giải
pháp trong triển khai thực hiện trong thời gian tới
sẽ là tiền đề cho Chi cục trong những chặng đường
tiếp theo góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ
của Ngành nông nghiệp & PTNT, của Chương trình
“Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới,
từng bước nâng cao đời sống nông dân” của Thành ủy
cũng như các mục tiêu phát triển kinh tế - văn hóa -
xã hội chung của Thủ đô Hà Nội.

10
Số 3 - năm 2014
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT

KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
PHÒNG CHỐNG ÚNG, HẠN
PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP,
NÔNG THÔN VÀ ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN
THỦ ĐÔ (1954 - 2014)
S
au ngày đất nước thống nhất, hệ thống thủy lợi
tiếp tục được tập trung hoàn chỉnh, xây dựng bổ
sung thêm công trình mới cho các vùng còn thiếu
năng lực tưới hoặc tiêu. Hệ thống thủy nông được củng
cố một bước góp phần hạn chế bớt sự tàn phá của
thiên tai khắc nghiệt, phục vụ tích cực cho sản xuất nông
nghiệp. Nhà nước và nhân dân đã rất nỗ lực trong đầu
tư cho công tác thủy lợi, bỏ nhiều tiền của và công
sức để hoàn chỉnh thủy nông. Trong khoảng hai mươi
năm, trên hệ thống sông Nhuệ đã xây dựng trên 230
trạm bơm các loại, với tổng năng lực bơm 410 m
3
/s
như trạm bơm Vân Đình, Ngoại Độ, Song Phương, Khê
Tang, Thần Lớn, Lễ Nhuế, Vónh Mộ, Bộ Đầu
Từ năm 2008 đến nay, xác đònh thuỷ lợi là mặt trận
hàng đầu để phát triển nông nghiệp, phục vụ dân sinh, xã
hội, vì vậy những năm qua, công tác thủy lợi trên đòa bàn
Thành phố luôn nhận được sự quan tâm trực tiếp của lãnh
đạo Thành ủy, HĐND Thành phố, UBND Thành phố, sự
phối hợp của các sở, ban, ngành và chính quyền các đòa
phương. Đồng thời được sự chỉ đạo hỗ trợ của Bộ Nông nghiệp
và PTNT và các Bộ, Ngành Trung ương. Công tác Thủy lợi
đã đạt nhiều thành quả tích cực, với một số kết quả:

Thành phố Hà Nội đã thực hiện đổi mới, sắp xếp lại
hệ thống Doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi. Sau
khi hợp nhất, Thành phố đã thành lập Công ty TNHH
MTV đầu tư phát triển thủy lợi Mê Linh làm nhiệm vụ
quản lý, khai thác công trình thủy lợi phục vụ sản xuất
nông nghiệp, dân sinh trên đòa bàn huyện Mê Linh. Trên
cơ sở theo lưu vực các hệ thống tưới, Công ty Thủy lợi
Phù Sa và Công ty Thủy lợi Ba Vì được hợp nhất thành
Công ty TNHH MTV Thủy lợi Sông Tích. Kiện toàn bộ
máy quản lý nhà nước về lónh vực thủy lợi cho phù hợp,
nhằm tách bạch chức năng quản lý nhà nước và chức
năng quản lý đặt hàng, UBND Thành phố đã thành lập
Ban Quản lý dòch vụ thủy lợi trực thuộc Sở Nông nghiệp
và PTNT Hà Nội, với nòng cốt là một số cán bộ có kinh
nghiệm, năng lực của Chi cục Thủy lợi. Ban là cơ quan
trực tiếp ký hợp đồng đặt hàng, kiểm tra giám sát việc
thực hiện hợp đồng đặt hàng, nghiệm thu thanh lý hợp
đồng đặt hàng với các Doanh nghiệp quản lý khai thác
công trình thủy lợi trên đòa bàn.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội
đã thực hiện rà soát lại cơ chế chính đang được áp
dụng để tìm ra những mâu thuẫn, bất cập từ đó có
cơ sở hoàn thiện, đổi mới và cùng các ngành tham
mưu cho UBND Thành phố đã ban hành Quyết đònh số
6147/QĐ-UBND ngày 27/12/2012 về đònh mức kinh
tế kỹ thuật duy trì, vận hành hệ thống tưới tiêu phục
vụ sản xuất nông nghiệp, dân sinh, xã hội áp dụng cho
các Doanh nghiệp Thủy lợi. Đònh mức kinh tế kỹ thuật
được ban hành là cơ sở để xây dựng đơn giá thực hiện
công tác đặt hàng của Thành phố đối với các Doanh

nghiệp Thủy lợi, thực hiện khoán đến đơn vò và người
lao động trong các doanh nghiệp thuỷ lợi, thực hiện
thường xuyên chế độ sửa chữa, duy tu, bảo dưỡng, bảo
trì công trình, nâng cao hiệu suất tưới, tiêu phục vụ
sản xuất nông nghiệp và dân sinh, xã hội. Quy hoạch
phát triển thủy lợi thành phố Hà Nội trong giai đoạn
đến năm 2020 và đònh hướng đến năm 2030 đã được
UBND Thành phố ban hành tại Quyết đònh số 4673/
QĐ-UBND ngày 18/10/2012. Từ năm 2008 đến nay,
đã có 382 công trình thủy lợi được đầu tư cải tạo sửa
chữa, nâng cấp bằng nguồn vốn sự nghiệp kinh tế ngân
sách thành phố, với tổng mức đầu tư là 444,8 tỷ đồng.
Các Doanh nghiệp Thủy lợi đã sử dụng nguồn vốn sửa
chữa thường xuyên, với tổng kinh phí 304,3 tỷ đồng sửa
chữa, nâng cấp công trình thủy lợi. Một số hồ chứa trên
đòa bàn đã được đầu tư cải tạo, nâng cấp bằng nguồn
vốn Trung ương và Thành phố như: nâng cấp hồ chứa
nước Đồng Mô - Ngải Sơn (thò xã Sơn Tây), với kinh
phí 71 tỷ đồng; nâng cấp hồ chứa nước Đồng Sương
(huyện Chương Mỹ), với kinh phí 67 tỷ đồng; nâng cấp
hồ chứa nước Xuân Khanh (thò xã Sơn Tây), với kinh
phí trên 26 tỷ đồng… Để khắc phục tình trạng úng
ngập, hạn hán xảy ra trên diện rộng, Thành phố đã
và đang tập trung đầu tư xây dựng những dự án trọng
điểm: dự án tiếp nước, cải tạo khôi phục sông Tích từ
Lương Phú, xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì; dự án Xây dựng
cụm công trình đầu mối Liên Mạc, huyện Từ Liêm (tiêu
cho 9.200ha, tưới cho 40.842ha); dự án Trạm bơm tiêu
Yên Nghóa (với công suất 120m
3

/s nhằm đảm bảo tiêu
thoát nước cho 6.300ha khu vực phía Tây thành phố Hà
Th.S Nguyễn Vónh Liên
Chi cục Trưởng Chi cục
Thủy lợi
Tiếp theo trang 11

11
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
Nội); dự án cải tạo, nâng cấp hệ thống trạm bơm tiêu
Đông Mỹ (với công suất 35m
3
/s, nhằm chủ động tiêu
úng cho 1.995ha huyện Thanh Trì và hỗ trợ tiêu úng
cho lưu vực tiêu trạm bơm Yên Sở) và các công trình
theo quy hoạch như: Nạo vét trục chính sông Nhuệ;
xây dựng, cải tạo các trạm bơm: Nhân Hiền, Lễ Nhuế
II, Bình Phú, Xém, Ngoại Độ, Đan Hoài, Hồng Vân,
Nâng cấp và xây dựng mô hình hiện đại hóa hệ thống
tưới Hạ Dục…
Sau sáu mươi năm xây dựng và phát triển, công tác
thủy lợi Thủ đô đạt được những thành tựu to lớn trong
phòng, chống úng, hạn phục vụ sản xuất nông nghiệp,
nông thôn và đời sống nhân dân. Hiện nay trên toàn
thành phố Hà Nội có 2.033 trạm bơm điện với trên
3.500 máy bơm các loại; 11.412 tuyến kênh tưới, tiêu

với tổng chiều dài khoảng 12.444km; 95 hồ chứa nước
thủy lợi. Sau khi hoàn thành nâng cấp và xây mới các
công trình trạm bơm Liên Mạc, Yên Nghóa, Đông Mỹ,
Văn Khê, Cự Khối, Đan Hoài, Thanh Điềm, Ấp Bắc và
một số trạm bơm khác, tình hình công tác chống úng,
hạn sẽ cơ bản được đảm bảo.
C
hi cục Thú y thành phố Hà Nội là cơ quan quản
lý Nhà nước trực thuộc Sở Nông nghiệp và PTNT,
đồng thời là tổ chức thuộc hệ thống chuyên ngành
Thú y từ Trung ương đến đòa phương. Chi cục Thú y Hà
Nội có chức năng tham mưa giúp Giám đốc Sở Nông nghiệp
& PTNT Hà Nội và UBND Thành phố Hà Nội thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước về lónh vực Thú y trên đòa
bàn thành phố Hà Nội.
Trải qua chặng đường gần 40 năm hình thành và
phát triển đầy cam go và thử thách, từ những ngày đầu
thành lập đến nay hệ thống Thú y của Thành phố đã
có những bước phát triển vượt bậc xứng tầm với các
nhiệm vụ năng nề được cấp trên giao.
Từ khi mới thành lập chỉ là Trạm Thú y, số lượng
cán bộ ít, các đơn vò ở cấp huyện là đơn vò sự nghiệp
tự trang trải là chính, sau đó được thành lập thành Chi
cục Thú y cấp tỉnh, thành phố. Đến nay sau khi sát
nhập hai Chi cục Thú y Hà Nội cũ và Hà Tây cũ, được
sự quan tâm của Lãnh đạo Thành phố, bộ máy hoạt
động của Chi cục Thú y Thành phố bao gồm Ban lãnh
đạo có 4 người: 01 Chi cục Trưởng và 03 Phó Chi cục
trưởng, có 04 phòng và 34 đơn vò trực thuộc, đòa bàn
hoạt động trải rộng khắp thành phố. Đội ngũ CBVC -

NLĐ tại văn phòng Chi cục và ở các đơn vò trực thuộc
là 580 người người và đến hết năm 2015 đảm bảo mỗi
xã, phường, thò trấn có 01 Nhân viên kỹ thuật chăn
nuôi thú y hưởng chế độ viên chức, dự kiến toàn Chi
cục có 1.160 cán bộ công chức viên chức và người lao
động và mỗi thôn, bản đã có 01 cộng tác viên là thú
y viên, hưởng chế độ phụ cấp 0.3 mức lương tối thiểu.
Từ năm 2008 đến nay, hàng năm Chi cục đều chỉ
đạo các đơn vò thực hiện nghiêm túc các công tác
chuyên môn, kết quả hàng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu
được giao, kết quả năm sau cao hơn năm trước, cụ thể:
- Công tác phòng chống dòch bệnh cho đàn vật nuôi:
+ Kết quả tiêm phòng: Vắc xin Cúm gia cầm khoảng
20 - 25 triệu lượt con/năm; vắc xin Dòch tả lợn khoảng
trên 2 triệu lượt con/năm; vắc xin Tai xanh khoảng
300.000 lượt con/năm; vắc xin Tụ dấu lợn khoảng
200.000 lượt con/năm; vắc xin Lở mồm long móng gia
súc khoảng 600.000 lượt con/năm; vắc xin Tụ huyết
trùng trâu bò khoảng 250.000 lượt con/năm; vắc xin
Dại cho đàn chó mèo khoảng 500.000 lượt con/năm.
+ Kết quả vệ sinh tiêu độc: Mỗi năm Thành phố tổ
chức vệ sinh tiêu độc khoảng 5 đợt đại trà và một số đợt
đột xuất. Số hóa chất sử dụng khoảng 150.000(lít, kg) và
tiêu độc cho trên 200 triệu m
2
diện tích.
+ Kết quả xét nghiệm: Hàng năm bằng nguồn kinh
phí của Chi cục và các chương trình, dự án Chi cục đã
tổ chức lấy mẫu giám sát sau tiêm phòng: khoảng 7.000
mẫu huyết thanh kiểm tra kháng thể cúm gia cầm; 500

mẫu huyết thanh kiểm tra kháng thể dòch tả lợn, Tai
xanh; 600 mẫu huyết thanh kiểm tra kháng thể Lở mồm
long móng gia súc. Kiểm tra phục vụ công tác Kiểm dòch
khoảng 3.000 mẫu huyết thanh gia cầm.
- Làm tốt công tác kiểm dòch kiểm soát giết mổ, kiểm
tra vệ sinh thú y động vật, sản phẩm động vật.
Từ khi mới thành lập Chi cục(1993) mỗi Chi cục chỉ
thu được vài trăm triệu đồng/năm đến nay dưới sự chỉ đạo
sát sao của Sở Nông nghiệp&PTNT, Chi cục Thú y Hà Nội
đã thu được khoảng 34 tỷ đồng/năm. Với nguồn kinh phí
CHI CỤC THÚ Y HÀ NỘI
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG
HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
BSTY. Đỗ Phú Sơn
Phó Chi cục Trưởng
phụ trách Chi cục thú y
Tiếp theo trang 12

Tiếp theo trang 10

12
Số 3 - năm 2014
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
này cùng ngân sách đầu tư của Thành phố hàng năm góp
phần sửa sang Trụ sở làm việc, nâng cấp các trang thiết bò,
máy móc phục vụ công tác chuyên môn giúp Chi cục Thú y

Hà Nội hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao: Đảm
bảo an toàn dòch bệnh cho đàn gia súc gia cầm đặc biệt là
các dòch bệnh nguy hiểm như cúm gia cầm, Lở mồm long
móng gia súc, Tai xanh ở lợn và bệnh Dại; đảm bảo vệ sinh
an toàn thực phẩm đối với các thực phẩm có nguồn gốc
động vật cho người dân Thủ đô.
Trong các năm qua, Chi cục thú y thành phố và cán
bộ viên chức - người lao động đã được khen thưởng
nhiều danh hiệu cao quý: Bằng khen của Thủ tướng
Chính phủ (2011), cờ thi đua của Thành phố Hà Nội
(2011, 2013), cờ thi đua của Liên đoàn lao động Thành
phố Hà Nội (2013), Bằng khen của Ủy ban nhân dân
thành phố Hà Nội(2008, 2009). Thủ tướng Chính phủ
tặng 01 bằng Khen, Bộ Nông nghiệp và PTNT tặng 06
bằng khen, UBND thành phố Hà Nội tặng 05 bằng khen
cho các phòng ban đơn vò trực thuộc Chi cục. Nhiều cán
bộ viên chức - người lao động công tác tại Chi cục được
Thủ tướng Chính phủ, Bộ NN&PTNT Hà Nội và UBND
thành phố Hà Nội tặng bằng khen.
Phát huy thành tích đạt được trong thời gian qua, toàn
thể cán bộ viên chức - người lao động Chi cục thú y thành
phố Hà Nội tiếp tục giữ vững truyền thống đoàn kết thống
nhất, cần cù lao động, quyết tâm khắc phục khó khăn,
phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trò giai
đoạn 2011-2016, góp phần phục vụ tốt mục tiêu phát
triển bền vững của Thành phố và cả nước.
H
à Nội là trung tâm chính trò, kinh tế, văn hóa
của cả nước. Mặc dù diện tích rừng không
lớn, toàn Thành phố có 29.16ha rừng và đất

lâm nghiệp (trong đó diện tích có rừng là 24.515
ha) nhưng rừng và đất lâm nghiệp ở Thành phố Hà
Nội có giá trò và ý nghóa vô cùng quan trọng: Là
vành đai xanh “lá phổi tự nhiên” bảo vệ môi trường
sinh thái cho Thủ đô; là nơi lưu giữ nguồn tài nguyên
động thực vật phong phú; lưu giữ những phong tục
tập quán, những kiến thức bản đòa nghìn năm văn
hiến; bảo vệ di tích lòch sử, danh lam thắng cảnh
góp phần hình thành và gìn giữ nhân cách thanh
lòch, tôn trọng lòch sử và có trách nhiệm với tương lai
của người dân Thủ đô Hà Nội. Hà Nội cũng là nơi
tập trung nhiều cơ sở chế biến kinh doanh lâm sản,
gây nuôi phát triển động vật hoang dã, nhiều dòch
vụ có sản phẩm liên quan đến tài nguyên rừng. Vì
vậy, rừng và công tác quản lý bảo vệ rừng có vò trí
hết sức quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội
của Thành phố.
Ngay từ năm 1955 thành lập Sở Nông lâm Hà
Nội, Thành phố đã thành lập 2 trạm phúc kiểm lâm
thuộc Sở Nông lâm Hà Nội, để quản lý bảo vệ rừng.
Ngày 11/9/1972, Ủy ban thường vụ Quốc Hội thông
qua pháp lệnh qui đònh việc bảo vệ rừng đã quy
đònh thành lập lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng
gọi là Kiểm lâm nhân dân. Chi cục kiểm lâm được
thành lập năm 1974, trải qua nhiều lần sát nhập và
chuyển đổi về tổ chức do sự chia tách, sát nhập tỉnh
và sự thay đổi hệ thống tổ chức lực lượng kiểm lâm,
nay là Chi cục kiểm lâm Hà Nội trực thuộc Sở Nông
nghiệp và PTNT Hà Nội. Chi cục kiểm lâm Hà Nội
có chức năng tham mưu giúp Giám đốc Sở Nông

nghiệp và PTNT Hà Nội, UBND Thành phố Hà
Nội thực hiện chức năng quản lý Nhà nước chuyên
ngành về quản lý bảo vệ rừng, phát triển rừng và
quản lý lâm sản, đảm bảo chấp hành và thực thi
CHI CỤC KIỂM LÂM HÀ NỘI,
LỰC LƯNG NÒNG CỐT QUẢN LÝ BẢO VỆ RỪNG BỀN VỮNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
K.S Đặng Đình Phúc
Nguyên Chi cục Trưởng
Chi cục Kiểm lâm
pháp luật về bảo vệ rừng và phát triển rừng trên đòa
bàn thành phố Hà Nội.
Suốt 40 năm qua, được sự quan tâm lãnh đạo, Chỉ
đạo của UBND thành phố Hà Nội, Sở Nông nghiệp
& PTNT, Cục kiểm lâm; với quyết tâm lớn không
ngại gian khổ, Chi cục kiểm lâm Hà Nội đã thực
sự là nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ và phát triển
rừng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thực hiện tốt nhiệm vụ tham mưu để UBND thành
phố Hà Nội, Sở Nông nghiệp và PTNT chỉ đạo các đòa
phương, các ngành, các tổ chức thực hiện qui đònh của
Nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng; ban hành quy
đònh theo thẩm quyền để thực hiện quản lý Nhà nước về
quản lý bảo vệ rừng và phát triển rừng theo hướng bền
vững, như: Quyết đònh ban hành quy đònh về PCCCR
trên đòa bàn thành phố Hà Nội (Quyết đònh số 22/2011/
QĐ-UBND ngày 18/7/2011), Quyết đònh phê duyệt qui
hoạch về bảo vệ rừng và phát triển rừng Thành phố giai
Tiếp theo trang 11


13
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
đoạn 2011 - 2020) (quyết đònh số 710/QĐ-UBND ngày
01/02/2013), Quyết đònh ban hành qui đònh thời gian
cao điểm xảy ra cháy rừng trong năm và vùng trọng
điểm dễ xảy ra cháy rừng trên đòa bàn Thành phố Hà
Nội (Quyết đònh số 6080/QĐ-UBND ngày 25/12/2012),
quyết đònh ban hành qui chế cứu hộ ĐVHD (quyết đònh
số 5703/QĐ-UBND ngày 06/12/2011)
Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về quản lý
bảo vệ rừng được Chi cục đặc biệt quan tâm thực hiện
với nhiều hình thức và nội dung phong phú phù hợp
với tình hình thực tế từng đòa bàn. Đã tổ chức gần 500
cuộc họp với dân để phổ biến pháp luật và hướng dẫn
xây dựng kế hoạch, phương án bảo vệ rừng đến 613 tổ
chức, cá nhân có liên quan đến sản xuất kinh doanh
chế biến lâm sản và chính quyền 579 xã, phường, thò
trấn. Tổ chức tập huấn bảo vệ rừng và PCCCR với gần
6.000 lượt tham gia; phát hành 2.000 cuốn tài liệu phổ
biến qui đònh về bảo vệ rừng và PCCCR; 1.000 tài liệu
hướng dẫn kỹ thuật gây trồng một số loài cây phục vụ
xây dựng trang trại kinh tế đồi rừng; gần 200 băng đóa
tuyên truyền về bảo vệ rừng cho 28 trường PTTH, PTCS
với tổng số 18.000 học sinh. Tổ chức nhiều đợt tuyền
truyền lưu động và phát thanh trên đài truyền thanh đòa
phương, ký cam kết bảo vệ rừng với 1.860 hộ và 9.965

hộ nhận qui ước bảo vệ rừng.
Thực hiện tốt quản lý Nhà nước về quản lý bảo vệ
rừng: Chú trọng thực hiện quản lý đòa bàn, tiến hành
điều tra thống kê cơ sở chế biến kinh doanh lâm sản(
550 cơ sở chế biến kinh doanh lâm sản, 1.231 hộ làm
nghề mộc, 12 làng nghề có sản phẩm liên quan đến
lâm sản), cơ sở gây nuôi ĐVHD (359 cơ sở), để tham
mưu đề xuất và tổ chức quản lý bảo vệ. Phân công cán
bộ kiểm lâm đòa bàn quản lý 103 cơ sở nuôi gấu với
tổng số 361 cá thể gấu, bám dân, bám rừng tham mưu
kòp thời cho chính quyền đòa phương, phát hiện vấn
đề phát sinh để tổ chức quản lý bảo vệ rừng đạt hiệu
quả cao. Thường xuyên thực hiện kiểm tra việc chấp
hành pháp luật về quản lý bảo vệ rừng đối với đòa
phương, chủ rừng, đối tượng buôn bán kinh doanh lâm
sản. Công tác thừa hành pháp luật về bảo vệ và phát
triển rừng được chú trọng, thực hiện hiệu quả. Từ năm
1993 đến nay đã xử lý 11.041 vụ thu nộp ngân sách
nhà nước 28,62 tỷ đồng. Các vụ vi phạm đều được xử
lý đúng quy đònh của pháp luật. Đã triển khai xây dựng
nhiều dự án, đề án để tổ chức thực hiện bảo vệ rừng,
như : Năm 2003 đã trình và được phê duyệt dự án
tăng cường năng lực PCCCR (Quyết đònh số 2370/QĐ-
UB ngày 13/11/2003; ngày 03/10/2013 đã được UBND
Thành phố cho phép xây dựng dự án tăng cường năng
lực, nâng cao hiệu quả bảo vệ rừng và PCCCR ứng phó
với biến đổi khí hâu trên đòa bàn Thành Phố (văn bản
số 7586/UBND-KH&ĐT).
Chú trọng xây dựng lực lượng và cơ sở vật chất để
thực hiện nhiệm vụ quản lý bảo vệ rừng; tham mưu xây

dựng hệ thống lực lượng bảo vệ rừng từ Thành phố đến
cơ sở: Đã tham mưu để UBND thành phố Hà Nội thành
lập Ban chỉ đạo kế hoạch bảo vệ rừng và phát triển
rừng của Thành phố với 16 thành viên. Kiện toàn Ban
chỉ huy thực hiện các biện pháp cấp bách bảo vệ rừng
và PCCCR thành Ban chỉ đạo thực hiện kế hoạch bảo
vệ và phát triển rừng 07 huyện, thò xã có rừng với số
người tham gia 59 người; 45 xã, phường, thò trấn với số
người tham gia 512 người; 08 Ban chỉ huy cấp chủ rừng
với 74 người tham gia; 130 tổ xung kích bảo vệ rừng
với 1.331 người tham gia, lực lượng huy động khác (chủ
yếu là quân đội) với 2.380 người. Đã chăm lo xây dựng
bộ máy có đủ năng lực thực hiện hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao. Do xác đònh con người làm yếu tố quyết
đònh mọi thành công, nên trong suốt quá trình xây dựng
lực lượng, Chi cục kiểm lâm luôn chú trọng đào tạo để
có lao động chất lượng cao, tinh thông nghiệp vụ, có
phẩm chất chính trò tốt, năng động đổi mới, đến nay
cán bộ công chức Chi cục kiểm lâm có trình độ Thạc
sỹ 5%, Đại học chiếm 76%, trung cấp và cán bộ khác
19 %. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ quản
lý bảo vệ rừng cũng được Chi cục chú trọng thực hiện.
Thông qua thực hiện dự án và kế hoạch mua sắm hàng
năm, đến nay đã từng bước trang bộ được 250 biển
báo cấm lửa, cấm phá rừng, cảnh bảo phục vụ bảo vệ
rừng; trang bò 39 loại thiết bò với số lượng 3.288 thiết
bò PCCCR; 17 chòi canh lửa rừng; 08 bể chứa nước
PCCCR; 08 máy bơm chữa cháy rừng và nhiều phương
tiện thô sơ khác phục vụ PCCCR.
Đổi mới phong cách làm việc, tư duy, cải cách

hành chính và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật,
tin học để từng bước hiện đại hóa trong công tác quản
lý bảo vệ rừng. Chi cục đã triển khai 11 thủ tục hành
chính trong công tác quản lý bảo vệ rừng và gây nuôi
ĐVHD, là 1 trong những đơn vò thực hiện tốt trong
ngành về thực hiện cải cách hành chính. Xây dựng
phần mềm dự báo cháy rừng và phần mềm chỉ huy
chữa cháy rừng ( năm 2004); xây dựng cơ sở dữ liệu
và đào tạo thuộc dự án xây dựng hạ tầng công nghệ
thông tin phục vụ tổ chức theo dõi diễn biến rừng và
đất lâm nghiệp (2008).
Với tinh thần trách nhiệm cao, nỗ lực thực hiện
nhiệm vụ nên công tác quản lý bảo vệ rừng trên đòa
bàn Thành Phố đã đạt được kết quả đáng khích lệ.
Ghi nhận những thành tích đạt được trong thời gian
qua, Chi cục kiểm lâm Hà Nội đã được Chính phủ
tặng 02 bằng khen, cờ thi đua, nhiều bằng khen của
Bộ Nông nghiệp và PTNT và UBND Thành phố cho
tập thể và cá nhân. Cơ quan Chi cục liên tục được
công nhận là cơ quan văn hóa , Chi cục đã phấn đấu
xây dựng là đơn vò nòng cốt trong công tác quản lý
bảo vệ rừng của Thành phố.
14
Số 3 - năm 2014
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
C

húng ta đang xây dựng nền nông nghiệp bền
vững là bảo tồn đất đai, nguồn nước, các nguồn
di truyền động thực vật, môi trường không bò suy
thoái, kỹ thuật phù hợp, kinh tế phát triển, nâng cao chất
lượng cuộc sống. Phát triển bền vững là xu thế chung
của thời đại. Mọi hoạt động sản xuất và đời sống trên
trái đất đều phải thấm sâu tư tưởng phát triển bền vững
để vừa đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hôm nay, đồng
thời đảm bảo các nhu cầu của thế hệ tương lai. Phát triển
bên vững và an toàn thực phẩm là rất quan trọng không
chỉ riêng đối với Việt Nam mà trên toàn thế giới vì nó
ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của con người. An toàn
thực phẩm trong sản xuất rau lại càng quan trọng vì rau
là thực phẩm hàng ngày, không thể thiếu trong bữa ăn
của mỗi gia đình. Hà Nội là trung tâm chính trò, kinh tế,
văn hóa, xã hội; việc đáp ứng nhu cầu sản phẩm rau an
toàn cho cư dân đô thò Thủ đô càng trở nên cấp thiết.
Chính vì vậy, để có căn cứ chỉ đạo, đầu tư và triển khai
thực hiện UBND thành phố Hà Nội đã phê duyệt Đề án
sản xuất và tiêu thụ rau an toàn thành phố Hà Nội giai
đoạn 2009 - 2015 tại Quyết đònh số 2083/QĐ-UBND
ngày 05/5/2009 và điều chỉnh, bổ sung tại Quyết đònh
số 5975/QĐ-UBND ngày 26/12/2011.
Thành phố Hà Nội có tổng diện tích canh tác rau
khoảng 12.000ha; tương đương 29.000ha gieo trồng/năm,
phân bố ở 22 quận, huyện, thò xã. Chủng loại rau được
sản xuất ở Hà Nội khá phong phú với trên 40 loại rau, tập
trung chủ yếu ở vụ Đông và Đông Xuân. Từ năm 2009 đến
nay Đề án sản xuất và tiêu thụ rau an toàn đã góp phần
quan trọng đảm bảo an toàn thực phẩm cho người tiêu

dùng Thủ đô: năng suất rau đạt 20 tấn/ha/vụ (năm 2008:
năng suất đạt 16,16tấn/ha/vụ) tăng 23,8%; sản lượng đạt
600 nghìn tấn (năm 2008: sản lượng đạt 492 nghìn tấn)
tăng 22%. Sản lượng rau an toàn (RAT) đạt 400 nghìn
tấn (năm 2008: sản lượng đạt 102 nghìn tấn) tăng gần
4 lần (392%). Nhu cầu rau xanh của Thành phố khoảng
950.000 tấn/năm, với sản lượng rau như trên có khả năng
đáp ứng được khoảng 60%, RAT đáp ứng được trên 40%
nhu cầu của người tiêu dùng Thủ đô, lượng rau còn lại
được cung cấp từ các đòa phương khác (Vónh Phúc, Hưng
Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Lào Cai, Hòa
Bình ). Từ năm 2009 đến nay chưa xảy ra vụ ngộ độc
thực phẩm liên quan đến rau an toàn.
Để đạt được kết quả trên Chi cục Bảo vệ thực vật
Hà Nội đã tham mưu với UBND Thành phố “Phê duyệt
đònh hướng Quy hoạch mạng lưới sản xuất rau an toàn
trên đòa bàn thành phố Hà Nội đến năm 2020” tại
Quyết đònh số 474/QĐ-UBND ngày 28/1/2010; xác
đònh, cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực
phẩm trong sản xuất rau, quản lý, chỉ đạo được 5.000
ha RAT ở 160 vùng thuộc 120 xã, phường (sản lượng
400 nghìn tấn), 170 ha RAT sản xuất VietGAP ở 21
vùng thuộc 21 xã, phường (sản lượng 13,6 nghìn tấn),
18 ha rau hữu cơ (sản lượng 1,44 nghìn tấn). Phát triển
các vùng sản xuất rau tập trung, trọng điểm, khép kín
từ sản xuất đến tiêu thụ gắn với xây dựng thương hiệu
(như Văn Đức, Duyên Hà, Thanh Đa, Vân Côn, Vân
Phúc ). Mỗi cán bộ chỉ đạo phụ trách 20 - 30ha RAT,
5 ha rau sản xuất VietGAP. Do tập quán của nông dân
thường ra đồng sản xuất, phun thuốc vào thời gian sáng

sớm, chiều tối nên cán bộ chỉ đạo thường phải làm
ngoài giờ để giám sát, quản lý sản xuất của nông dân.
Sản xuất RAT trên đòa bàn Hà Nội chủ yếu qui mô
nông hộ, nhỏ lẻ, manh mún, mỗi hộ trung bình 420 m
2
,
số lượng hộ nông dân sản xuất rau rất lớn. Cho nên, hoạt
động rất quan trọng là nông dân được nâng cao kiến
thức, kỹ năng về sản xuất, sơ chế RAT thông qua lớp
huấn luyện IPM - RAT, lớp tập huấn ngắn hạn, lớp RAT-
VietGAP. Từ những kiến thức của các lớp tập huấn mà
người nông dân đã thay đổi và nâng cao nhận thức sử
dụng thuốc BVTV trong sản xuất rau, đã sử dụng nhiều
loại thuốc BVTV sinh học, thảo mộc, nguồn gốc sinh
học có thời gian cách ly ngắn; đồng thời tuân thủ thời
gian cách ly khi thu hái sản phẩm. Áp dụng 30 qui trình
sản xuất RAT và được chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới
như: che phủ nilon trồng rau trái vụ (tăng 3-4 vụ, tăng
sản lượng hơn 2 lần, tăng giá trò sản xuất lên 2-3 lần: từ
1 - 1,5 tỷ đồng/ha, sản phẩm an toàn - hầu như không
sử dụng thuốc BVTV); bả Protein phòng trừ ruồi hại trên
rau ăn quả; bả chua ngọt trừ sâu khoang hại rau ngót, rau
muống, rau cải; bẫy Pheromone phòng trừ sâu hại rau;
rào chắn bọ nhảy hại rau cải; chế phẩm sinh học Emina
xử lý tàn dư cây trồng; ngâm nước ruộng phòng trừ sâu
RAU AN TOÀN HÀ NỘI
VƯƠN LÊN NHỮNG TẦM CAO
TS. Nguyễn Duy Hồng
Chi cục Trưởng
Chi cục BVTV

15
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
bệnh trong đất; nhân giun quế cải tạo đất trồng rau
Các thử nghiệm đều đạt kết quả tốt, hiệu quả cao, được
nông dân tuyên truyền nhân rộng ở các vùng sản xuất
RAT từ đó giảm sử dụng thuốc BVTV trên rau.
Chi cục Bảo vệ thực vật phối hợp với đòa phương vận
động, tổ chức phát triển các dòch vụ: HTX sản xuất, tiêu thụ
RAT; cơ sở sơ chế RAT; HTX - Công ty sơ chế, kinh doanh
RAT; nhóm nông dân quản lý sản xuất, sơ chế, thu gom,
tiêu thụ RAT, rau hữu cơ. Phối hợp với Sàn giao dòch rau
quả và thực phẩm an toàn Hà Nội quảng bá, tiếp thò, kết
nối tiêu thụ RAT. Thử nghiệm và phát triển các dòch vụ làm
đất, phun thuốc BVTV trên rau.
Hà Nội hiện có trên 40 cơ sở sơ chế RAT, trong đó có 05
cơ sở sơ chế có công suất lớn tại các vùng sản xuất rau như
tại xã Yên Mỹ, Duyên Hà - Thanh Trì, Thanh Đa - Phúc
Thọ, Văn Đức - Gia Lâm, Tiền Lệ - Hoài Đức.
Nhu cầu rau xanh của Thành phố khoảng 2.600 tấn
rau/ngày. Rau được phân phối qua hệ thống gồm 6 chợ
đầu mối bán buôn rau (trong đó có 1 chợ có ngăn khu
vực giao dòch rau an toàn), 395 chợ dân sinh (trong đó có
102 chợ nội thành) và một số siêu thò, trung tâm thương
mại. Hiện trạng phân phối, tiêu thụ rau, RAT trên đòa
bàn Thành phố có 6 hình thức chính: bán trực tiếp cho
các siêu thò chiếm khoảng 1,5% tổng sản lượng; cửa

hàng phân phối bán lẻ chiếm 1,5%; giao theo hợp đồng
(nhà hàng, bếp ăn, ) chiếm 1,8%; các thương lái thu
gom chiếm 12,6%; người sản xuất tự bán tại các chợ
bán lẻ (chợ dân sinh) chiếm 26,8%, tỷ lệ tiêu thụ thông
qua hợp đồng với HTX, doanh nghiệp còn rất ít; chủ yếu
kênh bán buôn tại các chợ đầu mối chiếm 55,8%.
Bước đầu thúc đẩy hình thành và phát triển mạng lưới
tiêu thụ RAT: 85 cửa hàng bán RAT, mức tiêu thụ từ 50 -
120 kg/cửa hàng/ngày; 76 điểm phân phối RAT tại khu dân
cư, cơ quan, tập trung chủ yếu ở các quận Thanh Xuân, Hà
Đông, Đống Đa, Hoàn Kiếm với mức tiêu thụ 100 - 150kg
rau/điểm/tuần và 35 siêu thò có kinh doanh rau an toàn, sản
lượng trung bình từ 80 - 200 kg/siêu thò/ngày. Ngoài ra, có
khoảng 15 doanh nghiệp đang tham gia sản xuất, kinh doanh
RAT trên đòa bàn Thành phố tham gia một phần chuỗi tiêu
thụ. Các doanh nghiệp cung cấp RAT cho cơ quan, trường
học, bệnh viện, nhà hàng, khu công nghiệp, phát triển ma-
ïng lưới bán lẻ như: Công ty Đông Nam Á, Công ty Phát
triển Nông nghiệp đô thò, Công ty Hà An, Công ty An Việt,
Công ty Việt Liên, Sản lượng tiêu thụ 500 - 700 kg/doanh
nghiệp/ngày, cao 2.000 - 3.000kg/ngày. Có 25 HTX sản
xuất và tiêu thụ RAT với sản lượng tiêu thụ trung bình 200 -
300kg/HTX/ngày, cao 800 - 1.000kg/ngày. Sản phẩm RAT
ở vùng sản xuất tập trung từng bước quản lý khép kín, có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, được kiểm soát và thí điểm dán
tem nhận diện RAT Hà Nội.
Công tác quản lý, giám sát, kiểm tra sản xuất, sơ
chế, kinh doanh RAT được chú trọng, nhất là Chi cục
chủ động và phối hợp liên ngành, phối hợp cấp huyện
và cấp xã thanh tra, kiểm tra kinh doanh thuốc BVTV,

sơ chế, kinh doanh RAT; giám sát qui trình sản xuất
RAT và sử dụng thuốc BVTV; tuyên truyền cho 40 -
60% nông dân sử dụng thuốc sinh học thảo mộc, giảm
thiểu việc sử dụng thuốc BVTV hóa học độc hại trên
rau; kiểm tra và lấy hàng nghìn mẫu rau phân tích, kết
quả có dưới 1% số mẫu vượt dư lượng tối đa cho phép.
Công tác thông tin, tuyên truyền, truyền thông về RAT
và phối hợp với các tỉnh được đẩy mạnh qua nhiều kênh
như: để truy xuất nguồn gốc Chi cục BVTV đã đột phá trong
khâu gắn tem nhãn nhận diện nguồn gốc xuất xứ sản phẩm,
biển hiệu nhận diện đòa điểm để người tiêu dùng phân biệt
sản phẩm RAT với sản phẩm rau chưa được chứng nhận.
Biên soạn, in ấn hàng ngàn tờ rơi hướng dẫn quy trình sản
xuất RAT; sổ tay danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng
trên rau. In ấn, treo panô, áp phích tuyên truyền về sản xuất
RAT tại các vùng sản xuất tập trung để cổ động nông dân
thực hiện. Xây dựng và vận hành tổng đài 04.1081 nhánh
2 tư vấn về RAT từ 20/6/2014; xây dựng bản đồ số hoá về
RAT; xây dựng Website về Rau an toàn Hà nội; xây dựng
các đóa khoa giáo tuyên truyền về sản xuất RAT, đóa truyền
thông về RAT cho người tiêu dùng. Từ cuối năm 2013 đã
tiến hành đăng ký Nhãn hiệu chứng nhận RAT tại Cục Sở
hữu trí tuệ, đã được UBND Thành phố cho phép sử dụng
đòa danh “Hà Nội” cho nhãn hiệu “Rau an toàn Hà Nội”,
hiện nay đang trong thời gian chờ Cục sở hữu trí tuệ cấp văn
bằng bảo hộ. Thường xuyên phối hợp với các cơ quan đài,
báo của Trung ương, Thành phố tuyên truyền về RAT. Xây
dựng chuyên mục tuyên truyền đònh kỳ “RAT với người tiêu
dùng” phát vào 20h50 tối thứ 5 hàng tuần trên Đài PTTH
Hà Nội - kênh H1; đến nay chuyên mục đã được nhiều

khán giả đánh giá cao. Thỏa thuận hợp tác với Lào Cai,
Vónh Phúc và Sơn La quản lý sản xuất và tiêu thụ RAT với
các sản phẩm rau đặc trưng của tỉnh như: cải bắp, cải thảo,
cà chua trái vụ, cải mèo, ngọn và quả su su
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện Đề
án còn nhiều khó khăn, hạn chế, bất cập và chưa phù
hợp với thực tế sản xuất và tiêu thụ RAT như:
Cơ cấu vốn trong Đề án chưa hợp lý, vốn đầu tư xây
dựng hạ tầng chiếm tỉ lệ cao nhưng chưa có hiệu quả,
trong khi thiếu vốn hỗ trợ tổ chức quản lý sản xuất và
tiêu thụ RAT (đặc biệt phát triển mạng lưới tiêu thụ RAT).
Chưa hình thành chuỗi cung cấp rau bền vững từ sản xuất
- sơ chế - tiêu thụ; đặc biệt là ách tắc tiêu thụ RAT do quá
ít doanh nghiệp tham gia (rủi ro cao, lợi nhuận thấp) dẫn
đến người tiêu dùng chưa có lòng tin, người sản xuất rau
an toàn không có động lực. Mạng lưới kinh doanh RAT
phát triển chưa tương xứng với sản xuất. Thiếu nội dung,
đònh mức hỗ trợ: sản xuất RAT tập trung, cơ sở sơ chế,
mạng lưới tiêu thụ, giám sát chất lượng RAT.
Hiện nay, Trung ương còn thiếu các qui đònh về điều
kiện kinh doanh rau, quả đảm bảo an toàn thực phẩm;
thiếu quy đònh quản lý kinh doanh và vận chuyển rau,
đặc biệt các qui đònh về quản lý kinh doanh rau quả tại
các chợ (chợ đầu mối, chợ bán lẻ). Phần lớn sản phẩm
Tiếp theo trang 16

16
Số 3 - năm 2014
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI

NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
chưa có khả năng nhận diện và phân biệt giữa sản phẩm
an toàn và không an toàn; thiếu thông tin, hồ sơ phục vụ
truy nguyên nguồn gốc theo quy đònh. Rất ít doanh nghiệp
tham gia hoạt động kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm rau do
tính chất đặc thù của rau quả tươi là nhanh hỏng, đòi hỏi
trang thiết bò, điều kiện bảo quản, chi phí thuê mặt bằng
và hơn nữa là lợi nhuận kinh doanh thấp. Công tác tuyên
truyền tập huấn mới chỉ tập trung nhiều đến công đoạn
sản xuất (cho nông dân), rất hạn chế đối với người tiêu
dùng. Chế tài xử lý các hành vi vi phạm chưa đủ mạnh,
chưa công khai các trường hợp, cơ sở vi phạm trên thông
tin đại chúng để tạo thêm áp lực từ người tiêu dùng.
Để người tiêu dùng có lòng tin, người sản xuất có
động lực, thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ, đáp ứng nhu cầu
rau an toàn của người tiêu dùng Thủ đô cần phải điều
chỉnh Đề án sản xuất và tiêu thụ RAT thành phố Hà
Nội giai đoạn 2009-2016. Đồng thời, từng bước quản
lý rau của các tỉnh tiêu thụ tại Hà Nội, thành phố cần
phải phối hợp với Bộ Nông nghiệp & PTNT xây dựng
Đề án “Chuỗi cung cấp rau an toàn cho thành phố Hà
Nội, giai đoạn 2015 - 2020”.
H
à Nội trung tâm chính trò, kinh tế, văn hóa,
đầu mối giao lưu thông thương trong và
ngoài nước. Trên đòa bàn Thành phố hiện
có hàng ngàn tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất,
kinh doanh trong lónh vực nông, lâm nghiệp, thuỷ

sản với ngành nghề đa dạng; sản phẩm chủ yếu
là hàng hóa tươi, sống; chất lượng sản phẩm phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, một số sản phẩm hàng hóa
rất độc hại nếu không được quản lý, kiểm tra giám
sát chặt chẽ và xử lý kòp thời sẽ gây lên hậu quả
nghiêm trọng ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường
và đời sống con người. Công tác quản lý nhà nước
đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh, vận
chuyển, chế biến, bảo quản, lưu giữ hàng hóa theo
quy đònh của pháp luật gặp rất nhiều khó khăn,
phức tạp do đòa bàn rộng, sản xuất, kinh doanh
nhỏ lẻ; đan xen giữa sản xuất theo công nghệ hiện
đại lẫn thủ công. Trước năm 2012, tổ chức bộ máy
và điều kiện trang thiết bò, phương tiện và kính phí
hoạt động của Thanh tra Sở Nông nghiệp & PTNT
Hà Nội còn nhiều hạn chế, bất cập so với chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo quy
đònh của Luật Thanh tra năm 2010.
Năm 2012, Sở Nông nghiệp & PTNT Hà Nội đã
tham mưu cho UBND thành phố Hà Nội kiện toàn
tổ chức Thanh tra Sở và ngày 01/6/2012 UBND
thành phố Hà Nội đã ban hành quyết đònh số
2375/QĐ-UBND về việc kiện toàn tổ chức Thanh
tra Sở Nông nghiệp & PTNT Hà Nội với mục đích:
Xây dựng tổ chức Thanh tra của Sở Nông nghiệp &
PTNT phù hợp với quy đònh của pháp luật, thực sự
trở thành cơ quan chủ đạo với đội ngũ cán bộ, công
chức có nghiệp vụ thanh tra chuyên sâu để thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ thanh tra; kòp thời
phát hiện tồn tại về cơ chế quản lý cũng như chính

sách, pháp luật để kiến nghò với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa,
phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật. Qua
đó giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng
quy đònh của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực;
góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
quản lý nhà nước; bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Kết quả công tác tham mưu trong quản lý nhà
nước về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng chống tham nhũng
Đã chủ động tham mưu cho Giám đốc Sở Nông
nghiệp & PTNT Hà Nội trình UBND thành phố ban
hành quyết đònh 2375/QĐ-UBND ngày 01/6/2012
kiện toàn tổ chức Thanh tra Sở Nông nghiệp & PTNT
Hà Nội theo đúng quy đònh của Luật Thanh tra. Qua
đó đã thực sự nâng cao năng lực và hiệu quả của
hoạt động thanh tra; Đang tập trung chỉ đạo tiếp tục
xây dựng Đề án xác đònh vò trí việc làm trong cơ
quan Thanh tra Sở.
Phối hợp xây dựng dự thảo “Quy chế phối hợp
trong công tác phòng ngừa, xử lý vi phạm pháp luật
về đê điều trên đòa bàn thành phố Hà Nội”.
THANH TRA SỞ NÔNG NGHIỆP & PTNT
NÂNG CAO CHẤT LƯNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC ĐỂ HOÀN THÀNH TỐT NHIỆM VỤ ĐƯC GIAO
Th.S Phạm Khắc Diến
Chánh Thanh tra
Sở NN&PTNT
Tiếp theo trang 15


17
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
Tham mưu cho Giám đốc Sở ban hành Quy chế
hoạt động thanh tra của Sở Nông nghiệp & PTNT
Hà Nội.
Thực hiện chế độ thông tin báo cáo về công
tác thanh tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng,
chống tham nhũng; công tác chống buôn lậu, hàng
giả gian lận thương mại theo đúng quy đònh, cũng
như yêu cầu đột xuất của Thành ủy, UBND Thành
phố và Bộ Nông nghiệp & PTNT.
Tham mưu cho Giám đốc Sở Nông nghiệp &
PTNT Hà Nội ban hành các văn bản, quyết đònh
để chỉ đạo thực hiện công tác tiếp công dân và giải
quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; cụ thể: Quy chế
tiếp công dân và giải quyết đơn thư; Quyết đònh
thành lập Tổ thường trực tiếp công dân; xem xét, xử
lý kòp thời các đơn thư và tham mưu giúp Giám đốc
Sở giải quyết các đơn thư KNTC thuộc thẩm quyền,
không để tồn đọng kéo dài.
Thực hiện đúng vai trò Thường trực của Ban chỉ
đạo phòng, chống tham nhũng của Sở Nông nghiệp
& PTNT; đã tham mưu cho Giám đốc Sở Nông nghiệp
& PTNT Hà Nội ban hành các văn bản chỉ đạo và
triển khai các hoạt động thanh tra về phòng, chống

tham nhũng; triển khai công tác thi hành Luật
phòng chống tham nhũng và Luật xử lý vi phạm
hành chính tuyên truyền đến các đơn vò trực thuộc
Sở Nông nghiệp & PTNT Hà Nội. Tổ chức thực hiện
có hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng,
thực hành tiết kiệm chống lãng phí.
Công tác xây dựng lực lượng thanh tra
chuyên ngành
Đã thực hiện tổ chức và hoạt động thanh tra
chuyên ngành tại các Chi cục trực thuộc Sở. Phối
hợp với Phòng tổ chức Sở trình Giám đốc Sở Nông
nghiệp & PTNT ban hành quyết đònh giao công
chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành
tại chi cục thuộc sở cho 39 công chức và đề nghò
Bộ Nông nghiệp & PTNT cấp thẻ cho 21 công chức
làm công chức thanh tra chuyên ngành.
Chủ trì xây dựng và ký Quy chế phối hợp trong
hoạt động thanh tra với các chi cục được giao thực
hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Sở và
Thanh tra Sở Nông nghiệp & PTNT thuộc 20 tỉnh,
thành phố phía Bắc.
Thanh tra sở đã xây dựng 10 Nội quy, Quy chế
dân chủ để chỉ đạo các hoạt động trong cơ quan
thanh tra theo đúng các quy đònh của pháp luật.
Thanh tra Sở đã triển khai tổ chức 08 lớp hướng
dẫn, tuyên truyền Luật Thanh tra, Luật xử lý vi phạm
hành chính; Luật Phòng chống tham nhũng và các
văn bản có liên quan cho hàng trăm các cán bộ,
công chức làm công tác thanh tra chuyên ngành
thuộc các Chi cục: Bảo vệ thực vật, Thú y; Quản

lý Chất lượng nông lâm sản và thủy sản, Đê điều &
PCLB và Thủy sản và các lực lượng quản lý đê nhân
dân trên đòa bàn các quận huyện, xã phường.
Thực hiện chương trình công tác thanh tra; giải
quyết đơn thư KNTC, công tác phòng chống tham
nhũng; công tác chống buôn lậu, hàng giả, gian lận
thương mại hàng năm của ngành.
Về hoạt động thanh tra Hành chính: Thanh tra
sở thực hiện đúng các nội dung thanh tra theo kế
hoạch đã được Giám đốc Sở Nông nghiệp & PTNT
phê duyệt. Qua thanh tra đã kiến nghò thu hồi
371.566.329 đồng, đồng thời chỉ ra những kết quả
đã làm được cũng như tồn tại, thiếu sót trong công
tác quản lý và thực thi công vụ; quản lý về đầu tư
xây dựng cơ bản Đã đề xuất kiến nghò Giám đốc
Sở và UBND thành phố kòp thời ban hành các văn
bản để tăng cường công tác quản lý trên các lónh
vực được giao quản lý như: quản lý đê điều, thủy
lợi, quản lý tài sản, tài chính, đất đai; yêu cầu các
đơn vò trực thuộc bổ sung các quy chế dân chủ trong
cơ quan đơn vò
Về công tác tiếp công dân & giải quyết khiếu
nại, tố cáo: Thường trực giúp lãnh đạo Sở tiếp công
dân, tổng hợp đơn thư của công dân, cán bộ, công
chức, người lao động đến phản ánh, khiếu nại, tố
cáo theo đúng quy đònh.
Trong năm 2013: đã tiếp 04 lượt công dân
đến Sở để phản ánh, khiếu nại, tố cáo. Tham
mưu giúp Giám đốc Sở giải quyết 21 đơn thư khiếu
nại, tố cáo.

9 tháng đầu năm 2014: đã tiếp 15 lượt công
dân đến Sở để phản ánh, khiếu nại, tố cáo. Tham
mưu giúp Giám đốc Sở giải quyết 29 đơn thư khiếu
nại, tố cáo.
Về công tác phòng, chống tham nhũng: Đôn đốc
và kiểm tra các đơn vò trực thuộc sở thực hiện nghiêm
túc việc công khai quản lý, sử dụng tài sản tại cơ
quan, đơn vò theo đúng quy đònh của pháp luật;
thường xuyên tổ chức tuyên truyền phổ biến Luật
Phòng chống tham nhũng và các văn bản có liên
quan đến các đơn vò trực thuộc Sở qua đó nâng cao
nhận thức của cán bộ công chức về công tác PCTN,
thực hành tiết kiệm chống lãng phí.
Trong hoạt động thanh tra chuyên ngành và
chống buôn lậu hàng giả gian lận thương mại
Thanh tra Sở đã kòp thời tham mưu đề xuất Giám
đốc Sở thành lập và chủ động thành lập các đoàn
thanh tra theo đúng thẩm quyền để thanh tra trên
nhiều lónh vực, nhiều đối tượng có các hoạt động
sản xuất, kinh doanh thức ăn chăn nuôi, phân bón,
thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y; giống cây trồng
và vật nuôi; vận chuyển, giết mổ, bảo quản, chế
biến gia súc, gia cầm, thủy hải sản; sản xuất kinh
doanh rau an toàn; kiểm tra vệ sinh an toàn thực
phẩm…Chỉ tính riêng trong năm 2013 và 9 tháng
18
Số 3 - năm 2014
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI

NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
đầu năm 2014, Thanh tra sở Nông nghiệp & PTNT
đã thanh tra, kiểm tra 751 tổ chức, cá nhân. Qua
thanh tra đã xử lý vi phạm hành chính đối với 314
tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm về sản xuất kinh
doanh hàng hóa kém chất lượng, không rõ nguồn gốc
xuất xứ; kinh doanh hàng giả, ghi bao bì nhãn mác
không đúng quy đònh; không có giấy phép theo quy
đònh; vi phạm các quy đònh về vệ sinh an toàn thực
phẩm… Đã ký quyết đònh xử phạt hành chính theo
đúng thẩm quyền thu nộp ngân sách 2.263.854.000
đồng. Tòch thu, tiêu hủy hàng chục tấn sản phảm
kém chất lượng, hàng giả có trò giá hàng trăm triệu
đồng. Đã yêu cầu các đơn vò sai phạm phải đến các
cơ quan quản lý nhà nước làm thủ tục xin cấp giấy
chứng chỉ đủ điều kiện sản xuất kinh doanh, chứng
nhận hợp chuẩn và hợp quy; thực hiện công bố tiêu
chuẩn chất lượng; khắc phục sửa chữa nhãn hàng
hoá ghi sai quy đònh.
Trên lónh vực Đê điều & PCLB, thủy lợi, Thanh
tra Sở đã chủ động phối hợp và tham gia phối hợp
với Chi cục đê điều & PCLB và chính quyền đòa
phương kiểm tra các vụ việc vi phạm pháp luật về
đê điều. Qua đó đề xuất lãnh đạo Sở có các văn
bản đề nghò chính quyền đòa phương xử lý vi phạm
hành chính theo thẩm quyền đối với các trường hợp
vi phạm Luật Đê điều và pháp lệnh PCLB trên đòa
bàn các quận, huyện. Đã tiến hành khảo sát đánh
giá tình hình xả thải vào các công trình thủy lợi để

chuẩn bò tổ chức thanh tra các cơ sở có vi phạm đây
là nội dung từ trước đến nay chưa được quan tâm
kiểm tra xử lý. Tham mưu đề xuất kiểm tra đôn đốc
việc xử lý các trường hợp vi phạm Luật Đê điều theo
yêu cầu của UBND Thành phố.
Cũng qua hoạt động thanh tra chuyên ngành,
Thanh tra Sở đã đề xuất, kiến nghò với các cơ quan
có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung quy đònh, quy chế
nhất là các văn bản quy phạm pháp luật trong quản
lý chuyên môn và xử lý vi phạm hành chính về
phân bón, thuốc thú y, thuốc BVTV, thức ăn chăn
nuôi; thuỷ sản; quản lý giống cây trồng, vật nuôi và
vệ sinh an toàn thực phẩm để khắc phục những bất
cập trong công tác quản lý, giúp công tác quản lý
Nhà nước được tốt; giúp cho các đơn vò được thanh
tra, kiểm tra rà soát lại việc thực hiện các quy đònh
của pháp luật của đơn vò mình.
Công tác phối hợp giữa Thanh tra Sở Nông nghiệp
& PTNT Hà Nội với Thanh tra Sở Nông nghiệp &
PTNT các tỉnh và lực lượng chức năng trên đòa bàn
Thành phố Hà Nội
Sự phối hợp trong hoạt động thanh tra với các tỉnh
cũng được tăng cường và ngày càng có hiệu quả;
cụ thể: Qua trao đổi thông tin và văn bản đề nghò
phối hợp trong hoạt động thanh tra chuyên ngành
của Thanh tra Sở Nông nghiệp & PTNT An Giang;
Thái Bình, Sơn La, Nam Đònh, Hà Nam, Hải Phòng,
Hưng Yên, Hải Dương… Thanh tra Sở Nông nghiệp
& PTNT Hà Nội đã tổ chức phối hợp thanh tra và
phát hiện một số doanh nghiệp sai phạm trong sản

xuất, kinh doanh vật tư nông nghiệp, thức ăn chăn
nuôi không có trong danh mục được phép lưu hành
tại Việt Nam; sang chai, đóng gói sản phẩm thuốc
bảo vệ thực vật và phân bón nhưng không xuất trình
được chứng chỉ hành nghề. Đã xử phạt vi phạm
hành chính trên 55.000.000 đồng và buộc thu hồi
để chờ tiêu hủy 475kg thức ăn; yêu cầu các đơn vò
có trụ sở đóng trên đòa bàn Hà Nội thực hiện nghiêm
các quyết đònh xử phạt vi phạm hành chính của
Thanh tra Nông nghiệp & PTNT tỉnh bạn.
Nhiệm vụ, các biện pháp trong thời gian tới
Nhiệm vụ
Tiếp tục thực hiện tốt chức năng tham mưu cho
Giám đốc Sở trong công tác quản lý Nhà nước về
hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng chống tham nhũng.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chuyên
ngành để kòp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vi
phạm pháp luật để quản lý chất lượng vật tư nông
nghiệp, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
Năm 2015, Thanh tra Sở tiếp tục tham mưu cho
Giám đốc Sở Nông nghiệp & PTNT Hà Nội chỉ đạo
thanh tra tập trung vào các hoạt động sau:
Thanh tra trách nhiệm của chính quyền đòa
phương trong thực hiện pháp luật về đê điều, thủy
lợi; thanh tra các hoạt động xả thải vào công trình
thủy lợi làm ô nhiễm nguồn nước phục vụ sản xuất
nông nghiệp và gây ô nhiễm môi trường
Thanh tra trách nhiệm của chính quyền đòa
phương trong thực hiện pháp luật về thú y.

Thanh, kiểm tra các hoạt động sản xuất kinh
doanh vật tư nông nghiệp: Phân bón, Thuốc BVTV,
thuốc thú y; thức ăn chăn nuôi; giống vật nuôi,
giống cây trồng.
Thanh, kiểm tra hoạt động sản xuất, kinh doanh
rau, hoa quả.
Thanh, kiểm tra các hoạt động kinh doanh vận
chuyển, giết mổ gia súc, gia cầm; buôn bán thòt và
các sản phẩm gia súc, gia cầm.
Thanh, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm;
chống buôn lậu, hàng giả, gian lận thương mại đối
với các sản phẩm nông nghiệp.
Các biện pháp chủ yếu
Tiếp tục nâng cao chất lượng xây dựng kế hoạch
cho từng cuộc thanh tra, xác đònh rõ trách nhiệm,
công việc của từng thành viên đoàn thanh tra, thời
gian, cách thức, nội dung tiến hành, biện pháp tổ
chức thực hiện. Thực hiện nghiêm túc quy chế tổ
chức và hoạt động của Đoàn thanh tra.

19
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
H
iện nay, tiềm năng phát triển nuôi
trồng thủy sản (NTTS) của Hà Nội
là 30.840 ha (trong đó: Ao, hồ nhỏ:

6.706 ha; Hồ chứa mặt nước lớn: 4.327 ha;
Ruộng trũng: 19.807 ha), ngoài ra còn một số
con sông lớn như: Sông Hồng, Sông Bùi, Sông
Tích, Sông Đáy…có khả năng phát triển nuôi
cá lồng bè.
Được sự chỉ đạo của Thành uỷ, Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân Thành phố; sự
phối hợp của các ban ngành, đoàn thể, nhân
dân đã không ngừng phát huy năng lực, ng-
hiên cứu, tiếp thu công nghệ mới, tiến bộ kỹ
thuật mới áp dụng vào sản xuất nông nghiệp
nói chung và thuỷ sản nói riêng đã tạo
nên những bước phát triển đáng kể. Năm
2009, UBND Thành phố Hà Nội đã phê
duyệt chương trình phát triển NTTS Hà Nội
giai đoạn 2009 - 2015 và đònh hướng đến
năm 2020 (tại quyết đònh 3319/QĐ-UBND
ngày 03/7/2009); có thể nói đây là một trong
những điểm đột phá trong việc đònh hướng,
đầu tư cho phát triển ngành thủy sản Thành
phố. Ngành thủy sản Hà Nội đã có những
bước chuyển biến tích cực, một số kết quả
đáng khích lệ.
Quy hoạch phát triển thủy sản thành phố
Hà Nội đến năm 2020, đònh hướng đến năm
2030 đã được phê duyệt. Đã xác đònh được
vùng NTTS tập trung tại các huyện, thò xã
trên đòa bàn Thành phố; Bước đầu đầu tư
nâng cao năng lực sản xuất của Trung tâm
giống Thủy sản và một số cơ sở sản xuất

giống, chất lượng con giống từng bước được
nâng cao; Diện tích, sản lượng, năng suất
NTTS liên tục tăng qua các năm. Nếu như
năm 2009, diện tích NTTS của toàn Thành
phố chỉ đạt 19.519 ha thì đến năm 2014
diện tích đã đạt 20.838 ha, tăng 6,75% so
với năm 2009, trong đó: diện tích nuôi tập
trung có điều kiện nuôi thâm canh là 9.805
ha; diện tích hồ lớn là 4.327 ha chủ yếu khai
thác thủy lợi và du lòch, diện tích ao hồ nhỏ
là 6.706 ha nuôi tận dụng, nguồn nước ô
nhiễm. Sản lượng năm 2014 ước tính đạt đạt
80.000 tấn; tăng 92,84% so với năm 2009.
Sản lượng đó cung cấp khoảng 37% nhu cầu
sử dụng sản phẩm thủy sản của người dân
Thành phố.
Đối tượng nuôi và hình thức nuôi đa dạng
hơn, chất lượng con giống phần nào được
đảm bảo, Đã có nhiều mô hình nuôi thương
phẩm với đối tượng mới có hiệu quả cao như:
trắm đen, rô phi đơn tính, rô đầu vuông, chép
lai; Công tác theo dõi, cảnh báo môi trường,
dòch bệnh tại một số vùng nuôi tập trung được
triển khai qua hàng năm do vậy môi trường và
bệnh thủy sản trên cá nuôi bước đầu đã được
kiểm soát, từ đó tạo điều kiện cho bà con yên
tâm sản xuất; Công tác quản lý nhà nước về
thủy sản bước đầu được kiện toàn về tổ chức
và hoạt động chuyên môn tạo điều kiện thuận
lợi cho phát triển sản xuất. Một số chính sách

khuyến khích phát triển thuỷ sản của Thành
phố được thí điểm áp dụng.
Mặc dù vậy, NTTS thành phố Hà Nội vẫn
còn một số hạn chế, khó khăn. Giống sản
xuất chủ yếu giống thủy sản truyền thống,
số lượng đáp ứng 80 - 85 %, giống thủy sản
chất lượng nuôi đạt năng suất cao chủ yếu
được nhập về nuôi do vậy không chủ động
nguồn giống. Sản phẩm không tập trung, một
số đối tượng nuôi có chất lượng và giá trò
kinh tế cao còn chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu
PHÁT TRIỂN NGÀNH THỦY SẢN HÀ NỘI
TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY
Tạ Văn Sơn
20
Số 3 - năm 2014
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
nuôi thả; Năng suất, sản lượng NTTS thấp so
với tiềm năng, diện tích nuôi thủy sản thâm
canh chiếm tỷ lệ thấp, năng suất nuôi bình
quân thấp; cơ sở hạ tầng vùng nuôi chưa đồng
bộ về hệ thống giao thông, thủy lợi, điện,
thiếu vốn cho việc hỗ trợ hạ tầng vùng nuôi
tập trung; Nguồn nước phục vụ NTTS đang
bò ô nhiễm, vấn đề đảm bảo an toàn thực
phẩm trong nuôi thuỷ sản chưa được chú

trọng.; Sử dụng xung điện để khai thác thuỷ
sản khó kiểm soát (chủ yếu là diễn ra vào
ban đêm, những ngày mưa lớn), chương trình
ngăn ngừa sinh vật ngoại lai chưa được triển
khai thường xuyên; Việc phát triển sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm thủy sản chưa đồng bộ:
Chưa có cơ sở chế biến sản phẩm thủy sản
nước ngọt, chợ đầu mối chưa được quy hoạch
và đầu tư xây dựng; Chất lượng sản phẩm
thuỷ sản tại các vùng nuôi chưa được giám
sát, kiểm tra thường xuyên; chưa xây dựng
được thương hiệu sản phẩm thuỷ sản, chưa
xây dựng được chuỗi liên kết sản xuất,
Để thực hiện tốt Nghò quyết Đại hội Đảng
bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XV đồng thời
thực hiện kế hoạch phát triển Kinh tế - xã hội
Thành phố Hà Nội 5 năm 2011- 2015; ngành
thủy sản Hà Nội cần phát huy lợi thế, tiềm
năng sẵn có và cần thực hiện tốt một số giải
pháp sau:
1. Nâng cao năng lực của Chi cục thủy
sản Hà Nội; bổ sung nhân lực tại Chốt
kiểm dòch động vật thủy sản tại chợ cá
Yên Sở và 05 trạm thủy sản.
2. Tập trung nguồn lực tổ chức thực hiện
chương trình, đề án, dự án phát triển NTTS
đồng bộ, hiện đại.
3. Xây dựng mô hình nuôi thủy sản thâm
canh ứng dụng công nghệ tiên tiến đạt sản
lượng, chất lượng cao; Cung cấp đủ giống

thủy sản đảm bảo chất lượng cho các vùng
nuôi trên đòa bàn thành phố và tỉnh lân
cận nâng cao năng suất, sản lượng.
4. Tiếp tục hình thành, đầu tư hoàn thiện
cơ sở hạ tầng cho các vùng nuôi tập trung lớn
diện tích từ vài chục ha trở lên. Hỗ trợ xây
dựng, hình thành các vùng nuôi tập trung quy
mô lớn trong việc xây dựng mô hình phát triển
sản xuất đảm bảo ATTP cũng như hiệu quả
kinh tế cao.
5. Xây dựng Trung tâm sản xuất giống thủy
sản áp dụng công nghệ cao; Khuyến khích
các doanh nghiệp trong công tác tiêu thụ, bảo
quản, chế biến sản phẩm thủy sản nước ngọt
khi đầu tư sản xuất, kinh doanh tại Hà Nội.
Thực hiện các dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật
cho cơ sở thu gom, sơ chế, chế biến và tiêu thụ
sản phẩm.
6. Tăng cường công tác quản lý, thanh
tra, kiểm dòch con giống lưu thông trên đòa
bàn thành phố để loại trừ những đàn giống
mang mầm bệnh và chất lượng kém. Tăng
cường công tác tập huấn NTTS đảm bảo
tiêu chuẩn VIETGAP, đảm bảo ATTP.
7. Thực hiện chính sách khuyến khích
phát triển thủy sản: Hỗ trợ đào tạo, tập
huấn, dạy nghề sản xuất nông nghiệp; Hỗ
trợ sản xuất giống thủy sản, đầu tư Trung
tâm sản xuất và chuyển giao công nghệ
nuôi thủy sản, Hỗ trợ hạ tầng kỹ thuật

nâng cao năng lực sản xuất cơ sở sản xuất
giống thủy sản, sản xuất giống chất lượng
cao cung cấp cho người NTTS trên đòa bàn
Thành phố; Hỗ trợ thiệt hại do thiên tai,
hỗ trợ phòng chống dòch bệnh nguy hiểm
gây hại nặng đối với thuỷ sản; Hỗ trợ lãi
suất vốn vay; hỗ trợ quảng bá, xây dựng
nhãn hiệu, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá
nông sản phẩm; Có chính sách hợp lý
trong công tác nâng cấp, cải tạo cơ sở hạ
tầng trong vùng sản xuất tập trung, vùng sơ
chế, chế biến,
Với chủ trương, đònh hướng của Thành
phố; với tiềm lực về con người, về diện
tích NTTS,… và sự phối kết hợp chặt
chẽ của các cấp, các ngành chắc chắn
NTTS sẽ có những bước phát triển ngày
càng mạnh mẽ hơn, góp phần vào việc
đẩy nhanh công cuộc xây dựng nông thôn
mới trong giai đoạn hiện nay trên đòa bàn
thành phố Hà Nội.
21
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
Đ
ể thực hiện chương trình mục tiêu quốc
gia về xây dựng nông thôn mới (NTM),

đồng thời thực hiện chương trình 02/
CTr-TU của Thành ủy về phát triển nông nghiệp,
xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời
sống nông dân, vai trò của công tác khuyến nông
trở nên hết sức cần thiết, với chức năng nhiệm vụ
của mình, thời gian qua Trung tâm Khuyến nông
Hà Nội đã bám sát chủ trương, đònh hướng chỉ
đạo của Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố,
của Sở NN&PTNT chỉ đạo các phòng chuyên
môn và các đơn vò trực thuộc triển khai các hoạt
động khuyến nông, hướng đến phục vụ kòp thời
và hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về
xây dựng NTM ở các huyện, thò xã trên đòa bàn
Thành phố. Điều đó thể hiện trên các mặt sau:
1. Công tác chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật
mới vào sản xuất:
Trung tâm Khuyến nông Hà Nội đã làm tốt
công tác chỉ đạo các phòng chuyên môn, Trạm
khuyến nông các quận, huyện bám sát chủ trương
đònh hướng của ngành để chỉ đạo, thúc đẩy
chuyển dòch cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi
nâng cao hiệu quả trong sản xuất, góp phần vào
thay đổi sản xuất nông nghiệp theo hướng tiên
tiến, hiện đại, diện mạo nông thôn có nhiều đổi
mới. Nhiều dạng mô hình đã được triển khai trở
thành điểm thăm quan học tập kinh nghiệm sản
xuất, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật mới.
Cụ thể đã triển khai hàng trăm dạng mô hình,
bao gồm cả mô hình trồng trọt, chăn nuôi, thủy
sản và cơ giới hóa. Các mô hình, chương trình

khuyến nông luôn tạo được tính mới, khác biệt
và đột phá trong sản xuất nông nghiệp. Nhiều
mô hình nổi bật được đánh giá cao, có sức lan
tỏa lớn và ảnh hưởng trong khu vực như mô hình
gieo đậu tương đông bằng máy, trông thâm canh
Thanh long ruột đỏ, Cơ giới hoá trong sản xuất
nông nghiệp, mô hình mạ khay - máy cấy, mô
hình nuôi gà thả vườn ATSH, đều là điểm nhấn
trong lónh vực nông nghiệp của miền Bắc. Một số
mô hình tiêu biểu:
- Mô hình gieo đậu tương đông: Trung tâm
đã kòp thời tổng kết kinh nghiệm trong thực tiễn,
rút kinh nghiệm trong chỉ đạo và kỹ thuật để xây
dựng quy trình và tuyên truyền nhân ra diện rộng
phương pháp gieo vãi và gieo bằng máy đậu tương
vụ đông. Diện tích đậu tương hàng năm tăng thêm
từ 4.000 – 5.000 ha/năm, đến nay diện tích đậu
tương của Hà Nội trên 30.000 ha, là một trong đòa
phương có diện tích đậu tương lớn nhất cả nước,
và được nhiều tỉnh, thành phía Bắc đến học tập
kinh nghiệm và nhân ra diện rộng.
- Mô hình gieo thẳng lúa theo hàng bằng
công cụ kéo tay:
Được đánh giá là mô hình thành công, đặc
biệt đối với năm 2008 là năm khó khăn nhất với
sản xuất nông nghiệp do bò ảnh hưởng nghiêm
trọng bởi đợt rét đậm, rét hại 38 ngày liên tục
của vụ Xuân nhưng mô hình đã đạt được thành
công ngoài mong đợi; thành công của mô hình là
tiền đề, giải pháp hữu hiệu đáp ứng nhanh yêu

cầu về mùa vụ trong điều kiện thời tiết diễn biến
bất thường, có tính xã hội cao, nhiều đối tượng
được hưởng lợi. Năng suất bình quân lúa gieo
sạ đạt 66tạ/ha, lợi nhuận cao hơn so với lúa cấy
6.250.000 đồng/ha. Từ kết quả đạt được của mô
hình, đã được Bộ Nông nghiệp & PTNT đánh giá
đây là TBKT mang tính đột phá của vùng Đồng
bằng sông Hồng và là TBKT được nhân ra diện
rộng nhanh nhất từ trước đến nay.
HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG
góp phần thúc đẩy phát triển
sản xuất nông nghiệp và
xây dựng nông thôn mới
Th.S Nguyễn Hồng Anh
Giám đốc Trung tâm
Khuyến nông
22
Số 3 - năm 2014
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
- Mô hình nuôi trồng thủy sản ATSH tập
trung: Mỗi ha nuôi theo quy trình an toàn, bền
vững lãi trên 60 triệu đồng, cao gấp hơn 2 lần so
với nuôi theo truyền thống. Thông qua mô hình
giúp nông dân nhận thức được tầm quan trọng
của việc xử lý môi trường trong quá trình nuôi,
đây là khâu bắt buộc cho đầu tư trong nuôi trồng

thủy sản; bước đầu tạo được sự liên kết trong
cung ứng vật tư đầu vào để tạo ra sản phẩm an
toàn và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Thành
công của mô hình là sự khẳng đònh cho việc phát
triển nuôi trồng thủy sản ATSH tập trung, mang
lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân tại các
vùng trũng, các vùng chuyển đổi, chuyên canh
nuôi trồng thủy sản trên đòa bàn thành phố.
- Mô hình Cơ giới hoá trong sản xuất nông
nghiệp: Đây là một trong các bước đưa máy móc
vào sản xuất nông nghiệp thay thế cho sức người,
từng bước CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn.
Thông qua các mô hình do Trung tâm thực hiện,
đến nay đã có nhiều huyện tổ chức thực hiện
cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất lúa như Phú
Xuyên, Thạch Thất, Sóc Sơn, diện tích lúa được
cấy bằng máy ngày càng tăng, giúp giải quyết cơ
bản thiếu lao động lúc vào vụ sản xuất.
- Mô hình nuôi gà Mía lai ATSH tập trung:
Qua kết quả đánh giá mô hình cho thấy sau 04
tháng nuôi gà sinh trưởng phát triển tốt, tỷ lệ
sống đạt trung bình trên 95%, trọng lượng bình
quận đạt 2,2 - 2,5kg/con, khả năng thích nghi
với điều kiện sống, kháng bệnh cao, ngoại hình
lai ưu thế giống với gà ta (gà trống), thòt chắc,
thơm, đặc biệt gà trống không có mỡ nên được
thò trường chấp nhận với giá cao, dễ bán, trung
bình sau 04 tháng nuôi cho lãi 30.000 - 50.000
đồng/con. Đây là giống gà mới có nhiều triển
vọng, được bà con nông dân đón nhận và đánh

giá cao, mô hình hiện đã được nhân rộng ở hầu
hết các huyện trên đòa bàn Thành phố.
Các mô hình khuyến nông những năm qua đã thực
sự có sức lan tỏa, ảnh hưởng tích cực đến hoạt động
sản xuất nông nghiệp; đặc biệt là làm chuyển dòch cơ
cấu cây trồng, vật nuôi, thay đổi phương pháp sản xuất
từ sản xuất nhỏ lẻ chuyển sang sản xuất hàng hóa,
thành vùng tập trung, mang lại hiệu quả cao về kinh
tế; nâng cao thu nhập, đời sống cho nhân dân Thủ đô;
từng bước công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn,
góp phần xây dựng nông thôn mới.
2. Tuyên truyền các chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước về phát triển nông nghiệp
và xây dựng nông thôn mới.
+ Hàng năm Trung tâm đã phối hợp với các cơ
quan truyền thông như Đài truyền hình Việt Nam
kênh VTV2, Đài PTTH Hà Nội, Kênh truyền hình
nông nghiệp VTC16, Báo Nông nghiệp Việt Nam,
báo Hà Nội mới, báo Kinh tế đô thò, báo Nông
thôn ngày nay, thực hiện dàn dựng và phát
sóng chương trình Nông nghiệp - Nông thôn,
chương trình Nhà nông hội nhập và chuyên trang
Nông nghiệp - Nông thôn. Ngoài các chương
trình khoa giáo, các bài viết về kỹ thuật, tin nông
nghiệp, những năm qua Trung tâm đã tập trung
tuyên truyền về công tác xây dựng NTM. Cụ thể,
tuyên truyền các chủ trương, chính sách của
Trung ương, của Thành phố về xây dựng NTM;
những điển hình, cách làm hay trong quá trình
chỉ đạo của các xã, huyện, tuyên tuyền sâu rộng

cho người dân thấy rõ những thời cơ, thuận lợi
cùng những thử thách khó khăn trong quá trình
xây dựng NTM, qua đó góp phần quan trọng
vào việc thực hiện thành công chương trình 02/
CTr-TU, trong đó có chỉ tiêu đến hết năm 2014
có khoảng 90 xã trên đòa bàn Thành phố đạt
chuẩn NTM.
+ Trung tâm đã làm tốt công tác phối hợp với
các đơn vò chuyên môn trong việc biên soạn và phát
hành các ấn phẩm, tài liệu kỹ thuật phục vụ
công tác chỉ đạo sản xuất nông nghiệp của các
cấp, các ngành, số lượng các ấn phẩm khoảng:
Nông lòch Hà Nội 6.000 cuốn/năm; tập san Nông
nghiệp và nông thôn Hà Nội 20.000 cuốn/năm;
bản tin sản xuất và thò trường Hà Nội 28.800
bản/năm; hàng trăm băng đóa hình, hàng vạn
tờ gấp quy trình kỹ thuật/năm, Các ấn phẩm
thông tin đã kòp thời tuyên truyền chủ trương,
chính sách về phát triển nông nghiệp, xây dựng
NTM, chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật mới,
nêu gương các điển hình tiên tiến, thông tin
giá cả thò trường và thúc đẩy công tác xúc tiến
thương mại
+ Công tác Xúc tiến thương mại có nhiều
hoạt động ý nghóa thiết thực đối với sự phát
triển của nông nghiệp Thủ đô; đã tổ chức và
phối hợp tổ chức nhiều cuộc triển lãm, hội chợ
sản phẩm chất lượng cao trong nước và quốc
tế giúp nông dân, doanh nghiệp quảng bá giới
23

Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
thiệu sản phẩm, góp phần tích cực trong việc
tạo ra sự liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm như: Hội chợ Nông nghiệp Quốc tế Cần
Thơ; Hội chợ AgroViet; Hội chợ Expo, Hội chợ
Nông nghiệp các tỉnh phía bắc; Hội chợ Quốc
tế tại Đài Loan; Festival lúa gạo, Thủy sản tại
Cần Thơ và Hậu Giang; Hội chợ Quốc tế Hà
Nội; tổ chức Hội chợ Nông nghiệp và Làng nghề
Hà Nội lần thứ nhất năm 2012.
3. Công tác đào tạo, huấn luyện.
Nông dân của Hà Nội tuy có trình độ và kỹ
thuật thâm canh cao, song không đồng đều giữa
các hộ và các đòa phương. Do đó việc đào tạo
nâng cao trình độ cho cán bộ khuyến nông và
người sản xuất để tổ chức sản xuất thành các
vùng sản xuất hàng hóa với số lượng nông sản
lớn, có năng suất, chất lượng cao ngày càng trở
lên cấp thiết.
Mỗi năm Trung tâm tổ chức được trên 450 lớp
tập huấn với hơn 40.000 lượt người tham gia với
nhiều chuyên đề, tập trung vào các nội dung:
Chủ trương chính sách của Thành phố về sản
xuất nông nghiệp; kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi,
thuỷ sản; vệ sinh an toàn thực phẩm; chương
trình nông thôn mới Đặc biệt, Trung tâm đã

tổ chức các lớp tập huấn chuyên sâu về kỹ thuật
trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản với phương pháp
kết hợp hài hoà giữa lý thuyết và thực hành theo
chu kỳ sinh trưởng, phát triển của cây trồng, vật
nuôi nên đã kòp thời giúp học viên giải quyết các
vướng mắc trong quá trình sản xuất.
4. Công tác quản lý, sử dụng và bảo toàn
Quỹ khuyến nông Thành phố:
Trong 05 năm vừa qua, Trung tâm Khuyến
nông Hà Nội luôn làm tốt công tác quản lý,
sử dụng và bảo toàn Quỹ khuyến nông. Nguồn
vốn Quỹ khuyến nông hàng năm đều được
tăng bổ sung, đối tượng cho vay được đa dạng
nhằm đáp ứng yêu cầu sản xuất của nông dân.
Cho vay tập trung vào vùng sản xuất hàng hóa
chất lượng cao, tổ chức giải ngân xuống tận
cơ sở; phối kết hợp chặt chẽ với các doanh
nghiệp để tạo liên kết dọc bền vững mở rộng
quy mô sản xuất và ổn đònh đầu ra cho sản
phẩm. Trong gần 12 năm hoạt động (từ 2002
đến hết tháng 10/2014) Quỹ đã giải ngân cho
2.413 lượt hộ vay vốn, với số vốn quay vòng là
345,965 tỷ đồng.
Để thực hiện mục tiêu đến năm 2015 có
khoảng 40% số xã trên đòa bàn Thành phố đạt
chuẩn NTM, đòi hỏi các cấp, các ngành, đặc
biệt ngành nông nghiệp phải hết sức nỗ lực cố
gắng, trong đó vai trò của Trung tâm Khuyến
nông hết sức quan trọng. Để góp phần đạt
được mục tiêu trên, trong thời gian tới Trung

tâm Khuyến nông cần tập trung một số nội dung
chính sau:
- Củng cố mạng lưới khuyến nông viên cơ sở,
đồng thời kiến nghò Sở Nông nghiệp và PTNT,
UBND Thành phố chuyển đội ngũ này về trực
thuộc ngành dọc để thuận lợi trong chỉ đạo.
- Xây dựng các mô hình khuyến nông phù hợp
với điều kiện sản xuất sau dồn điền đổi thửa,
ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm hạ
giá thành sản xuất, tăng năng suất và chất lượng
nông sản phẩm, có thể nhân rộng ra sản xuất đại
trà với quy mô lớn và tập trung. Xây dựng các mô
hình liên kết chuỗi từ sản xuất đến sơ chế, chế
biến và tiêu thụ sản phẩm; Làm tốt vai trò là cầu
nối giữa 4 nhà: Nhà nông- nhà khoa học - nhà
doanh nghiệp - Nhà nước.
- Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền,
trong đó tập trung giới thiệu các mô hình khuyến
nông điển hình, các điển hình và tồn tại trong
công tác xây dựng NTM ở các đòa phương bằng
nhiều hình thức: các kênh thông tấn báo chí, tổ
chức Hội thi, hội chợ, tham quan học tập,…
- Chú trọng nâng cao năng lực cho đội ngũ
cán bộ khuyến nông để đáp ứng yêu cầu trong
thời kỳ hội nhập nhằm tạo tiền đề cho việc
đẩy mạnh công tác khuyến nông trong những
năm tới.
Xây dựng NTM mới là một nhiệm vụ khó khăn,
lâu dài và phức tạp. Các tiêu chí không những
phải hoàn thành một cách đồng bộ, mà còn phải

tiếp tục duy trì, hoàn thiện và phấn đấu cao hơn,
đặc biệt là tiêu chí về nâng cao thu nhập và
tổ chức sản xuất. Vì vậy công tác khuyến nông
trong thời gian tới cần phải đổi mới cả về nội
dung và phương pháp hoạt động để góp phần
thực hiện thành công chương trình 02 của Thành
ủy về “Phát triển nông nghiệp, xây dựng NTM,
từng bước nâng cao đời sống nông dân”. Đó vừa
là yêu cầu, vừa là trách nhiệm của mỗi cán bộ
khuyến nông từ Thành phố đến cơ sở.

24
Số 3 - năm 2014
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
T
hành phố Hà Nội hiện có khoảng 152.000
doanh nghiệp, trong đó có trên 1.000 doanh
nghiệp hoạt động trong lónh vực sản xuất
nông nghiệp. Các doanh nghiệp hoạt động trong
lónh vực nông nghiệp tập trung chủ yếu kinh doanh
cung cấp dòch vụ vật tư đầu vào và làm trung gian
phân phối tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Bên cạnh đó
trong thời gian qua trên đòa bàn thành phố đã xuất
hiện một số doanh nghiệp đã tổ chức liên kết từ
sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trò,
mang lại hiệu quả cao cho người sản xuất và người

tiêu dùng.
Hiện trạng liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi
giá trò nông nghiệp tại Hà Nội
Các nhóm tác nhân chính trong chuỗi giá trò liên kết:
Người sản xuất
Việc sản xuất hiện nay chủ yếu vẫn mang tính
nhỏ lẻ, phân tán trong khu dân cư, một bộ phận
chưa tuân thủ quy trình sản xuất, chưa tạo ra sản
phẩm an toàn chất lượng đáp ứng người tiêu dùng.
Các hộ sản xuất chưa chú ý tới việc liên kết nhóm
hộ mà vẫn sản xuất tự phát mạnh ai người đó làm
nên chưa tạo được vùng sản xuất tập trung, dòng
sản phẩm đủ lớn và ổn đònh. Trong khi đó các doanh
nghiệp chế biến tiêu thụ sản phẩm thường ký các
hợp đồng với các trang trại lớn, các vùng có lượng
sản phẩm lớn và ổn đònh. Đặc biệt tình trạng người
sản xuất phá vỡ liên kết khi giá sản phẩm gia tăng
đột biến, tự ý bán phá giá cho các thương lái khác
khi giá bán cao hơn thường xuyên xảy ra… Điều này
dẫn đến hậu quả tình trạng “Được mùa mất giá, ít
thiếu nhiều thừa”, hiệu quả kinh tế không cao, chưa
tạo được tính bền vững trong sản xuất nông nghiệp.
Nguyên nhân là do nhận thức của người dân nhiều
nơi còn thấp, thiếu thông tin thò trường, một số bộ
phận còn chạy theo lợi ích trước mắt.
Doanh nghiệp làm trung gian phân phối
Đầu tư sản xuất nông nghiệp hiệu quả không cao,
tính rủi ro lớn, bên cạnh đó là chính sách hỗ trợ cho
doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp còn
chưa cụ thể nên phần lớn các doanh nghiệp lớn còn

chưa mặn mà đầu tư vào lónh vực nông nghiệp. Việc
liên kết giữa doanh nghiệp và người sản xuất chưa
bền vững do chưa có cơ chế chia sẻ lợi nhuận, rủi
ro, chủ yếu vẫn liên kết theo hình thức thương thảo
thuận mua vừa bán. Tình trạng tiêu thụ sản phẩm
vẫn còn qua nhiều khâu trung gian phân phối nên
giá bán thực tế cao hơn nhiều so với giá thu mua tại
cơ sở sản xuất, sức cạnh tranh chưa cao, chưa chiếm
được lòng tin của người tiêu dùng. Công tác tuyên
truyền quảng bá Marketting giới thiệu sản phẩm của
các doanh nghiệp hoạt động trong lónh vực nông nghiệp
còn yếu.
Kênh bán lẻ:
Đối với kênh bán lẻ, hiện trạng vẫn còn việc trà
trộn sản phẩm chưa rõ nguồn gốc tiêu thụ để cung
cấp cho người tiêu dùng. Việc giới thiệu quảng bá
sản phẩm, tư vấn chăm sóc khách hàng chưa được
quan tâm. Bên cạnh đó chưa có sự phản hồi thông
tin hai chiều giữa người sản xuất và người tiêu dùng
thông qua kênh bán lẻ để từ đó tạo ra sản phẩm
đáp ứng thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Mà
nguyên nhân là do một số cửa hàng bán lẻ chạy
theo lợi nhuận và nhân viên bán hàng thiếu kỹ năng
tiếp thò, tư vấn khách hàng. Hậu quả gây mất lòng
DOANH NGHIỆP - TRUNG GIAN PHÂN PHỐI -
NHÂN TỐ ĐỊNH HƯỚNG THỊ TRƯỜNG -

QUYẾT ĐỊNH TÍNH BỀN VỮNG
TRONG CHUỖI GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
Th.S Nguyễn Văn Chí

Giám đốc Trung tâm
XTTM nông nghiệp
25
Số 3 - năm 2014
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NÔNG NGHIỆP & NÔNG THÔN HÀ NỘI
NN&PTNT
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY THÀNH LẬP SỞ CANH NÔNG HÀ NỘI (1954 - 2014)
tin đối với sản phẩm mà các kênh phân phối đem
lại cho họ.
Người tiêu dùng:
Cơ bản người tiêu dùng hiện nay thiếu thông tin
về sản phẩm, chưa biết cách nhận diện sản phẩm
an toàn chất lượng cao, chưa nắm được đòa chỉ cơ sở
sản xuất uy tín, bên cạnh đó một bộ phận người tiêu
dùng thích các sản phẩm giá rẻ. Nguyên nhân là
do công tác thông tin truyền thông đònh hướng sản
phẩm theo khách hàng của doanh nghiệp còn hạn
chế. Hậu quả người tiêu dùng phải sử dụng hàng hóa
kém chất lượng ảnh hưởng đến sức khỏe và mất lòng
tin với người sản xuất.
Một số chuỗi liên kết tiêu biểu tại Hà Nội
Chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm
của công ty HaDico:
Đã Liên kết với nông dân tạo vùng nguyên liệu
sản phẩm an toàn và thiết lập các cửa hàng tiện
ích và siêu thò mini cung cấp sản phẩm an toàn cho
người dân Hà Nội. Đồng thời xây dựng được các mô
hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao,
là nơi tham quan học tập cho các tổ chức, cá nhân,

hộ nông dân trong và ngoài thành phố đến học tập
trao đổi kinh nghiệm. Là nơi chuyển giao tiến bộ
khoa học kỹ thuật, cung cấp giống cây trồng và vật
tư kỹ thuật nông nghiệp chất lượng cao.
Tổng công ty giống cây trồng Thái Bình: Liên kết
chặt chẽ với các huyện trên Thành phố hỗ trợ cho
người sản xuất về chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, xây
dựng mô hình trình diễn giống mới, kỹ thuật mới cho
nông dân thăm quan học tập. Có cơ chế bán giống
thanh toán trả chậm hỗ trợ cho người dân nhằm đẩy
nhanh tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.
Chuỗi liên kết của Công ty Cổ phần Thực phẩm
Minh Dương: Chế biến nông sản chế biến theo dây
truyền hiện đại, hoàn toàn không hóa chất, không
chất bảo quản. Liên kết với người sản xuất theo hình
thức tạo vùng nguyên liệu, hỗ trợ người sản xuất về
tập huấn chuyển giao kỹ thuật, cử cán bộ tư vấn,
giám sát kỹ thuật, hỗ trợ tài chính cho nông sản xuất
xuất. Đồng thời phối hợp chặt chẽ với nhà khoa học
và người sản xuất, tạo ra sản phẩm chất lượng sau đó
bao tiêu toàn bộ sản phẩm cho nông dân.
Chuỗi liên kết của Công ty sữa quốc tế IDP: Công
ty liên kết với người sản xuất theo hình thức tạo
vùng nguyên liệu. Công ty đã phối hợp liên kết vùng
nguyên liệu với nhiều tỉnh thành trong cả nước nhằm
tạo vùng nguyên liệu ổn đònh chất lượng. Người sản
xuất tham gia chuỗi liên kết được công ty hỗ trợ: tập
huấn, chuyển giao kỹ thuật, cho vay vốn ưu đãi, cử
cán bộ giám sát quy trình kỹ thuật, thu mùa toàn bộ
sản phẩm cho nông dân. Bên cạnh tổ chức nhiều

Hội nghò khách hàng nhằm giới thiệu sản phẩm đến
người tiêu dùng.
Sàn Giao dòch Rau quả & Thực phẩm An toàn Hà
Nội: Đã kết nối được với 11 tỉnh thành trong cả nước
với trên 625 tổ hợp tác. Sàn giao dòch đã hỗ trợ cho
nông dân và doanh nghiệp về: kỹ năng lập kế hoạch
và tổ chức sản xuất đònh hướng thò trường; kết nối
các tổ hợp tác với các doanh nghiệp liên kết hợp tác
đầu tư và/hoặc tiêu thụ sản phẩm; cung cấp thông
tin thò trường và tư vấn các biện pháp điều chỉnh
sản xuất và tiếp thò phù hợp cho các tổ hợp tác/
nhóm sản xuất. Hỗ trợ tìm kiếm, liên hệ và kết nối
đến đúng các tổ hợp tác/nhóm sản xuất phù hợp với
nhu cầu của doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp
mở rộng tiêu thụ sản phẩm thông qua mạng lưới các
điểm kết nối bán sản phẩm trực tiếp tới các khu dân
cư do Sàn phát triển.
Chuỗi cửa hàng thực phẩm sạch 3F: Do Công ty cổ
phần Thực phẩm sạch 3F phân phối có sự liên kết
của 200 trang trại gà, 15 trại lợn rừng và trại giống
gốc 750 nái. Công ty đã xây dựng được trại mẫu, tổ
chức liên kết với người sản xuất theo hình thức hỗ
trợ vùng nguyên liệu: Ứng trước kinh phí mua sản
phẩm cho người sản xuất khi giá thò trường xuống
thấp, xây dựng hệ thống cửa hàng bán lẻ, tiêu thụ
toàn bộ sản phẩm cho người dân. Áp dụng hình thức
chia sẻ lợi nhuận và rủi ro, có cơ chế giá đối với
người sản xuất theo biến động của thò trường.
Chuỗi chăn nuôi tiêu thụ sản phẩm trứng Tiên
Viên: Được Công ty cổ phẩn đầu tư và phát triển

kinh tế trang trại Tiên Viên xây dựng và tổ chức
hoạt động. Hình thức liên kết giữa doanh nghiệp và người
sản xuất theo hình thức “thuận mua vừa bán” cùng
thương thảo giá khi có biến động giá cả trên thò
trường, bao tiêu toàn bộ sản phẩm cho người sản
xuất, hiện đã xây dựng được thương hiệu trứng gà
sạch mang lại hiệu quả kinh tế cao và ổn đònh cho
người dân.
Công ty cổ phần sản xuất và thương mại Tâm Đức
Tín: Công ty tranh thủ các nguồn vốn hỗ trợ cho người
Tiếp theo trang 27

×