Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận môn ngân hàng thị trường vốn NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VÀ HẠN CHẾ CỦA THỊ TRƯỜNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.42 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC
ĐỀ TÀI:
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VÀ HẠN CHẾ CỦA THỊ
TRƯỜNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM HIỆN
NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Giảng viên: TS Nguyễn Thị Lan
Sinh viên thực hiện: Phạm Thị Ánh
Phạm Thị Thu Hoài
Lương Thị Hồng Loan
Lê Ngọc Quân
Lê Thị Hải Yến
Lớp: TCNH 19A
Hà Nội, tháng 11 năm 2012
MỤC LỤC
1
LỜI NÓI ĐẦU
Với mục tiêu tăng trưởng và phấn đấu trở thành một nước công nghiệp
vào năm 2020, thì nhu cầu vốn để đổi mới máy móc thiết bị của nền kinh tế Việt
Nam là một đòi hỏi hết sức bức thiết.
Khi doanh nghiệp có nhu cầu về vốn, một hình thức tài trợ mà doanh
nghiệp thường nghĩ đến đầu tiên là tìm đến các ngân hàng, tổ chức tài chính
thông qua hình thức vay nợ. Nhưng khi đối mặt với những thủ tục phiền toái và
rườm rà của ngân hàng, cho đến khi được chấp nhận thì cơ hội kinh doanh của
doanh nghiệp đã trôi qua. Còn nếu huy động vốn từ thị trường vốn bên ngoài thì
phần lớn doanh nghiệp Việt Nam không đủ khả năng và còn nhiều trở ngại khác
mà doanh nghiệp phải đối mặt. Chúng ta không thiếu vốn để phục vụ cho những
nhu cầu trên của nền kinh tế, cái mà chúng ta thiếu là thiếu những công cụ huy
động vốn và sử dụng vốn hiệu quả. Với những ưu thế nổi bật như dễ tiếp cận,
tính linh hoạt cao, tránh được sự lỗi thời về công nghệ, hạn chế rủi ro, tiết kiệm
chi phí, thủ tục đơn giản, và nhất là không phải thế chấp tài sản… cho thuê tài


chính (CTTC) được xem là loại hình ưa chuộng được các doanh nghiệp nhắm tới.
CTTC được biết đến tại Việt Nam trong những năm 90, trải qua khoảng
15 năm hình thành và phát triển, thị trường CTTC cũng đã đạt được một số kết
quả nhất định, tuy nhiên cũng còn một số hạn chế. Bài tiểu luận “ Những đặc
điểm cơ bản và hạn chế của thị trường cho thuê tài chính của Việt nam hiện
nay – thực trạng và giải pháp” mong muốn góp phần vào việc phổ biến cũng
như thúc đẩy hình thức CTTC phát triển.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của bài tiểu luận được trình bày trong ba chương:
Chương I: Tổng quan thị trường cho thuê tài chính
Chương II: Thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay
Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển thị trường cho thuê tài chính
tại Việt Nam
2
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH
1. Quá trình hình thành và phát triển
Trên thế giới, dáng dấp của loại hình CTTC xuất hiện vào khoảng thế kỷ
18 tại Mỹ với mục đích là tài trợ vốn cho ngành vận tải. Loại hình này chỉ thực
sự phát triển từ sau Thế chiến II ở hầu hết các nước phát triển như Mỹ, Đức,
Anh, Pháp, Nhật Bản… và trở lên phổ biến vào những năm 1950, 1960 thế kỷ 20
với mục đích tài trợ vốn đến tận người sản xuất và tiêu dùng (lực lượng chiếm số
lượng lớn trong xã hội). Hiện nay, trên thế giới, khoảng 80 quốc gia có hoạt động
CTTC.
Trong những năm gần đây, doanh thu từ hoạt động CTTC trên thế giới đã
có nhiều dấu hiệu khả thi, trung bình hàng năm ở Hàn Quốc là 17 tỷ USD, ở Thái
Lan 2 tỷ USD… Tại Mỹ, ngành CTTC chiếm khoảng 25% - 30% tổng số tiền tài
trợ cho các giao dịch mua bán thiết bị hàng năm của các doanh nghiệp. Và tổng
doanh thu hàng năm của “nền công nghiệp” CTTC ước đạt trên 500 tỷ USD với
đà tăng trưởng ở tốc độ trung bình 7%/năm. Như vậy, xét về mặt lý thuyết thì

đây là một loại hình cấp vốn khá phổ biến trên thế giới và có nhiều lợi thế cạnh
tranh so với các hình thức cấp vốn khác cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh
nghiệp nhỏ và vừa.
2. Khái niệm và các chủ thể tham gia thị trường CTTC
2.1. Khái niệm của thị trường CTTC
CTTC vừa là một hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn, vừa là một
dạng cho thuê tài sản mà theo đó, bên cho thuê cho khách hàng quyền sử dụng tài
sản trong một thời hạn nhất định, với điều kiện khách hàng phải trả tiền thuê và
không được hủy bỏ hợp đồng trước hạn. Khi kết thúc thời hạn cho thuê, bên thuê
được nhận quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thoả thuận
của hai bên.
Một giao dịch được gọi là thuê tài chính phải thoả mãn một trong những
điều kiện:
3
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển
quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai bên.
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê, bên thuê được quyền ưu tiên mua tài sản
thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm
mua lại;
- Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần
thiết để khấu hao tài sản thuê;
- Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng CTTC, ít nhất
phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng
Do đó, CTTC thực ra là một hình thức cấp tín dụng. Khi một hợp đồng
thuê tài chính được ký kết, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp được cấp một
khoản vốn. Khoản vốn này có được do doanh nghiệp không phải bỏ tiền ra mua
tài sản mà vẫn có tài sản sử dụng lâu dài cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì
đáng lẽ ra, có thể doanh nghiệp đã phải đi vay một số vốn tương đương giá trị tài
sản trong hợp đồng thuê trả cho công ty cho thuê tài chính bao gồm cả vốn gốc
và lãi.

Như vậy, thị trường CTTC là một bộ phận của thị trường vốn, thị trường
này diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính
trung, dài hạn thông qua những phương thức giao dịch nhất định. Trong đó,
người cung vốn đóng vai trò là người cho thuê cam kết mua tài sản thiết bị theo
yêu cầu của bên đi thuê (người sử dụng vốn) và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài
sản cho thuê. Bên đi thuê được quyền sử dụng tài sản thuê trong thời gian thỏa
thuận của hợp đồng và thanh toán tiền thuê đúng hạn cho bên thuê.
Thị trường CTTC có những vai trò chủ yếu sau:
- Góp phần thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế: Là một bộ phận của thị
trường vốn, thị trường CTTC thực hiện chức năng huy động các nguồn tài chính
trong và ngoài nước. Trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày nay, CTTC còn góp
4
phần thúc đẩy các quốc gia thu hút nguồn vốn quốc tế cho nền kinh tế thông qua
các loại máy móc thiết bị cho thuê quốc gia đó nhận được mà không làm gia tăng
khoản nợ nước ngoài.
- Góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ, thiết bị: Thông qua hình thức
CTTC, các loại máy móc, thiết bị có trình độ công nghệ tiên tiến được đưa vào
các doanh nghiệp, từ đó góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền sản xuất
trong những điều kiện khó khăn về vốn đầu tư. Nhất là đối với các nền kinh tế
đang phát triển như Việt Nam, việc đầu tư vào công nghệ một cách kịp thời là
điều kiện cần để có thể hòa nhập cùng thế giới.
- Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc cơ cấu nguồn vốn kinh doanh hợp lý: Sử
dụng thuê mua tài chính, doanh nghiệp hoàn toàn có thể dành vốn cho kinh
doanh mà vẫn đảm bảo được yêu cầu đầu tư vào tài sản cố định. Hơn nữa, thông
qua nghiệp vụ mua và cho thuê lại của sản phẩm CTTC, các doanh nghiệp có thể
nhanh chóng chuyển đổi nguồn tài sản cố định thành tài sản lưu động hay chuyển
dịch vốn đầu tư cho các dự án kinh doanh khác hiệu quả cao hơn trong khi vẫn
duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh hiện hành vì tài sản vẫn đang sử
dụng tại chính doanh nghiệp.
2.2. Chủ thể tham gia thị trường CTTC

Một giao dịch CTTC thông thường gồm các chủ thể sau:
- Bên cho thuê: cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và
các động sản khác theo yêu cầu của Bên thuê và nắm quyền sở hữu đối với các
tài sản thuê trong suốt quá trình thuê.
- Bên thuê: được sử dụng tài sản thuê, thanh toán tiền thuê trong suốt thời
hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được hủy bỏ hợp đồng thuê trước
thời hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, Bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua
lại hoặc tiếp tục thuê lại tài sản đó theo các điều kiện đã được hai bên thoả thuận.
- Nhà cung cấp: là người bán tài sản cho thuê, có nghĩa vụ thực hiện việc
chuyển giao, lắp đặt tài sản thuê theo hợp đồng mua - bán, hướng dẫn kỹ thuật,
vận hành…
5
2.3. Phân biệt CTTC với các hình thức tín dụng khác
CTTC là phương thức cấp tín dụng mà đối tượng là một tài sản cụ thể.
Khác với các hình thức cấp tín dụng khác mà theo đó tổ chức tín dụng chuyển
giao một khoản tiền, trong hình thức cấp tín dụng CTTC, tổ chức tín dụng tiến
hành cấp tín dụng bằng cách chuyển giao cho khách hàng (bên thuê) một tài sản
cụ thể (máy móc, dây chuyền sản xuất, phương tiện vận tải hoặc động sản khác)
để bên thuê sử dụng trong một thời gian nhất định.
Tính chất thanh toán trọn vẹn của giao dịch CTTC cho thấy bản chất tín
dụng của hoạt động này. Tổ chức tín dụng được bảo đảm về khả năng hoàn trả
của khách hàng đối với khoản tín dụng đã chuyển giao thông qua quyền nhận
tiền thuê. Cũng tương tự như pháp luật một số quốc gia trên thế giới, pháp luật
Việt Nam ghi nhận CTTC là hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn, nhằm phù
hợp với đặc điểm của đối tượng cho thuê là những động sản có giá trị, thời gian
cần thiết để khấu hao thường từ một năm trở lên.
* Phân biệt CTTC và cho thuê vận hành:
Cho thuê là một giao dịch hợp đồng giữa hai chủ thể - Bên chủ sở hữu tài
sản và bên sử dụng tài sản. Trong đó bên chủ sở hữu tài sản – bên cho thuê
chuyển giao tài sản cho bên đi thuê sử dụng trong một thời gian nhất định và bên

sử dụng phải thanh toán tiền thuê cho bên chủ sở hữu tài sản.
Cho thuê có hai loại chính là cho thuê hoạt động và cho thuê tài chính:
+ Cho thuê hoạt động là loại cho thuê ngắn hạn và trong nội dung hợp
đồng thuê tài sản không thể hiện sự chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn
liền với quyền sở hữu tài sản.
+ CTTC là loại cho thuê dài hạn và trong nội dung hợp đồng thuê tài sản
có thể hiện sự chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền quyền sở hữu tài
sản.
Phân biệt cho thuê hoạt động và CTTC
Cho thuê hoạt động Cho thuê tài chính
* Thời hạn cho thuê ngắn so với thời
gian hữu dụng của tài sản.
* Thời hạn cho thuê tương đối dài so
với thời gian hữu dụng của tài sản.
6
* Bên cho thuê gánh chịu phần lớn rủi
ro liên quan đến tài sản.
* Không có cam kết bán lại tài sản.

* Hiện giá của các khoản chi trả tiền
thuê thông thường nhỏ hơn nhiều so với
giá trị của tài sản thuê.
* Bên thuê gánh chịu phần lớn rủi ro
liên quan đến tài sản.
* Thông thường, bên cho thuê có cam
kết bán lại tài sản cho bên thuê khi hết
thời hạn hợp đồng.
* Hiện giá của các khoản tiền chi trả
tiền thuê gần bằng với giá trị của tài sản
thuê.

Những điểm khác biệt trên đây thực chất là khác biệt mang tính phổ biến
của hai loại cho thuê nói trên. Tuy nhiên, trong đời sống thực tế người ta có thể
vận dụng hết sức linh hoạt, vì vậy nhiều lúc ranh giới giữa hai loại cho thuê này
cũng không rõ ràng. Do đó, hiện nay phần lớn các nước đã đưa ra các tiêu chuẩn
dựa trên các tiêu chuẩn do Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC-
International Accounting Standard Council) đã qui định để xác minh một hợp
đồng giao dịch được gọi là hợp đồng cho thuê hoạt động hay hợp đồng CTTC.
Theo qui định của Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế, bất cứ một giao dịch
cho thuê nào thỏa mãn ít nhất một trong bốn tiêu chuẩn sau đây đều được gọi là
CTTC:
+ Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao khi chấm dứt thời hạn hợp
đồng.
+ Hợp đồng có qui định quyền chọn mua.
+ Thời hạn hợp đồng bằng phần lớn thời gian hoạt động của tài sản.
+ Hiện giá của các khoản tiền thuê lớn hơn hoặc gần bằng giá trị của tài
sản thuê.
3. Lợi ích của hoạt động CTTC
3.1. Lợi ích đối với nền kinh tế
Trong bất cứ xã hội nào, nền kinh tế nào mà tìm được phương thức để
người có vốn và người cần vốn gặp nhau hiệu quả, tối ưu thì xã hội đó, nền kinh
tế đó sẽ phát triển. Bản chất của hoạt động CTTC là một hình thức cấp tín dụng
trung và dài hạn; thị trường CTTC cũng là một bộ phận của thị trường vốn, thị
trường này diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán quyền sử dụng các nguồn tài
7
chính trung dài hạn theo những phương thức giao dịch nhất định. Như vậy,
CTTC hay thị trường CTTC đã góp một phần để giải quyết bài toán về vốn cho
nền kinh tế.
CTTC gắn chặt với việc trang bị, đổi mới máy móc, công nghệ và mở
rộng sản xuất, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất của các ngành công nghiệp vừa
và nhỏ. Phát triển tốt thị trường CTTC sẽ giúp cho các doanh nghiệp đổi mới

công nghệ, nâng cao năng suất của doanh nghiệp cũng như của toàn nền kinh tế.
Đặc biệt thông qua hình thức CTTC có thể thu hút một lượng vốn lớn từ
dân cư qua các hình thức huy động vốn trung, dài hạn hoặc liên doanh với nước
ngoài để tạo ra kênh dẫn vốn từ bên ngoài vào cho nền kinh tế.
3.2. Lợi ích đối với người cho thuê
Đối với bên cho thuê, việc ra đời và áp dụng phương thức tài trợ CTTC
không phải là loại hình thay thế các phương thức tài trợ cổ điển như cho vay
trung và dài hạn bằng tiền, mà nó là hình thức tài trợ bổ sung nhằm tạo điều kiện
cho các định chế tài chính mở rộng khách hàng và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đứng trên góc độ người cho thuê phương thức tài trợ này có một số lợi ích so với
loại tài trợ khác như sau:
- Bên cho thuê với tư cách là sở hữu chủ về mặt pháp lý, vì vậy họ được
quyền quản lý và kiểm soát tài sản theo các điều khoản của hợp đồng thuê. Trong
trường hợp bên đi thuê không thanh toán tiền thuê đúng hạn thì bên cho thuê
được thu hồi tài sản, đồng thời buộc bên đi thuê phải bồi thường các thiệt hại.
Trong trường hợp bên đi thuê bị phá sản thì tài sản CTTC không bị phát
mãi, bên cho thuê thu hồi lại được.
- Đối tượng tài trợ được thực hiện dưới dạng tài sản cụ thể gắn liền với
mục đích kinh doanh của bên đi thuê, vì vậy mục đích sử dụng vốn được đảm
bảo, từ đó tạo tiền đề để hoàn trả tiền thuê đúng hạn.
- Bên cạnh đó, một ưu điểm vô cùng quan trọng nữa của hình thức cho
thuê tài chính đó là lợi ích được hưởng từ tấm chắn thuế. Tài sản CTTC vẫn
8
thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê nên bên cho thuê được phép khấu hao tài
sản đó, làm giảm thuế thu nhập phải nộp. Mặt khác, bên đi thuê phải trả chi phí
thuê, chi phí đó được khấu trừ trước thuế nên cũng làm giảm thuế thu nhập mà
doanh nghiệp phải nộp. Như vậy, cả hai bên đều nhận được lợi ích từ tấm chắn
thuế.
3.3. Lợi ích đối với người đi thuê
Thông thường đối với các khoản vốn vay trung và dài hạn, các ngân hàng

thương mại luôn đòi hỏi tài sản đảm bảo (thế chấp hoặc cầm cố) và chỉ cho vay
tối đa là 80% tổng chi phí thực hiện dự án, nhưng với kênh CTTC, doanh nghiệp
chẳng những không cần ký quỹ đảm bảo hay tài sản thế chấp mà còn có thể được
tài trợ đến 100% vốn đầu tư. Lãi suất hoàn toàn dựa trên sự thỏa thuận của 2 bên.
Người thuê không cần bỏ toàn bộ số tiền ra một lúc để có máy móc, thiết
bị đó, đồng thời cũng không cần phải thế chấp tài sản như trong các giao dịch
vay vốn khác; bên đi thuê tài chính không phải chịu những rủi ro do sự mất giá
của tài sản, hao mòn tự nhiên…
Kênh tín dụng này cũng cho phép doanh nghiệp được hoàn toàn chủ động
trong việc lựa chọn máy móc, thiết bị, nhà cung cấp, cũng như mẫu mã chủng
loại phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp mình.
Ngoài ra, nếu doanh nghiệp đã lỡ đầu tư mua tài sản mà thiếu vốn lưu
động thì vẫn có thể bán lại cho công ty CTTC và sau đó công ty sẽ cho doanh
nghiệp thuê lại. Như vậy doanh nghiệp vừa có vốn lưu động cho hoạt động sản
xuất kinh doanh mà vẫn được sử dụng tài sản.
Kết thúc thời hạn thuê, doanh nghiệp được quyền ưu tiên mua lại tài sản
với giá trị danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản tại thời điểm mua lại.
Ngoài ra, bên đi thuê cũng nhận được lợi ích từ tấm chắn thuế như bên cho thuê.
Qua những nét phác họa cơ bản trên, kênh tín dụng CTTC có thể là một sự
lựa chọn tốt cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi có nhu cầu.
9
4. Các phương thức giao dịch trên thị trường CTTC
- CTTC ba bên: Đây là phương thức phổ biến nhất. CTTC có sự tham gia
của ba bên, bao gồm bên đi thuê, bên cho thuê và bên cung cấp tài sản. Bên cho
thuê sẽ thực hiện việc mua tài sản theo yêu cầu của bên đi thuê và đã được hai
bên thỏa thuận.
- CTTC hai bên: Đây là loại hình giao dịch chỉ có hai bên tham gia, gồm
bên thuê và bên cho thuê. Bên cho thuê sử dụng tài sản sẵn có của mình để thực
hiện nghiệp vụ CTTC. Các định chế tài chính rất ít sử dụng phương thức tài trợ
mà thường do các công ty kinh doanh bất động sản và các công ty sản xuất máy

móc, thiết bị thực hiện để đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm của họ.
- Mua và cho thuê lại: Đây là dạng đặc biệt của phương thức cho thuê có
sự tham gia của hai bên, gồm bên bán đồng thời là bên thuê tài chính và công ty
CTTC. Phương thức này thường được áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp đã
thực sự đầu tư vào tài sản để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh. Sau khi đã
sở hữu tài sản, doanh nghiệp phát sinh nhu cầu về vốn lưu động. Trong điều kiện
đó, doanh nghiệp có thể bán lại tài sản của mình cho công ty CTTC và thực hiện
việc thuê tài chính lại chính tài sản đó. Như vậy doanh nghiệp vừa có vốn lưu
động cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà vẫn được sử dụng tài sản.
- CTTC hợp tác: là hình thức cho thuê bao gồm nhiều bên cho thuê cùng
tài trợ cho một khách hàng thuê.
- Cho thuê giáp lưng: là hình thức CTTC mà bên đi thuê thứ nhất cho bên
đi thuê thứ hai thuê lại tài sản mà bên thuê thứ nhất đã đi thuê, thông qua sự đồng
ý của bên cho thuê bằng văn bản. Hình thức này giúp bên đi thuê tận dụng được
khoảng thời gian nhàn rỗi của máy móc, thiết bị trong quá trình hoạt động, kinh
doanh của mình để cho thuê lại tài sản nhằm tận dụng tối đa công suất sử dụng
của máy móc, thiết bị để làm giảm chi phí thuê tài chính khi họ thu được một
khoản phí khi cho thuê lại tài sản đang thuê.
- Thuê tài sản mua bằng vốn vay: Đây cũng là một hình thức khá phổ
biến. Trong hình thức này có sự tham gia của ba bên: bên đi thuê, công ty CTTC
và bên cho vay. Ở đây, nghĩa vụ của doanh nghiệp đi thuê không có gì thay đổi,
10
chỉ khác là bên cho thuê đã sử dụng hợp đồng cho thuê để thế chấp cho bên cho
vay nhằm đảm bảo cho một khoản vay nào đó.
5. Kinh nghiệm phát triển hoạt động CTTC ở một số nước
5.1. Trung Quốc
Hoạt động CTTC ở Trung Quốc được triển khai từ đầu thập niên 80. Nhờ
có chính sách mở cửa, cải cách đầu tư, sau 10 năm ngành CTTC ở Trung Quốc
phát triển nhanh chóng về số lượng cũng như loại hình công ty CTTC rất đa
dạng. Hiện nay, đã có tới 60 công ty CTTC, trong đó có 25 công ty liên doanh

với nước ngoài.
Hoạt động CTTC chịu sự chi phối bởi kế hoạch và chính sách của Nhà
nước. Để tránh việc đầu tư vào những máy móc, thiết bị lạc hậu, lỗi thời và
không phục vụ cho sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, Chính phủ quy định thiết
bị cho thuê phải được đưa vào danh mục quản lý của Nhà nước hoặc địa phương.
Công ty CTTC còn phải phối hợp với bên cung ứng để huấn luyện cho bên thuê
cách sử dụng và vận hành tài sản. Chính phủ đưa ra các chính sách khuyến khích
sự phát triển của loại hình này như khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực
CTTC, chính sách thuế ưu đãi, hình thành hiệp hội CTTC….
5.2. Hàn Quốc
Hoạt động CTTC được áp dụng ở Hàn Quốc vào những năm 1970 và
được coi là một trong những quốc gia đầu tiên tại châu Á áp dụng hoạt động này
để tài trợ vốn cho nền kinh tế. Năm 1995, có 25 công ty CTTC hoạt động với quy
mô thị trường là 18 tỷ USD, chiếm 30% so với toàn bộ thiết bị trong nước và
đứng thứ 4 thế giới về doanh số CTTC. Hoạt động CTTC tại Hàn Quốc đạt được
sự phát triển vượt bậc nhờ vào sự can thiệp trực tiếp của chính phủ trong việc
hoạch định chính sách, ban hành hệ thống pháp lý cụ thể, khuyến khích đầu tư và
ưu đãi thuế…
5.3. Indonesia
Hoạt động CTTC ở Indonesia hình thành từ năm 1974 nhưng mãi đến năm
1988 mới thực sự phát triển. Hiện nay có tới hơn 100 CTTC đã được thành lập
tại quốc gia này. Nhờ có chính sách miễn giảm thuế đối với tài sản cho thuê cả
11
khi nhập cũng như khi bán, hệ thống tài chính, ngân hàng luôn cải cách có lợi
cho các CTTC.
5.4. Malaysia
Hoạt động CTTC ở Malaysia thành lập năm 1974, phát triển nhanh chóng
vào cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ trước, sau đó từ 1985 đến
1990 do những biện pháp hành chính của Chính phủ đã ảnh hưởng bất lợi tới
hoạt động CTTC. Từ 1990 đến nay, CTTC đã phát triển trở lại nhờ vào sự quan

tâm của Chính phủ thông qua chính sách thuế và các quy định liên quan đến hoạt
động CTTC.
CHƯƠNG II. THỊ TRƯỜNG CTTC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Thực trạng thị trường CTTC ở Việt Nam hiện nay
1.1. Nhu cầu CTTC tại Việt Nam
Tình trạng thực tế của máy móc, thiết bị của các doanh nghiệp Việt Nam
khá lạc hậu so với khu vực và thế giới. Phần lớn các doanh nghiệp đang hoạt
động quy mô tài sản cố định nhỏ bé, máy móc thiết bị cũ, công nghệ hàng chục
năm vẫn chưa thay đổi: chỉ có 10% doanh nghiệp trong nước có công nghệ hiện
đại, 38% ở mức trung bình, còn lại 52% thuộc loại lạc hậu. Trong khi đó, tiêu chí
để đạt trình độ nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng
công nghệ cao phải trên 60%. Để đáp ứng yêu cầu về cạnh tranh trong bối cảnh
hội nhập, các doanh nghiệp của Việt Nam sẽ chẳng thể tiếp tục sử dụng những
công nghệ lạc hậu. Chính vì vậy, nhu cầu đổi mới máy móc, thiết bị và công
nghệ của các doanh nghiệp nước ta trong thời gian tới sẽ rất lớn. Đây là cơ sở
quan trọng cho sự phát triển của dịch vụ CTTC.
Số lượng doanh nghiệp của nước ta đang rất lớn nhưng lượng vốn của các
doanh nghiệp lại rất nhỏ. Tính đến cuối năm 2006, cả nước có trên 72.000 doanh
nghiệp đang hoạt động, kể cả khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh, với tổng
số vốn gần hai triệu tỷ đồng. Nếu tính lượng vốn bình quân đối với một doanh
nghiệp ở Việt Nam thì mỗi doanh nghiệp chỉ có lượng vốn vào khoảng 23,95 tỷ
đồng. Như vậy, với nhu cầu đổi mới trang thiết bị trong điều kiện nguồn vốn
12
kinh doanh hạn hẹp thì việc tìm đến một nguồn tài trợ là điều mà các doanh
nghiệp phải nghĩ tới. Ở thị trường Việt Nam, tín dụng của các ngân hàng thương
mại đã gánh vác trách nhiệm này trong một thời gian rất dài. Vì vậy theo thời
gian, khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng trung – dài hạn của khách hàng ngày
càng hạn chế dần. Các doanh nghiệp buộc phải đáp ứng đầy đủ khá nhiều các
điều kiện của các ngân hàng thương mại mới có được cơ hội sử dụng nguồn tài
trợ này, trong đó đặc biệt là các điều kiện về tài sản thế chấp, điều kiện về uy tín

trong quan hệ tín dụng với các ngân hàng thương mại…
CTTC ra đời trên thị trường Việt Nam là một giải pháp tốt để hỗ trợ cho
doanh nghiệp và giải quyết một phần gánh nặng tài trợ vốn mà các ngân hàng
thương mại đang gặp phải. Với đặc trưng không cần tài sản đảm bảo và những
tiện ích khác của loại hình dịch vụ này, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều
cơ hội để giải tỏa nhu cầu về vốn để đầu tư phát triển.
1.2. Cung CTTC trên thị trường CTTC Việt Nam
Tính đến thời điểm hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đã xem xét và cấp
phép hoạt động cho 13 công ty CTTC, bao gồm 08 công ty trực thuộc các ngân
hàng thương mại có vốn điều lệ do các ngân hàng mẹ cấp, còn lại gồm 01 công
ty liên doanh, 01 công ty trực thuộc Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam
và 03 công ty có vốn đầu tư 100% nước ngoài.
Danh sách các công ty CTTC tại Việt Nam hiện nay
TT Tên công ty
Năm
thành lập
Vốn điều lệ
(2009)
1
Cty CTTC Kexim Việt Nam (KVLC)
(100% vốn nước ngoài)
1996 13 triệu USD
2 Cty CTTC I NH Nông nghiệp & PTNT 1998 200 tỷ VND
3 Cty CTTC II NH Nông nghiệp & PTNT 1998 350 tỷ VND
4 Cty CTTC I NH Đầu tư và Phát triển Việt Nam 1998 200 tỷ VND
5 Cty CTTC NH Công thương Việt Nam 1998 500 tỷ VND
6 Cty CTTC NH Ngoại thương Việt Nam 1998 300 tỷ VND
7
Cty CTTC ANZ-VTRAC
(100% vốn nước ngoài)

1999 103 tỷ VND
8 Cty CTTC II NH Đầu tư và Phát triển Việt Nam 2004 150 tỷ VND
9 Cty CTTC NH Sài Gòn Thương tín 2006 300 tỷ VND
10
Cty TNHH CTTC quốc tế Chailease
(100% vốn nước ngoài)
2006 10 triệu USD
11 Cty TNHNN một thành viên CTTC NH Á Châu 2007 100 tỷ VND
13
12
Cty TNHH một thành viên CTTC Công nghiệp
Tàu thủy (Vinashin)
2008 100 tỷ VND
13
Cty TNHH CTTC Quốc tế Việt Nam (VILC)
(Liên doanh)
2008 100 tỷ VND
(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
Như vậy, việc ban hành Nghị định 16/2001/NĐ-CP của Chính phủ về “Tổ
chức và hoạt động của CTTC” và ban hành luật các tổ chức tín dụng đã tạo hành
lang pháp lý cho sự ra đời của các công ty CTTC. Từ đó đến nay pháp luật về
CTTC đã có nhiều thay đổi phù hợp với yêu cầu hiện tại. Năm 1996 mới chỉ có
01 công ty 100% vốn nước ngoài thì đến năm 1998 Ngân hàng Nhà nước đã cấp
giấy phép cho 05 công ty CTTC ra đời và đến nay là 13 công ty. Có thể nói tốc
độ tăng này là khá chậm nhưng phần nào cũng đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho
các doanh nghiệp.
1.3. Kết quả hoạt động của các công ty CTTC tại Việt Nam
Với khoảng 15 năm hoạt động, ngành CTTC tại Việt Nam đã đạt được
những bước tiến đáng kể. Dư nợ cho thuê ngày càng tăng với tốc độ cao hơn:
năm 1998, toàn thị trường CTTC chỉ đạt doanh thu 300 tỷVND thì đến cuối năm

2004, tổng dư nợ CTTC đã đạt gần 6.000 tỷ VND. Đến cuối năm 2006, tổng dư
nợ đạt khoảng 8.700 tỷ VND, tăng 15% so với cuối năm 2005. Tính đến hết quý
I/2011, số dư nợ đạt khoảng 19.000 tỷ VND. Đây là những con số thể hiện mức
tăng trưởng đáng khích lệ và chứng tỏ CTTC đã xâm nhập ngày càng mạnh hơn
vào hoạt động tài trợ vốn cho các doanh nghiệp, san sẻ dần gánh nặng mà các
ngân hàng thương mại đang phải gánh vác.
Từ khi ra đời đến nay, các công ty CTTC đã phát triển nhanh chóng cả về
quy mô và mạng lưới hoạt động. Các công ty CTTC đã thực hiện được nhiều
nghiệp vụ cho thuê khác nhau, đa dạng hóa các tài sản cho thuê, phương thức cho
thuê và đối tượng khách hàng. Các công ty CTTC đã từng bước phát huy được
vai trò quan trọng là hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu, đổi mới máy móc
thiết bị, cải tiến kỹ thuật, tỷ lệ dư nợ quá hạn của các công ty CTTC thấp hơn
nhiều so với các ngân hàng.
Thời gian gần đây, mặc dù số dư nợ có tăng, nhưng số nợ quá hạn, nợ xấu
ở một số đơn vị còn quá cao. Năm 2011, số dư nợ của hoạt động CTTC có tăng
14
nhưng các doanh nghiệp rơi vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng và khả năng thu
hồi nợ thấp.
2. Đặc điểm cơ bản của thị trường CTTC ở Việt Nam hiện nay
Với khoảng 15 năm hình thành và phát triển tại thị trường Việt Nam,
CTTC đã đạt được những thành quả nhất định, dần trở thành một kênh dẫn vốn
trung dài hạn quan trọng, hữu hiệu để thu hút các nguồn vốn trong xã hội nhằm
phục vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh
cho các doanh nghiệp Việt Nam và phục vụ một phần nhu cầu tiêu dùng của xã
hội. Thị trường CTTC ở Việt Nam có những đặc điểm cơ bản sau:
- Vốn điều lệ của các công ty CTTC dao động từ 150 đến 500 tỷ VND, rất
nhỏ so với vốn điều lệ của ngân hàng thương mại (thường thì trên 1000 tỷ VND),
chỉ đủ để các công ty CTTC hoạt động trong vài năm, trong khi các công ty này
lại không được phép huy động vốn ngắn hạn.
- Đối tượng phục vụ chính của các công ty CTTC là các doanh nghiệp vừa

và nhỏ, với đặc điểm chính là ít vốn, rất khó khăn trong việc đi vay vốn để phát
triển và mở rộng công ty. Còn các công ty CTTC lại tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp này thuê tài chính mà không cần tài sản thế chấp và thủ tục cho thuê
nhanh gọn, không phức tạp. Đây cũng chính là đích mà các công ty CTTC nhắm
tới để phục vụ, do đó cũng báo hiệu một thị trường CTTC sẽ thực sự nở rộ trong
thời gian tới. Bởi ở Việt Nam hiện nay đang có trên 500.000 doanh nghiệp vừa
và nhỏ.
Chiến lược hiện nay của các công ty CTTC là tập trung vào các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, ưu tiên các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, thị trường đầu
ra ổn định, khả năng quản lý và tiềm năng phát triển tốt. Việc đầu tư dưới hình
thức CTTC ngày càng được mở rộng ra ở tất cả các lĩnh vực như giao thông vận
tải, xây dựng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, bệnh viện, nông nghiệp…
- Các chủ thể có nhu cầu thuê tài chính trên thị trường CTTC là các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế, hộ kinh doanh và cá nhân hoạt động trong nhiều lĩnh
vực nhưng trên thực tế thì khách hàng đi thuê chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực vận tải và xây dựng. Theo nghiên cứu của thời báo Kinh tế
Sài Gòn năm 2008, tài sản CTTC chủ yếu tập trung vào phương tiện vận tải, máy
15
móc, thiết bị đáp ứng được tỷ lệ 37% so với nhu cầu của nền kinh tế. Tiếp đến là
máy móc và dây chuyền công nghệ cũng chỉ đáp ứng được 34% so với nhu cầu
của nền kinh tế. Còn lại một số ngành khác như ngành in, máy móc công trình sử
dụng cho hoạt động xây dựng cơ bản cũng chiếm một tỷ trọng thấp so với nhu
cầu của nền kinh tế.
- Tài sản cho thuê chủ yếu tập trung vào phương tiện vận tải, máy móc,
thiết bị có chất lượng và mức độ công nghệ có trình độ trung bình; dây chuyền
công nghệ cao và máy móc, thiết bị hiện đại, tiên tiến còn chiếm một tỷ trọng
thấp trong hoạt động cho thuê của các công ty CTTC.
- Thị trường CTTC có nhiều phương thức giao dịch nhưng trên thị trường
Việt Nam hiện có ba phương thức sau:
+ Phương thức giao dịch CTTC ba bên

+ Phương thức giao dịch cho thuê tài chính hai bên
+ Phương thức giao dịch mua và cho thuê lại
- Giá cho thuê (gồm tiền trích khấu hao tài sản thuê, phí, bảo hiểm….)
hiện nay còn cao. Nếu bỏ qua các yếu tố an toàn, chi phí bỏ ra ban đầu thấp… thì
cho đến hết thời hạn thanh lý hợp đồng cho thuê tài chính, bên thuê sẽ phải thanh
toán tổng số tiền đối với tài sản thuê cao hơn so với họ vay từ các nguồn khác
chẳng hạn như ngân hàng. Như vậy, nếu tính ra lãi suất thì lãi suất thuê tài chính
cao hơn lãi suất vay ngân hàng, bởi vì lãi suất thuê tài chính còn phải cộng thêm
các chi phí về lắp đặt, vận hành, bảo hiểm… của bên cho thuê phải bỏ ra.
Hoạt động CTTC được triển khai chính thức từ năm 1997, song với các
doanh nghiệp Việt Nam thì dường như nó vẫn còn khá mới mẻ. Một phần là do
nền kinh tế Việt Nam mới mở cửa chưa được bao lâu, thói quen giao dịch tín
dụng với các ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác hầu như không thay đổi của
các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó cũng là do thông tin về hoạt động
CTTC, các tiện ích mà công ty CTTC mang lại cho khách hàng khi sử dụng dịch
vụ này chưa thật đầy đủ. Thực tế tại một công ty CTTC trực thuộc ngân hàng
thương mại thì đa số khách hàng giao dịch với công ty này là do sự giới thiệu từ
ngân hàng mẹ và từ các nhà cung cấp các loại máy móc, thiết bị, phương tiện vận
tải…, còn lượng khách hàng tìm đến do uy tín, hoạt động, thương hiệu được
16
quảng bá của các công ty CTTC là rất ít. Nhiều doanh nghiệp chưa tìm hiểu rõ
bản chất cấp tín dụng của dịch vụ CTTC, chưa thấy rõ được hiệu quả, lợi ích từ
dịch vụ CTTC mang lại. Như vậy, trong thời gian tới, để thúc đẩy sự tăng trưởng
dư nợ cho thuê và khẳng định CTTC là một kênh tài trợ tín dụng hiệu quả không
thể thiếu của nền kinh tế, các công ty CTTC còn rất nhiều việc phải làm, trong đó
hoạt động marketing, quảng bá thương hiệu cần được đánh giá đúng mực.
3. Những hạn chế của thị trường CTTC ở Việt Nam hiện nay
Thị trường CTTC Việt Nam còn nhiều hạn chế cần khắc phục để phát
triển hơn nữa và đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển của đất nước.
3.1. Thị phần CTTC nhỏ hẹp

Với chức năng chính của các công ty này là CTTC và khách hàng chủ yếu
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên các công ty đã triệt để sử dụng mọi nguồn
vốn để triển khai hoạt động cho thuê. Tuy nhiên, dư nợ cho thuê và thị phần của
thị trường CTTC ở các công ty này còn ở mức thấp.
Thị trường CTTC Việt Nam có tiềm năng rất lớn. Chính vì vậy, với 13
công ty CTTC, các công ty này vẫn chưa phải cạnh tranh quyết liệt với nhau để
dành thị phần mà vẫn có thể khai thác thị trường và thu lợi nhuận. Tuy nhiên,
không phải tất cả các công ty CTTC trên thị trường đều phát triển. Nếu nhìn vào
mức độ tăng trưởng dư nợ của các công ty CTTC trên thị trường thì con số đạt
được chưa đủ để gây ấn tượng. Thống kê cho thấy, nếu tính tỷ trọng của đầu tư
qua hình thức CTTC với kênh tín dụng ngân hàng thì doanh số CTTC đạt được
chỉ vào khoảng 1,2%. Trong khi đó, tại các quốc gia phát triển, so với tín dụng
thì CTTC tài trợ đến 15 – 20%, tức là chiếm khoảng 1/5 thị phần tài trợ. Hoạt
động CTTC ở Việt Nam hiện nay là nhỏ so với thị trường tài chính nói chung.
Tiềm năng là có thực, nhu cầu của doanh nghiệp là có thực. Tuy nhiên, để tạo
được một cầu nối cho sự gặp gỡ giữa cung và cầu sẽ luôn là một khoảng cách
không nhỏ.
3.2. Hàng hóa thuê tài chính không đa dạng
Không chỉ giới hạn ở quy mô tài trợ, cơ cấu dư nợ theo loại hình tài sản
thuê của các công ty CTTC trên thị trường Việt Nam hiện nay cũng tồn tại nhiều
hạn chế. Tài sản thuê của các công ty chỉ tập trung vào máy móc, thiết bị ở một
17
số ngành sản xuất, chế biến như: bao bì, in ấn, khai khoáng, nhựa, sát thép, xây
dựng, thủy sản… và các phương tiện giao thông vận tải như: tàu thuyền, xà lan, ô
tô. Một số tài sản thuê vốn rất tiềm năng, ít rủi ro như cho thuê máy móc, thiết bị
văn phòng (vi tính, máy in, máy photo…), máy móc sinh hoạt gia đình có giá trị
cao (tivi, tủ lạnh…) hầu như chưa được khai thác.
Giá trị phương tiện vận chuyển trong cơ cấu tài sản cho thuê chiếm gần
2/3 tổng giá trị tài sản cho thuê của các công ty CTTC. Việc đầu tư mạnh vào
phương tiện vận chuyển cũng là một lợi thế của các công ty CTTC vì với phương

tiện vận chuyển thì rủi ro nói chung thường ít hơn đối với phần lớn tài sản thuê là
máy móc, thiết bị. Điều này xuất phát từ hai lý do mà trước hết là tính thông
dụng và thanh khoản của phương tiện vận chuyển, đặc biệt là ô tô. Tiếp đó là do
đặc tính dễ dàng để thẩm định về chất lượng và giá cả của các loại tài sản thuê
này. Vì vậy, việc thẩm định và xử lý hồ sơ thường nhanh chóng. Bên cạnh đó thị
trường ô tô cũ của Việt Nam vốn phát triển hơn nhiều so với thị trường máy móc,
thiết bị cũ, do vậy khi có rủi ro xảy ra với hợp đồng thuê thì việc thanh lý tài sản
thuê thường dễ dàng hơn rất nhiều.
3.3. Phương thức giao dịch CTTC còn đơn điệu
Hình thức CTTC ba bên vẫn là phương thức chủ yếu nhất trong nghiệp vụ
CTTC tại Việt Nam. Hiện nay có đến hơn 90% số hợp đồng cho thuê được thực
hiện qua hình thức này. Mua và cho thuê lại chỉ xuất hiện trong một vài hợp đồng
cho thuê. Các hình thức khác như cho thuê tài chính hợp tác, cho thuê tài chính
giáp lưng vẫn chưa được áp dụng.
Nhìn nhận một cách khách quan thì lựa chọn phương thức CTTC ba bên
vẫn là một lựa chọn phù hợp của các công ty CTTC. Trước hết, CTTC là lĩnh
vực mới ở Việt Nam, vì vậy, trong điều kiện hệ thống pháp lý về CTTC vẫn chưa
hoàn thiện thì mức độ rủi ro trong hoạt động CTTC theo các chuyên gia nhận
định là khá cao. Điều này bắt buộc các công ty CTTC phải rất thận trọng trong
việc quyết định đường hướng phát triển của mình. Trong phương thức CTTC ba
bên, đa số tài sản thuê là tài sản mới, thuận lợi cho việc thẩm định tài sản, giá cả
cũng như hạn chế được phần nào rủi ro về công nghệ lạc hậu. Trái lại, phương
thức bán tái thuê trong thực tế gặp không ít khó khăn trong thực hiện. Việc định
18
giá tài sản, thẩm định tình hình tài chính của khách hàng đòi hỏi mất nhiều thời
gian, trong khi đó rủi ro lại lớn. Chính vì vậy, phương thức ba bên vẫn được các
công ty CTTC sử dụng nhiều hơn cả. Mặc dù là lựa chọn an toàn nhất nhưng
phương thức này làm cho công ty CTTC mất đi những cơ hội để tham gia các dự
án lớn cũng như vô tình làm mất đi những ưu điểm mà CTTC vốn có.
4. Nguyên nhân những hạn chế của thị trường CTTC ở Việt Nam

4.1. Nguyên nhân khách quan
- Các quy định liên quan đến giới hạn nguồn vốn cho vay và nguồn vốn
huy động của công ty CTTC còn có những bất cập:
Hầu hết các công ty CTTC hiện nay đều hình thành trên cơ sở công ty con
trực thuộc NHTM. Chính vì vậy, hạn chế về vốn để hoạt động của các công ty
này là rất lớn. Hiện nay, các công ty CTTC có quy mô từ 100 tỷ đến 500 tỷ
VND. Nếu theo quy định hạn mức cho thuê tối đa đối với một khách hàng thì dự
án cao nhất mà công ty CTTC có thể tài trợ là trung bình từ 30 tỷ đến 150 tỷ
VND (tương đương khoảng 6 triệu USD). Như vậy, với quy định trên, các công
ty CTTC chỉ dừng lại quy mô đầu tư vào các dự án vừa và nhỏ. Điều này cản trở
sự phát triển của hoạt động CTTC trong điều kiện quy mô đầu tư của các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đang ngày một nâng cao.
Bên cạnh việc giới hạn quy mô cho vay thì quy định về việc công ty
CTTC chỉ được phép huy động vốn từ nguồn tiết kiệm trung, dài hạn trong dân
cư cũng là một yếu tố không thuận lợi cho công ty CTTC. Chính vì quy định này,
quy mô tài sản có hình thành trong công ty CTTC bị hạn chế rất nhiều. Việc quy
định chỉ được phép huy động hình thức trên 13 tháng gây khó khăn cho công tác
huy động vì ngoại trừ các khoản tiết kiệm của người già, người hưu trí thì người
dân ít để đồng tiền nằm im trong ngân hàng một khoảng thời gian dài như vậy,
do đó các hình thức huy động tiết kiệm ngắn hạn, tiết kiệm không kỳ hạn vẫn
luôn chiếm ưu thế. Hơn nữa, việc huy động kỳ hạn dài phải đi kèm với lãi suất
huy động cao. Vì thế, đẩy giá vốn đầu vào của các công ty CTTC tăng đáng kể.
Một nguồn vốn nữa cho hoạt động của các công ty CTTC là phát hành
giấy tờ có giá. Tuy nhiên, việc phát hành giấy tờ có giá để huy động vốn gần
như không thực hiện được vì phải có sự đồng ý của Ngân hàng Nhà nước. Vì
19
vậy, trong thực tế hơn 15 năm hoạt động CTTC ở Việt Nam, vẫn chưa có một
công ty CTTC nào đứng ra phát hành giấy tờ có giá để huy động vốn. Các công
ty CTTC hầu hết đều sử dụng hình thức đi vay từ ngân hàng mẹ sau khi đã sử
dụng hết vốn điều lệ của mình và các nguồn huy động. Việc đi vay ràng buộc các

công ty CTTC vào những điều khoản cơ bản phải tuân thủ, trong khi đó lãi suất
cho vay bao giờ cũng phải cao hơn lãi suất huy động. Chi phí giá vốn của các
công ty CTTC càng cao buộc các công ty CTTC phải tìm cách đẩy đầu ra lên cao
hơn nhằm đảm bảo có lãi. Chính vì vậy làm giảm sức cạnh tranh của các công ty
CTTC trong mối tương quan so sánh với hình thức tín dụng tại các NHTM.
- Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện:
Hoạt động CTTC ở Việt Nam từ khi ra đời được sự điều chỉnh của Nghị
định 64/CP ngày 09/10/1995 của Chính phủ về việc ban hành quy chế tạm thời
và hoạt động của các công ty CTTC tại Việt Nam. Sau một thời gian áp dụng
Nghị định này đã bộc lộ nhiều bất cập cản trở cho hoạt động CTTC phát triển.
Những bất cập này đã được điều chỉnh phần nào bằng việc ban hành Nghị định
16/2001/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức hoạt động của các công ty CTTC
được ban hành ngày 02/5/2001. Từ năm 2001 đến nay, Nghị định này đã được
sửa đổi bổ sung hai lần qua các năm 2005 và 2008. Tuy nhiên, Nghị định
16/2001/NĐ-CP cũng chỉ tháo gỡ được phần nào những khó khăn về hoạt động
CTTC nhưng tính pháp lý cũng chỉ dừng lại ở mức Nghị định chứ chưa phải là
luật, do đó việc triển khai thực hiện gặp không ít khó khăn, thiếu sự đồng bộ giữa
các ban ngành liên quan. Hiện nay, pháp luật chỉ cho phép tổ chức tín dụng tiến
hành CTTC với đối tượng là động sản, đó là do quy định tại Điều 73 Luật các tổ
chức tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng không được trực tiếp kinh doanh bất
động sản. Nhưng dưới khía cạnh thực tế, việc cho thuê bất động sản an toàn hơn
nhiều so với cho thuê động sản.
Nghị định 65/2005/NĐ-CP ra đời, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định 16/2001/NĐ-CP đem lại nhiều thuận lợi và tạo niềm tin cho sự phát triển
của hoạt động CTTC. Tuy nhiên, để Nghị định này đi vào thực tiễn thì cũng còn
rất nhiều những khó khăn, vướng mắc mà cho đến nay thì các cơ quan có trách
nhiệm vẫn chưa giải quyết được.
20
Chẳng hạn, Nghị định 16/2001/NĐ-CP quy định rõ về việc khách hàng sử
dụng phương tiện lưu thông thuê tài chính được phép sử dụng bản sao công

chứng để lưu thông phương tiện, tuy nhiên trong thực tế, rất nhiều khách hàng đã
vấp phải khó khăn trong vấn đề lưu thông vì một số nơi, cơ quan chức năng
không chấp nhận bản sao này. Mặc dù đã được quy định rõ ràng nhưng những
vướng mắc trên luôn tạo ra những phiền hà, khó khăn trong hoạt động của khách
hàng thuê.
Về vấn đề thu hồi tài sản thuê: vấn đề quyền được thu hồi tài sản khi bên
thuê vi phạm hợp đồng cũng là một trong những vấn đề gây nhiều bàn cãi. Trên
thực tế quyền này gần như không thể thực hiện được vì bên thuê thường không
chịu giao tài sản nếu không có sự hỗ trợ của các cơ quan thi hành pháp luật. Vì
vậy, cần phải có những chế tài được quy định rõ ràng để giúp các công ty CTTC
thu hồi được ngay tài sản của mình, đảm bảo hạn chế rủi ro thất thoát cũng như
xử lý kịp thời các khoản nợ vay có nguy cơ.
- Hạn chế trong danh mục tài sản được phép thuê tài chính:
Các doanh nghiệp mới thành lập cũng như các doanh nghiệp có dự án đầu
tư mở rộng sản xuất thường bắt buộc phải đầu tư cùng lúc hai hạng mục đó là:
mua sắm, xây dựng cơ bản nhà xưởng và đầu tư vào máy móc, thiết bị hoạt động.
Theo quy định hiện hành của Luật, các công ty CTTC không được phép đầu tư
vào bất động sản. Chính vì vậy, công ty CTTC chỉ có thể tài trợ cho doanh
nghiệp các hạng mục máy móc, thiết bị. Như vậy, doanh nghiệp vẫn phải tìm đến
NHTM để giải quyết nhu cầu vốn cho cơ sở hạ tầng. Bất lợi trên khiến các doanh
nghiệp thường làm việc với NHTM để được đầu tư cùng lúc cả hai hạng mục. Vì
vậy, công ty CTTC mất lợi thế cạnh tranh trong các trường hợp này.
Không chỉ vậy, nhu cầu bất động sản là nhà ở trong dân cư luôn ở mức rất
cao, mà từ trước đến nay, các NHTM đã phải gánh gồng để tài trợ nhu cầu này.
Đây cũng là một vấn đề gia tăng rủi ro cho hoạt động tín dụng của các NHTM.
Chính vì vậy, việc mở rộng danh mục tài sản thuê tài chính sang các công ty
CTTC vừa theo đúng thông lệ quốc tế, vừa tạo điều kiện cho sự phát triển của
hoạt động CTTC trong sự phát triển chung của nền kinh tế.
- Hiệp hội CTTC vẫn chưa phát huy được vai trò như kỳ vọng:
21

Ngày 15/12/2006, Hiệp hội CTTC Việt Nam (tên viết tắt là VILEA) đã
chính thức ra mắt tại Hà Nội. Hiệp hội CTTC Việt Nam là tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của các công ty CTTC, được thành lập tự nguyện, hoạt động hợp pháp
theo quy định của pháp luật, nhằm tập hợp, liên kết các hội viên hợp tác, hỗ trợ
nhau có hiệu quả cao trong hoạt động CTTC và các hoạt động kinh doanh, dịch
vụ khác, tạo điều kiện cho các hội viên phát triển bình đẳng. Đồng thời, Hiệp hội
cũng là đơn vị đại diện, bảo vệ lợi ích hợp pháp của hội viên, làm cầu nối giữa
các hội viên với các cơ quan nhà nước nhằm ổn định và phát triển lành mạnh,
hiệu quả, an toàn ngành CTTC tại Việt Nam.
Với mục tiêu trên, sự ra đời của VILEA được xem là một trong những
thành công đưa ngành CTTC của Việt Nam lên một bước tiến mới. Tuy nhiên,
VILEA vẫn chưa có nhiều những đóng góp cho ngành CTTC Việt Nam. Các
cuộc họp của VILEA cũng chưa đưa ra được một tiếng nói có trọng lượng trong
việc đề xuất các giải pháp để phát triển ngành lên các cơ quan chức năng có thẩm
quyền hay thậm chí đó là việc nối kết các thành viên triển khai các dự án cho
thuê hợp tác, các dự án phối hợp thực hiện việc quảng bá, marketing cho ngành
CTTC… Chính vì vậy, VILEA cần phải nâng cao hơn nữa vai trò và vị thế của
mình trong việc đề xuất và thực hiện các giải pháp thúc đẩy thị trường CTTC
phát triển.
4.2. Nguyên nhân chủ quan
- Các Công ty CTTC chưa xây dựng được định hướng phát triển dài hạn:
Mặc dù đã hoạt động trong suốt một thời gian dài nhưng các công ty
CTTC vẫn chưa xây dựng cho mình một định hướng chiến lược dài hạn để từ đó
có những bước đi thích hợp cho sự phát triển. Đặc biệt, việc nghiên cứu thị
trường một cách tập trung và quy mô vẫn chưa được thực hiện. Trong điều kiện
các NHTM đang cạnh tranh hết sức quyết liệt, đòi hỏi các công ty CTTC sẽ phải
có những động thái tích cực hơn nữa để xây dựng một định hướng phát triển dài
hơi và hiệu quả.
- Công tác quảng cáo, tuyên truyền cho hoạt động CTTC chưa được thực
hiện đầy đủ:

22
Mặc dù đã xuất hiện ở Việt Nam từ khoảng năm 1997 đến nay nhưng khái
niệm về CTTC còn khá mới mẻ ở thị trường Việt Nam. Trên thị trường Việt Nam
hiện nay rất nhiều doanh nghiệp cần vốn để đổi mới công nghệ, mua sắm máy
móc, thiết bị nhưng thay vì đến các công ty CTTC để tìm sự giúp đỡ thì các
doanh nghiệp này lại tìm đến ngân hàng để vay vốn mặc dù ở đây thủ tục rất chặt
chẽ và điều kiện để được vay vốn khó hơn rất nhiều. Một mặt là do thói quen khó
thay đổi của các doanh nghiệp ở Việt Nam nhưng một phần quan trọng là do hoạt
động kinh doanh CTTC chưa được tuyên truyền phổ biến và quảng cáo rộng rãi ở
Việt Nam.
Nếu không phải là người đang hoạt động trong ngành CTTC, hoặc là chưa
hề sử dụng dịch vụ CTTC, sẽ rất khó khăn để tìm kiếm các thông tin liên quan
đến hoạt động của các công ty này. Tuyên truyền qua báo chí là một hình thức rất
phổ biến tuy nhiên rất ít tên các công ty CTTC xuất hiện trên mặt báo, càng
không thấy các công ty CTTC xuất hiện trên truyền hình để quảng cáo hoặc tài
trợ một chương trình phát sóng nào đó. Không có tiềm lực tài chính vững mạnh
như các NHTM nên các công ty CTTC không có điều kiện để xây dựng một trụ
sở to lớn, bề thế tại các vị trí trung tâm thành phố nhưng những kênh cơ bản nhất
như xây dựng website để quảng bá… cũng chỉ được các công ty CTTC quan tâm
ở mức độ vừa đủ. Các thông tin đăng tải trên hầu hết website của các công ty
CTTC đều rất hiếm hoi, chỉ những thông tin về giới thiệu thế nào là CTTC và về
địa chỉ liên hệ… Chính những yếu tố trên đã làm cho khái niệm về CTTC luôn là
mới mẻ đối với phần lớn các doanh nghiệp và dân cư.
- Trình độ nghiệp vụ và năng lực quản lý của cán bộ còn nhiều hạn chế:
Nghiệp vụ CTTC cũng mới hình thành và phát triển khoảng 15 năm, do
đó những cán bộ nhân viên ở các công ty CTTC chưa được đào tạo căn bản, thiếu
kinh nghiệm trong hoạt động cho thuê nên hầu hết các công ty vừa triển khai
hoạt động vừa tiến hành đào tạo và đào tạo lại, vừa làm vừa học hỏi.
Các bộ phận tư vấn về thiết bị, công nghệ chưa phát huy được vai trò của
mình. Các bộ phận này chỉ đơn giản thực hiện thao tác thẩm định lại giá cả của

tài sản thuê để phục vụ mục đích thẩm định của công ty CTTC. Khách hàng rất
khó để nhận được những lời tư vấn mang tính chuyên môn và thực sự hữu ích vì
23
hiện tại sự đầu tư nhân lực, vật lực của các công ty CTTC vào bộ phận này rất ít
ỏi.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM
1. Về phía Nhà nước
- Hoàn thiện một số văn bản pháp lý, tạo điều kiện thúc đẩy thị trường
CTTC phát triển: Kinh nghiệm tại các quốc gia phát triển hoạt động CTTC cho
thấy cần phải hoàn thiện khung pháp lý để điều chỉnh hoạt động CTTC. Các văn
bản này tạo hành lang pháp lý cho hoạt động CTTC phát triển một cách vững
chắc. Từng bước sửa đổi, bổ sung các quy định về hoạt động liên quan đến dịch
vụ CTTC trong Luật Các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Chỉ có một hệ thống pháp luật đồng bộ mới giúp hoạt động CTTC đi vào nền
nếp, có định hướng…
- Hoạt động CTTC luôn cần nhận được sự quan tâm của Chính phủ trong
từng giai đoạn để có chính sách hỗ trợ kịp thời và tháo gỡ khó khăn như chính
sách ưu đãi về thuế và hoạt động xuất nhập khẩu như cho phép các công ty
CTTC được quyền nhập khẩu trực tiếp.
- Hiện nay, ở Việt Nam số doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm trên 95% tổng
số doanh nghiệp, do đó, để thúc đẩy thị trường CTTC hoạt động có hiệu quả đòi
hỏi sự phát triển của chính cộng đồng doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và
nhỏ, bởi chính các doanh nghiệp là khách hàng và là mục tiêu hướng tới của các
công ty CTTC, bên cạnh đó cũng cần có những chính sách khuyến khích từ phía
Nhà nước tạo điều kiện cho bộ phận doanh nghiệp này phát triển.
2. Về phía các công ty tài chính
- Hình thành hiệp hội CTTC, thông qua tổ chức hiệp hội này giúp các
công ty CTTC nắm bắt thông tin thị trường, liên kết trong hoạt động kinh doanh,
quảng bá sản phẩm và đặc biệt là có tiếng nói chung nhằm phát huy tối đa sức

24
mạnh của mình cũng như giúp Chính phủ có những điều chỉnh chính sách kịp
thời.
- Cần phải có một kênh tuyên truyền, tiếp thị dịch vụ CTTC đến các
doanh nghiệp, việc tiếp thị phải làm rõ nét các lợi thế, ưu điểm của loại dịch vụ
này, có như vậy mới tạo ra sự cạnh tranh với các hình thức cấp vốn khác trong
nền kinh tế. Hơn nữa, dù dịch vụ CTTC có “hay” đến mấy nhưng doanh nghiệp
không có hoặc thiếu thông tin, nhất là các thông tin từ chính các nhà cung cấp
dịch vụ thì họ cũng không “mặn mà”. Đó là một thực tế đã và đang diễn ra.
- Đa dạng hóa nguồn vốn hoạt động: Chủ động được nguồn vốn hoạt động
với giá rẻ sẽ tạo ưu thế quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như lợi
nhuận cho chính các công ty CTTC. Chính vì vậy, ngoài giải pháp sử dụng vốn
vay, các công ty CTTC cần phải tìm ra cho mình những giải pháp căn cơ hơn để
tạo dựng nguồn vốn lâu dài và ổn định với giá rẻ hơn nhằm thúc đẩy sự phát triển
của mình, như: tận dụng nguồn vốn từ các định chế tài chính ở nước ngoài; liên
doanh, liên kết với các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng để thu hút thêm nguồn
vốn; phát hành trái phiếu dài hạn để huy động vốn…
- Đa dạng hoá các loại hình công ty CTTC, đặc biệt cần chú trọng đến loại
hình công ty CTTC liên doanh giữa các đối tác trong nước và nước ngoài để tận
dụng tối đa nguồn lực trong nước và tranh thủ nguồn lực quốc tế trên nhiều
phương diện như vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, khách hàng… Đa dạng
hoá các hình thức cho thuê để phù hợp với những yêu cầu khác nhau của từng
loại khách hàng.
Hoạt động CTTC cần gắn bó chặt chẽ với nhà sản xuất và đặc biệt là các
công ty CTTC cần lựa chọn cho mình một thị trường sản phẩm cụ thể, tập trung
chủ yếu vào các ngành công nghiệp, phương tiện vận tải và máy móc thiết bị thi
công cơ giới.
- Các công ty CTTC thời gian đầu chỉ tập trung vào một số sản phẩm dịch
vụ CTTC như động sản và bất động sản, khi phát triển đến mức độ nào đó thì
mới phát triển hoạt động cho thuê vận hành và các thị trường tài chính khác. Các

công ty CTTC chủ yếu tập trung vào nhóm đối tượng kháck hàng là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, khi thị trường lớn mạnh mới tập trung vào các doanh nghiệp
25

×