Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHO ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.8 KB, 33 trang )

Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
CHƯƠNG I
LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1. Khái niệm chung đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài là sự dịch chuyển tài sản như vốn, công nghệ, kỹ năng quản
lý từ nước này sang nước khác để kinh doanh nhằm thu lợi nhuận cao trên phạm vi
toàn cầu.
Một số đặc điểm của đầu tư nước ngoài:
• Mang đặc điểm của đầu tư nói chung
o Tính sinh lãi.
o Tính rủi ro.
• Chủ sở hữu đầu tư là người nước ngoài
• Các yếu tố đầu tư di chuyển ra khỏi biên giới.
2. Các hình thức đầu tư nước ngoài.
2.1Đầu tư trực tiếp (FDI-Foreign Direct Investmen)
2.1.1 Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (tiếng Anh: Foreign Direct Investment, viết
tắt là FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào
nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty
nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI:
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một
nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút
đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân
biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà
đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh.
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ"
và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty".
2.1.2 Đặc điểm


Về vốn góp: Các chủ đầu tư nước ngoài đóng một lượng vốn tối thiểu theo
quy định của nước nhận đầu tư để họ có quỳên trực tiếp tham gia điều phối,
quản lý quá trình sản xuất kinh doanh. ở Việt Nam luật đầu tư nước ngoài đưa
ra điều kiện: phần vốn góp của bên nước ngoài không dưới 30% vốn pháp định,
trừ những trường hợp do chính phủ quy định.
Về quyền điều hành quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ
thuộc vào mức vốn góp. Nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn thì quyền
điều hành hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư nước ngoài, có thể trực tiếp hoặc thuê
người quản lý.
Về phân chia lợi nhuận: dựa trên kết quả sản xuất kinh doanh, lãi lỗ đều
được phân chia theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định.
2.1.3 Vai trò
FDI là một trong những nguồn vốn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt vốn
đầu tư góp phần tạo ra động lực cho sự tăng trưởng và phát triển. Đối với các
nước đang phát trển, việc tiếp nhận số lượng lớn vốn đầu từ nước ngoài sẽ vừa
tác động đến tổng cầu, vừa tác động đến tổng cung của nền kinh tế.
Đầu tư sẽ tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Một minh chứng thực tế
là các nước NICs trong gần 30 năm qua nhờ nhận được trên 50 tỷ USD đầu tư
nước ngoài cho phát triển kinh tế cùng với một chính sách kinh tế năng động và
có hiệu quả đã trở thành những con rồng Châu Á. Chỉ có “mở cửa” ra bên
ngoài mới tận dụng được tối đa lợi thế so sánh của nước mình để từ đó phát huy
và tăng cường nội lực của mình.
Đầu tư sẽ làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của các nước trên
thế giới cho thấy, con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong
muốn (9-10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
công nghiệp và dịch vụ. Đầu tư sẽ góp phần giải quyết những mất cân đối về
phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi
tình trạng nghèo đói. Phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa

lý, kinh tế, chính trị, … Cơ cấu ngành, cơ cấu công nghệ, cơ cấu sản phẩm và
lao động, cơ cấu lãnh thổ sẽ được thay đổi theo chiều hướng ngày càng đáp ứng
tốt hớn các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Đầu tư sẽ làm tăng cường khả năng khoa học công nghệ của quốc gia.
Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, các công ty (chủ yếu là các công ty đa
quốc gia) đã chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc từ nước khác sang
nước nhận đầu tư. Mặc dù còn nhiều hạn chế do những yếu tố khách quan và
chủ quan chi phối, song điều không thể phủ nhận được là chính nhờ sự chuyển
giao này mà các nước chủ nhà nhận được những kỹ thuật tiên tiến (trong đó có
những công nghệ không thể mua được bằng quan hệ thương mại đơn thuần)
cùng với nó là kinh nghiệm quản lý, đội ngũ lao động được đào tạo, rèn luyện
về nhiều mặt (trình độ kỹ thuật, phương pháp làm việc, kỷ luật lao động … )
2.2 Đầu tư gián tiếp (FII/FPI)
2.2.1 Khái niệm
Đầu tư gián tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư gián tiếp xuyên biên
giới. Nó chỉ các hoạt động mua tài sản tài chính nước ngoài nhằm kiếm lời.
Hình thức đầu tư này không kèm theo việc tham gia vào các hoạt động quản lý
và nghiệp vụ của doanh nghiệp giống như trong hình thức Đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
2.2.2 Đặc điểm
Chủ đầu tư nước ngoài không nắm quyền quản lý trong các tổ chức hoạt
động kinh doanh mà chỉ thu lợi tức thông qua cổ phiếu của doanh nghiệp
Thu nhập của chủ đầu tư phụ thuộc vào loại chứng khoán mà nhà đầu tư
thu mua, có thể cố định hoặc không cố định.
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
Đây là kênh đầu tư chỉ tiếp nhận vốn bằng tiền nên nước nhận đầu tư
không thể tiếp nhận máy móc thiết bị, khoa học kỹ thuật của nước tiến hành
đầu tư.
2.2.3 Vai trò

Góp phần làm tăng nguồn vốn trên thị trường vốn nội địa và làm giảm
chi phí vốn thông qua việc đa dạng hoá rủi ro. Có càng nhiều nguồn đầu tư thì
rủi ro của quá trình đầu tư càng được phân tán, giảm thiểu rủi ro có thể có của
doanh nghiệp, từ đó giảm thiểu rủi ro của cả nền kinh tế. Tạo môi trường đầu
tư lành mạnh cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư, thúc đẩy nền sản xuất hàng
hóa phát triển, kéo theo sự phát triển của cả nền kinh tế
Thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính nội địa: Tài chính của mỗi
quốc gia là có hạn cho dù có dồi dào đến đâu. Sự tham gia của đầu tư gián tiếp
nước ngoài mang đến những cơ hội mới cho cả nền kinh tế nói chung và cho
các doanh nghiệp nói riêng. Vốn đầu tư từ nước ngoài giúp giải quyết nhau cầu
“khát vốn” của cả nền kinh tế, gia tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp,
thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển
Thúc đẩy cải cách thể chế và nâng cao kỷ luật đối với các chính sách
của chính phủ. Để có thể thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài Nhà nước phải tiến
hành cải tổ nền kinh tế, đưa ra những chính sách kinh tế thu hút các nhà đầu tư.
Điều này trực tiếp tác động đến nền kinh tế và các doanh nghiệp đang hoạt
động trong môi trường đó, thúc đấy sự phát triển.
2.3Hỗ trợ phát triển chính thức - ODA
2.3.1 Khái niệm
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
Hỗ trợ phát triển chính thức (hay ODA, viết tắt của cụm từ Official
Development Assistance), là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là Hỗ trợ
bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc
lãi suất thấp với thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là Phát triển
vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng
cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi là Chính thức, vì nó thường là cho Nhà
nước vay.
2.3.2 Đặc điểm
ODA là một giao dịch quốc tế, thể hiện ở chỗ hai bên tham gia giao dịch

này không có cùng quốc tịch. Bên cung cấp thường là các nước phát triển hay
các tổ chức phi chính phủ. Bên tiếp nhận thường là các nước đang phát triển
hay các nước gặp khó khăn về nguồn lực trong việc giải quyết các vấn đề xã
hội, kinh tế hay môi trường.
ODA thường được thực hiện qua hai kênh giao dịch là kênh song
phương và kênh đa phương. Kênh song phương, quốc gia tài trợ cung cấp ODA
trực tiếp cho chính phủ quốc gia được tài trợ. Kênh đa phương , các tổ chức
quốc tế hoạt động nhờ các khoản đóng góp của nhiều nước thành viên cung cấp
ODA cho quốc gia được viện trợ. Đối với các nước thành viên thì đây là cách
cung cấp ODA gián tiếp.
ODA là một giao dịch chính thức. Tính chính thức của nó được thể hiện
ở chỗ giá trị của nguồn ODA là bao nhiêu, mục đích sử dụng là gì phải được sự
chấp thuận và phê chuẩn của chính phủ quốc gia tiếp nhận. Sự đồng ý tiếp nhận
đó được thể hiện bằng văn bản, hiệp định, điều ước quốc tế ký kết với nhà tài
trợ.
ODA được cung cấp với mục đích rõ ràng. Mục đích của việc cung cấp
ODA là nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của các nước nghèo. Đôi
lúc ODA cũng được sử dụng để hỗ trợ các nước gặp hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn như khủng hoảng kinh tế, thiên tai, dịch bệnh Do đó, có lúc các nước
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
phát triển cũng được nhận ODA. Nhưng không phải lúc nào mục đích này cũng
được đặt lên hàng đầu, nhiều khi các nhà tài trợ thường áp đặt điều kiện của
mình nhằm thực hiện những toan tính khác.
ODA có thể được các nhà tài trợ cung cấp dưới dạng tài chính, cũng có
khi là hiện vật. Hiện nay, ODA có ba hình thức cơ bản là viện trợ không hoàn
lại (Ggant Aid), vốn vay ưu đãi ( Loans Aid ) và hình thức hỗn hợp.
2.3.3 Vai trò
Các nước đang phát triển đa phần là trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng
nên thông qua ODA song phương có thêm vốn để phục vụ cho quá trình phát

triển kinh tế - xã hội. ODA mang lại nguồn lực cho đất nước.
Việc sử dụng viện trợ ở các nước đang phát triển nhằm loại bỏ sự thiếu vốn
và ngoại tệ, tăng đầu tư vốn đến điểm mà ở đó sự tăng trưởng kinh tế tạo điều
kiện cho các nước này đạt được đến quá trình tự duy trì và phát triển.
Tạo điều kiện để các nước tiếp nhận có thể vay thêm vốn của các tổ chức quốc
tế, thực hiện việc thanh toán nợ tới hạn qua sự giúp đỡ của ODA.
ODA còn có thể giúp các nước đang lâm vào tình trạng phá giá đồng nội tệ có
thể phục hồi đồng tiền của nước mình thông qua những khoản hỗ trợ lớn của các tổ
chức tài chính quốc tế mang lại.
ODA giúp các nước nhận hỗ trợ tạo ra những tiền đề đầu tiên, đặt nền móng
cho sự phát triển về lâu dài thông qua lĩnh vực đầu tư chính của nó là nâng cấp cơ
sở hạ tầng về kinh tế.
ODA tác động tích cực đến phát triển kinh tế xã hội của các địa phương và
vùng lãnh thổ, đặc biệt là ở các thành phố lớn: nguồn vốn này trực tiếp giúp cải
thiện điều kiện về vệ sinh y tế, cung cấp nước sạch, bảo vệ môi trường. Đồng thời
nguồn ODA cũng góp phần tích cực trong việc phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn,
phát triển nông nghiệp, xoá đói giảm nghèo
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
ODA giúp các doanh nghiệp nhỏ trong nước có thêm vốn, tạo điều kiện nâng
cao hiệu quả đầu tư cho sản xuất kinh doanh, dần dần mở rộng qui mô doanh
nghiệp.
Ngoài ra ODA còn giúp các nước nhận viện trợ có cơ hội để nhập khẩu máy
móc thiết bị cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, từ các
nước phát triển. Thông qua nước cung cấp ODA nước nhận viện trợ có thêm nhiều
cơ hội mới để tham gia vào các tổ chức tài chính thế giới, đạt được sự giúp đỡ lớn
hơn về vốn từ các tổ chức này.
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

1. Tính tất yếu khách quan của đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong xu hướng
toàn cầu hóa.
1.1. Bối cảnh thế giới tác động đến đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế thế gới đang tiến dần đến một chỉnh thể
thống nhất. nó tao điều kiện cho các nước tham gia vào sân chơi chung rộng lớn trên
trường quốc tế, giúp cho các nước có điều kiện tốt hơn để tạo ra mội trường kinh tế,
chính trị - xã hội thuận lợi cho sự phát triển của mình. Quá trình toàn cầu hóa đang
diễn ra mạnh mẽ kéo theo sự gia tăng của các hoạt động đầu tư nước ngoài. Các quốc
gia ngày càng ưu tiên cho sự phát triển kinh tế với sự gia tăng các hình thức hợp tác
kinh tế quốc tế như trao đổi thương mại, chuyển giao khoa học công nghệ và đặc biệt
là hợp tác đầu tư. Các nước công nghiệp phát triển đang ra sức tìm kiếm thị trường
đầu tư thuận lợi đem lại lợi nhuận cao. Trong khi đó, các nước đang phát triển (trong
đó có Việt Nam) là một thị trường đáng chú ý đối với các nhà đầu tư vi đầu tư ở các
nước đang phát triển, các nhà đầu tư có thể giảm được chi phí do sử dụng lao động và
nguồn tài nguyên rẻ, ngoài ra các nhà đầu tư có thể giải quyết được tình trạng thừa
vốn và kéo dài tuổi thọ của các sản phẩm của doanh nghiệp ở thi trường này. Trong
khu vực Đông Nam Á, Việt Nam có vị trí địa lý chính trị quan trọng với nhiều ưu thế
hấp dẫn các nhà đầu tư. Như vậy, sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động đầu tư quốc tế,
nhu cầu đầu tư của các nước công nghiệp phát triển và sự hấp dẫn của thị trường Việt
Nan đã thúc đẩy đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
1.2. Nhu cầu thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Từ năm 1986,Việt nam đã nhận thấy một trong các giải pháp để thoát khỏi
khủng hoảng, thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước,
từng bước tham gia quá trình toàn cầu hóa đó là phát triển kinh tế đối ngoại. trong đó,
thu hút đầu tư là vấn đề quan trọng vì nó đáp ứng được những đòi hỏi của tình hình
thực tiễn ở Việt Nam, đó là:
- Tình hình cụ thể của Việt Nam đòi hỏi phải nhanh chóng nâng cao thu
nhập quốc dân. Đòi hỏi đó buộc chúng ta phải có một nguồn vốn đầu tư rất lớn, nguồn
vốn ngày không thể hoàn toàn trông chờ vào nguồn tích lũy nội bộ trong một thời gian
ngắn của một đất nước còn nghèo. Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, cũng như

các nước đang phát triển khác, Việt Nam gặp phải vấn đề nan giải là thiếu vốn do tích
lũy nội bộ thấp hoặc không có tích lũy. Điều đó đã hạn chế đến quy mô đầu tư và đổi
mới kỹ thuật gây ra tình trạng mất cân đối trong xuất nhập khẩu, cán vân thanh toán
thường xuyên bị thiếu hụt, đất nước thiếu ngoại tệ. Việt thu hút nguồn vốn nước ngoài
giúp Việt Nam giải quyết các khó khăn về khả năng tích lũy vốn thấp và bù đắp các
khoản thiếu hụt ngoại tệ trong cán cân thanh toán.
- Công nghệ của Việt Nam còn lạc hậu, năng suất thấp do trình độ phát
triển kinh tế xã hội, giáo dục, khoa học ở trong nước còn hạn chế. Việt Nam có rất ít
khả năng phát triển công nghệ mới, hiện đại và tiên tiến. Mặt khác khả năng tự nhập
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
khẩ công nghệ của Việt Nam cũng rất hạn chế. Đầu tư nước ngoài sẽ giúp Việt Nam
thu hút được công nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nhà đầu tư
nước ngoài
- Việt Nam là một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, nền công nghiệp
còn nhỏ bé, lực lượng lao động du thừa còn rất nhiều. Đầu tư quốc tế sẽ giải quyết
một phần tình trạng thất nghiệp ở VN. Thông qua việc tạo ra các xi nghiệp mới hoặc
làm tăng quy mô của các đơn vị kinh tế đầu tư quốc tế tạo ra công ăn việc làm cho
một số lượng khá lớn người lao động, bên cạnh đó, đầu tư quốc tế góp phần cải tiến
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, và đưa nền kinh tế tham gia phân công
lao động Quốc tế một cách mạnh mẽ.
Như vây, yêu cầu phát triển nội tại và thực tiễn khách quan trong công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã và đang đòi hỏi Việt Nam cần tới nguồn
đầu tư nước ngoài để hội nhập cùng dòng chảy kinh tế - xã hội trên thế giới.
2. Thực trạng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua:
2.1. Đầu tư trực tiếp (FDI):
2.1.1 Tình hình FDI qua các giai đoạn
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trước những năm 90 còn e dè, mang tính
thăm dò khi Việt Nam, sau khi Diễn đàn Đầu tư Việt Nam được tổ chức thành công
vào năm 1991 với sự có mặt của các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng với thông

điệp Việt Nam đang đổi mới, mở cửa, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển và sẵn
sàng lắng nghe ý kiến của các nhà đầu tư nước ngoài để thu hút vốn đầu tư cho phát
triển kinh tế đã được đích thân Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh gửi tới giới đầu tư thế
giới thì các tên tuổi lớn của thế giới đã xuất hiện: BP, Shell, Total trong ngành dầu khí
hay Daewoo, Toyota, Ford… trong lĩnh vực ô tô xe máy, Sony trong ngành công
nghiệp điện tử, Phú Mỹ Hưng trong lĩnh vực bất động sản. Không chỉ vốn đăng ký,
mà vốn giải ngân đạt đỉnh vào năm 1997 với 3,115 tỷ USD đã giữ kỷ lục suốt 10 năm
sau đó. Để nắm bắt rõ hơn về tình hình FDI ta phân chia thành một số giai đoạn sau:
a) Giai đoạn 1997 – 2000
Năm 1997 mặc dù tổng dự án đăng ký giảm nhẹ so với 1996 nhưng vốn
thực hiện đã mức kỷ lục 3,1 tỷ USD như đã nói trên, tuy nhiên kể từ năm này,
đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực, vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt Nam liên tục giảm. Trong giai đoạn 1997- 2000, vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm trung bình khoảng 24%/năm. Việt Nam đã
trải qua một thời gian tụt dốc của nguồn FDI đăng ký, cụ thể là 16% năm 1998
và 59% năm 1999. Cuộc khủng hoảng đó đã gây lên sự lo ngại về sự bất ổn của
thị trường châu Á, do đó đã làm cho thị trường châu Á trở nên kém hấp dẫn
hơn. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giảm đáng kể từ mức vốn đầu tư đăng ký.
Ngoài ra trong giai đoạn này còn có một xu hướng khác rất đáng lo ngại đó là
số dự án và vốn đầu tư giải thể tăng cao hơn nhiều so với giai đoạn trước.
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
Trong số các dự án đầu tư được cấp giấy phép, tính đến cuối tháng 8
năm 2001 đã thực hiện được khoảng 21 tỷ USD, chiếm 45% tổng số vốn của
các dự án. Tính riêng thời kỳ 1996- 2000 vốn đầu tư thực hiện đạt 12,8 tỷ USD
tăng 80% so với thời kỳ 1991- 1995. Luồng vốn đầu tư nước ngoài thuần túy
chiếm khoảng 60% GDP trong thập kỷ qua. Đầu tư nước ngoài đóng vai trò
quan trọng trong việc đưa vốn và công nghệ vào Việt Nam. Đồng thời nó cũng
có tác động tích cực trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nền kinh tế.

b) Giai đoạn 2000-2007
Nhìn chung, trong giai đoạn này lượng FDI vào Việt Nam tăng mạnh và
đạt kỉ lục vào năm 2007 với tổng số vốn đầu tư đăng kí là 21,3 tỷ USD, vốn
thực hiện đạt 8,03 tỷ USD.
Năm 2006 cả nước có 797 dự án được cấp giấy phép với tổng vốn đầu
đăng ký hơn 7,6 tỷ USD, tăng 60,8% vềvốn đầu tư đăng ký so với cùng kì năm
trước. Quy mô vốn đầu tư trung bình cho một dự án đạt 9,4 triệu USD/dự án,
cao hơn quy mô bình quân của năm 2005 (4,6 triệu USD/dự án).
Xuất hiện thấy hàng loạt các dự án có quy mô đầu tư lớn do các tập
đoàn xuyên quốc gia đầu tư công ty thép 1,126 tỷ USD,công ty TNHH
IntelProducts Việt Nam: 1 tỷ USD; công ty công ty TNHH thép Tycoon Steel
VN : 556 triệu USD; … Điều này cho thấy nhiều nhà đầu tư lớn đang đặc biệt
quan tâm đến Việt Nam.
Cũng trong năm 2006 có 439 lượt dự án tăng vốn đầu tư mở rộng sản
xuất với tổng vốn hơn 2,1 tỷ USD tăng 18,9 % về vốn so với cùng kỳ năm
trước. Tuy số lượt dự án thấp hơn so với năm 2005, nhưng số vốn tăng thêm
nhiều hơn, chứng tỏ số dự án tăng vốn lớn cao hơn so với năm 2005. Năm
2006, vốn FDI thực hiện đạt 4,1 tỷ USD tăng 24,2% so với năm 2005.
c) Giai đoạn 2008-2012
Trong 5 năm này , VIệt Nam đã thu hút được các dự án lớn, sử dụng
công nghệ cao và có khả năng tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh. Cụ thể:
- Vốn thực hiện: đạt 10 tỷ USD, vượt 25% năm 2007 ( 8 tỷ USD)
- Lao động: 16 vạn người, tăng 6,7% so với 2007
- Nộp ngân sách nhà nước; 2 tỷ USD, tăng 29% so với năm 2007
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
30-7-2014 (VF) – Theo Cục Xúc tiến đầu tư (Bộ KH&ĐT), trong
7T.2014 (tính đến 20-7), tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
đạt 9,53 tỷ USD, giảm 19,9% so với cùng kỳ 2013. Trong đó:
• Dự án cấp mới: tổng vốn 6,85 tỷ USD của 889 dự án, giảm nhẹ 0,9% so với

cùng kỳ năm ngoái.
• Dự án tăng thêm: tổng vốn 2,67 tỷ USD của 300 lượt dự án, chỉ bằng 53,7%
cùng kỳ 2013.
Dễ thấy, mặc dù vẫn chưa lớn hơn mức cùng kỳ 2013 nhưng việc sụt
giảm (ở cả các lượt dự án tăng vốn lẫn dự án mới) đều đã được cải thiện so với
tháng 6-2014. Trước đó, FDI giảm 35% so với cùng kỳ T6-2013.
2.1.2 Tình hình FDI phân bổ theo một số chỉ tiêu
a) Theo lĩnh vực đầu tư
Trong tổng số 18 lĩnh vực có đầu tư trực tiếp nước ngoài 7T-2014, 10
lĩnh vực sau có tổng vốn lớn nhất. Tổng vốn đầu tư vào các khu vực này thậm
chí còn lớn hơn tổng vốn của cả nước do lĩnh vực giải trí và nghệ thuật giảm
86,24 triệu USD. Kinh doanh BĐS đã thu hút mạnh mẽ dòng vốn từ nước
ngoài khi lượng vốn được bỏ vào lĩnh vực ngày có xu hướng càng ngày càng
tăng mạnh, đến 20-7, đã tăng gần 95% so cùng kỳ năm ngoái (số liệu tương
ứng của tháng 5 và tháng 6-2014 là 3,09% và hơn 64%). Thứ tự top 10 cũng
thay đổi mạnh mẽ và xuất hiện nhiều ngành mới thay thế cho những ngành suy
giảm. CN chế biến chế tạo giảm hơn 36% và đây là nguyên nhân chính khiến
FDI cả nước sụt giảm mạnh. Trong 7T-2014, chỉ có kinh doanh BĐS và CN
chế biến chế tạo có tổng vốn hơn 1 tỷ USD.
TT Ngành
Tổng vốn cấp mới và tăng
thêm (triệu USD)
7T.2013 7T.2014
Tăng/giảm
(%)
1 CN chế biến, chế tạo (1) 10440,93 6.662,21 -36,19%
2 KD bất động sản (2) 580,77 1.130,80 94,71%
3 Xây dựng (6) 83,16 547,58 558,47%
4 Y tế và trợ giúp XH (7) 82,4 379,71 360,81%
5 HĐ chuyên môn, KHCN69,09 229,20 231,74%

Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
(8)
6
SX, pp điện, khí, nước
,đ.hòa (16)
2,15 212,32 9775,30%
7
Bán buôn, bán lẻ; sửa
chữa (3)
230,98 135,46 -41,35%
8
Dvụ lưu trú và ăn uống
(4)
114,07 112,27 -1,57%
9 Vận tải kho bãi (13) 27,27 94,40 246,16%
10
Nông, lâm nghiệp; thủy
sản (10)
44,58 35,18 -21,08%
Tổng 11675,4 9.539,13 -18,30%
b) Theo địa bàn đầu tư
Thái Nguyên và Thanh Hóa – top 2 của cùng kỳ 2013 – không xuất hiện
trong danh sách 7T-2014 mà chỉ xếp thứ 12 và 23 trên tổng số 45 tỉnh/thành
của cả nước. FDI vào hầu hết các tỉnh trong danh sách top10 đều tăng, trừ Bắc
Ninh và Hải Dương; trong đó mức giảm của Hải Dương tới gần 41%. Dẫu vậy,
tổng vốn vào 10 tỉnh/thành vẫn chiếm 75,8% tổng FDI. Phần lớn lượng vốn
vẫn tập trung vào khu vực đồng bằng Nam Bộ và duyên hải miền Trung. Bắc
Ninh là “ngôi sao” thu hút FDI của cả nước trong tháng 7-2014 khi vươn lên
đứng đầu chỉ trong chưa đầy một tháng từ vị trí thứ 9 của T6-2014. Sự bứt phá

này có được là nhờ dự án trị giá 1 tỷ USD của Công ty TNHH SamSung
Display Bắc Ninh do nhà đầu tư Hàn Quốc bỏ vốn kinh doanh. Quảng Ninh
cũng là địa phương thu hút nhiều dự án có giá trị trong kỳ này.
TT Địa Phương
Tổng vốn cấp mới và tăng
thêm (triệu USD)
7T.2013 7T.2014
Tăng/giảm
(%)
1 Bắc Ninh (3) 1377,09 1.333,66 -3,15%
2 TP Hồ Chí Minh (7) 549,18 1.072,65 95,32%
3 Bình Dương (6) 597,84 1.052,61 76,07%
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
4 Đồng Nai (8) 508,7 818,58 60,92%
5 Hải Phòng (10) 380,25 640,46 68,43%
6 Hà Nội (9) 408,36 612,03 49,87%
7 Quảng Ninh (17) 74,5 573,54 669,85%
8 Tây Ninh (24) 37,7 432,30 1046,68%
9 Hải Dương (5) 647,5 382,73 -40,89%
10 Long An (12) 143,35 304,87 112,68%
Tổng 4724,47 7223,43 52,89%
c) Theo đối tác đầu tư
Trong 7T-2014,Nhật Bản và Singapore – những nhà đầu tư truyền thống
thường xuyên dẫn đầu về FDI vào VN – đã giảm mạnh vốn vào nước ta, lần
lượt hơn 72% và 78%. Lượng vốn giảm mạnh ở cả lượt dự án tăng vốn và các
dự án mới. Trong khi đó, nhờ các dự án lớn, Hàn Quốc là đối tác đầu tư lớn
nhất trong 7 tháng đầu năm. Nhà đầu tư khu vực Đông Nam Á khác cũng góp
phần tăng lượng vốn FDI vào VN mà Indonesia và Malaysia là đối tác đáng
chú ý.

TT Đối tác
Tổng vốn cấp mới và tăng
thêm (triệu USD)
7T.2013 7T.2014
Tăng/giảm
(%)
1 Hàn Quốc (4) 971,94 3.130,68 222,11%
2 Hồng Kông (5) 642,02 1.154,02 79,75%
3 Nhật Bản (1) 4099,73 1.115,21 -72,80%
4 Singapore (2) 3726,67 804,61 -78,41%
5 Đài Loan (6) 335,5 740,23 120,63%
6 BritishVirginIslands (16) 35,14 365,22 939,33%
7 Indonesia (20) 19,62 353,16 1699,99%
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
8 Trung Quốc (10) 95,07 345,84 263,77%
9 Canada (25) 3,37 238,47 6976,38%
10 Malaysia (18) 22,87 211,98 826,87%
Tổng 9951,93 8.459,41 -15,00%
2.2. Đầu tư gián tiếp (FII)
Có thể chia quá trình thu hút nguồn vốn này ra các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1991-1997: Tuy chưa có TTCK, FII đã vào Việt Nam từ những năm
đầu thập niên 90 thế kỷ XX. Thời gian này có 7 quỹ với số vốn khoảng 400 triệu
USD, trong đó có 4 quỹ đại chúng niêm yết ở Anh, Ireland Đây là những quỹ mạo
hiểm, sẵn sàng chấp nhận rủi ro.
Sau khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Mỹ, giá chứng chỉ các quỹ này
tăng và luôn cao hơn NAV (giá trị tài sản ròng). Hai năm 1996-1997, do tác động của
khủng hoảng tài chính châu Á, giá chứng chỉ của 4 quỹ niêm yết giảm mạnh, mức
chiết khấu từ 43,6-47,7% so với NAV.
Giai đoạn 1997-2002: Khủng hoảng tài chính châu Á cũng có những tác động

tiêu cực tới thu hút vốn FII vào Việt Nam. Từ năm 1998-2002 không có quỹ đầu tư
mới ra đời. Trái lại, các quỹ đua nhau rút vốn, giảm quy mô: 5/7 quỹ rút khỏi Việt
Nam; một quỹ thu hẹp 90% quy mô; chỉ còn duy nhất quỹ Vietnam Enterprise
Investment Fund (Veil) bám trụ. Sau khủng hoảng năm 1997, nguồn vốn FII vào Việt
Nam có xu hướng tăng, nhưng quy mô còn nhỏ và chiếm tỷ lệ thấp so với vốn FDI.
Một số quỹ mới hoạt động tại Việt Nam từ năm 2001 có quy mô vốn bình quân từ 5-
20 triệu USD cho một quỹ, nhỏ hơn giai đoạn 1991-1997, chiếm 1,2% vốn FDI. Tỷ lệ
này còn quá thấp so với các nước trong khu vực (tỷ lệ thu hút FII/FDI trong khoảng
30-40%).
Giai đoạn 2003 đến nay: Từ năm 2003, dòng vốn FII vào Việt Nam hồi phục,
tăng dần từng năm và tăng đột biến vào năm 2006-2007. Báo cáo của Ngân hàng ANZ
cho biết, từ năm 2001-2006 vốn FII đạt khoảng 12 tỷ USD và năm 2007 đạt khoảng
5,7 tỷ USD. Năm 2008 và đầu năm 2009, trước những khó khăn của nền kinh tế, dòng
vốn FII có dấu hiệu chững lại và một phần đã được rút ra. Từ cuối quý II/2009, có sự
đảo chiều và quay trở lại của vốn FII, nhưng không thật sự mạnh như mong đợi.
Trong năm 2010, nguồn vốn FII vào Việt Nam đạt 1,7 tỷ USD; năm 2011 đạt mức 1
tỷ USD.
Nhờ những bước tiến mới trong lĩnh vực tài chính của Việt Nam bao gồm: việc
phát hành thêm trái phiếu chính phủ ra nước ngoài và trái phiếu tư nhân, thành lập
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC); quá trình cổ phần hoá đang
diễn ra tại Việt Nam bao gồm cả ngân hàng thương mại quốc doanh; tăng cường đầu
tư cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống điện và giao thông, cải cách khung pháp lý dành
cho các nhà đầu tư nước ngoài, đầu tư FII vào Việt Nam trong thời gian gần đây cũng
đã tăng mạnh.
Biểu hiện rõ nhất là việc đầu tư vào thị trường chứng khoán của các tập đoàn
tài chính quốc tế trong thời gian qua đã không ngừng gia tăng. Làn sóng nhà đầu tư
nước ngoài đổ bộ vào TTCK Việt Nam cũng tăng mạnh. Tổng giá trị tài sản của dòng
vốn đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam tính đến thời điểm

12/2011 khoảng hơn 7 tỷ USD. Dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) vào thị
trường chứng khoán Việt Nam năm 2012 đạt 300 triệu USD, tăng 25% so với năm
2011. Điều này khẳng định Việt Nam vẫn đang là địa chỉ thu hút dòng vốn đầu tư gián
tiếp nước ngoài khá mạnh.
Tháng 1/2012, lượng nhà đầu tư nước ngoài được cấp mã số giao dịch tăng
thêm 0,13% so với cuối năm 2011. Điều đó cho thấy, nhiều nhà đầu tư cá nhân, tổ
chức nước ngoài vẫn thể hiện tin tưởng vào sự ổn định của nền kinh tế của Việt Nam.
Tính đến ngày 31/10/2013, Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam (VSD) đã
cấp mã số giao dịch chứng khoán cho 16.605 nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có
2.208 nhà đầu tư tổ chức và 14.397 nhà đầu tư cá nhân.
8 ngày đầu tháng 11 đã có thêm 12 nhà đầu tư nước ngoài cá nhân và 8 tổ chức
được cấp mã số giao dịch chứng khoán, như vậy đã có 16.625 nhà đầu tư nước ngoài
đã được cấp mã số giao dịch tính đến ngày 8/11/2013.
Biểu đồ: Số NĐT nước ngoài được cấp mã giao dịch từ đầu năm 2013
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
Có thể thấy, số lượng nhà đầu tư nước ngoài được cấp mã giao dịch tăng rất
mạnh trong tháng 3,4 và 5, thời điểm VN-Index tăng phi mã, trung bình mỗi tháng có
gần 90 nhà đầu tư nước ngoài được cấp mã giao dịch. Tính chung từ đầu năm 2013 đã
có 678 nhà đầu tư nước ngoài được cấp mã giao dịch.
Trên thị trường trái phiếu, thành phần nhà đầu tư mua trái phiếu Chính phủ
cũng được mở rộng hơn với sự tham gia của quỹ nước ngoài, công ty bảo hiểm. Đặc
biệt, thị trường trái phiếu cúng đã thu hút được sự tham gia trở lại của các ngân hàng
nước ngoài có uy tín như: HSBC, Deutsche Bank, Standard Charted Bank…
Trên thị trường sơ cấp, tính đến hết tháng 8/2011, nhà đầu tư nước ngoài đã mua ròng
gần 8 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ. Trên thị trường thứ cấp, tính đến hết
8/2011, giá trị giao dịch bán của nhà đầu tư nước ngoài khoảng 14 nghìn tỷ đồng; giao
dịch mua khoảng 20 nghìn tỷ đồng.
Từ năm 2003 đến nay, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã được cải
thiện đáng kể, số lượng và quy mô hoạt động của các quỹ đầu tư nước ngoài hoạt

động tại Việt Nam cũng tăng lên nhanh chóng. Theo thống kê của Công ty quản lý
quỹ chứng khoán VN (VFM), hiện có gần 30 quỹ đầu tư nước ngoài đang hoạt động
tại Việt Nam với tổng vốn rót vào nội địa khoảng 2 tỷ USD. Đến cuối năm 2006,
khoảng trên 2 tỷ USD vốn đầu tư gián tiếp được công bố thông qua các quỹ đầu tư
chính thức.
Thống kê của ĐTCK trên cơ sở dữ liệu Báo cáo các quỹ đầu tư đại chúng các
thị trường mới nổi của Edmond de Rothschild cho thấy, tính đến ngày 14/12/2012,
tổng quy mô vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tồn tại dưới hình thức các quỹ đầu
tư đại chúng đạt 3,827 tỷ USD, tăng 562 triệu USD so với thời điểm đầu năm.
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
Ngoài hình thức đầu tư vào các quỹ đại chúng, dòng vốn gián tiếp nước ngoài
có thể lựa chọn đầu tư vào Việt Nam thông qua nhiều hình thức khác như: quỹ đầu tư
thành viên (chiếm lượng lớn hơn), mở tài khoản giao dịch trực tiếp, mua các chứng
chỉ lưu ký…
Quy mô quỹ đầu tư đại chúng nước ngoài tại Việt Nam
Với xu hướng dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vẫn đang chảy vào khá
mạnh dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể khẳng định rằng nhà đầu tư đang có sự
kỳ vọng vào nền kinh tế Việt Nam. Để dòng vốn này có hiệu quả, bên cạnh việc sử
dụng vốn đúng mục đích của doanh nghiệp, Nhà nước cần xây dựng các cơ chế quản
lý, giám sát vốn đầu tư gián tiếp, có biện pháp quản lý dòng tiền vào ra trên tài khoản
vốn. Đồng thời, phải duy trì tốt quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia để kịp thời can thiệp khi
thị trường có biến động và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động cải thiện môi trường đầu tư,
đặc biệt là khung pháp lý, cơ chế và sách lược phát triển.
2.3. Nguốn vốn ODA:
Giai đoạn trước 1991: Ở giai đoạn này, nhà tài trợ chủ yếu của Việt Nam là
Hội đồng tương trợ kinh tế quốc tế SEV và Liên Xô cũ. Từ 1975-1979, hàng năm
SEV tài trợ cho Việt Nam 500 triệu USD, từ 1980-1984 là 1 tỷ USD mỗi năm và
1985-1986 là 1,5 tỷ USD mỗi năm. 1987-1991, khối SEV khủng hoảng và tan rã nên
Liên Xô trở thành nhà tài trợ song phương lớn nhất của Việt Nam.

Giai đoạn 1993-nay:
Ngày 8/11/1993, Hội nghị bàn tròn về ODA dành cho Việt Nam đã được tổ chức tại
Paris, Pháp. Sự kiện quan trọng này chính thức đánh dấu sự mở đầu mối quan hệ hợp
tác phát triển giữa nước Việt Nam trên đường đổi mới và cộng đồng các nhà tài trợ
quốc tế.
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
Từ 1994-2008, thông qua các Hội nghị CG, các nhà tài trợ đã cam kết tài trợ ODA cho
Việt Nam với tổng lượng là 42.437,6 triệu USD, tổng vốn ODA ký kết khoảng
30.010,25 triệu USD, tổng vốn OAD giải ngân đạt xấp xỉ 20.099 tiệu USD .
Hiện có khoảng 50 nhà tài trợ song phương và đa phương đang hoạt động, cung cấp
nguồn ODA và vốn vay ưu đãi cho nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế, xã hội của Việt
Nam.
2.3.1. Tình hình nguồn vốn ODA cam kết, ký kết và giải ngân giai đoạn
1993 – 2012:
Tổng vốn ODA ký kết trong các điều ước quốc tế cụ thể từ năm 1993 đến 2012
đạt trên 58,4 tỷ USD, chiếm 71,69% tổng vốn ODA cam kết, trong đó vốn vay ưu đãi
đạt 51,6 tỷ USD và chiếm khoảng 88,4%, vốn ODA không hoàn lại đạt 6,76 tỷ USD
và chiếm khoảng 11,6%.
Trong hai thập kỷ qua, tổng nguồn vốn ODA giải ngân đạt 37,59 tỷ USD,
chiếm trên 66,92% tổng vốn ODA ký kết. Mức giải ngân ODA đã được cải thiện đáng
kể đó là nhờ sự điều hành sát sao của Chính phủ, nỗ lực to lớn của các ngành, các cấp
và các nhà tài trợ trong việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân nguồn vốn ODA
theo chủ trương kích cầu đầu tư của Chính phủ. Cụ thể là: chương trình vay giảm
nghèo từ Ngân hàng Thế giới (WB) và tài trợ không hoàn lại của một số nhà tài trợ
khác, trị giá 350 triệu USD; khoản vay khắc phục hậu quả khủng hoảng kinh tế từ
ADB, trị giá 500 triệu USD; khoản vay kích thích kinh tế và tín dụng hỗ trợ giảm
nghèo lần thứ 8 trị giá 54,9 tỷ Yên (tương đương 609 triệu USD) do Nhật Bản tài
trợ…
Đồng thời, công tác quản lý và thực hiện vốn ODA ở các Bộ, ngành và địa

phương đã được cải thiện thông qua việc ban hành các quy chế nội bộ về vận động,
thu hút và sử dụng vốn ODA tạo thuận lợi cho việc tinh giản quy trình, thủ tục và tăng
cường sự phối hợp giữa các sở, ngành hoặc đơn vị liên quan. Các cơ quan Việt Nam
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
đã có sự phối hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ như WB, ADB… trong việc kiểm điểm
tình hình thực hiện dự án, đặc biệt giữa Tổ công tác ODA của Chính phủ và Nhóm 6
Ngân hàng phát triển.
Có thể thấy mức giải ngân vốn ODA đã có tiến bộ qua các năm song chưa
tương xứng với mức cam kết.
Riêng 2 năm 2012-2013, nhờ quyết tâm cao của Chính phủ, nỗ lực của các
ngành, các cấp và nhà tài trợ, giải ngân của một số nhà tài trợ quy mô lớn (Nhật Bản,
Ngân hàng Thế giới - WB) đã có tiến bộ vượt bậc. Tỷ lệ giải ngân vốn ODA của Nhật
Bản tại Việt Nam năm 2011 đứng thứ nhì và năm 2012 đứng thứ nhất thế giới, tỷ lệ
giải ngân của WB tại Việt Nam tăng từ 13% năm 2011 lên 19% năm 2012.
2.3.2. Tình hình nguồn vốn ODA ký kết theo ngành giai đoạn 1993 – 2012:
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
Lĩnh vực giao thông vận tải và bưu chính viễn thông được ưu tiên tiếp nhận và
sử dụng nguồn vốn ODA lớn nhất trong tổng số 7 lĩnh vực khoảng 16,47 tỷ USD,
trong đó 15,9 tỷ USD là ODA vốn vay.
Trong thời kỳ 1993-2012, ngành giao thông vận tải đã hoàn thành và đang thực
hiện 132 dự án, trong đó đã hoàn thành 83 dự án với vốn ODA đạt 5 tỷ USD và đang
thực hiện 49 dự án với số vốn ODA khoảng 12 tỷ USD.
Ngành năng lượng và công nghiệp có tổng vốn ODA được ký kết trong thời kỳ
1993-2012 đạt khoảng 10 tỷ USD, trong đó viện trợ không hoàn lại không đáng kể,
khoảng 0,1%. Tổng số nhà tài trợ là 32, trong đó có 26 nhà tài trợ song phương và 6
nhà tài trợ đa phương.
Lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo
nhận được nguồn vốn ODA đứng thứ ba với tổng trị giá ký kết khoảng 8,85 tỷ USD

(ODA vốn vay: 7,43 tỷ USD, ODA viện trợ không hoàn lại: 1,42 tỷ USD).
2.3.3. Tình hình nguồn vốn ODA ký kết theo vùng giai đoạn 1993 – 2012:
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
Hiện vẫn tồn tại tình trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA không đồng đều
giữa các tỉnh trên địa bàn các vùng trong cả nước trong đó vùng đồng bằng sông Hồng
tiếp nhận nguồn vốn ODA lớn nhất với 10,42 tỷ USD và vùng Tây Nguyên tiếp nhận
nguồn vốn ODA thấp nhất với 1,36 tỷ USD.
Chính phủ Việt Nam có chính sách sử dụng ODA để hỗ trợ các ngành, lĩnh vực và địa
phương ưu tiên, nhất là đối với những địa bàn có nhiều khó khăn trong từng thời kỳ
phát triển.
2.3.4. Tình hình cam kết vốn ODA của các nhà tài trợ giai đoạn 1993
-2012:
Nhật Bản là nhà tài trợ song phương lớn nhất cho Việt Nam trong giai đoạn
1993-2012 với khoảng 19,81 tỷ USD. Hầu hết các tập đoàn lớn, trong đó có các tập
đoàn tài chính của Nhật Bản đã có sự hiện diện tại Việt Nam.Pháp đứng thứ hai với
3,91 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ ba với 2,33 tỷ USD.
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
WB đứng đầu trong nhóm 6 ngân hàng phát triển với khoảng 20,1 tỷ USD.
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đứng thứ hai với 14,23 tỷ USD vốn ODA cam
kết.
Trải qua 20 năm đồng hành trong sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội đất nước,
quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam với các nhà tài trợ không ngừng được củng
cố và phát triển. Hiện ở Việt Nam có hơn 50 nhà tài trợ song phương và đa phương
đang hoạt động. Qua 20 Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ (CG) hằng năm, tổng
giá trị vốn ODA cam kết của các nhà tài trợ (NTT) đạt 78,195 tỷ USD.
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
CHƯƠNG 3. THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP

Bên cạnh những lợi ích hiển nhiên to lớn của dòng vốn nước ngoài qua các kênh
thu hút khác nhau, như bổ sung vốn đầu tư và gia tăng nguồn động lực mới, tích cực
và mạnh mẽ hơn cho phát triển của đất nước, cải thiện cơ cấu và trình độ phát triển
kinh tế, công nghệ, thị trường, đội ngũ lao động và quản lý đầu tư trực tiếp còn
mang lại những thách thức mà chúng ta phải nhận thấy và tìm cách khắc phục.
1. Nguy cơ từ những máy móc, công nghệ lạc hậu :
Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ đầu tư vào nước đó vốn
bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu. Do
vậy về lâu dài đây chính là lợi ích căn bản nhất đối với nước nhận đầu tư. Tuy nhiên,
các công ty nước ngoài thường chuyển giao những công nghệ kỹ thuật lạc hậu và máy
móc thiết bị cũ cho nên tạo nên một thách thức lớn cho chúng ta. Nguyên nhân là do:
+ Một là, viêc chuyển giao công nghệ lạc hâu cũng đem lại nguồn thu cho các
nước đầu tư. Lợi dụng sự “ khát” công nghệ và yếu kém trong khâu quản lý của các
nước chủ nhà một số nhà đầu tư nước ngoài thông qua con đường FDI để tiêu thụ
những máy móc, thiết bị lạc hậu, thậm chí cả những thiết bị đã thải loại với giá cao.
Thực tế cho thấy khi thực hiện các dự án liên doanh các đối tác nước ngoài đã tranh
thủ góp vốn bằng các thiết bị và vật tư đã bị lạc hậu hoặc đã qua sử dụng nhưng được
tân trang… với giá không hề thấp. Và những công nghệ được chuyển giao theo các dự
án FDI thường là công nghệ được đưa vào theo lợi ích của nhà đầu tư, mà thường
không phải theo nhu cầu đổi mới công nghệ do phía Việt Nam chủ động đưa ra. Hiện
nay, tuy hoạt động chuyển giao công nghệ trong các dự án FDI đã có đóng góp tích
cực đối với đổi mới và chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực công nghệ của các
doanh nghiệp, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và nhu cầu đổi mới
công nghệ của doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế.
+ Hai là, sự phát triển khoa học mãnh mẽ ở các nước phát triển làm cho máy móc
thiết bị nhanh chóng trở thành lạc hậu, nên để nâng cao chất lượng sản phẩm cần phải
thay thế những máy móc cũ bằng những những máy mới, và họ xử lý những máy móc
cũ đó bằng cách chuyển giao qua những nước kém hoặc đang phát triển. Làm như vậy
họ vừa giải quyết được vấn đề của chính mình lại vừa thu được lợi nhuận do những
máy móc này được tính vào tài sản góp vốn.

Do vậy việc chuyển giao công nghệ lạc hậu đã gây thiệt hại cho các nước nhận
đầu tư như là:
+ Rất khó tính được giá trị thực của những máy móc chuyển giao đó. Do đó
nước được đầu tư thường bị thiệt hại trong việc tính tỷ lệ góp trong các doanh nghiệp
liên doanh và hậu quả là bị thiệt hại trong việc chia lợi nhuận.
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
+ Gây tổn hại môi trường sinh thái. Do các công ty nước ngoài bị cưỡng chế
phải bảo vệ môi trường theo các quy định rất chặt chẽ ở các nước công nghiệp phát
triển, nên thông qua đầu tư trực tiếp bằng hình thức FDI họ muốn xuất khẩu sang các
nước mà biện pháp cưỡng chế, luật bảo vệ môi trường không hữu hiệu.
+ Chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất cao và do đó sản phẩm của các nước
nhận đầu tư khó có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Thực tiễn cho thấy, tình hình chuyển giao công nghệ của các nước công nghiệp
sang các nước đang phát triển đang còn là vấn đề gay cấn.Ví dụ theo báo cáo của ngân
hàng phát triển Mỹ thì 70% thiệt bị của các nước Mỹ La Tinh nhập khẩu từ các nước
tư bản phát triển là công nghệ lạc hậu.Cũng tương tự, các trường hợp chuyển giao
công nghệ ASEAN lúc đầu chưa có kinh nghiệm kiểm tra nên đã bị nhiều thiệt thòi.
Tuy nhiên, mặt trái này cũng một phần phụ thuộc vào chính sách công nghệ
của các nước nhận đầu tư. Chẳng hạn như Mehico có 1800 nhà máy lắp ráp sản xuất
của các công ty xuyên gia của Mỹ. Mội số nhà máy này được chuyển sang Mehico để
tránh những quy định chặt chẽ về môi thường ở Mỹ và lợi dụng những khe hở của luật
môi trường ở Mehico.
 Biện Pháp:
- Để tránh trường hợp trở thành bãi rác công nghệ của thế giới, nhà nước ta nên có
qui định chặt chẽ trước khi ký nhân kết đầu tư từ các nước như: tùy từng ngành, từng
lĩnh vực mà các loại máy móc, thiết bị nào được phép nhập, về tiêu chuẩn kỹ thuật của
những thiết bị đó phải đảm bảo để phục vụ sản xuất, về năm sản xuất ,… của những
máy móc sẽ được đưa vào Việt Nam trong quá trình đầu tư.
- Qui định chặt chẽ về bảo vệ môi trường trong quá trình đầu tư, tuy hiện nay nhà

nước cũng có những qui định về bảo vệ môi trường nhưng chưa chặt chẽ, còn nhiều lỗ
hổng, các nhà đầu tư dễ dàng lách luật. Do đó ta cần có những qui định về xây dựng
những hệ thống xử lý nước thải, xử phạt khi vi phạm…tránh trường hợp làm cho có
mà không sử dụng được, gây ô nhiễm môi trường.
- Tuyển dụng và luôn nâng cao trình độ của đội ngũ quản lý, tiếp nhận dự án, đánh
giá năng lực nhà đầu tư, tiêu chuẩn kỹ thuật của thiết bị, máy móc được đầu tư …để
tránh trường hợp do năng lực yếu kém hoặc vì lợi ích cá nhân mà nhận gây thiệt hại
cho chính đất nước.
- Cần có qui định xử lý sai phạm, chế tài mạnh để có thể giảm thiểu được việc biết
nhưng vẫn cố tình vi phạm.
2. Mất cân đối trong trong nhiều khía cạnh ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính hiệu
quả hoạt động của nền kinh tế:
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Nhóm 09 GV: Thầy Trịnh Xuân Ánh
- Thứ nhất, mất cân đối trong đăng ký và triển khai dự án FDI.
Tỷ lệ vốn thực hiện thấp so với vốn đăng ký, thời kỳ 2008-2012 chỉ đạt 37,06%.
Nguyên nhân là do Việt Nam chưa có một chiến lược và quy hoạch thu hút vốn FDI ở
tầm quốc gia, khiến việc thu hút FDI mang tính bị động, cơ sở hạ tầng yếu kém hạn
chế khả năng hấp thụ vốn đầu tư, công tác thẩm định khả năng tài chính của nhà đầu
tư còn nhiều hạn chế, đặc biệt ở cơ quan cấp giấy phép ở các địa phương.
- Thứ hai, mất cân đối trong thu hút FDI theo địa phương.
Sự mất cân đối này ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế theo vùng miền, ảnh hưởng tới
an ninh quốc gia. Những nơi thu hút nhiều FDI thì phát triển nhanh nhưng kéo theo là
sự quá tải về cơ sở hạ tầng, ô nhiễm môi trường, chi phí kinh doanh, giá cả các
phương tiện phục vụ cho đời sống tăng nhanh. Trong khi đó, lợi nhuận mang lại cho
Việt Nam từ FDI không tương xứng với giá trị của nguồn tài nguyên vĩnh viễn bị mất
đi
- Thứ ba, mất cân đối trong thu hút vốn đầu tư từ đối tác đầu tư.
Tính đến quý I/2014 có hơn 250 lượt dự án đầu tư vào Việt Nam nhưng chủ yếu đến
từ châu Á (trên 70% số dự án). Nguồn vốn đến từ các nước châu Âu không nhiều:

Đức, Anh, Pháp chiếm 8,8 %; Canada, Hoa Kỳ chiếm 7,7%, đặc biệt có nhiều dự án
mà chủ đầu tư đến từ các hòn đảo "thiên đường trốn thuế" (nơi có thuế thu nhập doanh
nghiệp bằng 0) như British Virginislands: 512 dự án với tổng số vốn đăng ký trên 15,3
tỷ USD, Cay man Island 54 dự án với tổng số vốn đầu tư trên 5,6 tỷ USD. Chưa kể,
hiện Việt Nam chỉ mới thu hút được trên 120 trong tổng số 500 tập đoàn xuyên quốc
gia hàng đầu thế giới. Nguyên nhân là do chưa có chiến lược dài hạn để thu hút vốn,
cho nên xúc tiến thương mại chưa có chiến lược lôi kéo các nhà đầu tư có tiềm năng
về cả vốn lẫn công nghệ, có sức lan tỏa đến hoạt động kinh tế nội địa.
- Thứ ba, mất cân đối trong thu hút FDI theo ngành kinh tế.
Các ngành kinh tế Việt Nam chia thành 18 nhóm, trong đó mức độ thu hút đầu tư mỗi
lĩnh vực lại rất khác. Điển hình như: Ngành Công nghiệp chế biến và chế tạo: Riêng
quý I/2014 thu hút đến 141 dự án FDI, chiếm trên 69,9% số vốn đầu tư vào Việt Nam;
ngành bất động sản: Có 20 dự án đầu tư vào bất động sản với tổng số vốn đầu tư 288,3
triệu USD chiếm 8,6% tổng vốn đầu tư, đứng thứ 2 trong tổng số các ngành thu hút
vốn FDI sau ngành công nghiệp chế biến và chế tạo…
 Giải pháp:
- Một là, xây dựng chiến lược, mục tiêu Chiến lược thu hút vốn FDI đến năm 2020:
Hàng năm thu hút lượng vốn FDI (khoảng 30% vốn) vào đầu tư phát triển kinh tế Việt
Nam. Theo đó, mỗi năm Việt Nam cần lôi kéo được 10 công ty có ảnh hưởng nhất
toàn cầu đến đầu tư. Đồng thời, chuyển dịch mạnh việc thu hút vốn FDI vào các
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

×