Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Học thuyết hình thái kinh tế xã hội và giá trị của học thuyết hình thái kinh tế xã hội đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.04 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT HÌNH THÁI
KINH TẾ XÃ HỘI 3
1.1 Tiền đề xây dựng lý luận và nội dung phạm trù hình thái kinh tế
xã hội của Triết học Mác – Lênin 3
1.1.1 Tiền đề xây dựng lý luận hình thái kinh tế xã hội 3
1.1.2 Nội dung phạm trù hình thái kinh tế xã hội 4
1.2 Phép biện chứng trong sự vận động, phát triển của các hình thái
kinh tế xã hội 5
1.2.1 Biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất 5
1.2.2 Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng 7
1.2.3 Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình
lịch sử - tự nhiên 9
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ CỦA HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ
HỘI ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM 12
2.1 Tính tất yếu và nội dung của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội 12
2.1.1 Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội 12
2.1.2 Nội dung của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội 13
2.2 Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội đối với sự nghiệp đổi
mới ở Việt Nam hiện nay 14
2.2.1 Việc lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa 14
2.2.3 Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá với sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội 16
2.2.4 Giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị 20
KẾT LUẬN 26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Xã hội loài người, trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào cũng là một hệ
thống phức tạp gồm nhiều lĩnh vực, như: Kinh tế, văn hoá, tư tưởng, chính
trị… Lịch sử loài người đã có nhiều sự giải thích khác nhau về đời sống xã
hội. Trước khi Triết học Mác ra đời, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò chi phối
trong sự nhận thức về đời sống xã hội và cho rằng đời sống xã hội xuất phát
từ ý thức tư tưởng, từ niềm tin tôn giáo, từ chính trị… Phê phán quan điểm
này, C.Mác cho rằng: Điểm xuất phát để nghiên cứu đời sống xã hội phải bắt
đầu từ con người hiện thực tức là từ trong đời sống hiện thực của họ. C.Mác
đã phân tích một cách khoa học mối quan hệ lẫn nhau giữa các mặt trong đời
sống xã hội và phát hiện ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội. Từ
đó, C.Mác đã khái quát một cách khoa học về lý luận hình thái kinh tế xã hội.
Lý luận hình thái kinh tế xã hội của Triết học Mác đã chỉ ra sản xuất
vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định quá
trình sinh hoạt chính trị và tinh thần nói chung; xã hội là một hệ thống có cấu
trúc phức tạp, trong đó các mặt, các lĩnh vực có mối liên hệ chặt chẽ với nhau,
tác động qua lại một cách biện chứng. Lý luận đó cũng chỉ ra động lực bên
trong của sự vận động phát triển xã hội, các quy luật vận động phát triển
khách quan của xã hội, và do đó chỉ ra sự phát triển của các hình thái kinh tế
xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Lý luận đó đã mang lại một phương
pháp luận thật sự khoa học cho nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo xã
hội theo con đường tiến bộ.
Tuy nhiên, từ khi chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào tình trạng thoái
trào, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ đã tạo điều kiện
cho các thế lực đối nghịch của chủ nghĩa Mác - Lênin càng có dịp vu cáo,
xuyên tạc, bác bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong đó, học thuyết hình thái kinh
tế xã hội là trọng điểm, là trung tâm bị công kích từ nhiều phía. Vì vậy,
nghiên cứu tính khoa học, cách mạng của chủ nghĩa duy vật biện chứng về

học thuyết hình thái kinh tế xã hội nói riêng và Triết học Mác – Lênin nói
chung và vận dụng đúng đắn vào quá trình đổi mới, công nghiệp hoá – hiện
đại hoá đất nước ở Việt Nam là việc làm vô cùng cần thiết.
Xuất phát từ những vấn đề trên, tác giả mạnh dạn nghiên cứu đề tài:
“Học thuyết hình thái kinh tế xã hội và giá trị của học thuyết hình thái
2
kinh tế xã hội đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay” làm tiểu luận
môn học.
2. Đối tượng nghiên cứu
Nội dung cơ bản của học thuyết hình thái kinh tế xã hội và giá trị của
nó đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu của đề tài là làm rõ nội dung cơ bản của học thuyết hình thái
kinh tế xã hội của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trên cơ sở đó, làm rõ giá trị
của lý luận này đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện được mục tiêu trên, đề tài tập trung giải quyết những
nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm rõ tiền đề xây dựng lý luận và nội dung phạm trù hình thái kinh
tế xã hội của Triết học Mác – Lênin;
- Làm rõ phép biện chứng trong sự vận động, phát triển của các hình
thái kinh tế xã hội;
- Nhận thức tính khoa học và vai trò phương pháp luận của lý luận hình
thái kinh tế xã hội;
- Làm rõ tính tất yếu và nội dung của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội;
- Làm rõ sự vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội của Đảng ta
đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu nội dung cơ bản của học
thuyết hình thái kinh tế xã hội và giá trị của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở

Việt Nam hiện nay.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tiểu luận được bố cục thành 2 chương với
những nội dung như sau:
Chương 1. Nội dung cơ bản của học thuyết hình thái kinh tế xã hội
Chương 2. Giá trị của học thuyết hình thái kinh tế xã hội đối với sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
3
CHƯƠNG 1
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT HÌNH THÁI
KINH TẾ XÃ HỘI
1.1 Tiền đề xây dựng lý luận và nội dung phạm trù hình thái kinh tế
xã hội của Triết học Mác – Lênin
1.1.1 Tiền đề xây dựng lý luận hình thái kinh tế xã hội
Từ chủ nghĩa duy tâm chi phối mọi nhận thức của con người về đời sống
xã hội trong suốt quá trình lịch sử lâu dài trước khi Triết học Mác ra đời cho
đến Triết học Đức vào đầu thế kỷ XIX, người ta vẫn “lấy sự thống trị về tôn
giáo làm tiền đề. Và dần dà, người ta tuyên bố mọi quan hệ thống trị là một
quan hệ tôn giáo và người ta biến quan hệ đó thành sự sùng bái: Sùng bái nhà
nước, sùng bái pháp luật…”. Theo C.Mác, phương pháp tiếp cận đó của Triết
học Đức “đã đi đầu xuống đất”, làm đảo lộn bức tranh hiện thực của lịch sử.
Từ sự phê phán đó, C.Mác đã tìm ra điểm xuất phát mới trong việc
nghiên cứu xã hội là phải xuất phát từ đời sống hiện thực của con người.
C.Mác đã đi đến xác định tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người,
tiền đề của mọi lịch sử đó là sản xuất vật chất. C.Mác cũng phát hiện ra, cái
quy định hành vi lịch sử đầu tiên và cũng là động lực thúc đẩy con người hoạt
động là nhu cầu và lợi ích. Từ sản xuất vật chất, C.Mác cũng phát hiện hai
mặt không tách rời nhau: Một mặt là quan hệ giữa con người với tự nhiện,
mặt khác là quan hệ giữa người với người trong sản xuất. Hai mặt đó thống
nhất với nhau tạo thành phương thức sản xuất. Sự tác động qua lại một cách

biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tạo thành quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Để tồn tại và phát triển, con người không chỉ tạo ra của cải vật chất mà
còn sản xuất ra của cải tinh thần, ra bản thân con người và các quan hệ xã hội.
Các lĩnh vực sản xuất đó tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn
nhau. Trong các mối quan hệ xã hội phức tạp và tác động qua lại một cách
biện chứng, C.Mác đã phát hiện ra: Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trức thượng
tầng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; phương thức sản xuất quyết định
các mặt của đời sống xã hội. Từ đó cho thấy, xã hội là một hệ thống, trong đó
có các mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, làm cho xã hội vận động phát
triển theo các quy luật khách quan.
4
Trong khi chỉ ra sự vận động phát triển của xã hội diễn ra theo các quy
luật khách quan, C.Mác cũng đồng thời thừa nhận vai trò to lớn của nhân tố
chủ quan. Lịch sử phát triển xã hội phải thông qua hoạt động có mục đích của
con người.
Như vậy, xuất phát từ sản xuất, C.Mác đã phân tích một cách khoa học
mối quan hệ lẫn nhau giữa các mặt trong đời sống xã hội và chỉ ra các quy
luật vận động, phát triển của xã hội. Từ đó, C.Mác đã đi đến khái quát khoa
học về lý luận hình thái kinh tế xã hội.
1.1.2 Nội dung phạm trù hình thái kinh tế xã hội
Xã hội không là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên giữa các yếu tố với
nhau theo ý muốn chủ quan của con người, mà là một hệ thống trong đó các
yếu tố thống nhất với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và không ngừng tác
động với tự nhiên, làm biến đổi tự nhiên. Trên cơ sở phân tích các mặt trong
đời sống xã hội và các mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng. C.Mác đã đi đến
khái quát xã hội bằng phạm trù hình thái kinh tế xã hội và coi sự phát triển
của các hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên.
Trong hệ thống các quan hệ xã hội hết sức phức tạp, C.Mác đã vạch ra
quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản của xã hội, là cơ sở của các quan hệ xã hệ

khác, đã quy định tính độc đáo riêng của từng xã hội trong lịch sử. Trong tác
phẩm của mình, Mác đã viết "tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp
thành cái mà người ta gọi là những quan hệ xã hội và hơn nữa hợp thành một
xã hội ở vào một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính độc
đáo riêng biệt. Xã hội thời cổ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản đều là những
tổng thể quan hệ sản xuất như vậy, mỗi tổng thể đó đồng thời lại đại biểu cho
một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại”.
Căn cứ vào các tư tưởng của C.Mác và Lênin, các nhà Triết học Macxit
đã nêu ra các định nghĩa về hình thái kinh tế xã hội. Theo G. E Glê-dec-man,
hình thái kinh tế xã hội là một giai đoạn lịch sử nhất định trong sự phát triển của
xã hội mà cơ sở của nó là một phương thức sản xuất đặc trưng chỉ riêng cho nó.
Đó không phải là xã hội "chung chung" mà là xã hội thuộc một kiểu nhất định,
hoặc là phong kiến hoặc là tư bản Chủ nghĩa hoặc là cộng sản Chủ nghĩa
Theo từ điển Triết học, hình thái kinh tế xã hội là kiểu xã hội có tính lịch
sử dựa trên cơ sở một phương thức sản xuất nhất định và biểu hiện từ chế độ
5
nguyên thuỷ qua chế độ nô lệ, phong kiến và tư bản đến hình thái cộng sản.
Theo Giáo trình Triết học của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hình thái kinh
tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở
từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng
cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và
với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ
sản xuất ấy.
Như vậy, hình thái kinh tế xã hội là một hệ thống xã hội hoàn chỉnh có
cấu trúc phức tạp, trong đó các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế xã hội có vị trí
riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau. Trong đó, lực lượng
sản xuất là cơ sở vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế xã hội. Hình thái
kinh tế xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Suy cho cùng, sự
phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay

thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội. Mỗi hình thái kinh tế xã hội có
một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng của nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn
khách quan để phân biệt các chế độ xã hội.
1.2 Phép biện chứng trong sự vận động, phát triển của các hình thái
kinh tế xã hội
1.2.1 Biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách
biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận
động, phát triển xã hội.
Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển.
Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực
lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Sự phát triển của lực lượng sản
xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng
sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của
con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở
trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của
con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng
6
khoa học vào sản xuất.
Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng
sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính
chất cá nhân lên tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công,
phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất
cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã
hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa. Sự vận động,
phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất
cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp

của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một
trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực
lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều
“tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là,
nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với
tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả
năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho
quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của
lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách
quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản
xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của
lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế
quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức
sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế. C.Mác đã viết:
“Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật
chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có trong đó từ
trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình
thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những
xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách
mạng xã hội”.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản
xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực
7
lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động
đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao
động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ, vv và do đó
tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng

sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên
tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm
sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất
cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên,
việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không
phải giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của
con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông
qua cách mạng xã hội.
1.2.2 Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu
kinh tế của xã hội. Cơ sở hạ tầng bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ
sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mới (mầm mống quan hệ sản của xã hội
sau). Ví dụ: Trong cơ sở hạ tầng hiện nay ở Việt Nam, về cơ bản có các kiểu
quan hệ sản xuất sau: Quan hệ sản xuất cũ là kiểu quan hệ sản xuất phong
kiến, tư bản Chủ nghĩa; quan hệ sản xuất xã hội Chủ nghĩa là quan hệ sản xuất
thống trị và mầm mống của quan hệ sản xuất cộng sản Chủ nghĩa định hướng
cho sự phát triển cơ sơ hạ tầng xã hội Chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam.
Trong mối quan hệ của các quan hệ sản xuất của cơ sở hạ tầng, thì quan
hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò quy định, chi phối các quan hệ
sản xuất khác. Tương ứng với quan hệ sản xuất trong cơ sở hạ tầng là các
thành phần kinh tế khác nhau.
Đặc trưng, bản chất của một cơ sở hạ tầng do quan hệ sản xuất thống trị
quy định, ví dụ: Quan hệ sản xuất xã hội Chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam phản
ánh bản chất kinh tế - xã hội hiện nay ở nước ta. Tương ứng với các kiểu quan
hệ sản xuất trong một cơ sở hạ tầng là các thành phần kinh tế khác nhau, ví dụ:
trong cơ sở hạ tầng hiện nay ở Việt Nam bao gồm rất nhiều thành phần kinh tế
8
như thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế quốc doanh, thành phần kinh

tế tư nhân của người sản xuất nhỏ, thành phần kinh tế tư nhân tư bản… Trong
xã hội có giai cấp thì cơ sở hạ tầng mang tính giai cấp. Bởi, nó đều phản ánh
và bảo vệ lợi ích cho những giai cấp khác nhau.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết
chế tương ứng và những quan hệ nội tại của nó được hình thành trên cơ sở hạ
tầng nhất định. Tư tưởng xã hội, là những hiện tượng xã hội được xây dựng
trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Đó là chính trị, pháp quyền, đạo đức, Triết
học, khoa học, tôn giáo và thẩm mỹ. Thiết chế xã hội tương ứng với tư tưởng xã
hội trên là giai cấp, chính đảng, nhà nước, giáo hội và các tổ chức xã hội khác…
Mỗi bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều có đặc điểm và
quy luật riêng, nhưng chúng đều có sự tác động biện chứng qua lại lẫn nhau
khi phản ánh cơ sở hạ tầng. Trong các bộ phận khác nhau đó, thì nhà
nước, pháp luật và hệ tư tưởng của giai cấp thống trị là các bộ phận quan
trọng nhất trong xã hội có giai cấp.
Đặc trưng, bản chất của một kiến trúc thượng tầng do quan hệ sản xuất
thống trị quy định. Ví dụ: Bản chất của nhà nước, pháp luật xã hội chủ nghĩa
hiện nay ở Việt Nam đều do quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa quy định. Do
đó, bản chất của nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là nhà nước
của dân, do dân và vì dân.
Trong xã hội có giai cấp thì kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp,
phản ánh tính giai cấp ở trong cơ sở hạ tầng. Trong xã hội có giai cấp đối
kháng thì bộ phận thể hiện quyền lực xã hội quan trọng nhất là nhà nước -
công cụ của giai cấp thống trị thể hiện quyền thống trị xã hội của nó về mặt
chính trị, pháp luật và các mặt quan hệ xã hội khác.
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
thể hiện ở chỗ:
- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể
hiện ở chỗ, cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào thống
trị về mặt kinh tế thì đồng thời thống trị về mặt tinh thần. Cho nên, cơ sở hạ

tầng nào thì sẽ sinh ra một kiến trúc thượng tầng tương ứng.
9
Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng tất yếu sẽ dẫn đến sự biến đổi của kiến
trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong một hình thái kinh tế xã hội
nhất định, hoặc giữa các hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Khi cơ sở hạ
tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng do nó sinh ra cũng sẽ mất theo và cơ
sở hạ tầng mới xuất hiện thì một kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với nó
cũng xuất hiện.
Một khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng của nó cũng
mất theo. Song, có những nhân tố riêng lẻ của kiến trúc thượng tầng cũ vẫn
còn tồn tại rất lâu trong xã hội mới, nhất là về mặt tư tưởng. Trong quá trình
chuyển hoá giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ và cơ sở hạ tầng,
kiến trúc thượng tầng mới bao giờ cũng bao hàm sự kế thừa lẫn nhau dưới
những hình thức cụ thể nào đó.
- Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều tác động trở lại
cơ sở hạ tầng; nhưng nhà nước, pháp luật và hệ tư tưởng chính trị của giai cấp
thống trị tác động một cách trực tiếp và quan trọng nhất trong xã hội có giai
cấp đối kháng.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng cũng
có thể thúc đẩy sự hoàn thiện và phát triển của cơ sở hạ tầng, đồng thời cũng
có thể kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Nếu kiến trúc thượng tầng
phản ánh đúng cơ sở hạ tầng và thực hiện đúng các chức năng của nó đối với
cơ sở hạ tầng thì nó củng cố bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ
tầng. Ngược lại, nó phản ánh không đúng đối với cơ sở hạ tầng và không thực
hiện đúng các chức năng của nó đối với cơ sở hạ tầng thì lại kìm hãm sự phát
triển của cơ sở hạ tầng
1.2.3 Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình
lịch sử - tự nhiên
Các mặt cấu thành của hình thái kinh tế xã hội không ngừng tác động

qua lại lẫn nhau, làm cho các hình thái kinh tế xã hội không ngừng vận động
và phát triển. Theo C.Mác, xã hội vận động và phát triển theo các quy luật
khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan của con người. Theo
Lênin, sự vận động của xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên chịu sự chi
phối của những quy luật không những không phụ thuộc vào ý chí, ý thức và ý
10
định của con người mà trái lại, còn quyết định ý chí, ý thức và ý định của con
người. Sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội vừa bị chi
phối bởi các quy luật chung, phổ biến, vừa bị chi phối bởi các quy luật đặc
thù. Quy luật phổ biến của sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế xã
hội là các quy luật chi phối sự vận động, phát triển của mọi hình thái kinh tế
xã hội. Đó là quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng
tầng và các quy luật phổ biến khác. Bên cạnh các quy luật phổ biến, mỗi hình
thái kinh tế xã hội còn bị chi phối bởi các quy luật đặc thù, các quy luật riêng
có của từng hình thái kinh tế xã hội. Các hình thái kinh tế xã hội vận động,
phát triển từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế xã hội này lên hình thái kinh tế
xã hội khác cao hơn. Quá trình đó diễn ra một cách khách quan chứ không
phải theo ý muốn chủ quan.
Việc nắm vững các quy luật vận động, phát triển phổ biến của xã hội là
hết sức cần thiết nhưng chưa đủ. Vì mỗi hình thái kinh tế xã hội lại có những
quy luật đặc thù chi phối nên đòi hỏi phải làm sáng tỏ những quy luật lịch sử
riêng biệt đang chi phối sự phát sinh, tồn tại, phát triển và sự diệt vong của
một cơ thể xã hội nhất định và sự thay thế cơ thể xã hội đó bằng một cơ chế
xã hội khác cao hơn. Sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các
hình thái kinh tế xã hội phát triển thay thế nhau từ thấp lên cao. Đó là con
đường phát triển chung của nhân loại.
1.3 Nhận thức tính khoa học và vai trò phương pháp luận của lý
luận hình thái kinh tế xã hội
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội đã đem lại cho khoa học xã hội một

phương pháp thực sự khoa học. Học thuyết đã chỉ ra sản xuất vật chất là cơ sở
của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã
hội. Cho nên không thế xuất phát từ ý thức tư tưởng, từ ý chí của người cầm
quyền để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội. Học thuyết cũng chỉ
ra xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá
nhân, mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau,
tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết
định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế
độ xã hội.
11
Học thuyết còn chỉ ra sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội là một
quá trình lịch sử - tự nhiên, tức diễn ra theo các quy luật khách quan chứ
không phải theo ý muốn chủ quan. Cho nên muốn nhận thức đúng đời sống xã
hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động phát triển của đời sống xã
hội. Hiện nay, loài người đã có những bước phát triển hết sức to lớn về mọi
mặt. Tuy nhiên học thuyết đó vẫn còn nguyên giá trị, nó vẫn là phương pháp
thực sự khoa học để nhận thức một cách đúng đắn về đời sống xã hội.
CHƯƠNG 2
GIÁ TRỊ CỦA HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
2.1 Tính tất yếu và nội dung của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội
2.1.1 Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
12
xã hội
Để chuyển từ xã hội tư bản Chủ nghĩa lên xã hội xã hội Chủ nghĩa cần
phải trải qua một thời kỳ quá độ nhất định. Tính tất yếu của thời kì quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội được lý giải từ các căn cứ sau đây:
Một là, Chủ nghĩa tư bản và Chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất.
Chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu Tư bản chủ nghĩa

về các tư liệu sản xuất; dựa trên chế độ áp bức và bóc lột. Chủ nghĩa xã hội
được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, tồn tại
dưới 2 hình thức là nhà nước và tập thể; không còn các giai cấp đối kháng,
không còn tình trạng áp bức, bóc lột. Muốn có xã hội như vậy cần phải có một
thời kỳ lịch sử nhất định.
Hai là, Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền sản xuất đại công
nghiệp có trình độ cao. Quá trình phát triển của Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cơ
sở vật chất - kỹ thuật nhất định cho Chủ nghĩa xã hội, nhưng muốn có cơ sở
vật chất – kỹ thuật đó cần phải có thời gian tổ chức, sắp xếp lại. Đối với
những nước chưa từng trải qua quá trình Công nghiệp hoá tiến lên Chủ nghĩa
xã hội , Thời kì quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho Chủ
nghĩa xã hội có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành Công
nghiệp hoá Xã hội Chủ nghĩa.
Ba là, các quan hệ xã hội của Chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh
trong lòng Chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải
tạo Xã hội Chủ nghĩa. Sự phát triển của Chủ nghĩa tư bản dù đã ở trình độ cao
cũng chỉ có thể tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ
xã hội Xã hội chủ nghĩa, do vậy cũng cần phải có thời gian nhất định để xây
dựng và phát triển các quan hệ đó.
Bốn là, công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ,
khó khăn và phức tạp, cần phải có thời gian để giai cấp công nhân từng bước
làm quen với những công việc đó. Thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở các
nước có trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau có thể diễn ra với
khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau. Đối với những nước đã trải qua chủ
nghĩa tư bản phát triển ở trình độ cao thì khi tiến lên chủ nghĩa xã hội, thời kì
quá độ có thể tương đối ngắn. Những nước đã trải qua giai đoạn phát triển chủ
nghĩa tư bản ở mức độ trung bình, đặc biệt là những nước còn ở trình độ phát
13
triển tiền tư bản, có nền kinh tế lạc hậu thì thời kì quá độ thường kéo dài với
rất nhiều khó khăn, phức tạp.

Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội là sự tồn tại đan xen giữa những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh
những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất
vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực (kinh tế, chính trị, tư tưởng –
văn hóa) của đời sống xã hội.
2.1.2 Nội dung của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trên lĩnh vực kinh tế: Thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng
sản xuất hiện có của xã hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản
xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm
phục vụ ngày càng tốt đời sống nhân dân lao động.
Việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất của xã hội nhất định
không thể theo ý muốn nóng vội, chủ quan mà phải tuân theo tính tất yếu
khách quan của các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đối với những nước chưa trải qua quá trình Công nghiệp hoá Tư bản
Chủ nghĩa, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nhằm tạo
ra được cơ sở vật chất – kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ trọng tâm
của những nước này trong Thời kì quá độ là phải tiến hành công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa diễn ra ở các nước khác nhau với
những điều kiện lịch sử khác nhau có thể được tiến hành với những nội dung
cụ thể và hình thức, bước đi khác nhau. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, chưa trải qua quá trình công nghiệp hoá tư
bản chủ nghĩa, nên trong thời gian qua, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo nền tảng để đi lên chủ nghĩa xã hội; bên cạnh đó
là chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng
là để giải phóng sức sản xuất, tiến tới một nền sản xuất lớn.
Trong lĩnh vực chính trị: Tiến hành cuộc đấu tranh chống lại các thế lực
thù địch chống phá sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội; xây dựng, củng cố
nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo đảm

quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân
14
dân lao động, xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân lao động; xây dựng Đảng ngày càng trong sạch,
vững mạnh ngang tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.
Trong lĩnh vực tư tưởng – văn hóa: Tuyên truyền, phổ biến những tư
tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân trong toàn xã hội; khắc
phục những tư tưởng và tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây
dựng Chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền văn hóa mới Xã hội chủ nghĩa, tiếp thu
giá trị tinh hoa các nền văn hóa trên thế giới.
Trong lĩnh vực xã hội: Khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để
lại; từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các
tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây
dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng: tự do
của người này là điều kiện, tiền đề cho sự tự do của người khác.
Tóm lại, thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lịch sử tất
yếu trên con đường phát triển của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Đó là thời kỳ lịch sử có đặc điểm riêng với những nội dung kinh tế, chính trị,
văn hóa và xã hội đặc thù mà giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa trên con
đường phát triển của hình thái kinh tế xã hội Chủ nghĩa cộng sản chỉ có thể
đạt được trên cơ sở hoàn thành các nội dung đó.
2.2 Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội đối với sự nghiệp đổi
mới ở Việt Nam hiện nay
2.2.1 Việc lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa
Sau khi xây dựng học thuyết hình thái kinh tế xã hội, Mác đã vận dụng
học thuyết đó vào phân tích xã hội tư bản, vạch ra các quy luật vận động, phát
triển của xã hội và đã đi đến dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế xã hội
cao hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là Chủ nghĩa xã hội.
Nước ta tiến lên Chủ nghĩa xã hội từ một xuất phát điểm rất thấp, đó là

một quốc gia nông nghiệp lạc hậu trải qua liên tiếp chiến tranh. Vì vậy, Đảng
ta đã lựa chọn con đường quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư
bản chủ nghĩa. Sự lựa chọn này đã được Đảng ta xác định ngay trong cương
lĩnh đầu tiên của Đảng đầu năm 1930 do Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng ta là
đồng chí Trần Phú soạn thảo và ghi rõ: “Cách mạng Việt Nam sau khi hoàn
15
thành cách mạng dân tộc dân chủ thì tiến thẳng lên làm cách mạng xã hội chủ
nghĩa mà không kinh qua chế độ tư bản chủ nghĩa”.
Sự lựa chọn này là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với điều kiện thực
tiễn của Việt Nam. Từ khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới (năm 1986),
cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế Đảng ta đổi mới tư duy lý luận kinh
tế và nhận thức được rằng, chúng ta bỏ qua Chủ nghĩa tư bản chỉ là bỏ qua
Chủ nghĩa tư bản với ý nghĩa là một phương thức sản xuất đẻ ra quan hệ bóc
lột và những bất công, chỉ bỏ qua các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa với
ý nghĩa nó là một quan hệ thống trị nền kinh tế, chỉ bỏ qua tính chất hiếu
chiến và thủ đoạn bóc lột lao động làm thuê của giai cấp tư sản. Nhưng
chúng ta không bỏ qua nên kinh tế hàng hoá và những quan hệ kinh tế vốn
có của nó; không bỏ qua những thành quả về mặt khoa học kỹ thuật; trình độ
tổ chức quản lý của nền sản xuất lớn tiên tiến của Chủ nghĩa tư bản; không
bỏ qua những kinh nghiệm những lý thuyết kinh tế mà Chủ nghĩa tư bản đã
bỏ qua nhiều thế kỷ để hình thành và tạo lập cho nhân loại; không bỏ qua
những quy luật kinh tế khách quan, những cơ chế kinh tế tạo ra sức mạnh
động lực thúc đẩy nền kinh tế.
2.2.2 Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa
Trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng và Nhà
nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại, nó là kết
quả của sự phát triển lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định, kết quả của
quá trình phân công lao động xã hội, của đa dạng hoá các hình thức sở hữu,
đồng thời nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Theo quan điểm của Đảng ta, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phân kinh tế, trong đó kinh tế
Nhà nước giữa vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Việc xây dựng và phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát
16
triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển lực lượng sản
xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta khẳng định “mục đích
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng
sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho Chủ
nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện
đại gắn liên với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt sở hữu,
quản lý và phân phối”.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể tách rời vai trò
quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ
nghĩa quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách, sử dụng cơ chế thị trường; áp dụng các hình thức kinh tế và phương
pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản
xuất, phát huy tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
2.2.3 Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá với sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội
Nước ta tiến lên Chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản
xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thốn nhất của chúng ta là
chưa có nền đại công nghiệp. Chính vì vậy chúng ta phải tiến hành công

nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hoá phải gắn
liền với hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta nhằm xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm
trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Những thành tựu mà nhân dân ta thu được trong quá trình đổi mới, sự
nhận thức mới về thời đại, về vai trò của khoa học, công nghệ và vai trò của
con người trong phát triển kinh tế - xã hội đương đại, cũng như những khó
khăn và cả những sai lầm khó tránh, đã được Đảng ta đúc kết thành những
bài học có giá trị trong việc chỉ đạo công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước. Công nghiệp hoá theo hướng hiện đại được coi là nhiệm vụ trọng tâm
để biến nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp trong khoảng vài chục
năm. Sự đánh giá khách quan kinh nghiệm của các nước xung quanh nước ta
đã công nghiệp hoá thành công đã góp phần giúp Đảng ta, qua các kỳ đại hội,
17
đúc kết thành lý luận công nghiệp hoá đầy đủ hơn ở một đất nước kém phát
triển trong điều kiện toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và
kinh tế tri thức ngày càng đóng vai trò quan trọng.
Từ góc nhìn lịch sử có đầy đủ cơ sở để nói rằng, sự đánh giá về tính
tất yếu, vị trí, vai trò, mục tiêu, định hướng phát triển hay nói chung là tầm
quan trọng của công cuộc công nghiệp hoá đối với đất nước của Đảng ta là
khá nhất quán và xuyên suốt. Tuy nhiên, do chủ quan, nóng vội, duy ý chí, bất
chấp quy luật khách quan, và cả do sự hạn chế về trình độ nhận thức, cho nên
trong một giai đoạn khá dài chúng ta đã xác định sai bước đi, “trên thực tế đã
chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề cần
thiết” đúng như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-
1986) khẳng định.
Tại Đại hội lần thứ III (9-1960) Đảng coi “nhiệm vụ trung tâm của cả
thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, mà
mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”. “Vì vậy chủ trương của
Đảng ta về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: Xây dựng một

nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại kết hợp công nghiệp với nông
nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có
công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại”. Chủ trương “ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng” đó của đại hội đã được đôn đốc thực thi ráo riết trong thực
tế suốt hàng chục năm, tuy có đạt được một số kết quả khiêm tốn, song vì quá
chú trọng đến quy mô, đến mặt lượng, đến nhanh, nhiều, rẻ mà không dựa vào
khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới cho nên hiệu quả không cao,
năng suất thấp, lãng phí nguyên vật liệu, sản phẩm kém chất lượng, đã đẩy cả
nền kinh tế và xã hội vào rất nhiều khó khăn và kéo dài.
Đại hội lần thứ IV của Đảng (12-1976), khi đề ra đường lối để phát
triển đất nước sau khi đã thống nhất, một mặt, tiếp tục khẳng định “phải thực
hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa”, mặt khác, đã có sự điều chỉnh nhất
định, coi trọng hơn việc phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, cụ thể
là “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ” nhưng về thực chất vẫn nặng về xây dựng
và phát triển công nghiệp nặng, nghĩa là tư duy về nội dung công nghiệp hoá
18
chưa có sự thay đổi căn bản.
Trước tình thế đó, Đại hội lần thứ V (3-1982) khi đề cập đến “những
nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường trước
mắt” và những năm tiếp theo đã phải nhấn mạnh “cần tập trung phát triển mạnh
nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước
lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và
tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông
nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu
công - nông nghiệp hợp lý”. Như vậy, có thể nói rằng, thực tế cuộc sống đã
dần dần buộc chúng ta phải điều chỉnh quan niệm và nội dung công nghiệp
hoá, song vẫn khẳng định việc tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp

nặng quan trọng.
Nghị quyết Đại hội V, như Đại hội VI (12-1986) nhận định, đã không
được thực hiện nghiêm chỉnh, “nông nghiệp chưa thật sự được coi là mặt trận
hàng đầu, không được bảo đảm những điều kiện cần thiết để phát triển
Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, kể cả tiểu công nghiệp, thủ công
nghiệp, vẫn bị coi nhẹ về tổ chức, đầu tư, chính sách ; còn ham xây dựng
nhiều công trình quy mô lớn”. Vì vậy, Đại hội VI xác định, phải “tiếp tục xây
dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa trong chặng đường tiếp theo”, nhưng trước hết “phải tập trung sức
người, sức của vào việc thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu
về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”, trong đó có
“vị trí hàng đầu của nông nghiệp”.
Đại hội lần thứ VII của Đảng (6-1991) diễn ra trong điều kiện thế giới
có nhiều biến động; các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô đã lần
lượt theo nhau sụp đổ; chúng ta không còn những sự viện trợ và giúp đỡ vô
tư, to lớn từ các nước xã hội chủ nghĩa nữa, do vậy, cũng không thể tiến hành
công nghiệp hoá theo kiểu cũ nữa. Lần đầu tiên, Đại hội xác định, “công
nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông
nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”. Đặc biệt, Đại hội khẳng định rằng, quan
niệm mới về công nghiệp hoá theo hướng hiện đại “đòi hỏi có chính sách
công nghệ thích hợp, tận dụng được lợi thế của nước đi sau trong điều kiện
mới của cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới”. Tiến hành công
19
nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại là quan điểm rất mới vào thời điểm
đó. Quan điểm đó đã bao hàm việc không tách rời công nghiệp hoá với hiện
đại hoá, đồng thời phải tận dụng được những thành tựu, những tri thức mới
nhất của khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới.
Mục tiêu đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển nêu ra tại Đại
hội lần thứ IX của Đảng được Đại hội lần thứ X (4-2006) coi là mục tiêutrực

tiếp với sự bổ sung nhằm rút ngắn về mặt thời gian là “sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Trong điều kiện hiện
nay, muốn sớm thực hiện được mục tiêu đó thì không có cách nào khác hơn là
phải “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri
thức”; “phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công
nghiệp hoá, hiện đại hoá”; phải “đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp,
nông thôn và nông dân”.
Tiếp thu, chắt lọc, phát triển tất cả những điểm hợp lý và quan trọng
nhất của những luận điểm được các kỳ đại hội trước nêu lên, Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát
triển) được Đại hội lần thứ XI của Đảng thông qua ghi rõ: “Đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ
tài nguyên, môi trường”. Đặc biệt, Đại hội XI đã bổ sung và làm sâu sắc thêm
quan điểm phát triển bền vững, gắn phát triền bền vững với phát triển nhanh,
coi phát triến bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược phát triển và
trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đại hội khẳng định: ''Phát
triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực
cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với
nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội”.
2.2.4 Giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định rõ mục tiêu tổng quát khi kết
thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là: “Xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế
20
của Chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa
phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội Chủ nghĩa ngày càng
phồn vinh, hạnh phúc”. Để thực hiện thành công mục tiêu này, Cương lĩnh

nêu 8 phương hướng cơ bản đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nêu cao
tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy tiềm năng và
trí tuệ, tận dụng thời cơ vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt. Trong
quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản trên, phải đặc biệt chú trọng
nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn
định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị
trường và định hướng xã hội Chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và
xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội Chủ nghĩa; giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
giữa xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội Chủ nghĩa; giữa
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ.
Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong những
mối quan hệ cơ bản, cốt lõi trong tiến trình thực thi xây dựng xã hội mới. Đó
chính là quan hệ giữa hai lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội (kinh tế và
chính trị); là mối quan hệ khách quan tồn tại trong mọi xã hội có phân chia
giai cấp, là sự thể hiện cô đọng quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng của xã hội.
- Thực chất đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
Thực chất của đổi mới kinh tế ở Việt Nam là chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa được
dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của Chủ nghĩa xã hội; trong
đó cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ,
có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế.
Hiện nay, nội dung chủ yếu của đổi mới kinh tế là tập trung hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là đổi mới
cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành

21
chính. Để thực hiện điều này cần phát triển mạnh các hình thức sở hữu, các
thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Thực hiện phát triển đồng bộ
các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Nâng cao vai trò lãnh đạo của
Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế. Đồng thời
tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế từ chủ yếu phát
triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu; gắn
kết chặt chẽ phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo
vệ môi trường. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
nhanh, bền vững.
Đổi mới chính trị ở Việt Nam không phải là thay đổi chế độ chính trị
hiện nay bằng chế độ chính trị khác, mà là quá trình đổi mới tư duy chính trị
về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội; đó cũng là quá
trình hoàn thiện tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động của cả
hệ thống chính trị theo hướng tạo lập nền dân chủ xã hội Chủ nghĩa và một
Nhà nước pháp quyền xã hội Chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, thể hiện và
thực hiện ý chí, quyền lực của dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Trong đổi mới chính trị, “trọng tâm là hoàn thiện nội dung và đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, gắn quyền hạn với trách nhiệm trong thực
hiện chức năng lãnh đạo của các cấp ủy Đảng; mở rộng dân chủ trong Đảng
và trong toàn xã hội nhằm phát huy vai trò chủ động của các cơ quan nhà
nước, khả năng sáng tạo to lớn của nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước”.
- Yêu cầu tất yếu phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị và sự sáng tạo của Đảng ta trong quá trình giải quyết
mối quan hệ này
Cơ sở khách quan quy định giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị chính là quan hệ biện chứng giữa yếu tố kinh tế và yếu tố
chính trị. Theo quan điểm của các nhà kinh điển Mác Lênin, trong quan hệ
giữa kinh tế và chính trị, kinh tế có vai trò quyết định, nó quy định nội dung

và kết cấu chính trị. Đến lượt mình chính trị có tác động mạnh mẽ tới kinh tế,
định hướng cho quá trình phát triển kinh tế. Lênin khẳng định: “Chính trị là
biểu hiện tập trung của kinh tế. Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng
đầu so với kinh tế”. Nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng này
22
là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, song có ý nghĩa quyết định đối với sự thành
bại của tiến trình cách mạng.
Cách đây hơn 20 năm, quá trình cải tổ ở Liên xô và Đông Âu, do xử lý
mối quan hệ giữa cải cách kinh tế và chính trị không tốt đã dẫn đến sự sụp đổ
của chế độ xã hội Chủ nghĩa ở các quốc gia này. Với mục đích đẩy nhanh cải tổ,
thực hiện các liệu pháp sốc về kinh tế và ưu tiên cải tổ chính trị đi trước đã đẩy
xã hội lâm vào rối lọan, làm cho Đảng Cộng sản mất quyền lãnh đạo đất nước.
Trong khi đó, Trung Quốc ngay từ đầu đã tiến hành đồng bộ cải cách thể
chế chính trị với cải cách kinh tế, chính vì vậy đã tạo sự phát triển ấn tượng.
Tuy nhiên, sau sự kiện năm 1989, tốc độ cải cách chính trị có phần chững lại,
không theo kịp đà cải cách và phát triển trong lĩnh vực kinh tế. Bất cập này đã
tác động bất lợi đến sự phát triển kinh tế, làm nảy sinh các tiêu cực và nhiều
vấn đề khác như phân hóa xã hội, gia tăng bất bình đẳng về thu nhập.
Ở Việt Nam, Đảng ta trên cơ sở tổng kết thực tiễn đã khởi xướng
đường lối đổi mới tại Đại hội VI. Về chủ trương, ngay từ đầu Đảng đã khẳng
định, thực hiện đổi mới toàn diện đất nước, đổi mới phải có bước đi và cách
làm thích hợp. Đại hội VII của Đảng khẳng định: Đổi mới toàn diện, đồng bộ
và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp; về quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới
kinh tế; đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị.
Tổng kết 10 năm đổi mới, Đại hội VIII của Đảng đã rút ra một số bài
học kinh nghiệm, trong đó nổi lên bài học: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi
mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng
thời từng bước đổi mới chính trị”. Đại hội IX tiếp tục khẳng định những kinh

nghiệm và nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới sâu rộng, đồng bộ về kinh tế, xã hội
và bộ máy nhà nước”.
Tổng kết 20 năm đổi mới (19862006), Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Đổi
mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm,
có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba
nhiệm vụ: Phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát
triển văn hóa nền tảng tinh thần xã hội”. Và đến Đại hội XI, sự nghiệp đổi
mới tiếp tục được khẳng định, Đảng ta chỉ rõ: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ
23
với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ
trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để thúc đẩy
đổi mới toàn diện và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vì mục
tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.
Như vậy có thể thấy, trong tiến trình 25 năm đổi mới vừa qua, Đảng ta
đã bắt đầu từ đổi mới kinh tế, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, nhằm giải
phóng các nguồn lực của đất nước. Trong đổi mới kinh tế, bắt đầu trước hết là
đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới quan điểm, đường lối phát triển kinh tế. Khi
đổi mới kinh tế đã đạt được những thành tựu to lớn, các quan hệ kinh tế đã có
sự thay đổi cơ bản, cần thiết phải tiến hành đồng thời đổi mới kinh tế với đổi
mới chính trị để thúc đẩy đổi mới toàn diện. Điều này khẳng định sự vận dụng
đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta về bước đi và biện chứng của giải quyết quan
hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Và những kết quả của 25 năm
đổi mới cũng minh chứng cho điều đó.
- Nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị
Nhằm tiếp tục thúc đẩy đổi mới, giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị, trên cơ sở đó phát huy tối đa các nguồn lực

bảo đảm phát triển nhanh và bền vững đòi hỏi có sự đầu tư nghiên cứu thảo
luận, tổng kết thực tiễn đề ra các giải pháp, hướng thực hiện trong thực tiễn.
Một số vấn đề cần triển khai cụ thể là:
Một là, cần làm rõ nội dung cơ bản của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị. Để giải quyết tốt mối quan hệ này đương nhiên trước tiên
phải hiểu rõ, nắm vững nội hàm của mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh
tế và đổi mới chính trị. Kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực cơ bản, rộng lớn của
đời sống xã hội. Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị được biểu
hiện ra thông qua những mối quan hệ cụ thể đòi hỏi phải kết hợp giải quyết tốt.
Đó là những mối quan hệ như: Quan hệ giữa đổi mới thể chế kinh tế với đổi
mới thể chế chính trị; quan hệ giữa phát triển sức sản xuất với bảo đảm định
hướng xã hội Chủ nghĩa của quá trình đổi mới, phát triển; quan hệ giữa tăng
24
trưởng nhanh với tăng trưởng bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội;
quan hệ giữa quyền chủ động, tự do sản xuất kinh doanh của các chủ thể trên
thị trường với bảo đảm xây dựng và thực thi nhà nước pháp quyền xã hội Chủ
nghĩa; quan hệ giữa chủ động và tích cực hội nhập quốc tế với bảo đảm chủ
quyền quốc gia… Việc quan tâm giải quyết các mối quan hệ này sẽ góp phần
thực hiện tốt quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Hai là, công tác tuyên truyền đóng vai trò quan trọng trong việc thực
hiện phối kết hợp hài hòa giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Cùng
với nghiên cứu nắm vững, rõ nội hàm như trên cần thông tin tuyên truyền,
làm cho cán bộ, đảng viên hiểu rõ tầm quan trọng, vai trò quyết định của đổi
mới kinh tế trong tiến trình cách mạng, cũng như nhận rõ tác động, thậm chí
là mở đường của đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh tế. Tuyên truyền làm
rõ cơ sở lý luận, cũng như cơ sở thực tiễn của việc gắn kết đổi mới kinh tế
với đổi mới chính trị; làm rõ thực chất của đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị, những khó khăn và thuận lợi, bất cập trong đổi mới. Có như vậy mới tạo
được sự đồng tâm nhất trí, phát huy được sức mạnh cả cộng đồng trong thực
hiện đổi mới.

Ba là, lực lượng thực hiện và tham gia thúc đẩy, giải quyết tốt mối quan
hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị chính là cả hệ thống chính trị và
người dân. Đổi mới là sự nghiệp của quần chúng, do đó để giải quyết tốt mối
quan hệ này cần có sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị, phát huy
sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đổi mới
kinh tế và chính trị là đổi mới toàn diện, liên quan đến tổng thể các quan hệ
lợi ích, các cá nhân, các tổ chức và hệ thống chính quyền. Do vậy, cần có sự
vào cuộc của cả người dân và hệ thống chính trị. Muốn vậy cùng với đòi hỏi
nâng cao ý thức trách nhiệm của các tổ chức, các cá nhân, rất cần bảo đảm
thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, tạo điều kiện cho mọi người phát huy
sáng kiến và đóng góp của bản thân vào sự nghiệp đổi mới.
Bốn là, về nguyên tắc, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, nhưng cần xác
định trọng tâm, khâu đột phá. Các thành tố của hệ thống chính trị cũng như
kinh tế có mối quan hệ gắn bó với nhau, thúc đẩy, quy định lẫn nhau. Do vậy,
nếu không có sự đồng bộ trong đổi mới tạo sự nhịp nhàng, ăn khớp trong tiến
trình vận động thì đôi khi chúng lại cản trở, hạn chế nhau. Chính tính hệ
thống của kinh tế và chính trị quy định tính toàn diện và đồng bộ của đổi mới.
25

×