Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Ôn thi tốt nghiệp môn Ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (739.29 KB, 85 trang )

Khái qt văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945
đến hết thế kỷ XX
Câu 1:Văn học Việt Nam từ từ Cách mạng tháng Tám 1945 - 1975 trải qua
mấy chặng đường phát triển? Nêu những thành tựu của từng chặng đường.
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 trải qua 3 chặng đường phát triển:
- Chặng đường 1945 – 1954 (kháng chiến chống Pháp):
+ Chủ đề bao trùm là ca ngợi Tổ quốc và quần chúng cách mạng, tập trung
phản ánh cuộc kháng chiến chống Pháp.
+ Truyện và ký: Đôi mắt, Nhật ký ở rừng – Nam Cao; Đất nước đứng lên –
Nguyên Ngọc; Truyện Tây Bắc – Tô Hoài
+ Thơ: Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm, Đất nước – Nguyễn Đình Thi,
tập thơ Việt Bắc – Tố Hữu, Tây Tiến – Quang Dũng
- Chặng đường 1955 – 1964 (Xây dựng CNXH):
+ Chủ đề ca ngợi những đổi thay của đất nước, thể hiện tình cảm đối với
niềm Nam ruột thòt.
+ Truyện và ký: Mùa lạc – Nguyễn Khải, tuỳ bút Sông Đà – Nguyễn Tuân,
Vợ nhặt – Kim Lân, Sống mãi với Thủ đô – Nguyễn Huy Tưởng
+ Thơ: Gió lộng – Tố Hữu, Ánh sáng và phù sa – Chế Lan Viên, Riêng
chung – Xuân Diệu, Đất nở hoa và Bài thơ cuộc đời – Huy Cận
- Chặng đường 1965 – 1975 (kháng chiến chống Mỹ):
+ Chủ đề bao trùm là ca ngợi tinh thần yêu nước và chủ nghóa anh hùng cách
mạng.
+ Truyện và ký: Rừng xa nu – Nguyễn Trung Thành, Người mẹ cầm súng –
Nguyễn Thi, Hòn Đất – Anh Đức, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi – Nguyễn Tuân, Chiếc
lược ngà – Nguyễn Quang Sáng
+ Thơ: Ra trận và Máu và hoa – Tố Hữu, Mặt đường khát vọng – Nguyễn
Khoa Điềm, Gió Lào cát trắng – Xuân Quỳnh, Tôi giàu đôi mắt – Xuân Diệu
Câu 2: Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam 1945 – 1975?
Có 03 đặc điểm cơ bản:
- Văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hoá và gắn bó sâu sắc
với vận mệnh dân tộc.


- Văn học hướng về đại chúng.
- Văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Câu 3: Những biểu hiện của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn?
* Khuynh hướng sử thi:
+ Văn học phản ánh những sự kiện, những vấn đề có ý nghĩa lịch sử lớn lao, tập
trung thể hiện chủ nghĩa u nước, chủ nghĩa anh hùng.
1
+ Nhân vật chính thường là những con người tiêu biểu cho lý tưởng chung của
dân tộc, kết tinh các phẩm chất cao q của cộng đồng, gắn bó số phận mình với số
phận của đất nước.
+ Lời văn mang giọng điệu trang trọng, hào hùng, thiên về ngợi ca, ngưỡng mộ.
* Cảm hứng lãng mạn: Cảm hứng lãng mạn chủ yếu được thể hiện trong việc
khẳng định phương diện lý tưởng của cuộc sống mới và vẻ đẹp của con người mới, ca
ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Chủ nghĩa lãng mạn gắn liền với khuynh hướng sử thi.
Tun ngơc Độc lập – Hồ Chí Minh
Câu 1: Trình bày những nét chính trong quan điểm sáng tác của Hồ Chí
Minh?
- Hồ Chí Minh xem văn nghệ là một vũ khí lợi hại phụng sự cho sự nghiệp cách
mạng.
- Hồ Chí Minh ln chú trọng đến tính chân thật và dân tộc của tác phẩm văn
học.
- Khi cầm bút, Hồ Chí Minh ln xuất phát từ mục đích, đối tượng tiếp nhận để
quyết định nội dung và hình thức của tác phẩm.
Câu 2: Di sản văn học của Hồ Chí Minh gồm những bộ phận nào?
Được chia ra làm ba bộ phận:
a.Văn chính luận:
- Các tác phẩm chính:
+ Bản án chế độ thực dân Pháp 1925.
+ Tun ngơn Độc lập 1945.

+ Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến 1946.
+ Khơng có gì q hơn độc lập tự do 1966.
b.Truyện và ký:
- Thành cơng nhất là tập Truyện và ký được Người viết từ 1922 đến 1925 bằng
tiếng Pháp. Tiêu biểu là các truyện ngắn: Pari 1922, Lời than vãn của bà Trưng Trắc
1922, Con người biết mùi hun khói 1922; Vi hành 1923; Những trò lố hay là Varen và
Phan Bội Châu 1925, Con rùa 1925.
- Ngồi ra còn một số tác phẩm khác như: Nhật ký chìm tàu 1931, Giấc ngủ
mười năm 1949, Vừa đi đường vừa kể chuyện 1963.
c.Thơ ca:
- Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù) – tập nhật ký bằng thơ được viết
trong thời gian Người bò chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam tại Quảng Tây –
Trung Quốc, từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943. Tác phẩm tái hiện một cách chân
thật bộ mặt tàn bạo của chế độ nhà tù Quốc dân đảng và xã hội Trung Quốc thời
2
Tưởng Giới Thạch; phản ánh tâm hồn và nhân cách cao đẹp của người chiến só
cách mạng.
- Ngoài ra, còn có một số tác phẩm như: Pác Bó hùng vó, Tức cảnh Pác Bó,
Thướng sơn (Lên núi), Đối nguyệt (Với trăng), Nguyên tiêu (Rằm tháng giêng), Báo
tiệp (Tin thắng trận), Cảnh khuya
Câu 3: Trình bày phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh?
Phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh độc đáo mà đa dạng.
- Văn chính luận: ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, lý lẽ đanh thép, bằng
chứng đầy sức thuyết phục, giàu tính luận chiến và đa dạng về bút pháp.
- Truyện và ký: rất hiện đại, thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ và trào phúng sắc
bén.
- Thơ ca: có sự kết hợp hài hồ giữa bút pháp cổ điển và hiện đại; giữa chất trữ
tình và chất “thép”; giữa sự trong sáng, giản dị và hàm súc, sâu sắc.
Câu 4: Hồn cảnh sáng tác, đối tượng tiếp nhận và mục đích viết bản
Tun ngơn Độc lập?

- Hồn cảnh sáng tác: Ngày 19/8/1945 chính quyền Hà Nội về tay nhân dân.
Ngày 26/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn
nhà số 48, phố Hàng Ngang, Người soạn thảo bản Tun ngơn Độc lập. Ngày
2/9/1945, tại qng trường Ba Đình, Người thay mặt chính phủ lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hồ đọc bản Tun ngơn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào.
- Đối tượng tiếp nhận:
+ Quốc dân đồng bào trong cả nước.
+ Nhân dân u chuộng hồ bình trên tồn thế giới.
+ Bọn đế quốc thực dân đang lăm le xâm chiếm lại nước ta (sau khi phát xít
Nhật đầu hàng Đồng minh, thực dan Pháp nấp sau phe Đồng minh tun bố: “Đơng
Dương là đất ‘bảo hộ’ của người Pháp bị Nhật chiếm, nay Nhật đầu hàng, vậy Đơng
Dương phải thuộc quyền của người Pháp”).
- Mục đích:
+ Khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam, khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ Cộng hòa.
+ Đập tan âm mưu xâm lược của bọn thực dân đế quốc.
+ Tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân u chuộng hòa bình trên tồn
thế giới.
Câu 5: Nêu giá trị lịch sử, giá trị văn học của bản Tun ngơn Độc lập
- Giá trị lịch sử: Tun ngơn Độc lập là một văn kiện lịch sử tun bố trước
quốc dân đồng bào và thế giới về việc xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến ở Việt Nam,
và mở ra một kỉ ngun mới cho dân tộc ta – kỉ ngun độc lập tự do, nhân dân làm
chủ đất nước.
- Giá trị văn học: Tun ngơn Độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực với
lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực, ngơn ngữ hùng hồn, đầy cảm
xúc. Tun ngơn Độc lập còn là tâm huyết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hội tụ vẻ đẹp tư
3
tng v tỡnh cm ca Ngi, ng thi kt tinh khỏt vng chỏy bng v c lp t do
ca dõn tc Vit Nam v c vit bng cm hng phn chn, t ho cao giỏ tr
Chõn Thin M ca c mt dõn tc.

Cõu 6: Trong phn m u bn Tuyờn ngụn c lp ca Vit Nam, H Chớ
Minh trớch dn nhng bn tuyờn ngụn no? Vic trớch dn ú cú ý ngha nh th
no?
M u bn Tuyờn ngụn c lp, Ch tch H Chớ Minh ó trớch dn Tuyờn
ngụn c lp ca nc M 1776 v Tuyờn ngụn Nhõn quyn v Dõn quyn ca Cỏch
mng Phỏp 1791 nhm mc ớch:
- Lm cn c phỏp lý tng sc thuyt phc cho bn Tuyờn ngụn c lp ca
nc ta vỡ li l trong hai bn tuyờn ngụn trờn ó c c th gii tha nhn.
- Tranh lun ngm vi Phỏp v M vỡ chỳng khụng th ph nhn li l ca t
tiờn chỳng ó c ỳc kt trong hai bn tuyờn ngụn trờn. T ú, buc Phỏp v M
phi cụng nhõn quyn c lp, t do ca dõn tc ta.
- t bn tuyờn ngụn nc ta ngang hng vi tuyờn ngụn ca Phỏp v M nhm
th hin nim t ho dõn tc.
Cõu 7: Vỡ sao bn Tuyờn ngụn c lp c xem l mt ỏng vn chớnh
lun mu mc?
* V nội dung t tởng:
- Tuyờn ngụn c lp l mt ỏng vn yờu nc ln ca thi i. Tỏc phm ó
khng nh mnh m quyn c lp t do ca con ngi, nờu cao truyn thng yờu
nc, truyn thng nhõn o ca dõn tc Vit Nam. T tng y phù hợp với t tởng,
tuyên ngôn của các cuộc cách mạng lớn trên thế giới (Pháp và Mĩ) đồng thời góp phần
làm phong phú thêm lý tởng của cách mạng thế giới.
- Bác đã đứng trên quyền lợi của dân tộc, của đất nớc để tiếp cận chân lý của
thời đại qua lập luận suy rộng ra Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sớng và quyền tự do.
- Bỏc ó ng trờn quyn li dõn tc v lp trng nhõn o để kể tội thực dân
Pháp.
* V nghệ thuật:
- Bn Tuyờn ngụn ó thuyt phc ngi c bng nhng lí l anh thép, nhng
chng c không ai chi cãi c.
- Kt cu mch lc, lp lun cht ch, giu sc thuyt phc, tỏc ng mnh vo

t tng tỡnh cm ngi c.
- Văn phong giản dị, ngắn gọn, súc tích, giàu hình ảnh.
- Giọng văn hùng hồn, đanh thép có sự kết hợp giữa lý trí và tình cảm.
Cõu 8: Cõu 4: Vn phong chớnh lun ca H Chớ Minh trong bn Tuyờn
ngụn c lp?
Tuyờn ngụn c lp l mt ỏng vn chớnh lun mu mc, thuyt phc chỳng ta
bng lp lun cht ch, lý l anh thộp, lun c ỳng n.
4
Bác viết bản tuyên ngôn không chỉ tuyên bố trước nhân dân ta mà còn cho nhân
dân thế giới, cho phe Đồng minh và cả bọn đế quốc thực dân (thực dân Pháp). Vì vậy
lời văn rất uyển chuyển, khi trang trọng, khi đanh thép, khi hùng hồn.
Bác đã trích dẫn hai bản tuyên ngôn nổi tiếng để làm căn cứ cho bản Tuyên
ngôn Độc lập của nước ta. Người đã lấy các dẫn chứng về chính trị, kinh tế, về các sự
kiện lịch sử để tố cáo và buộc tội thực dân Pháp đối với nhân dân ta và đối với phe
Đồng minh. Người đã 20 lần nhắc đến chữ “quyền” để tuyên ngôn về quyền của dân
tộc Việt Nam. Không chỉ dùng điệp từ, Người còn dùng điệp kiểu câu “mười bốn câu,
câu nào cũng có chữ chúng mở đầu nặng như búa tạ” (Chế Lan Viên).
Để đánh bại những lý lẽ của kẻ cướp nước hòng nấp sau lưng phe Đồng minh
quay trở lại xâm chiếm nước ta, Người đã vạch trần tội ác của thực dân Pháp trong
hơn 80 năm thống trị và sự hèn nhát của chúng qua việc hai lần bán nước ta cho Nhật.
Người đã nhấn mạnh “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa
của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa”, “Sự thật là nhân dân ta đã lấy lại
nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”. Người đã láy đi láy lại hai
chữ “sự thật” đã khẳng định một cách dứt khoát ta không còn là thuộc địa của Pháp
nữa.
Chính vì vậy mà bản Tuyên ngôn Độc lập được xem như một áng “thiên cổ
hùng văn” của thời đại mới có sức lay động sâu sắc hàng chục triệu trái tim con người
Việt Nam.
Tây Tiến – Quang Dũng
* Lý thuyết:

Câu 1: Trình bày hoàn cảnh sáng tác và chủ đề tư tưởng bài thơ Tây Tiến?
- Bài thơ Tây Tiến gắn liền với sự ra đời của đoàn quân Tây Tiến. “Tây Tiến” là
đơn vị bộ đội được thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo
vệ biên giới Việt – Lào , tiêu hao lực lượng địch ở thượng Lào cũng như miền Tây
Bắc bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động khá rộng từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa
rồi vòng về Thanh Hóa.
- Phần đông lính Tây Tiến là học sinh, sinh viên Hà Nội. Lính Tây Tiến chiến
đấu, sinh hoạt trong điều kiện gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành. Dù vậy,
người lính Tây Tiến vẫn giữ được cốt cách hào hùng, hào hoa, thanh lịch, lãng mạn.
- Quang Dũng tham gia đoàn quân Tây Tiến, giữ chức vụ đại đội trưởng. Năm
1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Tại Đại hội toàn quân Liên khu III, Phù
Lưu Chanh, bồi hồi nhớ đơn vị cũ, Quang Dũng sáng tác bài Nhớ Tây Tiến sau đổi
thành Tây Tiến.
Câu 2: Bút pháp chủ yếu của Quang Dũng trong bài thơ Tây Tiến?
5
Bút pháp chủ yếu trong bài thơ Tây Tiến là bút pháp lãng mạn, khác với bút
pháp hiện thực trong bài Đồng chí của Chính Hữu. Bút pháp trong thơ thường được
quy định bởi hai yếu tố: bản chất của hồn thơ và tính chất của đối tượng miêu tả.
Quang Dũng là một nhà thơ hào hoa và lãng mạn. Lính Tây Tiến cũng là
những con người như thế, phần lớn họ là người Hà Nội, mang đậm chất hào hoa, lãng
mạn của những chàng trai kinh thành. Do đó, bút pháp lãng mạn rất thích hợp để miêu
tả hình tượng người chiến sĩ này. Vì vậy, hình tượng người lính Tây Tiến chủ yếu
được tơ đậm, nhấn mạnh ở những cái đặc biệt, cái khác thường, cái phi thường:
- Ngoại hình: “Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc – Qn xanh màu lá dữ oai
hùm”.
- Tâm hồn: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Mặt khác khi miêu tả phong cảnh miền Tây Bắc của Tổ quốc, Quang Dũng
cũng chú ý đến những hình ảnh lớn lao, kỳ vĩ và vẻ đẹp nên thơ, lãng mạn, nồng ấm
tình qn dân trong những đêm liên hoan văn nghệ.
Câu 3: Thế nào là cảm hứng lãng mạn, tinh thần bi tráng?

- Cảm hứng lãng mạn là cảm hứng bày tỏ mạch cảm xúc tràn trề của cái tôi
trữ tình. Nói cách khác là cảm hứng thể hiện một cái tôi đầy tình cảm, cảm xúc và
có trí tưởng tượng phong phú, bay bổng. Bài thơ mang cảm hứng lãng mạn thường
tô đậm cái phi thường, có khả năng gây ấn tượng mạnh mẽ. Nó thường xuyên sử
dụng thủ pháp đối lập.
- Bi là đau buồn, gian khổ, nhiều hy sinh mất mát. Nhưng bi mà khơng bi lụy. Cái
bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng.
* Tham khảo về tinh thần bi tráng:
Một nét đặc sắc của bài thơ Tây Tiến là tinh thần bi tráng. Do đâu mà có tinh
thần bi tráng đó? Chiến trường Tây Tiến ác liệt, hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét
hồnh hành, khơng ít người lính Tây Tiến đã ngã xuống trên đường hành qn “Anh
bạn dãi dầu khơng bước nữa- Gục lên súng mũ bỏ qn đời”. Đó là cái bi, là hiện thực
khốc liệt của cuộc chiến. Quang Dũng khơng lẩn tránh những gì bi thảm, mất mát, đau
thương, nhưng lại đem đến cho cái bi thảm ấy một âm hưởng hùng tráng của cuộc
chiến đấu vì Tổ quốc độc lập, tự do - từ đó có chất bi tráng. Cái hùng tráng này là của
Quang Dũng và của cả một lớp thanh niên thời ấy, họ mang trong mình bầu máu nóng
“quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, “một ra đi là khơng trở về” như hình mẫu người
tráng sĩ trong truyện cổ mà họ từng ơm ấp; lại được luồng gió u nước của cái thời
anh hùng rực lửa lúc bấy giờ thổi vào, nên càng hào hùng, rực rỡ.
Tinh thần bi tráng thể hiện rõ nhất trong hai câu:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sơng Mã gầm lênm khúc độc hành”
Cái chết bi thảm nhưng khơng phải là cái chết bi luỵ, bi thảm mà cái chết vẫn
lẫm liệt, hào hùng. Đối với người lính Tây Tiến, còn sống là còn chiến đấu vì Tổ
quốc, chiến đấu qn mình “chẳng tiếc đời xanh”. Cũng vì hiểu rõ ý nghĩa của cuộc
sống và cái chết như thếcho nên họ ra đi chiến đấu thật thanh thản, họ chấp nhận cái
6
chết thật nhẹ nhàng và sự hy sinh của họ được nhà thơ ca ngợi bằng những lời thơ đẹp
đẽ. Tấm áo lính bình thường đưa người chiến sĩ về nấm mồ viễn xứ bỗng đẹp hơn,
đậm màu chiến trận hơn và tăng thêm vẻ trang trọng thiêng liêng khi được gọi là áo

bào. Còn cái chết của người chiến sĩ được diễn tả bằng hai chữ về đất – cách nói giảm
làm bớt đi cảm giác bi luỵ, ghê sợ về cái chết, đồng thời làm tăng thêm tính chất hào
hùng, thanh thản của sự hy sinh. Cách nói ấy cũng đã làm xuất hiện một ý nghĩa mới:
Người chiến sĩ ngã xuống cũng là trở về với Đất Mẹ, trở về trong lòng Tổ quốc u
thương. Trước cái chết của người đồng đội, Quang Dũng khơng trực tiếp bày tỏ tình
cảm của mình, ở đây chỉ có thiên nhiên chứng kiến và dòng sơng Mã cũng gầm lên
đau đớn như cùng chia sẻ, cảm thơng với nỗi đau xót vơ hạn của con người. Do đó có
thể nói tiếng sóng nước thét gào, cái khúc độc hành của dòng sơng Mã chính là khúc
nhạc bi tráng của đất trời núi sơng Tổ quốc tiễn biệt người chiến sĩ.
* Đề văn:
1) Đề 1: Xét về phương diện nghệ thuật, cảm hứng lãng mạn và âm hưởng bi
tráng là hai nét đặc sắc cơ bản bao trùm bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
Hãy làm sáng tỏ điều đó qua việc phân tích bài thơ.
A. HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU ĐỀ:
Đề yêu cầu phân tích Tây Tiến theo đònh hướng làm sáng tỏ hai nét đặc sắc
cơ bản bao trùm bài thơ này là cảm hứng lãng mạn và âm hưởng bi tráng. Đề có
những đòi hỏi rất cao đối với việc lập ý và tìm dẫn chứng.
Để bài viết đi đúng hướng, cần giải thích qua các khái niệm: cảm hứng lãng
mạn và âm hưởng bi tráng. Sau đó, đựa vào nội hàm của các khái niệm mà triển
khai ý và đưa vào những dẫn chứng phù hợp. Bài viết sẽ lạc đề, xa đề nếu đi vào
phân tích bài thơ qua từng đoạn một mà không theo một đònh hướng nào cả (dù cho
việc phân tích ấy có được tiến hành kó lưỡng đến đâu thì cũng vậy).
B. DÀN BÀI:
I. MỞ BÀI:
Giới thiệu bài thơ Tây Tiến và các nét đặc sắc của nó.
II. THÂN BÀI:
1. Phân tích cảm hứng lãng mạn của bài thơ:
a. Giải thích thế nào là cảm hứng lãng mạn:
Cảm hứng lãng mạn là cảm hứng bày tỏ mạch cảm xúc tràn trề của cái tôi
trữ tình. Nói cách khác là cảm hứng thể hiện một cái tôi đầy tình cảm, cảm xúc và

có trí tưởng tượng phong phú, bay bổng. Bài thơ mang cảm hứng lãng mạn thường
tô đậm cái phi thường, cái có khả năng gây ấn tượng mạnh mẽ. Nó thường xuyên
sử dụng thủ pháp đối lập.
b. Những biểu hiện của cảm hứng lãng mạn ở bài thơ Tây Tiến :
7
- Cả bài thơ được bao bọc trong nỗi nhớ nồng nàn. Từ “nhớ” được nhắc tới
nhiều lần. Tất cả các hình ảnh trong bài thơ đều sống động nhờ kí ức, cũng có
nghóa là nhờ nỗi nhớ.
- Trí tưởng tượng của nhân vật trữ tình được thử sức vẫy vùng khiến cho cả
bài thơ chứa đựng nhiều so sánh, liên tưởng độc đáo: “sương lấp”, “súng ngửi
trời”, thác gầm thét”, “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”…
- Bài thơ có nhiều hình ảnh gây ấn tượng mạnh về vẻ đẹp vừa hùng vó, dữ
dội, vừa thơ mộng, trữ tình của giải đất miền Tây Băc Tổ quốc. Hùng vó, dữ dội
với dốc cao, thác dữ, mưa lớn. Thơ mộng, trữ tình với mùi “thơm nếp xôi”, với
“hồn lau”, “chiều sương”, với “hoa đong đưa” trên dòng nước lũ Tất cả đều đạt
tới mức độ tuyệt đỉnh.
- Cảm hứng lãng mạn của bài thơ tăng lên khi nó đi sâu miêu tả bản tính
lãng mạn, mộng mơ của những người lính Tây Tiến. Họ say ngắm những vẻ đẹp
tuyệt vời của thiên nhien trên bước đường hành quan. Họ hào hứng tổ chức những
đêm lửa trại tưng bừng, náo nhiệt. Họ giữ trong tim hình ảnh những kiều nữ chốn
đô thành
- Bài thơ sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập – một thủ pháp quen thuộc của
chủ nghóa lãng mạn. Sự đối lập ở đây có nhiều cấp độ: đối lập về hình ảnh, đối lập
về thanh điệu, đối lập ở các chuỗi vần, đối lập ở từ ngữ, đặc biệt là đối lập trong
những nét tính cách của người lính Tây Tiến…
2. Phân tích âm hưởng bi tráng của bài thơ:
a. Giải thích thế nào là âm hưởng bi tráng:
Bi tráng là buồn đau mà không bi lụy, vẫn mạnh mẽ, rắn rỏi, gân guốc.
b. Những biểu hiện của âm hưởng bi tráng ở bài thơ Tây Tiến :
- Bài thơ không ngần ngại nói đến những gian nan ghê gớm mà các chiến só

phải trải qua. Dốc cao, vực sâu, thú dữ, dòch bệnh luôn đe dọa. Đặc biệt, nhiều lần
bài thơ nói đến cái chết.
- Bên cạnh những chi tiết miêu tả cuộc sống gian khổ, bài thơ cũng chứa
đựng nhiều chi tiết nói về sự can trường, mạnh mẽ của những người lính. Họ sẵn
sàng đương đầu với thử thách, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, quyết chí theo đuổi
đến cùng lí tưởng mình đã chọn.
- Hơi thơ cổ kính cùng việc cố ý nhấn mạnh nét trượng phu của người lính
cũng góp phần làm tăng tính chất bi tráng của tác phẩm.
III. KẾT BÀI:
Sức sống bất diệt của bài thơ.
(Thực hành Làm văn 12)
8
2) Đề 2: Cảm nhận về bài thơ Tây Tiến
I.ĐẶT VẤN ĐỀ:
Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu của hồn thơ Quang Dũng. Ra đời trong thời kì đầu của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp gian khổ, Tây Tiến là một hồi tưởng rất đẹp, những
kỉ niệm đầy sống động về người chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến. Cho nên khác với vẻ đẹp
của các bài thơ cùng thời, vẻ đẹp của Tây Tiến là vẻ đẹp hài hòa, hào hoa, bi tráng .
II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
Bài thơ mở đầu bằng một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng bao trùm lên cả không gian và
thời gian :
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mương Lát hoa về trong đêm hơi
Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi.
Hai chữ chơi vơi như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hóa nỗi nhớ, khơi nguồn
cho cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày… liên tiếp xuất hiện ở những câu thơ sau :
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Khổ thơ là một bằng chứng “thi trung hữu họa”. Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng
đã vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút
của núi rừng Tây Bắc, địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Những từ ngữ giàu giá trị
tạo hình: Khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời đã diễn tả thật đắc địa sự hiểm
trở, trùng điệp và độ cao ngút ngàn của núi đèo Tây Bắc. Hai chữ ngửi trời được dùng rất
hồn nhiên và cũng rất táo bạo, có phần ngộ nghĩnh, tinh nghịch của người lính. Núi cao
tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn heo hút. Người lính bước đi trên đỉnh núi như
đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thơ thứ ba như bẻ đôi, diễn tả đốc núi vút
lên, đổ xuống gần như thẳng đứng. Cái nhìn của Quang Dũng đang hướng lên, nhìn xuống
theo chiều cao và sâu của dốc đèo, bất ngờ được phóng ngang xa qua một không gian mịt
mùng sương núi mưa rừng, thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa
biển khơi.
Cái vẻ hoang dại, dữ dội ẩn chứa nhiều bí ẩn ghê gớm của núi rừng tiếp tục được nhà
thơ khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cái
chiều thời gian, luôn luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người :
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Vậy là cảnh núi rừng hiểm trở qua ngòi bút của Quang Dũng hiện lên có đủ cả núi
cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ …. Những địa danh xa lạ:
Mường Lát, Sài Khao, Pha Luông, Mường Hịch, những hình ảnh giầu giá trị tạo hình được
hiện lên qua những câu thơ vần trắc gợi sự vất vả nhọc nhằn, được xoa dịu bằng những câu
thơ vần bằng ở cuối khổ thơ, làm hiện lên thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo
của núi rừng Tây Bắc.
Và đoạn đầu kết thúc bằng một hình ảnh đột ngột :
9
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao chặng đường hành quân gian khổ, những người

lính được nghỉ ngơi, được quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Nó xua tan đi
những mệt mỏi trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn. Hai câu thơ tạo
cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho người đọc bước sang đoạn thơ thứ hai .
Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của Tây Bắc. Cảnh núi rừng hoang vu hiểm
trở dần xa khuất nhường chỗ cho vẻ mĩ lệ, thơ mộng duyên dáng. Những nét vẽ bạo, khỏe,
gân guốc ở đoạn đầu được thay thế bằng những đường nớt mềm mại, uyển chuyển, tinh tế.
Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước vẻ đẹp mang vẻ bí ẩn của con
người và cảng vật nơi xứ lạ. Cảnh ấy, người ấy hiện lên trong một thời gian làm nổi lên rõ
nhất sự lung linh, huyền ảo của nó: cảnh một đêm liên hoan văn nghệ giữa lửa đuốc bập
bùng và cảnh một cuộc vượt thác.
Cảnh đêm liên hoan văn nghệ có sự góp mặt của những người dân địa phương được
miêu tả bằng những chi tiết vừa thực mà cũng rất ảo :
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Cả danh trại bừng sáng, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đem văn nghệ bắt đầu. Trong
ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, tiếng sáo, tất cả như
ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây rạo rực. Nhân vật trung tâm của đêm hội là những cô
gái địa phương vừa tình tứ, vừa e thẹn trong những bộ áo xiêm lộng lẫy đã hút cả hồn vía các
chàng trai Tây Tiến.
Nếu cảnh đêm liên hoan đem đến cảm giác tươi vui thì cảnh vượt sông lại gợi lên cảm
giác mênh mông, mờ ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Không gian dòng sông trong một buổi chiều bao phủ một màn sương huyền thoại.
Trên dòng sông ấy nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển của người con gái Thái trên
chiếc thuyền độc mộc. Và như hòa hợp với con người, những bông hoa rừng cũng cố làm

duyên trên dòng nước lũ.
Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng
đó của Tây Bắc, hình tượng người lính xuất hiện với một vẻ đẹp đầy chất bi tráng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Quang Dũng đã chắt lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để
tạc nên bức tượng đài tập thể. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài,
chúng hòa quyện vào nhau, thâm nhập vào nhau, nâng đỡ nhau tạo nên vẻ đẹp bi tráng.
Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên với dáng vẻ xanh xao bề ngoài, với đầu không
mọc tóc. Đây không phải là cách gây ấn tượng bằng hình ảnh cho người đọc mà phản ánh
10
một thực tế khi người lính đối diện với căn bệnh sốt rét hiểm nghèo Ta bắt gặp trong thơ
kháng chiến những hình ảnh quen thuộc đó: “Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” trong
Đồng chí của Chính Hữu hay cái mầu da vàng nghệ trong Cá nước của Tố Hữu: “Giọt giọt
mồ hôi rơi, Trên trán anh vàng nghệ”. Quang Dũng cũng từ sự thật đấy nhưng nhà thơ đã
nhìn bằng cảm hứng lãng mạn. Hay nói cách khác nhà thơ đã lãng mạn hoá hiện thực. “Tây
Tiến đoàn binh không mọc tóc”, câu thơ không gợi cảm giác bi luỵ mà hiện lên sau đó là vẻ
đẹp dữ dội, lẫm liệt khác thường. Âm hưởng câu thơ gợi lên hoành tráng từ những từ ngữ
mang thanh trắc: Tây Tiến, không mọc tóc làm câu thơ như vút lên . Hai chữ “đoàn binh”,
một từ Hán Việt rất trang trọng đã góp phần tô đậm cái hùng dũng của binh đoàn Tây Tiến
đang tiến về phía trước. Sự thật thiếu ăn và bệnh sốt rét làm người lính xanh xao, nhưng với
cái nhìn lãng mạn, màu xanh ấy lại được liên tưởng tới màu xanh của lá rừng đại ngàn. Quân
xanh vì đói khát, sốt rét nhưng vẫn toát lên cái oai phong dữ đằn của những con hổ nơi rừng
thiêng. Ba chữ “dữ oai hùm” không chỉ đơn thuần là một phép so sánh mà còn thể hiện sự
tiếp thu truyền thống thẩm mĩ phương Đông của tác giả. Một quan niệm về vẻ đẹp người anh
hùng trên nền của sức mạnh thiên nhiên, của hổ báo: “Râu hùm, hàm én, mày ngài” (Từ Hải
– Truyện Kiều) hay “Sĩ tốt kén tay tì hổ, Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” để nói đến sức mạnh của
nghĩa quân Lam Sơn trong Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, hay trong Thuật hoài của Phạm

Ngũ Lão: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” . Cho nên ba chữ “dữ oai hùm” có sự chất chứa
hội tụ , kết tinh hào khí của người lính Tây Tiến. Cái vẻ oai phong đó còn được thể hiện qua
ánh “mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. Mắt trừng gợi khát vọng chiến đấu đến lạnh lùng,
người lính Tây Tiến mộng chiến đấu, mộng lập công, mộng truy kích giặc qua biên giới Việt
Lào. Đó cũng là cái mộng chung của người lính một thời thanh gươm lưng ngựa.
Đọc những hình ảnh “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “dữ oai hùm” ta cứ ngỡ
những ý chí căm hờn và khát vọng chiến đấu đã tôi luyện trái tim thành sắt đá.Vậy mà đọt
ngột hiện ra câu thơ: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ miêu tả rất đúng, rất chân
thực đời sống của người lính Tây Tiến, vốn xuất thân từ học sinh, sinh viên trí thức. Họ ra đi
từ trường xưa phố cũ, nhiều người xuất thân từ thủ đô Hà Nội, cho nên giữa cuộc sống kham
khổ thiếu thốn, thậm chí đối diện với cái chết họ vẫn giữ được vẻ hào hoa lãng mạn. Họ mơ
về Hà Nội của một thời cắp sách tới trường, mơ về một dáng yêu kiều thướt tha tà áo dài, đôi
mắt biếc Nếu như chàng trai cày đi vào cuộc chiến đấu nhớ về làng quê yêu dấu, nhớ
giếng nước, gốc đa, nhớ gian nhà không mặc kệ gió lung lay, hoặc nhớ về:
“Tiếng mõ đêm trường
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya”
(Nhớ – Hồng Nguyên)
Thì những người lính Tây Tiến lại thắp sáng tâm hồn mình bằng những giấc mơ,
những giấc mơ như những hành trang không thể nào thiếu được trong trái tim của họ, để họ
có thể vượt qua mọi thử thách. Ở đây tình yêu lứa đôi đã hoà quện cùng tình yêu quê hương
đất nước.
Như vậy người lính trong cảm nhận của Quang Dũng không chỉ có những đường nét
khắc họa bên ngoài mà còn có cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
Nếu như đôi cánh của lí tưởng được Quang Dũng sử dụng như những gam mầu cơ
bản để dựng lên bức chân dung người lính Tây Tiến bi hùng, thì cũng chính cái nhìn lí tưởng
đó kết hợp cùng đôi mắt lãng mạn, tác giả không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương
11
bi lụy của những mất mát hi sinh. Chính cảm hứng lãng mạn đã nâng cánh cho cho những

sáng tạo khi ông nhìn nhận cái bi thương . Cùng với nghệ thuật nói giảm (Áo bào thay chiếu
anh về đất), cách dùng từ Hán Việt cổ kính, trang trọng : biên cương, mồ viễn xứ đã biến
những nấm mồ của người lính nơi rừng hoang biên giới trở thành hồn nhiên vĩnh hằng, sống
mãi cùng thời gian. Đặc biệt cái bi thương vơi hẳn đi ở tư thế ra đi vì vì lí tưởng “Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Hai chữ chẳng tiếc đặt ở giữa dòng thơ nói lên sự tự nguyện,
thanh thản của những người cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh . Hai chữ đời xanh gợi tuổi trẻ
với bao ước mơ hi vọng. Đẹp là thế, đáng yêu là thế nhưng họ vẫn tự nguyện hiến dâng cho
dáng hình xứ sở bởi có sự hi sinh nào lớn lao và đẹp hơn. Quang Dũng đã lãng mạn hóa sự
hi sinh, những người lính mang dáng vẻ những tráng sĩ thuở xưa coi cái chết nhẹ như lông
hồng, sống chiến đấu vì lí tưởng. Trước cái chết của người lính Tây Tiến, không một tiếng
khóc, không một vòng hoa, dòng “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” như khúc nhạc bi tráng
tiễn đưa người lính về nơi an nghỉ cuối cùng, và như thể ru giấc nhủ ngàn thu của họ.
Cái âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy , cái chết , sự hi sinh của người
lính Tây Tiến không bi lụy mà thẫm đẫm tinh thần bi tráng.
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ , như nói lên bức chân dung tinh thần của người
lính Tây Tiến, đó là vẻ đẹp ra đi tìm lí tưởng không hẹn ngày gặp lại (Tây Tiến người đi
không hẹn ước). Đó cũng là dáng dấp của người li khách trong “Tống biệt hành” của Thâm
Tâm:
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại .
Đó cũng chính là hình ảnh người ra đi trong Đất nước của Nguyễn Đình Thi: “Người
ra di đầu không ngoảnh lại” tất cả như một lần nữa tô đậm không khí thời Tây Tiến, khẳng
định lí tưởng chiến đấu vì độc lập Tổ quốc luôn bừng cháy trong tim người lính.
III.KẾT THÚC VẤN ĐỀ .
Tây Tiến là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ Quang Dũng, nó không chỉ
thâu tóm được không khí náo nức ra trận của một thời oanh liệt mà còn thể hiện được vẻ đẹp
tâm hồn của những người con ưu tú sẵn sàng xả thân vì lí tưởng. Đó là bức tranh hoành tráng
khắc hoạ cái dữ dội, hào hùng nhưng sâu lắng, tang thương mà không hề bi luỵ. Một thành
công của văn chương chống Pháp khi xây dựng hình tượng người lính.
Việt Bắc – Tố Hữu

* Lý thuyết:
Câu 1: Trình bày con đường thơ, con đường cách mạng của nhà thơ Tố
Hữu.
Con đường thơ Tố Hữu gắn bó chặt chẽ và phản ánh chân thật những chặng
đường lịch sử gian khổ, vẻ vang của dân tộc.
- Tập thơ Từ ấy (1937-1946): gồm 3 phần: Máu lửa, Xiềng xích và Giải phóng.
Đấy là tiếng reo vui của một của một thanh niên giác ngộ lý tưởng, quyết hy sinh phấn
đấu cho lý tưởng.
12
- Việt Bắc (1947-1954): tiếng ca hùng tráng về cuộc kháng chiến chống Pháp
và con người kháng chiến.
- Gió lộng (1955 – 1961): Thể hiện niềm vui phơi phới khi miền Bắc được giải
phóng và tiến hành xây dựng cuộc sống mới. Đồng thời bày tỏ tình cảm đối với miền
Nam ruột thịt.
- Ra trận (1962 – 1971) và Máu và hoa (1972 – 1977): tập hợp những bài thơ
sáng tác trong thời kỳ cả nước chống Mỹ. Hai tập thơ ca ngợi chủ nghĩa anh hùng
cách mạng, ca ngợi chiến thắng của nhân dân ta, bất chấp những hy sinh tổn thất vì kẻ
thù hung bạo.
- Một tiếng đờn (1992) và Ta với ta (1999): ra đời khi đất nước bước vào thời
kỳ đổi mới. Nhà thơ hướng vào chiêm nghiệm về cuộc sống, về lẽ đời, về giá trị bền
vững bất chấp những thăng trầm.
Câu 2: Trình bày những nét chính trong phong cách nghệ thuật thơ Tố
Hữu
- Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình- chính trị: Tố Hữu ít nói đến đời tư, đời thường.
Những vấn đề đời sống được nhà thơ đề cập đến chủ yếu trên phương diện chính trị.
Những nội dung chính trị ấy trở thành nguồn cảm hứng, nguồn cảm xúc chân thành,
sâu sắc trong thơ
- Thơ Tố Hữu mang đậm khuynh hướng sử thi và dạt dào cảm hứng lãng mạn:
+ Thơ Tố Hữu, đặc biệt ở giai đoạn Việt Bắc trở đi mang đậm tính sử thi, chủ
yếu đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân. Cái tôi trữ

tình trong thơ Tố Hữu từ buổi đầu là cái tôi chiến sĩ, rồi đến cái tôi công dân, về sau là
cái tôi nhân dân, dân tộc, cách mạng.
+ Nhân vật trữ tình trong thơ Tố Hữu là những con người đại diện cho những
phẩm chất của dân tộc, thậm chí mang tầm vóc lịch sử, thời đại. Cảm hứng trong thơ
Tố Hữu là cảm hứng lịch sử dân tộc chứ không phải là cảm hứng thế sự, đời tư.
+ Thơ Tố Hữu dạt dào cảm hứng lãng mạn hướng về lí tưởng cộng sản và tương
lai xã hội chủ nghĩa. Thể hiện cuộc sống bằng cảm quan ấy, thế giới hình tượng thơ
Tố Hữu là thế giới của cái cao cả, cái lí tưởng, của ánh sáng, gió lộng, niềm tin…
- Thơ Tố Hữu có giọng điệu tâm tình, là tiếng nói của tình thương mến: Giọng
điệu thơ Tố Hữu là giọng điệu tâm tình, trò chuyện, tâm sự. Giọng tâm tình, tiếng nói
yêu thương này có liên quan đến chất Huế của hồn thơ Tố Hữu. Đặc biệt còn do quan
niệm về thơ của Tố Hữu: “ Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí” .
- Thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc:
+ Nội dung: Thế giới hình tượng phản ánh đậm nét hình ảnh con người Việt
Nam, Tổ quốc Việt Nam. Những tư tưởng và tình cảm cách mạng hoà nhập và tiếp nối
với truyền thống tinh thần, tình cảm, đạo lí của dân tộc.
+ Nghệ thuật: Thơ Tố Hữu sử dụng các thể thơ truyền thống của dân tộc, nhất
là thể thơ lục bát. Thơ Tố Hữu thường sử dụng từ ngữ và lối nói quen thuộc của dân
tộc, những ví von so sánh truyền thống nhưng lại biểu hiện được nội dung mới của
thời đại.Thơ Tố hữu rất giàu nhạc điệu. Tính nhạc của thơ Tố Hữu cũng là một biểu
13
hiện tính dân tộc trong nghệ thuật ở bề sâu, diễn tả được điệu tâm hồn, điệu cảm xúc
của dân tộc, tâm hồn dân tộc.
Câu 3: Thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình – chính trị.
Đặc điểm phong cách nghệ thuật này đã được thể hiện như thế nào qua hoàn
cảnh ra đời của bài thơ Việt Bắc?
* Thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị:
- Thơ trữ tình – chính trị là khuynh hướng thơ đi vào phản ánh các sự kiện của
đời sống chính trị, đời sống cách mạng bằng phương thức trữ tình.
- Thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình – chính trị bởi lẽ mọi sự

kiện, vấn đề lớn của đời sống cách mạng, lí tưởng chính trị, những tình cảm chính trị
khúc xạ qua trái tim nhạy cảm, dạt dào cảm xúc của thơ Tố Hữu đều có thể trở thành
đề tài và cảm hứng nghệ thuật thật sự.
* Đặc điểm phong cách nghệ thuật này được thể hiện qua hoàn cảnh ra đời của
bài thơ Việt Bắc:
- Bài thơ Việt Bắc được khơi nguồn cảm hứng từ một sự kiện thời sự có tính
lịch sử trong đời sống chính trị của dân tộc sau chiến thắng Điện Biên Phủ (5–1954 ),
hiệp định Giơ – ne – vơ về Đông Dương được kí kết ( 7– 1954 ), hòa bình được lập lại
ở Miền Bắc. Tháng 10 – 1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời
chiến khu Việt Bắc và tiếp quản thủ đô Hà Nội. Cuộc chia tay giữa đồng bào các dân
tộc Việt Bắc với cán bộ cách mạng miền xuôi đã diễn ra thật lưu luyến, bịn rịn, bồi
hồi. Sự kiện lịch sử trọng đại và đầy xúc động ấy đã trở thành cảm hứng nghệ thuật để
Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc.
- Qua bài thơ, hiện thực cách mạng, những tình cảm mang màu sắc chính trị
liên quan đến đời sống kháng chiến và sự kiện trên đã được Tố Hữu thể hiện bằng
những giai điệu trữ tình ngọt ngào, thiết tha của thể thơ lục bát, ngôn từ tinh tế…Bài
thơ vừa là khúc anh hùng ca, vừa là khúc tình ca về kháng chiến, về cách mạng và thể
hiện rõ nét khuynh hướng trữ tình – chính trị của thơ Tố Hữu.
Câu 4: Trình bày hoàn cảnh ra đời bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
- Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7-1954, Hiệp định Giơ-
ne-vơ được ký kết. Miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới.
- Tháng 10-1954, Chính phủ, Trung ương Đảng rời chiến khu Việt Bắc về lại
Thủ đô Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử ấy và trong khung cảnh chia tay đầy lưu luyến,
Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc.
Câu 5: Tính dân tộc của nghệ thuật thơ Tố Hữu trong bài thơ Việt
Bắc( qua đoạn trích được học ).
- Về nội dung: Việt Bắc là khúc hùng ca và tình ca về cách mạng, về cuộc
kháng chiến và con người kháng chiến. Tác phẩm là khúc hát ân tình thuỷ chung giữa
con người cách mạng với Việt Bắc và giữa nhân dân Việt Bắc với cách mạng, thể hiện
truyền thống đạo lý thuỷ chung, giàu ân nghĩa của dân tộc.

- Về nghệ thuật:
+ Thể thơ lục bát là thể thơ quen thuộc đã được sử dụng thành công.
14
+ Kết cấu đối đáp thường thấy trong ca dao, dân ca truyền thống được dùng một
cách sáng tạo để diễn tả nội dung tình cảm phong phú về quê hương, con người, Tổ
quốc, Cách mạng…
+ Cặp đại tư nhân xưng “mình – ta” với sự biến hóa linh hoạt và những sắc thái
ngữ nghĩa biểu cảm phong phú của nó đã được khai thác rất hiệu quả.
+ Những biện pháp tu từ bằng so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, điệp từ, điệp ngữ…
quen thuộc trong thơ ca dân tộc, quen thuộc trong cách cảm, cách nghĩ của quân
chúng được dùng một cách nhuần nhuyễn…
+ Cách sử dụng hệ thống từ láy, phép đối trong thơ, phép trùng điệp… đã phát
huy được tính nhạc của tiếng Việt.
+ Ngôn từ trong Việt Bắc rất giàu nhạc tính, nhạc điệu trong bài thơ đã chuyển
tải được cái điệu cảm xúc, điệu hồn dân tộc.
* Đề văn:
1) Đề 1: Cảm nhận đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu: “ - Mình
về mình có nhớ ta Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay …”
A. Mở bài :
Giới thiệu vài nét sơ lược về bài thơ Việt Bắc và vị trí của đoạn thơ :
- “ Việt Bắc” là một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một tác phẩm xuất
sắc của văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ ra đời
vào tháng 10 năm 1954, gắn với sự kiện thời sự có tính lịch sử lúc ấy : các cơ quan
Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội .
- Đoạn thơ gồm tám câu, là phần đầu của bài thơ Việt Bắc .
B. Thân bài:
Đoạn thơ tái hiện cuộc chia tay lưu luyến giữa người dân Việt Bắc và người
cán bộ cách mạng
- Bốn câu thơ đầu :
+ Là lời ướm hỏi dạt dào tình cảm của người ở lại. Câu hỏi rất ngọt ngào khéo

léo “Mười lăm năm” cách mạng gian khổ, hào hùng, cảnh và người Việt Bắc biết bao
gắn bó nghĩa tình với những người kháng chiến; đồng thời cũng để khẳng định tấm
lòng thuỷ chung của mình .
“- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ?”
+ Nghĩa tình của kẻ ở người về được biểu hiện đằm thắm qua các đại từ “
mình” , “ta” thân thiết . Điệp từ “nhơ” được láy đi láy lại cùng với những lời nhắn
nhủ của người Việt Bắc “ mình có nhớ ta” , “ mình có nhớ không” vang lên như day
dứt không nguôi. Các từ “ thiết tha” , “ mặn nồng” thể hiện bao ân tình gắn bó .
“Mười lăm năm ấy” ghi lại thời gian của một thời kỳ hoạt động cách mạng, “cây”,
“núi”, “sông”,”nguồn” gợi không gian của một vùng căn cứ địa cách mạng .
- Bốn câu thơ sau :
15
+ Là tiếng lòng của người cán bộ cách mạng về xuôi “ bâng khuâng” , “ bồn
chồn” cùng cử chỉ “cầm tay nhau” xúc động bồi hồi đã nói lên tình cảm thắm thiết
của người cán bộ với cảnh vật và con người Việt Bắc
“- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ , bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
+ Đại từ “ai” phiếm chỉ nhưng lại rất cụ thể gợi sự gần gũi, thân thương .
+ Hình ảnh “áo chàm” – nghệ thuật hoán dụ có giá trị khắc hoạ bản sắc trang
phục của đồng bào Việt Bắc, nhưng cũng chính là để nói rằng ngày tiễn đưa cán bộ
kháng chiến về xuôi cả nhân dân Việt Bắc đưa tiễn. Như vậy, người cán bộ kháng
chiến ra đi nhớ cảnh Việt Bắc, nhớ “áo chàm” , nhớ tiếng, nhớ người, nhớ tình cảm
của người Việt Bắc dành cho kháng chiến. Nỗi nhớ đó nói lên tấm lòng thuỷ chung
son sắt đối với quê hương cách mạng .
+ Hình ảnh “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” thật cảm động. Câu thơ bỏ

lửng ngập ngừng nhưng đã diễn tả rất đạt thái độ xúc động, nghẹn ngào không thể nói
lên lời của người cán bộ giã từ Việt Bắc về xuôi …
C. Kết bài:
- Tóm lại, đây là đoạn thơ nói lên tình cảm rất thật, rất chân tình, sự gắn bó sâu
nặng giữa người cán bộ và nhân dân Việt Bắc. Đoạn thơ đậm đà tính dân tộc .
- Cảm nghĩ của người làm bài …
2) Đề 2: Phân tích đoạn thơ sau: “Mình đi có nhớ những ngày … Tân Trào,
Hồng Thái, mái đình, cây đa”
Nhắc đến Tố Hữu thì ai cũng biết ông là một trong những nhà thơ trữ tình Cách
Mạng hàng đầu của nền văn học Việt Nam. Thơ Tố Hữu là tiếng thơ của lẽ sống lớn,
tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người Cách mạng và cuộc sống Cách Mạng. Bài
“Việt Bắc” là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác thơ của Tố Hữu nói riêng, của thơ
kháng chiến chống Pháp nói chung.Có thế nói, “Việt Bắc” là khúc tình ca và cũng là
khúc hùng ca,thế hiện ân tình sâu nặng, thủy chung của nhà thơ đối với căn cứ địa
Cách Mạng cả nước. Điều này càng được khắc họa rõ nét hơn trong khổ thơ:
“Mình đi,có nhớ những ngày
…….
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa ?”
“Việt Bắc” là tác phẩm trường thiên,dài 150 dòng,được Tố Hữu viết vào tháng
10/1954 khi Trung ương Đảng và chính phủ, Bác Hổ và cán bộ từ giã “Thủ đô gió
ngàn” để về với “Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình” .Bao trùm đoạn thơ là một niềm
hoài niệm nhớ thương về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc, là nỗi nhớ da diết,
tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến của kẻ ở người đi – người miền ngược và người đi
kháng chiến.
Mở đầu đoạn thơ là hàng loạt câu hỏi rất ngọt ngào:
16
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ,những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”

Ở khổ thơ, xuất hiện một loạt cụm từ “có nhớ”,điều này gợi cho ta cảm nhận
được tâm trạng của người ở lại – một tâm trạng quan tâm, lo lắng không biết: “Cán Bộ
về xuôi, Cán Bộ có còn nhớ chiến khu VB nữa không ?”. Để cho VB hỏi là vì nhà thơ
muốn khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ. Nhớ thiên nhiên VB “mưa
nguồn suối lũ, những mây cùng mù” , câu thơ đã đặc tả được cảnh thiên nhiên hoang
sơ, thời tiết khắc nghiệt nơi núi rừng VB, tuy khung cảnh có chút ảm đạm nhưng vẫn
mang đậm chất trữ tình, thơ mộng, phóng khoáng và hùng vĩ. Ngoài việc phải đối mặt
với sự khắc nghiệt,khó khăn của thiên nhiên, “mình và ta” còn phải đối diện với cuộc
sống thiếu thốn,đầy gian khổ “miếng cơm chấm muối”. Hình ảnh hoán dụ “mối thù
nặng vai”, gợi liên tưởng đến “mối thù” sâu nặng của nhân dân đối với những kẻ cướp
nước, những kẻ đan tâm bán nước ta cho giặc. Đồng thờ còn là lời nhắc nhở kín đáo
của người ở lại về một thời rất đỗi tự hào, “mình và ta” đã cùng sát cánh bên nhau,
cùng nhau tiêu điệt kẻ thù chung, giành lại độc lập tự do và đem đến cho nhân dân
cuộc sống hạnh phúc,ấm no. Ngệ thuật tiểu đối kết hợp với cách ngắt nhịp 2/2/2 - 4/4
đều đặn khiến cho câu thơ trở nên nhịp nhàng, cân đối, lời thơ càng thêm tha thiết.
Tiếp mạch cảm xúc, vẫn là những lời hỏi của VB nhưng ẩn chứa trong vần thơ
lại là lời bộc bạch tâm sự của người ở lại, bày tỏ tình cảm lưu luyến với cán bộ về
xuôi:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Tố Hữu đã sử dụng biện pháp hoán dụ “rừng núi nhớ ai” – “rừng núi” chính là
hình ảnh người ở lại, còn đại từ “ai” là chỉ người cán bộ về xuôi – nhằm nhấn mạnh
tình cảm thắm thiết và nỗi nhớ da diết của nhân dân VB đối với những người kháng
chiến, với Đảng và chính phủ…Thiên nhiên và con người VB nhớ cán bộ về xuôi
nhiều đến mức “trám bùi để rụng, măng mai để già” – “trám bùi và măng mai” là hai
món ăn thường nhật của bộ đội, của cán bộ kháng chiến; đồng thời cũng là “đặc sản”
của thiên nhiên VB. “Mình về” khiến núi rừng VB bỗng trở nên trống vắng, buồn bã
đến lạ thường, ngay cả khi “trám bùi – măng mai” mà cũng không ai thu hái. Người ở
lại đã bộc lộ tình cảm của mình thật chân thành và tha thiết.
Nhân dân VB vẫn tiếp tục hỏi, nhưng ở đoạn thơ này lời hỏi được nhấn mạnh

hơn, thể hiện cụ thể và rõ ràng hơn: “Cán Bộ về xuôi có nhớ cảnh vật VB, con người
VB, nhớ những năm tháng cùng nhau kháng chiến hay không ?”
“Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh.”
Cụm từ “nhớ những nhà” – biện pháp hoán dụ - gợi cho ta cảm nhận được tâm
trạng lo lắng không biết rằng: Cán bộ có nhớ những người dân VB hay không ?Chứ
17
nhân dân VB nhớ cán bộ nhiều lắm,nhớ đến nỗi ”hắt hiu lau xám”.Từ láy “hắt hiu”
kết hợp với hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên VB “lau xám” càng làm nổi bật hơn
khung cảnh hoang vắng,đơn sơ, im lặng nơi núi rừng. Nhưng đối lập với khung cảnh
ấy là “tấm lòng son”, tấm lòng ấm áp và chân thành của con người VB. Ngoài ra, nhân
dân VB còn muốn biết thêm rằng: Cán bộ về xuôi có nhớ “núi non”, nhớ thiên nhiên
VB hùng vĩ hay không? Có nhớ khoảng thời gian cùng nhau “kháng Nhật”, “thuở còn
làm Việt Minh” hay không ? Chính nghĩa tình của đồng bào VB đối với bộ đội, với
Cách Mạng; sự đồng cảm cùng san sẻ mọi gian khổ, niềm vui, cùng gánh vác nhiệm
vụ nặng nề, khó khăn làm cho VB – quê hương của Cách Mạng, cội nguồn nuôi
dưỡng cho Cách Mạng – càng thêm ngời sáng trong tâm trí nhà thơ nói riêng trong
lòng người đọc nói chung.
Kết lại đoạn thơ là nỗi nhớ về những địa danh lịch sử:
“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.”
Chỉ với hai câu thơ,nhưng tác giả đã gửi gắm rất nhiều tình cảm, ẩn chứa rất
nhiều điều; đặc biệt là ở câu thơ sáu chữ có đến ba từ “mình” quyện vào nhau nghe
thật tha thiết và chân thành. Từ “mình” thứ nhất và thứ hai được dùng để chỉ người
cán bộ về xuôi, còn từ “mình” thứ ba ta có thể hiểu theo nhiều cách.Mếu hiểu theo
nghĩa rộng, “mình” là VB – đại từ nhân xưng ngôi thứ hai – thì câu thơ mang hàm ý:
Cán bộ về xuôi, về Hà Nội không biết cán bộ có còn nhớ đến nhân dân VB, nhớ đến
người ở lại không ?”. Ở nghĩa hẹp hơn, “mình” chính là cán bộ về xuôi – đại từ nhân

xưng ngôi thứ nhất – khiến cho câu thơ được hiểu theo một nghĩa khác: Cán bộ về
xuôi, cán bộ có nhớ chính mình hay không? Có còn nhớ đến quá khứ của bản thân,
nhớ những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lí tưởng cao đẹp,vì độc lập tự do của dân
tộc hay không?”. Với cách hiểu thứ hai này, người ở lại đã đặt ra một vấn đề có tính
thời sự, sợ rằng mọi người sẽ ngủ quên trên chiến thắng, quên đi quá khứ hào hùng
của mình, thậm chí sẽ phản bội lại lí tưởng cao đẹp của bản thân. Nhà thơ Tố Hữu đã
hình dung trước được diễn biến tâm lý của con người sau chiến thắng, đây quả là câu
thơ mang tính trừu tượng và triết lý sâu sắc.
“Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.”
Ở câu thơ cuối trong khổ ba, người ở lại nhắc đến hai địa danh nổi tiếng gắn
liền với hai sự kiện quan trọng đã từng diễn ra ở VB. Địa điểm thứ nhất: sự kiện “cây
đa Tân Trào” (12/1944), đây là nơi đội VN tuyên truyền giải phóng quân làm lễ xuất
phát, lúc đầu chỉ với mấy chục thành viên nhưng sau đó trở thành đội quân VN- lực
lượng chủ chốt đã làm nên chiến thắng ngày hôm nay. Còn địa điểm thứ hai là tại đình
“Hồng Thái” nơi Bác đã chủ trì cuộc họp (8/1945) quyết định làm cuộc CMT8; chính
nhờ quyết định sáng suốt này mà cuộc kháng chiến chống Pháp đã thành công vang
dội,có thể giành lại độc lập tự do cho nước nhà. Tố Hữu lồng hai địa danh lịch sử vào
trong câu thơ nhằm nhấn mạnh câu hỏi của người ở lại, đồng thời còn là lời nhắc nhở
nhẹ nhàng: Không biết rằng cán bộ về xuôi có còn nhớ rằng VB chính là cái nôi của
CM, là nguồn nuôi dưỡng Cách Mạng hay không ? Và liệu rằng cán bộ về xuôi có còn
thủy chung, gắn bó với VB như xưa không hay là đã thay lòng đổi dạ ?”
18
Chỉ với 12 câu thơ trong khổ 3 của bài VB, Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới của
hoài niệm và kỉ niệm, vào một thế giới êm ái,ngọt ngào, du dương của tình nghĩa Cách
Mạng. Cái hay nhất trong khổ thơ chính là Tó Hữu đã sử dụng rất khéo léo và đặc sắc
hai cụm từ đối lập “mình đi – mình về”.Thông thường, đi và về là chỉ hai hướng trái
ngược nhau, nhưng ở trong khổ thơ này thì “mình đi – mình về” đều chỉ một hướng là
về xuôi,về Hà Nội.Với lối điệp cấu trúc kết hợp nhịp thơ 2/2/2 - 4/4 đều đận, khiến
cho âm điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng giống như nhịp chao của võng đong
đưa, rất phù hợp vối phong cách thơ trữ tình – chính trị của Tố Hữu.

“Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc” của
Tố Hữu đã góp phần tạo nên sự thành công cho bài VB. Những chi tiết về ánh sáng và
tình người, từ “miếng cơm chấm muối, trám bùi,măng mai, mái nhà hắt hiu lau
xám…” đến “mối thù” hai vai chung gánh, những “tấm lòng son” sẽ không bao giờ
phai nhạt,sẽ sống mãi trong lòng nhà thơ và trong tâm trí của người dân VB,của
những cán bộ về xuôi .
3) Đề 3: Cảm nhận đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu:“ Ta về,
mình có nhớ ta Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”.
A. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát hoàn cảnh ra đời và nội dung của bài thơ Việt Bắc…
- Giới thiệu vị trí đoạn trích: đoạn thơ gồm mười hai câu ghi lại nỗi nhớ của nhà
thơ và cũng là của người cán bộ kháng chiến đối với cảnh và người Việt Bắc.
B.Thân bài:
- Đoạn thơ trước hết gợi lên một bức tranh tứ bình đẹp về thiên nhiên núi rừng
Việt Bắc. Bức tranh bốn mùa xuân- hạ- thu- đông trở thành bức tranh của nỗi nhớ.
- Đoạn thơ ngập tràn màu sắc với màu đỏ tươi của hoa chuối mùa đông giữa
nền rừng xanh mênh mông, với màu trắng tinh khiết của hoa mơ mùa xuân, với ánh
vàng của rừng phách vào hè và mùa thu huyền ảo với ánh trăng soi.
- Nổi bật giữa vẻ đẹp của thiên nhiên là vẻ đẹp của con người. Xen giữa một
câu lục tả cảnh là một câu bát tả người-hình ảnh con người trong lao động và sinh hoạt
(“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”, “ Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”,
“ Nhớ cô em gái hái măng một mình”, “ Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung” ).
Sự đan xen giữa người và cảnh tạo nên sự hài hoà, quấn quýt, gợi tình cảm nhớ
nhung da diết.
- Âm hưởng chung của đoạn thơ là nỗi nhớ nhung tha thiết. Nhịp thơ lục bát
nhịp nhàng, uyển chuyển, bâng khuâng, êm đềm như khúc hát ru.
C. Kết bài: Có thể nói, đây là một trong những đoạn hay nhất của bài Việt Bắc.
Mười câu thơ cuối giàu tính tạo hình, giàu âm hưởng, cấu trúc hài hoà, cân đối.
4) Đề 4: Phân tích đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu: “Những
đường Việt Bắc của ta Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”

A.Mở bài:
- Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ ký kết, miền Bắc nước ta
được giải phóng. Tháng 10 năm 1954 các cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ rời
19
chiến khu Việt Bắc về Hà Nội , nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng
tác bài thơ này
- Bài thơ được viết theo thể lục bát dài 150 câu, đoạn phân tích từ câu sáu mươi
ba đến câu bảy mươi tư.
B.Thân bài:
- Đoạn thơ tái hiện lại nỗi nhớ trong ký ức tác giả về cảnh tượng hào hùng, sôi
động, đầy khí thế của cuộc kháng chiến toàn dân ở chiến khu Việt Bắc :
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Anh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”.
- Cảnh tượng hào hùng của cuộc kháng chiến ấy được nhà thơ Tố Hữu đặc tả
sinh động qua hình ảnh các con đường Việt Bắc trong những đêm kháng chiến “rầm
rập như là đất rung” , “Quân đi điệp điệp trùng trùng” . Nổi bật hơn cả là sức mạnh
và niềm lạc quan của những lực lượng kháng chiến :
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay .
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên .”
- Nhà thơ nhớ về những niềm vui chiến thắng trên khắp mọi miền của đất nước:
“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình,Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng .”
Đoạn thơ mở ra một không gian rộng lớn của chiến thắng -“trăm miền” từ Hoà
Bình, Tây Bắc, Điện Biên cho đến Đồng Tháp, An Khê rồi lại trở lên Việt Bắc, đèo

De, núi Hồng .
Đoạn thơ thể hiện cảm hứng ngợi ca Việt Bắc, ngợi ca cuộc kháng chiến
chống Pháp oanh liệt của nhân dân ta .
* Phân tích giá trị nghệ thuật :
- Đoạn thơ được tác giả vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ lục bát ;
- Giọng thơ sôi nổi, hào hùng ;
- Nhà thơ chọn lựa những hình ảnh … những từ ngữ giàu sức gợi cảm ;
- Sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ như : trùng điệp, so sánh, cường điệu,
liệt kê … đã diễn tả rất thành công khí thế hào hùng, sôi nổi của cuộc kháng chiến .
C.Kết bài :
- Đoạn thơ đã tái hiện lại một thời kỳ đấu tranh với khí thế rất đổi tự hào của
đân tộc, với sức mạnh không gì có thể cản nổi của quân dân ta trong cuộc kháng
chiến chống Pháp .
- Qua đoạn thơ này, ta thấy được tính trữ tình chính trị, tính dân tộc đậm đà,
cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi trong phong cách thơ Tố Hữu .
20
Sóng – Xuân Quỳnh
* Lý thuyết:
Câu 1: Ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh sóng và mối quan hệ giữa hai hình
tượng sóng và em trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh?
- Sóng là bài thơ nói về tình yêu và khát vọng hạnh phúc muôn đời của con
người; qua đó, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ: sôi nổi, trẻ trung, chân thành
- Để bày tỏ trực tiếp những rung động tình yêu vừa hồn nhiên chân thật, vừa
thiết tha sôi nổi của trái tim phụ nữ, Xuân Quỳnh đã sử dụng phương thức biểu đạt ẩn
dụ có ý nghĩa biểu trưng, đó là hình ảnh con sóng. Sóng là hình ảnh ẩn dụ, là hoá thân
của nhân vật em.
- Sóng và em tuy hai nhưng lại là một, có lúc phân đôi ra (để soi chiếu vào
nhau, làm nổi bật lên sự tương đồng), có lúc lại hoà nhập vào nhau (để tạo nên sự âm
vang, cộng hưởng). Hai hình tượng này đan cài, quấn quýt với nhau như hình với
bóng. Từ đó diễn tả những cung bậc tình cảm mãnh liệt trong trạng thái yêu đương

của người phụ nữ.
Câu 2: Qua bài thơ Sóng, vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu
được thể hiện như thế nào?
Qua bài thơ Sóng, ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ
trong tình yêu. Người phụ nữ ấy mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao yêu
đương mãnh liệt và những rung động rạo rực trong lòng mình. Người phụ nữ ấy thuỷ
chung, nhưng không còn nhẫn nhục, cam chịu nữa. Nếu “sông không hiểu nỗi mình”
thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó để “tìm ra tận bể”, đến cái cao rộng, bao
dung.
Tâm hồn người phụ nữ đó khao khát, không lặng yên “Vì tình yêu muôn thuở -
Có bao giờ đứng yên”. Nhưng đó cũng là một tâm hồn thật trong sáng, thuỷ chung vô
hạn. Quan niệm tình yêu như vậy rất gần gũi với mọi người và có gốc rễ trong tâm
thức dân tộc.
* Đề văn:
1) Đề 1: Cảm nhận về bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
Nếu như Xuân Diệu đã từng thổn thức vì tình yêu, dâng hiến trọn đời cho tình
yêu, chạy vội với thời gian để được yêu thì Xuân Quỳnh cũng thế, cũng từng thấp
thỏm, lo âu,
đau khổ vì yêu. Nhưng dù sao đi nữa, là phận nữ nhi nên người rất ít tỏ
ra táo bạo, quá mạnh dạn như Xuân Diệu. Đọc thơ Xuân Quỳnh, ta thường bắt gặp
hình ảnh con sóng,
chiếc thuyền nói hộ tình yêu… Cũng vì lẽ ấy, suy cho cùng đây chỉ
là những chất liệu dung dị, bình thường nhất trong cuộc sống song lại chứa đựng biết
bao là ẩn ý, biết bao là ẩn tình mà Xuân Quỳnh muốn bày tỏ.
Chúng ta đã đến với “sóng” của Xuân Quỳnh để thưởng thức từng vị thương, vị
nhớ của một người phụ nữ đang yêu.
Người ta thường ví rằng tình yêu là một bông hoa kì diệu! Vâng! Quả đúng như
thế, tình yêu chưa bao giờ đi theo một hướng xác định. Cũng có lúc, người ta nhìn nhận
tình yêu là cây đàn muôn điệu gảy lên muôn bản nhạc tình, có khi trầm bổng thiết tha,
21

có khi nghẹn ngào đau đớn, cũng có khi e ấp, nũng nịu, dễ thương. Thì đây, trong bài
thơ này, tình cảm của nhân vật “Em” cũng biến thiên như thế!
“Sóng” là thơ ngụ ngôn, một thể thơ rất phù hợp để kể về một huyền thoại tình
yêu đầy ăm ắp những tâm trạng khắc khoải, những cung bậc tình cảm và vì thế bài thơ
dễ dàng được phổ nhạc.
Sóng! - là một hình tượng ẩn dụ, là phương tiện bộc lộ tình cảm của nhân vật
“Em”:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sóng không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
… Bồi hồi trong ngực trẻ”
Một câu chuyện cổ tích về tình yêu được nhà thơ Xuân Quỳnh kể lại. Câu
chuyện bắt đầu từ một con sóng nhỏ chẳng biết xuất phát từ đâu, sóng hiện ra như một
con người có nội tâm nhiều biến động. Hai trạng thái tâm hồn đối lập nhau, giằng xé
nhau, buồn vui lẫn lộn. Sóng chẳng hiểu tại sao mình lại cứ “dữ dội” rồi “dịu êm”, “ồn
ào” rồi “lặng lẽ”. Phải chăng sóng đang yêu, yêu âm thầm, lặng lẽ? Vâng! Một tình cảm
đang rạo rực trong trái tim người con gái, làm sao ai có thể “định nghĩa được tình yêu”.
Một buổi chiều mộng? Một lần gặp gỡ? Một phút xao động trong tâm hồn ? Người con
gái hay chính nhân vật “Em” trong bài đang cố tìm câu giải đáp cho tình yêu, cho sự
bâng khuâng, đối lập của lòng mình. Và rồi chỉ còn một lối thoát: con sóng phải tìm ra
tận bể cũng như “Em” đi tìm nguồn gốc của tình yêu.
Tâm hồn con người là một cõi mênh mông vô tận. Làm sao ta có thể đi xuyên
suốt hết cái cõi vô tận ấy. Và ngay chính trong lúc cõi lòng đang bùng lên ngọn lửa yêu
thương thì cô gái trẻ lại càng trăn trở, bâng khuâng, khắc khoải, dằn vặt với chính lòng
mình. Phải vượt khỏi cái giới hạn chật hẹp này, phải lao mình vào chân trời bao la,
những miền vô tận
để hiểu rõ lòng mình. Con sóng đã rời bờ ra đi, đi thật xa, cố tìm

hiểu và soi mình với
những con sóng khác để biết được sự huyền diệu của tình yêu, mà
hiện tại đối với sóng vẫn còn là một bí mật.
Tình yêu là gì ư?
Một nhà thơ Pháp đã từng khẳng định: “tình yêu là điều mà con người không
thể hiểu nổi”. Và thế rồi con sóng vẫn đi tìm mãi, tìm mãi:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Tình yêu cũng như con sóng, vẫn vĩnh hằng với thời gian và tuổi trẻ. Xuân Diệu
đã từng nói:
“Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo
hãy để tuổi trẻ nói hộ tình yêu”
22
Tình yêu gắn liền với tuổi trẻ. Tuổi trẻ là trái tim dào dạt, đa cảm và rạo rực
niềm yêu thương chất sống. Chính vì thế, mà cái khát vọng tình yêu cứ bồi hồi trong
ngực trẻ, nó cứ thúc đẩy tuổi trẻ đi tìm chân lý yêu đương, cũng như con sóng “ngày
xưa và ngày sau vẫn thế”.Tuy nhiên, câu thơ “bồi hồi trong ngực trẻ ” là một câu thơ
chưa chín.Thật ra ngực trẻ hay ngực già… đều nồng nàn và bồi hồi trước tình yêu.
Song, sóng và em cứ tìm mãi mà chẳng hiểu mình, chẳng thể hiểu được tình yêu. Sóng
chính là điển hình của sự nhận thức về cái “quy luật” không thể cắt nghĩa được tình yêu:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”.
Sóng bắt đầu từ gió - Vâng! Gió bắt đầu từ đâu? Tình yêu bắt đầu từ đâu?
-
“Em”cũng không biết nữa. Đọc những câu thơ này, ta chợt hình dung cái lắc đầu nhè
nhẹ như một sự bất lực của cô gái. Trong khi người con gái cố đi tìm cội nguồn tình yêu

thì tình yêu trở thành trò chơi ú tim, không tài nào nắm bắt được. Và thế là, muôn đời
tình yêu vẫn là sự bí hiểm.
Tình yêu của “Em” giờ đây trở thành nỗi nhớ da diết, giày vò. Nó choáng đầy
cả không gian, nó chiếm cả tầng sâu và bề rộng, nó trải dài trong mọi thời gian. Phạm
Đình An đã nhận xét: “Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không dừng lại ở mức độ yêu
buổi đầu giản đơn hò hẹn, non nớt, ngọt ngào, mà là tình yêu hạnh phúc, tình yêu gắn
bó với cuộc sống chung với nhiều đòi hỏi ở chiều sâu tình cảm, với nhiều chứng minh
của thử thách, mang
đậm dấu ấn trách nhiệm”. Chính vì thế mà tình yêu của người
“Em”. Ở đây có thể nói
không còn bồng bột mà khá chín chắn, có sự can thiệp của lý
trí, có ý thức về mặt tình cảm. Ấy thế mà trong lòng người con gái vẫn trỗi dậy mãnh
liệt một nỗi nhớ muôn hình, muôn sắc:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Nỗi nhớ của “Em”, của tình yêu dữ dội được khởi đầu từ những cái cao cả lớn
lao, không tủn ngủn và tầm thường chút nào! Nỗi nhớ ấy da diết, cuốn lấy tâm hồn
người con gái! Với Xuân Quỳnh là thế: mọi con sóng đều có bờ, mục đích là vỗ vào bờ,
nên khi sóng xa bờ thì phải nhớ bờ, ngày đêm không ngủ được.
Cũng như sóng, nỗi nhớ về “Anh” vẫn dào lên mãnh liệt:
“Lòng em nhớ đến - Anh
Cả trong mơ còn thức”
Tình yêu đến, tình yêu mang theo một nỗi nhớ vô bờ đến với “Em”, choáng
ngợp tâm hồn “Em”. Tình yêu đã trở nên đậm đà đến thế, và nỗi nhớ lại càng da diết
miên man. “Có không gian nào dài hơn chiều dài nỗi nhớ, có một khoảng mênh mông
nào sâu thẳm hơn tình yêu…”. Vâng! Làm sao đo được nỗi nhớ, làm sao đo được tình
yêu! “Em” vẫn nhớ đến “Anh”, chỉ nhớ về phương anh mà thôi:
“Dẫu xuôi về phương bắc

23
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”
Tình yêu thật huyền diệu! Điều đáng nói là “Em” biết chủ động, biết gửi trao
nỗi nhớ về hướng xác định: Phương anh! - Phương của tình yêu: “rợp trời thương ấy
mấy màu xanh suốt, mà em nghiêng hết ấy mấy về phương anh, mà em nghiêng hết ấy
mấy về phương anh…”. Tình yêu của người phụ nữ thật mãnh liệt nhưng cũng thật trong
sáng, dung dị, một
tình yêu thuỷ chung và trọn vẹn. Song, để toàn vẹn mối tình ấy,
con sóng phải vượt qua muôn ngàn cách trở:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Con sóng muốn tới bờ, phải vượt qua bao giông tố, bão bùng. Em muốn hướng
về
anh, phải vượt qua bao cạm bẫy cuộc đời. Suy cho cùng, tình yêu phải cần thử
thách tôi
luyện mới thấy rõ giá trị thực sự của nó. Tình yêu muốn tồn tại cũng phải có
sự ra đi và trở lại, phải có sự dồi lên, lắng xuống để cuối cùng trở về với tình yêu hồn
nhiên thuở đầu.
Chính tình yêu của anh đã giúp cho em vượt qua tất cả, đón nhận một tình yêu
vĩnh cửu - tình yêu lớn lao và cao thượng, không mang màu sắc vị kỉ, riêng rẽ mà là
hoà trong cái chung và ở trong cái chung mênh mông ấy, cái riêng sẽ tồn tại mãi mãi:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Tình yêu sẽ trưởng thành đằm thắm hơn và sẽ vĩnh hằng trong cái đẹp của tạo hoá.

Bài thơ kết thúc rồi mà nhịp điệu êm ái, nhẹ nhàng của tình yêu vẫn còn vướng
đọng đâu đây. Bài thơ thành công không chỉ trong việc miêu tả hình tượng “ Sóng” mà
còn bộc lộ một tình yêu thật sôi nổi, nỗi khao khát tình yêu của một nhà thơ nữ. Đây
chính là nét mới mẻ trong thơ ca hiện đại Việt nam. Trong rất nhiều loài hoa thì bông
hoa Xuân Quỳnh tỏa ra một hương thơm riêng, một cách cảm nhận riêng về sóng -
biển trong tình yêu. Tình yêu như con sóng mênh mang, vô tận, song cái đích cuối
cùng cũng là một tình yêu thứ nhất, vĩnh hằng mãi mãi.
24
Đàn ghi ta của Lor-ca – Thanh Thảo
Câu 1: Hoàn cảnh sáng tác và giá trị tư tưởng, nghệ thuật bài thơ Đàn ghi
ta của Lor-ca?
- Đàn ghi ta của Lor-ca được in trong tập Khối vuông ru bích 1985, là một bài
thơ tiêu biểu cho phong cách và kiểu tư duy của thơ Thanh Thảo. Bài thơ được gợi
cảm hứng từ cuộc đời oan khuất của người nghệ sĩ thiên tài Ph. G. Lor-ca.
- Bài thơ thể hiện nỗi đau xót sâu sắc trước cái chết bi thảm của nhà thơ thiên
tài Tây Ban Nha Ph. G. Lor-ca, người nghệ sĩ đấu tranh cho tự do và cách tân nghệ
thuật, đồng thời bày tỏ niềm tin mãnh liệt vào sự bất tử của tiếng đàn và tên tuổi của
Lor-ca.
- Đặc sắc nghệ thuật:
+ Hình thức: bài thơ rất tự do, sáng tạo (câu thơ tự do, không viết hoa đầu câu
thơ, không sử dụng dấu câu).
+ Cấu trúc: Bài thơ là một tác phẩm trữ tình nhưng có cấu trúc tựa như một tác
phẩm âm nhạc. Chuỗi âm thanh luyến lái “li-la li-la li-la” là sự kết giữa âm nhạc với
thơ. Nhất là khi dòng thơ ấy đặt vào chỗ kết thúc bài thơ, như một sự ngân vang.
+ Nghệ thuật tượng trưng được sử dụng với tầng số cao. Tác giả đã sử dụng
những hình ảnh tượng trưng của đất nước Tây Ban Nha làm bối cảnh cho hình ảnh
Lor-ca (áo choàng đỏ gắt, đàn ghi ta), những hình ảnh tượng trưng cho cái chết của
Lor-ca: Áo choàng bê bết đỏ, tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan, ròng ròng máu chảy
Câu 2: Những tìm tòi đổi mới thơ ca của Thanh Thảo được thể hiện trong bài
thơ Đàn ghi ta của Lor- ca ?

- Thanh Thảo là nhà thơ đi tiên phong trong nỗ lực đổi mới thơ Việt. Bài thơ
Đàn ghi ta của Lor- ca in trong tập Khối vuông ru- bích tiêu biểu cho kiểu tư duy thơ
Thanh Thảo trong tìm tòi, cách tân cho thơ Việt đương đại.
- Những tìm tòi, đổi mới thơ ca của Thanh Thảo :
+ Ở thể thơ: Thanh Thảo sử dụng thể thơ tự do, gạt bỏ mọi qui tắc ngữ pháp,
không sử dụng dấu chấm câu để cho mạch cảm xúc tuôn trào qua các dòng thơ.
+ Cấu trúc bài thơ thể hiện sự giao thoa giữa thơ và nhạc.
+ Cấu trúc thơ là cấu trúc ru- bich theo nguyên tắc hỗn loạn và trật tự; hỗn loạn
ở bề mặt mà nhất quán ở bề sâu. Câu chữ có vẻ rời rạc nhưng thực ra vẫn xoay quanh
trục một tư tưởng: những suy tư, chiêm nghiệm của Thanh Thảo về Lor- ca, về nghệ
thuật.
+ Ngôn ngữ, hình ảnh thơ đa nghĩa, mang tính biểu tượng cao, được sáng tạo
theo lối lạ hóa của thơ tượng trưng, siêu thực.
Câu 3: Ý nghĩa câu thơ đề từ của bài thơ
- “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” đó là lời di ngôn đầy tâm huyết của
người nghệ sĩ Lor- ca. Người nghệ sĩ đấu tranh chống lại nền độc tài phát xít đang ngự
trị trên đất nước Tây Ban Nha bấy giờ như luôn bị ám ảnh, tiên cảm về cái chết. Và
Lor- ca muốn được nằm trong lòng đất nước cùng cây đàn thơ của mình, Lor- ca viết :
“hãy chôn tôi với cây đàn”. Cây đàn ghi ta là phần hồn của đất nước Tây Ban Nha nên
25

×