Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tổng hợp câu hỏi đáp án ôn thi Nghiệp vụ ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.08 KB, 21 trang )

MÔN HỌC: NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
HỌC VIÊN: MAI QUỐC THỊNH
LỚP: CAO HỌC KINH TẾ TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG KHÓA 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH MARKETING
Câu 1: Nghiệp vụ Ngân Hàng Thương Mại (NHTM) gồm những nghiệp vụ gì? Để phát triển các nghiệp vụ này
cần tác động những yếu tố gì?
-Các nghiệp vụ ngân hàng thương mại (NHTM) bao gồm:
+ Huy động vốn
+ Tín dụng
+ Đầu tư và kinh doanh chứng khoán
+ Kinh doanh ngoại tệ và vàng
+ Quản lý rủi ro
+ Thanh toán & chuyển tiền
+ Thanh toán quốc tế
+ Nghiệp vụ khác : ngân hàng điện tử, kinh doanh BDS
Trong đó, hoạt động chính của NHTM là tín dụng & huy động vốn :
Tin dụng gồm :
+ Cho vay
+ Chiết khấu
+ Bao thanh toán
+ Thuê tài chính
+ Bão lãnh
+ Tài trợ XNK
+ Cho vay thấu chi,
+ Cho vay hạn mức.
Huy động vốn :
+ Tiền gửi ( tiết kiệm, thanh toán, có kì hạn và ko kì hạn )
+ Giấy tờ có giá ( chứng chỉ tiền gữi, kì phiếu )
Câu 2: Phát triển dịch vụ Ngân hàng trọn gói. Liên quan đến vấn đề quản trị quan hệ Ngân hàng. (doanh
nghiệp XK, DN NK, DN nhỏ và vừa)
1


Trong xu thế cạnh tranh hiện nay giữa các ngân hàng ở Việt Nam. Các ngân hàng đã không ngừng đưa ra những dịch
vụ trọn gói tiện lợi để thu hút khách hàng. Các gói dịch vụ này không phải chỉ đơn thuần là một hình thức khuyến mãi
mà còn là công cụ hữu hiệu giúp đỡ cho các khách hàng cá nhân và tổ chức của ngân hàng quản lý tài sản của mình và
thực hiện kinh doanh tốt hơn. Ví dụ một số dịch vụ tron gói của NHTM:
a. Sản phẩm ngân hàng trọn gói Export Pack 2011 của BIDV
Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu được tích hợp trong gói sản phẩm Export Pack 2011 của BIDV không chỉ hạn
chế được các rủi ro trong quá trình thực hiện thanh toán, mà còn nhận được ưu đãi lớn.
Bên cạnh các dịch vụ thông thường trong một quy trình thanh toán quốc tế như: dịch vụ thanh toán xuất khẩu theo các
hình thức thanh toán L/C, nhờ thu, chuyển tiền (TTR), tài trợ xuất khẩu sau khi giao hàng: chiết khấu bộ chứng từ
hàng xuất theo các hình thức thanh toán, mua bán ngoại tệ và sản phẩm phái sinh thì gói sản phẩm còn bao gồm cả
sản phẩm bảo hiểm hàng hóa xuất khẩu và dịch vụ cung cấp, tư vấn miễn phí của các chuyên gia nhiều kinh nghiệm
về thông tin đối tác cũng như thị trường.
Những sản phẩm ngân hàng trọn gói rất cần thiết đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt trong thời điểm hiện
tại, nhằm hạn chế tối đa các rủi ro trong thanh toán xuất khẩu. Sử dụng gói sản phẩm BIDV - Export Pack 2011,
doanh nghiệp xuất khẩu không chỉ hạn chế được các rủi ro trong quá trình thực hiện thanh toán mà còn nhận được ưu
đãi lớn về phí như: Miễn phí chuyển tiền đến, phí thông báo LC, sửa đổi LC; giảm phí thanh toán bộ chứng từ hàng
xuất lên tới 50%; lãi suất chiết khấu được giảm trừ tối đa 2% với VND và 1% với USD so với lãi suất cho vay thông
thường; giảm phí bảo hiểm hàng hóa xuất khẩu lên tới 10%.
Ngoài ra, sản phẩm này có thời gian chiết khấu dài (tối đa 360 ngày) với tỷ lệ chiết khấu cao (tối đa 98% giá trị bộ
chứng từ) cũng là một ưu đãi lớn giúp giải quyết hiệu quả nhu cầu quay vòng vốn của doanh nghiệp.
b. Gói dịch vụ ngân hàng trọn gói cho SME của ABBank.
Các nhu cầu tài chính của khách hàng SME sẽ được ABBank đáp ứng tại trung tâm dịch vụ khách hàng SME,
TPHCM. Trung tâm này được ra đời với chức năng phục vụ chuyên biệt nhóm khách hàng là doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Theo đó, khi giao dịch với ABBank, khách hàng SME sẽ được tư vấn và cung cấp một gói sản phẩm, bao gồm:
toàn bộ các sản phẩm dịch vụ ngân hàng từ tiền vay, bảo lãnh, tiền gửi đến các dịch vụ thanh toán quốc tế, quản lý
tiền tệ…
Các sản phẩm trong mỗi gói sản phẩm này sẽ được chọn lọc theo loại hình hoạt động của doanh nghiệp: kinh doanh
trong nước hay xuất nhập khẩu; doanh nghiệp sản xuất hay thương mại, dịch vụ; các nhà thầu điện lực Sau đó các
loại hình này sẽ được cấu trúc lại để phù hợp với đặc điểm riêng của mỗi doanh nghiệp như: tình hình tài chính, chu
kỳ phát triển, phương thức kinh doanh cùng với một mức giá trọn gói hợp lý, giúp tối đa hóa hiệu quả tài chính cho

doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, ABBank tiếp tục dành nhiều ưu đãi cho đối tượng khách hàng mục tiêu này của mình như: gói tài trợ
1.000 tỷ đồng theo chương trình "Đối tác mới - Thành công mới" với lãi suất ưu đãi 12% một năm đối với khách hàng
xuất nhập khẩu và kinh doanh nội địa mới; gói 2.000 tỷ đồng cho các khách hàng xuất nhập khẩu hiện hữu với lãi suất
ưu đãi thấp hơn 2% và chương trình tài trợ VND theo lãi suất USD…
c. Trọn gói dịch vụ ngân hàng điện tử VCB –eB@nking và Trung tâm dịch vụ khách hàng 24/7 của
Vietcombank .
- Tháng 9/2009, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đã ra mắt trọn gói dịch vụ ngân hàng điện
tử VCB –eB@nking và Trung tâm dịch vụ khách hàng nhằm giúp Vietcombank thêm gần gũi với khách hàng theo tôn
chỉ “Ngân hàng ở nơi bạn muốn”.
Trọn gói này bao gồm dịch vụ ngân hàng trực tuyến qua Internet VCB-iB@nking, dịch vụ ngân hàng qua tin nhắn
di động VCB-SMS B@nking và dịch vụ ngân hàng qua điện thoại VCB-Phone B@nking, dịch vụ ngân hàng qua hệ
thống máy ATM tự động VCB-ATM.
2
Bắt đầu từ năm 2002, khi chiếc thẻ ATM đầu tiên tại Việt Nam ra đời cùng với hệ thống máy rút tiền tự động ATM
được đầu tư trên nền tảng công nghệ lõi tiên tiến nhất, Vietcombank đã thể hiện cam kết lâu dài của mình là trở thành
một ngân hàng hiện đại, hướng tới các dịch vụ mang công nghệ cao nhất song song với việc đảm bảo tối đa tính bảo
mật đối với thông tin khách hàng và độ an toàn của các giao dịch điện tử. Cho tới thời điểm hiện nay, nhờ uy tín và
chất lượng dịch vụ hàng đầu, Vietcombank đã thu hút được gần 4 triệu khách hàng cá nhân tin tưởng lựa chọn mở tài
khoản và phát hành thẻ. Vietcombank tự hào là ngân hàng có số lượng khách hàng cá nhân cũng như lượng thẻ phát
hành lớn nhất trong hệ thống các ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
Tiếp theo thành công đó, trong những năm vừa qua, Vietcombank liên tục đầu tư, cập nhật các ứng dụng mới và
hợp tác với các đối tác lớn hàng đầu trên thế giới và khu vực. Danh mục các dịch vụ ngân hàng điện tử của
Vietcombank tiếp tục mở rộng, bao gồm dịch vụ ngân hàng qua tin nhắn VCB-SMS B@nking (năm 2005) hay dịch
vụ ngân hàng trực tuyến qua Internet VCB-iB@nking (năm 2006). Năm 2007, Vietcombank khai trương các dịch vụ
thanh toán hóa đơn tự động VCB-P qua hệ thống ATM hoặc trực tiếp gạch nợ tài khoản khách hàng (VCB-Direct
Billing), dịch vụ quản lý tài khoản tiền đầu tư chứng khoán Vietcombank Securities Online, dịch vụ nhận tin nhắn chủ
động và nạp tiền qua tin nhắn (năm 2008), dịch vụ thanh toán chuyển khoản qua Internet và dịch vụ ngân hàng 24x7
qua điện thoại VCB-Phone B@nking (năm 2009). Giờ đây, ngoài việc trực tiếp tới ngân hàng, khách hàng có thể thực
hiện các giao dịch như truy vấn số dư, rút tiền, thanh toán, chuyển khoản, v v qua đầy đủ các kênh điện tử như

ATM, tin nhắn, Internet và điện thoại.
Dịch vụ ngân hàng tự động VCB-ATM: đáp ứng nhu cầu 24x7 của khách hàng đối với các giao dịch như truy vấn
số dư, in sao kê tài khoản, rút tiền, thanh toán hóa đơn cho nhiều loại dịch vụ như cước viễn thông/bảo hiểm, nạp tiền
điện thoại di động, v.v. tại hơn 1.500 máy ATM của Vietcombank trên toàn quốc. Hệ thống ATM của Vietcombank
kết nối với các hệ thống chuyển mạch trong nước, nên khách hàng có thẻ ATM của Vietcombank có thể rút tiền tại
ATM của mọi ngân hàng trong liên minh.
Dịch vụ ngân hàng trực tuyến qua Internet VCB-iB@nking: đáp ứng nhu cầu 24x7 của khách hàng đối với các giao
dịch truy vấn số dư, in sao kê tài khoản, thanh toán chuyển khoản, thanh toán hóa đơn, kiểm soát tình hình chi tiêu thẻ
tín dụng, truy vấn về tỉ giá, lãi suất, mạng lưới điểm giao dịch, các thông tin về sản phẩm, dịch vụ, v.v. tại bất cứ nơi
đâu có kết nối Internet. Ngoài tên và mật khẩu truy cập tĩnh để sử dụng ngân hàng trực tuyến qua Internet VCB-
iB@nking, Vietcombank còn cung cấp mật khẩu một lần sinh ngẫu nhiên OTP giúp khách hàng có thể an tâm tuyệt
đối khi thực hiện giao dịch chuyển khoản, thanh toán qua Internet. OTP (one time password) là công nghệ hàng đầu
trong xác thực giao dịch điện tử trên thế giới, sử dụng kết hợp Internet và điện thoại di động cũng như thẻ chíp theo
chuẩn EMV (chuẩn mới nhằm tăng cường độ bảo mật do 3 tổ chức thẻ quốc tế là Europay, Visa, MasterCard quy
định). Khách hàng cần đăng ký sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến qua Internet VCB-iB@nking tại bất kỳ điểm
giao dịch nào của Vietcombank trên toàn quốc.
Dịch vụ ngân hàng qua tin nhắn VCB-SMS B@nking: đáp ứng nhu cầu 24x7 của khách hàng đối với các giao dịch
truy vấn số dư tài khoản, xem chi tiết các giao dịch gần nhất, nhận trợ giúp từ ngân hàng đối với các thông tin về tỉ
giá, lãi suất, điểm giao dịch của Vietcombank, nạp tiền điện thoại di động từ tài khoản tại ngân hàng, v.v. Để sử dụng
các tính năng này, khách hàng nhắn tin theo cú pháp quy định và gửi tới số 8170. Bên cạnh đó, nếu gửi tin nhắn “vcb
cd” gửi tới 8770, khách hàng sẽ được nhận tin nhắn chủ động từ ngân hàng bất cứ khi nào tài khoản hoặc thẻ tín dụng
có thay đổi về số dư – dịch vụ này giúp khách hàng chủ động kiểm soát và theo dõi tình hình tài chính của bản thân
mình. Để sử dụng dịch vụ VCB-SMS B@nking, khách hàng cần đăng ký dịch vụ tại bất kỳ điểm giao dịch hoặc máy
ATM nào của Vietcombank trên toàn quốc hoặc thông qua VCB-iB@nking (trường hợp khách hàng đã sử dụng dịch
vụ ngân hàng trực tuyến qua Internet).
Dịch vụ ngân hàng 24x7 qua điện thoại VCB-Phone B@nking: Khách hàng của Vietcombank tại bất kỳ nơi nào
trên phạm vi toàn cầu, vào bất kỳ thời điểm nào, đều có thể gọi điện trực tiếp tới tổng đài (+84) 1900 54 54 13 để
được cung cấp các thông tin về tỉ giá, các sản phẩm, dịch vụ của Vietcombank và thực hiện một số giao dịch liên quan
tới thẻ tín dụng (như thông báo mất thẻ, khóa thẻ, đề nghị cấp phép thẻ) (đối với thuê bao Viettel và thuê bao quốc tế,
khách hàng nhấn số điện thoại (+84-4) 38 24 35 24/ 38 24 57 16). Khi đăng ký sử dụng dịch vụ VCB-Phone

B@nkingtại bất kỳ điểm giao dịch nào của Vietcombank trên toàn quốc hoặc thông qua VCB-iB@nking (trường hợp
khách hàng đã sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến qua Internet), khách hàng có thể tra cứu số dư tài khoản tiền gửi
3
thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền vay, các loại giấy tờ có giá tại ngân hàng; tra cứu hạn mức, dư nợ và thời hạn
thanh toán thẻ tín dụng cũng như thông tin về chi tiết các giao dịch gần nhất được thực hiện.
Trung tâm dịch vụ khách hàng 24x7 (Vietcombank Contact Center) tại tổng đài (+84) 1900 54 54 13 (và +84 4 38
24 35 24/ 38 24 57 16 đối với thuê bao Viettel, thuê bao quốc tế) được thành lập năm 2008. Ngoài việc quản lý kênh
dịch vụ VCB-Phone B@nking, trung tâm còn đảm nhiệm một chức năng rất quan trọng là tư vấn trực tiếp khi khách
hàng gọi tới nhằm giải đáp, ghi nhận những thắc mắc của khách hàng liên quan tới sản phẩm, dịch vụ và chất lượng
phục vụ của Vietcombank. Đồng thời, dựa trên ứng dụng công nghệ hiện đại, Trung tâm Dịch vụ khách hàng 24x7
của Vietcombank còn chủ động liên hệ với khách hàng nhằm thông báo tình hình tài chính, ngày đến hạn các khoản
tiền hoặc các chương trình khuyến mại, sản phẩm, dịch vụ mới.
Tôn chỉ “Ngân hàng ở nơi bạn muốn” với các chuỗi dịch vụ liên kết chặt chẽ hỗ trợ khách hàng mọi lúc mọi nơi
cho phép khách hàng và Vietcombank liên hệ tức thì, nhanh chóng, đảm bảo gia tăng tối đa các giá trị cho khách hàng
về thời gian, chi phí và sự thuận tiện nói chung.
Câu 3: Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn.
(nhân tố tác động đến dịch vụ, hoạt động hành vi tiêu dùng, chất lượng dịch vụ)
3.1. Nhóm nhân tố chủ quan
3.1.1. Các hình thức huy động vốn và chất lượng các dịch vụ do ngân hàng cung ứng, và hệ thống mạng lưới
Hình thức huy động vốn của ngân hàng đưa ra càng phong phú, đa dạng linh hoạt vàthuận tiện thì khả năng thu hút
vốn trong nền kinh tế càng lớn, xuất phát từ sự khác nhau vềnhu cầu và tâm lý trong dân cư. Chính sự đa dạng hoá các
hình thức huy động vốn của Ngân hàng đã giúp cho mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp tìm được cho mình một hình
thứcđầu tư hợp lý nhất
Khi các ngân hàng thương mại đưa ra các hình thức huy động vốn ngày càng đa dạngvà hợp lý, cùng với việc mở
rộng hệ thống màng lưới hoạt động, và nâng cao chất lượnghoạt động các dịch vụ ngân hàng, từ đó thu hút ngày càng
nhiều khách hàng đến với ngânhàng, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc huy động vốn. Ngược lại khi
cáchình thức huy động vốn của ngân hàng chưa đa dạng, phong phú, chất lượng hoạt độngdịch vụ chưa cao, hệ thống
màng lưới còn ít, chưa thuận lợi cho khách hàng trong việc giaodịch với ngân hàng, thì nó sẽ ảnh hưởng không tốt tới
huy động vốn của ngân hàng.Hiện nay với sự đổi mới sâu sắc của ngành ngân hàng, các ngân hàng thương mạikhông
ngừng đổi mới về khoa học, công nghệ, về phong cách giao dịch, mở rộng các hoạtđộng dịch vụ phục vụ khách hàng,

phát triển thêm mạng lưới hoạt động từ chi nhánh cấp 3, cấp 4, các ngân hàng lưu động, và các ngân hàng hoạt động
trong các lĩnh vực công nghiệp,nông nghiệp, kinh doanh dịch vụ 1.3.2. Nhóm nhân tố khách quan.
3.1.2. Chất lượng hoạt động tín dụng
Hoạt động tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc huy động tiền gửivào hệ thống ngân hàng, nghiệp vụ
huy động vốn làm nhiệm vụ khơi tăng các nguồn vốnnhàn rỗi trong nền kinh tế, thì nghiệp vụ sử dụng vốn thực hiện
sử dụng các nguồn vốn đóvào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để đem lại khả năng sinh lời, thu lợi nhuận về cho
ngânhàng.Do vậy nếu nghiệp vụ sử dụng vốn không hiệu quả tất yếu dẫn đến việc huy động vốn bị thu hẹp lại. Khi sử
dụng vốn kém hiệu quả, làm thất thoát vốn nhiều dẫn đến lòng tin củadân chúng vào ngân hàng bị giảm đi. Từ đó sẽ
rất khó khăn cho các hình thức huy động cácnguồn vốn nhàn rỗi. Mặt khác hoạt động tín dụng hiệu quả tạo cho các
doanh nghiệp, các tổchức kinh tế kinh doanh có hiệu quả, thu nhập xã hội ngày càng tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm,đời
sống của dân cư ngày càng nâng cao, nguồn vốn nhàn rỗi ngày càng tăng, tạo cho nguồnvốn ngân hàng huy động
ngày càng tăng trưởng để thực hiện đầu tư cho các chu kỳ sản xuấttiếp theo.
3.1.3. Uy tín của ngân hàng
Có thể gọi đây chính là tài sản vô hình của ngân hàng. Uy tín bao gồm uy tín củangân hàng trong toàn hệ thống, của
các thành viên trong hội đồng quản trị, ban giám đốc. Sựnổi tiếng của ngân hàng là tài sản quý trong công tác huy
động vốn vì trong lòng thị trườngngân hàng đã tạo một hình ảnh riêng, khi đó khách hàng sẽ tin tưởng vào ngân hàng,
giúpngân hàngcó khả năng ổn định khối lượng vốn huy động, tiết kiệm chi phí huy động (thực tế khi ngân hàng có
4
tiếng tăm, họ dễ dàng thu hút vốn hơn các ngân hàng khác ngay cả khi lãisuất tiền gửi của ngân hàng đưa ra có thấp
hơn).
3.1.4. Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể. Chiến lượckinh doanh được xây dựng dựa
trên việc ngân hàng xác định vị trí hiện tại của mình trong hệthống, thấy được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội thách
thức đồng thời dự đoán được sự thayđổi của môi trường kinh doanh trong tương lai. Thông qua chiến lược kinh doanh
ngân hàngngân hàng sẽ có thể quyết định thu hẹp hay mở rộng việc huy động vốn về mặt quy mô, cóthể thay đổi tỷ lệ
các loại nguồn, tăng hay giảm chi phí huy động. Với tác dụng to lớn nhưvậy, nếu chiến lược kinh doanh được lựa
chọn đúng đắn, các nguồn vốn được khai thác mộtcách tối đa thì công tác huy động vốn sẽ phát huy được hiệu quả.
3.1.5. Trình độ công nghệ ngân hàng
Trình độ công nghệ ngân hàng bao gồm cơ sở vật chất phục vụ ngân hàng; các loạihình dịch vụ ngân hàng cung ứng;
trình độ nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên ngân hàng.Cơ sở vật chất của ngân hàng càng khang trang hiện đại, công

nghệ tiên tiến mang lạilợi ích thiết thực cho kinh doanh, luôn tạo điều kiện thuận lợi và phục vụ cho khách hàngtốt
hơn, tạo lòng tin cho khách hàng. Thực tế khách hàng sẽ tin tưởng yên tâm hơn khi gửitiền ở một ngân hàng có trình
độ công nghệ trình độ công nghệ ngân hàng cao. Và khi kháchhàng đã thực sự yên tâm gửi tièn thì ngân hàng dễ dàng
trong việc huy động
3.1.6.Năng lực, trình độ, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng
Nếu ngân hàng quản lý tốt về mặt nhân sự, tài sản nợ, tài sản có, tức là trong quá trìnhhoạt động kinh doanh của
mình, ngân hàng dự đoán được những rủi ro xảy ra, dự đoán đượcmôi trường đầu tư của mình có hiệu quả hay không
thì quá trình hoạt động của ngân hàngđảm bảo được an toàn vốn, tăng uy tín, tạo điều kiện thu hút khách hàng gửi tiền
cũng nhưvay tiền.Mặt khác, trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng càng cao, mọi thao tác nghiệp vụthực hiện
nhanh chóng, chính xác, có hiệu quả ; thái độ phục vụ, tác phong làm việc của cán bộ ngân hàng tốt, nhiệt tình, cởi
mở, tạo thuận lợi cho khách hàng sẽ gây được ấn tượng tốtđối với khách hàng, thu hút được nhiều khách hàng hơn.
Thái độ phục vụ của cán bộ ngânhàng đối với khách hàng có ảnh hưởng lớn đến việc huy động vốn cho ngân hàng.
Do đó, để thu hút khách hàng gửi tiền, đi đôi với việc trau dồi kiến thức, nghiệp vụ, cán bộ ngân hàng phải thường
xuyên chú ý đến thái độ phục vụ của mình sao cho vừa lòng khách hàng.
3.1.7.Công tác quảng cáo, khuyến mãi
Các ngân hàng thương mại hiện nay đã từng bước học tập và ứng dụng nghệ thuậtthông tin quảng cáo, các hình thức
khuyến mãi …
Tuy việc đầu tư cho công tác này còn hạnchế, nhưng có thể nói đây cũng là mặt mạnh của ngành ngân hàng trong việc
cạnh tranh đểhuy động tiền gửi. Thông tin quảng cáo, tiếp thị khuyến mại, các dịch vụ hậu mãi rõ ràng sẽ phát triển
mạnh mẽ trong cơ chế thị trường. Và tuỳ vào chu kỳ sống của sản phẩm dịch vụmà ngân hàng cung cấp để các nhà
quản trị ngân hàng chọn thời điểm, thời gian sử dụng,chiến lược quảng cáo khuyến mãi cũng như hậu mãi phù hợp.
3.2. Nhóm nhân tố khách quan
3.2.1. Môi trường pháp lý
Như chúng ta đã biết, hoạt động của ngân hàng có mức độ ảnh hưởng, tác động hếtsức mạnh mẽ đối với nền kinh tế
của bất kỳ quốc gia nào. Cụ thể việc huy động vốn và sửdụng vốn của ngân hàng đều tác động trực tiếp đến tốc độ
tăng trưởng của nền kinh tế, thunhập của các chủ thể, tốc độ chu chuyển vốn, tình trạng thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát.
Chính vìlẽ đó, hoạt động của ngân hàng phải chịu sự quản lý chặt chẽ gắt gao hơn so với các doanhnghiệp khác. Thực
tế là ngân hàng phải chịu sự điều chỉnh của rất nhiều chính sách, các quyđịnh của chính phủ, của NHTW; đó là Luật
các tổ chúc tín dụng, luật kinh tế, luật dân sự,hàng loạt hệ thống các quy định cụ thể trong từng thời kỳ về lãi suất, dự
trữ, hạn mức.Trong sự ràng buộc về luật pháp này thì các yếu tố của nghiệp vụ huy động vốn chắc chắnsẽ bị thay đổi

và kết quả làm ảnh đến quy mô và hiệu quả của việc huy động vốn. Bởi khichính sách của Nhà nước, của NHTW:
5
chính sách tiền tệ, tài chính, lãi suất, tín dụng thayđổi sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn cũng như chất lượng
nguồn vốn của NHTM.
3.2.2. Môi trường kinh tế - chính trị - xã hội
Hoạt động của NHTM nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng không thể thoát ly khỏi môi trường kinh doanh
đặc biệt là môi trường kinh tế - chính trị - xã hội.Trong các hoạt động của ngân hàng thì hoạt động huy động vốn và
sử dụng vốn luôn bị các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng, thu nhập, tình trạng thất nghiệp, lạm phát…tác động
trực tiếp. Khi nền kinh tế tăng trưởng, sản xuất phát triển, từ đó tạo điều kiện tíchluỹ nhiều hơn, do đó tạo môi trường
cho việc thu hút vốn của ngân hàng thuận lợi. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, lạm phát tăng làm cho môi trường
đầu tư của ngân hàng bị thuhẹp khiến quá trình tạo vốn của ngân hàng gặo khó khăn.Không một quốc gia nào có thể
phát triển nếu môi trường chính trị không ổn định. Sựổn định về chính trị hay về chính sách ngoại giao cũng tác động
mạnh mẽ đến quan hệ vốncủa ngân hàng với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Điều này cũng là
nhântố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của ngân hàng. Nhân khẩu học cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới nguồn
vốn thông qua việc phân bổdân cư, trình độ, lứa tuổi…Ngân hàng cũng nên xem xét yếu tố này trong hoạt động
huyđộng vốn của mình.
3.2.3. Môi trường văn hoá
Môi trường văn hoá là yếu tố quyết định đến tập quán, tâm lý, thói quen trong việc sửdụng tiền của dân cư. Và những
tập quán tiêu dùng này sẽ ảnh hưởng đến nghiệp vụ tạo vốncủa ngân hàng. Nếu ở những vùng mà người dân quen sử
dụng số tiền nhàn rỗi dưới hìnhthức cất trữ thì việc huy động vốn của ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn.Hơn nữa,
mức độ chấp nhận rủi ro của xã hội, thói quen tích luỹ ảnh hưởng đến quyếtđịnh của những thành viên trong xã hội về
phương thức tiêu dùng và tiết kiệm, giữ tiền ở nhà, gửi tiền ở ngân hàng, đầu tư vào chứng khoán hoặc bất động sản.
3.2.4. Yếu tố cạnh tranh trên thị trường tài chính
Hoạt động kinh doanh ngân hàng ngày càng có sự tham gia của nhiều loại hình ngânhàng mới và các tổ chức tài chính
phi ngân hàng. Do đó, cạnh tranh có xu hướng gia tăngmạnh, làm giảm đi sự khác biệt giữa ngân hàng thương mại với
các tổ chức tài chính phingân hàng. Xu hướng cạnh tranh trong ngành ngân hàng càng gia tăng do các yếu tố nhưthay
đổi chính sách tài chính tiền tệ, đổi mới tài chính của doanh nghiệp kinh doanh tiềntệ…
Cạnh tranh về tiền gửi diễn ra dưới nhiều hình thức. Các ngân hàng có thể áp dụngnhững điều kiện giống nhau cho tất
cả các khách hàng gửi tiền. Vì lý do này, các sản phẩmdịch vụ liên quan đến tiền gửi được mở rộng và được phổ biến
nhanh chóng. Thêm vào đó,nhiều tổ chức tài chính phi ngân hàng có thể huy động tiền gửi có kỳ hạn, thậm chí còn

cungcấp các tài khoản không kỳ hạn.
Câu 4: Nguyên tắc huy động vốn
4.1. Tuân thủ pháp luật trong huy động vốn
− Hoàn trả gốc và lãi cho khách hàng vô điều kiện.
− Tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định hiện hành.
− Giữ gìn bí mật số dư và hoạt động của tài khoản khách hàng.
− Không được che giấu các khoản tiền lớn và bất thường (chống rữa tiền).
− Không được cạnh tranh bất hợp lý.
4.2. Thoả mãn yêu cầu kinh doanh với chi phí thấp nhất
− Áp dụng nhiều phương thức huy động vốn.
− Kết hợp chặt chẽ giữa huy động vốn với hiện đại hóa dịch vụ ngân hàng.
− Đa dạng hóa phương thức trả lãi đi đôi với dự thưởng để thu hút khách hàng.
4.3. Ngăn ngừa sự giảm sút bất thường của nguồn vốn huy động
− Tạo uy tín cho khách hàng bằng việc đáp ứng kịp thời đầy đủ nhu cầu rút tiền trong mọi tình huống.
6
− Ngăn chặn phao tin đồn nhảm.
− Có phương án đáp ứng nhu cầu thanh khoản kịp thời khi có sự cố xảy ra.
Câu 5: Các giải pháp tăng trưởng vốn tự có của NHTM
(Vai trò của vốn tự có
Quy định về an toàn vốn)
Vấn đề sáp nhập thì sao (vốn, thị trường, quản trị, văn hóa công ty, lợi ích cổ đông)
Vai trò vốn tự có:
Có thể nói nếu vốn chủ sở hữu có vai trò quan trọng để ngân hàng được đi vào hoạt động và là đệm đỡ không thể
thiếu của ngân hàng. Vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần nhỏ so với vốn nợ, do đặc trưng trong kinh doanh ngân
hàng là huy động để cho vay. Theo quy định của NHNN Việt Nam tỷ lệ Vốn chủ sở hữu/tiền gửi tối thiểu là 1/20. Tuy
chiếm tỷ trọng nhỏ, song Vốn chủ sở hữu có vai trò rất quan trọng.Vốn chủ sở hữu có vai trò bảo vệ người gửi tiền:
Kinh doanh ngân hàng thường xuyên đối đầu với rủi ro. Các khoản tổn thất của ngân hàng sẽ được bù đắp bằng vốn
chủ sở hữu. Như vậy, nếu quy mô vốn chủ sở hữu lớn, người gửi tiền và người cho vay sẽ cảm thấy an tâm hơn về
ngân hàng.Vốn chủ sở hữu có vai trò tạo lập tư cách pháp nhân và duy trì hoạt động cho ngân hàng: Như đã phân tích
ở trên, để hoạt động điều kiện đầu tiên là ngân hàng phải có được số vốn tối thiểu ban đầu. Số vốn này được sử dụng

để mua sắm trang thiết bị, nhập công nghệ, xây thêm chi nhánh, mở văn phòng đại diện Ngoài ra, Vốn chủ sở hữu có
vai trò điều chỉnh các hoạt động của ngân hàng: Rất nhiều quy định về hoạt động của ngân hàng có liên quan chặt chẽ
với Vốn chủ sở hữu như quy mô nguồn tiền gửi được tính theo tỷ lệ với Vốn chủ sở hữu Vì vậy quy mô và cấu trúc
hoạt động của ngân hàng được điều chỉnh theo vốn chủ sở hữu.
5. Các giải pháp tăng trưởng vốn tự có.
5.1. Tăng vốn từ nguồn bên trong
Chủ yếu do tăng lợi nhuận giữ lại. Đây là lợi nhuận ngân hàng đạt được trongnăm, nhưng không chia cho các cổ đông
mà giữ lại để tăng vốn.Ưu điểm: Phương pháp này giúp ngân hàng tăng vốn tự có mà không mà không phụ thuộc vào
thị trường vốn nên tránh được các chi phí huy động vốn thả nổi, khôngtốn kém chi phí, không phải hoàn trả đồng thời
không làm loãng quyền kiểm soát ngânhàng cũng như không đe dọa đến việc mất quyền kiểm soát của các cổ đông
hiện thời.Tránh được tình trạng làm loãng phần sở hữu ngân hàng và lợi nhuận từ mỗi cổ phiếuđang nắm giữ của họ
trong những năm sau (ví dụ như, nếu ngân hàng phát hành thêmchứng khoán, một số cổ phần có thể rơi vào tay các cổ
đông mới, họ sẽ được dự phầnchia lợi nhuận trong tương lai và tham gia bỏ phiếu đối với các chính sách của
ngânhàng). Nhược điểm: Chỉ áp dụng với các ngân hàng lớn, làm ăn có lãi liên tục và đềuđặn. Hình thức này không
thể áp dụng thường xuyên vì có ảnh hưởng đến quyền lợicủa cổ đông. Tăng vốn từ bên trong có nhiều bất lợi về thuế
và chịu ảnh hưởng nặng nề bởi sự thay đổi lãi suất và những điều kiện kinh tế mà ngân hàng không thể kiểm soáttrực
tiếp. Sự tăng trưởng lợi nhuận ngân hàng trong những năm gần đây đã bị giảm sútso vời trước, buộc nhiều ngân hàng
phải phát hành cổ phiếu và giấy nợ không đảm bảo – nguồn vốn bên ngoài – để phụ thêm vào nguồn vốn tạo ra từ bên
trong.Phương pháp này phụ thuộc vào:
Chính sách phân phối cổ tức của ngân hàng: Dựa vào mức tăng trưởng của lợinhuận ròng để đáp ứng nhu cầu vốn,
tức là ngân hàng phải đưa ra một quyết định liênquan đến mức lợi nhuận hiện thời cần phải giữ lại để kinh doanh và
mức lợi nhuận chitrả cho các cổ đông dưới hình thức cổ tức. Như vậy, Hội đồng quản trị và Ban giámđốc ngân hàng
phải thống nhất một tỷ lệ duy trì và thanh toán thích hợp từ thu nhậpròng của ngân hàng.Chính sách này cho biết ngân
hàng cần phải giữ lại bao nhiêu thu nhập để tăngvốn phục vụ cho mở rộng kinh doanh và bao nhiêu thu nhập sẽ được
chia cho các cổ đông. Tỷ lệ thu nhập giữ lại có ý nghĩa rất quan trọng đối với Hội đồng quản trị ngânhàng. Tỷ lệ thu
nhập giữ lại quá thấp sẽ làm cho mức tăng trưởng vốn ngân hàng sẽchậm, làm giảm khả năng mở rộng tài sản sinh lời,
tăng rủi ro phá sản. Ngược lại nếutỷ lệ này quá lớn sẽ làm giảm thu nhập của cổ đông dẫn đến thị giá cổ phiếu của
ngânhàng sẽ giảm. Chính sách cổ tức tối ưu đối với một ngân hàng là chính sách giúp ngânhàng tối đa hóa giá trị đầu
tư của cổ đông. Ngân hàng chỉ có thể mở rộng số lượng cổđông khi thu nhập tính trên mỗi cổ phần ít nhất phải bằng
thu nhập tạo ra từ những hoạtđộng đầu tư có mức độ rủi ro tương đương.

7
Tốc độ tăng vốn từ nguồn nội bộ: Một tỷ lệ tăng trưởng vốn từ nguồn nội bộ lýtưởng phải đáp ứng cả hai yêu cầu:
Một là, ngân hàng tăng trưởng được tài sản có (đặc biệt là các khoản cho vay); Hai là, không làm suy giảm quá mức
tỷ số vốn / tài sản củangân hàng.Ta có: Tỷ lệ tăng vốn từ nguồn nội bộ (Internal capital growth rate-ICGR)
Công thức trên cho thấy muốn tăng qui mô vốn từ nguồn nội bộ thì phải tăng thunhập ròng hoặc tăng tỷ lệ thu nhập
giữ lại, hoặc tiến hành đồng thời cả hai.Điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với ban giám đốc ngân hàng là cố
gắng đạtđược thành tích phân phối cổ tức ổn định. Nếu được vậy, các nhà đầu tư hưởng lãi sẽcảm nhận ít rủi ro trong
sự thanh toán cổ tức đối với họ và ngân hàng sẽ có sức hấp dẫnnhiều hơn đối với các nhà đầu tư. Nhiều công trình
nghiên cứu tại các ngân hàng TâyÂu cho thấy có một hiện tượng lặp đi lặp lại là giá cổ phiếu của ngân hàng giảm
nhanh(thường chỉ trong phạm vi một tuần) sau khi có sự phân phối cắt giảm phân phối cổtức. Điều này không chỉ làm
thất vọng các cổ đông hiện thời mà còn làm nản lòngnhững người tiềm năng cổ phiếu của ngân hàng.
Một chính sách phân phối cổ tức tối ưu cho ngân hàng là chính sách có thể tối đahóa giá trị đầu tư của các cổ đông,
sao cho ngân hàng có thể thu hút được các cổ đôngmới và giữ chân những cổ đông hiện tại một khi suất thu lợi trên
vốn tự có của các sở hữu chủ ít nhất bằng với tỷ suất lợi nhuận được tạo ra từ các cơ hội đầu tư khác có rủiro tương
đương.
Ngoài ra ngân hàng thương mại cổ phần còn có thể kết chuyển Quỹ dự trữ bổ sungvốn điều lệ, Thặng dư vốn cổ phần
hay Chênh lệnh do chứng khoán phát hành cao hơnmệnh giá vào vốn điều lệ của mình. Tuy nhiên tăng vốn từ phương
cách này chỉ tăngđược vốn điều lệ ở mức thấp so với các cách trên do các quỹ bị giới hạn tỷ lệ so vớivốn tự có cấp 1
và vốn điều lệ.
5.2 Tăng vốn từ bên ngoài
5.2.1 Phát hành thêm cổ phiếu mới
Phát hành thêm vốn cổ phần thường hay vốn cổ phần ưu đãi là một hình thức huyđộng vốn phổ thông của các ngân
hàng thương mại cổ phần.Với việc phát hành thêm cổ phần thường thì:Ưu điểm: không phải hoàn trả cho người mua
cổ phiếu, cổ tức của cổ phiếu thườngkhông phải là gánh nặng về tài chính cho ngân hàng trong những năm làm ăn
thua lỗ.Phương pháp này làm tăng qui mô vốn nên cũng làm tăng khả năng vay nợ của ngânhàng torng tương lai.
Nhược điểm: Chi phí phát hành cao và có thể làm loãng quyền sở hữu ngân hàng,giảm mức cổ tức trên mỗi cổ phiếu
(EPS), làm giảm khả năng tận dụng tỷ lệ đòn bẩytài chính ngân hàng đã có.Với việc phát hành cổ phiếu ưu đãi vĩnh
viễn thì có đặc điểm sau:
Ưu điểm: Không phải hoàn trả vốn và không làm phân tán quyền kiểm soátngân hàng, tăng khả năng vay nợ của ngân
hàng trong tương lai.

Nhược điểm: cổ tức phải trả cho các cổ đông là gánh nặng tài chính trong nhữngnăm ngân hàng bị thua lỗ, chi phí
phát hành cao, giảm mức cổ tức trên mỗi cổ phiếu.
8
5.2.2 Phát hành trái phiếu chuyển đổi
Trái phiếu chuyển đổi là hình thức gọi vốn lai giữa cổ phần thường và nợ. Trái phiếu chuyển đổi ấn định một khoản
thời gian khoản nợ với lãi suất cố định đượcchuyển sang cổ phần. Nó trả lãi suất rẻ hơn so với vốn huy động vì cho
phép trái chủtrở thành cổ đông trong tương lai, nhưng lại hấp dẫn về lãi suất hơn cổ đông vì mangrủi ro chuyển đổi.
Ưu điểm: chi phí thấp và không làm phân tán quyền kiểm soát của ngân hàng.Đây là phương pháp hiệu quả vì trái
phiếu này được các nhà đầu tư ưa chuộng trên thịtrường.
Nhược điểm: Phải hoàn trả cho người mua trái phiếu khi hết hạn, lãi trả cho trái phiếu là gánh nặng cho ngân hàng về
tài chính tăng chi phí hoạt động, làm giảm khảnăng đi vay về sau của ngân hàng. Ngoài ra, ngân hàng còn có thể thực
hiện các biện pháp tăng vốn từ bên ngoàikhác như bán tài sản và thuê lại, chuyển đổi chứng khoán nợ thành cổ
phiếu…
5.2.3 Một số phương thức khác
Các ngân hàng thương mại còn có thể tăng vốn tự có bằng cách bán tất cả hoặcmột phần phương tiện văn phòng của
mình và thuê lại từ người chủ mới để phục vụcho các hoạt động của mình. Với những giao dịch như vậy, ngân hàng
thường thu vềnhững dòng tiền mặt lớn (có thể tái đầu tư với lãi suất hiện tại) và củng cố sức mạnh vềvốn. Thành công
lớn nhất của những giao dịch bán-thuê lại này xảy ra khi lạm phát vàtăng trưởng kinh tế đạt mức cao vì nó làm tăng
giá trị thị trường của tài sản so với giátrị sổ sách được ghi nhận trong các báo tài chính.
Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể chuyển đổi chứng khoán nợ thành cổ phiếugiúp ngân hàng củng cố vị trí vốn cổ phần
và tránh khỏi những chi phí trả lãi phát sinhtừ những chứng khoán nợ trong tương lai.
Câu 6: Rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng. Tại sao có chiến tranh về lãi suất?
Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại tại TP.HCM
Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh
gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ
thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường.key
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các tổ chức kinh tế, cá nhân theo
nguyên tắc hoàn trả. Việc hoàn trả được nợ gốc trong tín dụng có nghĩa là việc thực hiện được giá trị hàng hoá trên thị
trường, còn việc hoàn trả được lãi vay trong tín dụng là việc thực hiện được giá trị thặng dư trên thị trường. Do đó, có
thể xem rủi ro tín dụng cũng là rủi ro kinh doanh nhưng được xem xét dưới góc độ của ngân hàng.

Trong quan hệ tín dụng có hai đối tượng tham gia là ngân hàng cho vay và người đi vay. Nhưng người đi vay sử dụng
tiền vay trong một thời gian, không gian cụ thể, tuân theo sự chi phối của những điều kiện cụ thể nhất định mà ta gọi
là môi trường kinh doanh, và đây là đối tượng thứ ba có mặt trong quan hệ tín dụng. Rủi ro tín dụng xuất phát từ môi
trường kinh doanh gọi là rủi ro do nguyên nhân khách quan. Rủi ro xuất phát từ người vay và ngân hàng cho vay gọi
là rủi ro do nguyên nhân chủ quan.
1. Rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan
1.1 Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định
1.1.1 Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới:
Nền kinh tế VN vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi
trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu thô, may gia công,… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế
giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu.
Ngành dệt may trong một số năm gần đây đã gặp không ít khó khăn vì bị khống chế hạn ngạch làm ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng và của các ngân hàng cho vay nói chung. Ngành thủy
sản cũng gặp nhiều lao đao vì các vụ kiện bán phá giá vừa qua.
9
Không chỉ xuất khẩu, các mặt hàng nhập khẩu cũng dễ bị tổn thương không kém. Mặt hàng sắt thép cũng bị ảnh
hưởng lớn của giá thép thế giới. Việc tăng giá phôi thép làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải
ngưng sản xuất do chi phí giá thành rất cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm.
1.1.2 Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế:
Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh
gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ
thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các ngân hàng
thương mại trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ
thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ
bị các ngân hàng nước ngoài thu hút.
1.1.3 Sự tấn công của hàng nhập lậu:
Với hàng trăm km biên giới trên bộ và trên biển cùng địa hình địa lý phức tạp và tình hình đời sống nghèo khó của
dân cư vùng biên giới, cuộc chiến đấu với hàng lậu đã kéo dài dai dẳng từ rất nhiều năm nay mà kết quả là hàng lậu
vẫn tràn lan tại các thành phố lớn, làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư vốn cho các
doanh nghiệp này. Các mặt hàng kim khí điện máy, gạch men, đường cát, vải vóc, quần áo, mỹ phẩm,… là những ví

dụ tiêu biểu cho tình hình hàng lậu ở nước ta.
1.1.4.Thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng hoảng thừa về đầu tư trong một số
ngành:
Nền kinh tế thị trường thị trường tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, các nhà kinh doanh sẽ tìm kiếm ngành nào có lợi nhất
để đầu tư và sẽ rời bỏ những ngành không đem lại lợi nhuận cho họ và do đó có sự chuyển dịch vốn từ ngành này qua
ngành khác và đây cũng là một hiện tượng khách quan. Tuy nhiên ở nước ta thời gian qua, sự cạnh tranh đã phát triển
một cách tự phát, hoàn toàn không đi kèm với sự quy hoạch hợp lý, hợp tác, phân công lao động, chuyên môn hoá lao
động, sự bất lực trong vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp và sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Điều này dẫn đến sự
gia tăng quá đáng vốn đầu tư vào một số ngành, dẫn đến khủng hoảng thừa, lãng phí tài nguyên quốc gia.
1.2. Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi
1.2.1 Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương:
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN)và các
cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật,văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng
ngân hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm
chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ. Những văn bản này
đều có quy định: Trong những hợp khách hàng không trả được nợ, NHTM có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay.
Trên thực tế, các NHTM không làm được điều này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền
lực nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao tài sản đảm bảo cho ngân hàng để xử lý hoặc
việc chuyển tài sản đảm bảo nợ vay để Tòa án xử lý qua con đường tố tụng… cùng nhiều các quy định khác dẫn đến
tình trạng NHTM không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng.
1.2.2 Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN:
Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự
cải thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số
nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới Thanh tra ngân hàng còn chưa theo kịp. Nội dung và phương pháp thanh tra,
giám sát lạc hậu, chậm đựơc đổi mới. Vai trò kiểm toán chưa đựơc phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức
một cách hữu hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và
giám sát rủi ro còn yếu. Thanh tra ngân hàng còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít
có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Mô hình tổ chức của thanh tra ngân hàng còn nhiều bất cập.
Do vậy mà có những sai phạm của các NHTM không được thanh tra NHNN cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu,
để đến khi hậu quả nặng nề đã xảy ra rồi mới can thiệp. Hàng loạt các sai phạm về cho vay, bảo lãnh tín dụng ở một

10
số NHTM dẫn đến những rủi ro rất lớn, có nguy cơ đe dọa sự an toàn của cả hệ thống lẽ ra có thể đã được ngăn chặn
ngay từ đầu nếu bộ máy thanh tra phát hiện và xử lý sớm hơn.
1.2.3 Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập:
Hiện nay ở VN chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín
dụng ngân hàng (CIC) của NHNN đã hoạt động đã quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng
khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức
tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật và ngoài ra
việc kết nối thông tin với trang Web – CIC qua đường X25 của Chi cục tin học ngân hàng còn nhiều trục trặc, chưa
đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin tại TP.HCM. Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc
mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng. Nếu các ngân
hàng cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia
tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân hàng.
2. Rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ quan
2.1 Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay
2.1.1 Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay:
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh
nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc
phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.
2.1.2 Khả năng quản lý kinh doanh kém:
Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản
vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài
chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn
đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
2.1.3 Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch:
Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nơ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp VN.
Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ
nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ
mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa
trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao

ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
2.2 Rủi ro do các nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay
2.2.1 Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng:
Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát
sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc
kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên
hình thức. Kiểm tra nội bộ cần phải được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc
lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn
tồn tại thường trực trên con đường đi tới.
2.2.2 Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ:
Một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ NHTM đều có sự tiếp tay của một số cán bộ
ngân hàng cùng với khách hàng làm giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để
rút tiền ngân hàng.
11
Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ
kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô
cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.
2.2.3 Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay:
Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá
trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý
một cách chủ động để đảm bảo sẽ đựơc hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán
bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các
điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và
mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian qua các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một
phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản
lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà
NHTM yêu cầu.
2.2.4 Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thực sự hiệu quả:
Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn
đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm

hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay
tiền tại nhiều ngân hàng. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới
hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến
mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào.
Trong tình hình cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt như hiện nay, vai trò của CIC là rất quan trọng trong
việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để các ngân hàng có các quyết định cho vay hợp lý. Đáng tiếc là hiện nay
ngân hàng dữ liệu của CIC chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa được cập nhật và xử lý kịp thời.
Tóm lại, rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Các biện pháp phòng
chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay của các NHTM nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng
từng ngân hàng, liên quan đến vấn đề nội tại của bản thân nền kinh tế đang chuyển đổi, đang định hướng mô hình phát
triển ở VN. Trong phạm vi tầm tay của các ngân hàng, rủi ro tín dụng phụ thuộc vào năng lực của bộ phận tín dụng
trong việc phát hiện và hạn chế rủi ro từ lúc xem xét quyết định cho vay cũng như trong suốt thời gian vay. Năng lực
cấp tín dụng phụ thuộc vào chuyên môn của cán bộ tín dụng và nhân viên của họ và các nguồn lực của ngân hàng về
nhân sự cũng như về cơ sở vật chất. Do vậy biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng sâu sắc nhất vẫn là các biện pháp
liên quan đến việc đào tạo, bố trí cán bộ và cơ chế kiểm tra, giám sát hành vi của cán bộ trong quá trình xử lý công
việc. Thực hiện tốt các biện pháp này có thể cho rằng con đường quản lý rủi ro tín dụng của ngành ngân hàng coi như
đã đi được hơn một nửa.
3. Quản lý rủi ro tín dụng của các NHTM
Trong thời gian qua, các NHTM trên địa bàn thành phố đã trải qua bao thăng trầm và tưởng chừng có lúc không thể
trụ vững được vào những năm 96-97, khi mà hàng loạt có vụ án kinh tế có liên quan đến ngành ngân hàng, gây tổn
thất nghiêm trọng về tài sản hàng ngàn tỷ đồng, con người và đặc biệt là uy tín của ngành ngân hàng trong nền kinh
tế. Những rủi ro tín dụng xảy ra trong giai đoạn này cho dù có xuất phát từ những nguyên nhân khách quan hay chủ
quan đều phản ánh rõ nét những yếu kém trong công tác quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTM. Những biện pháp
nhằm ngăn ngừa, quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng chưa được các ngân hàng đưa ra và thực hiện một cách đầy
đủ, triệt để, đặc biệt là các biện pháp liên quan đến yếu tố con người.
Trước những sự việc đáng tiếc đã xảy ra liên quan đến các ngân hàng thương mại, mà chủ yếu trên địa bàn TP. HCM,
Chính phủ, NHNN và ngay bản thân các NHTM đã nỗ lực đưa ra các biện pháp khắc phục hậu quả, đồng thời định
hướng phát triển cho ngành ngân hàng trong thời gian tới trên tinh thần: tăng trưởng tín dụng với chất lượng cao và
bền vững, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội của thành phố nói riêng và cả nước nói chung. Với tinh thần
đó, hàng loạt các biện pháp đã được thực hiện từ cơ chế, chính sách, các văn bản pháp quy đã được ban hành: như

12
“Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng” do NHNN ban hành liên tục được thay đổi cho phù hợp với thực tế.
Quyết định số 324-1998/QĐ-NHNN1 ngày 30.9.1998, Quyết định số 284/2000/QĐ-NHNN1 ngày 25.8.2000, Quyết
định số: 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001, Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 3.2.2005. Ngoài ra, từ
năm 1998 đến nay, bên cạnh Nghị định của Chính phủ quy định riêng về việc đảm bảo tiền vay của các Tổ chức tín
dụng (Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29.12.1999) là hàng loạt các văn bản pháp luật có liên quan như: Nghị định
17/1999/NĐ-CP ngày 29.3.1999 của Chính phủ về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp
bằng quyền sử dụng đất, Nghị định 08/2000/NĐ-CP ngày 10/03/2000 của Chính phủ về đăng ký giao dịch đảm bảo,
Thông tư 06/2000/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện Nghị định 178, Nghị định số 85/2002/NĐ-CP của Chính phủ ngày
25.10.2002 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 178, Thông tư số 07/2003/TT-NHNN của NHNNVN ngày
19.5.2003 về hướng dẫn thực hiện một số quy định về đảm bảo tiền vay của các Tổ chức tín dụng theo Nghị định 178
và Nghị định 85 (Thông tư này thay cho Thông tư số 06), Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT/NHNN-BTP- BCA-
BTC-TCĐC ngày 23.4.2001 hướng dẫn việc xử lý tài sản đảm bảo tiền vay để thu hồi nợ cho các Tổ chức tín dụng
tất cả đã nói lên quyết tâm của Chính phủ, NHNN, các cơ quan có liên quan trong việc khắc phục hậu quả và tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho ngành ngân hàng phát triển theo hướng: giao quyền chủ động kinh doanh cho các NHTM và
các NHTM hoàn toàn tự chịu trách nhiệm trước những hoạt động kinh doanh của mình.
Bên cạnh đó công tác thanh tra, kiểm tra và báo cáo giám sát từ xa của NHNN ngày càng được chú trọng và nâng cao
về mặt chất lượng đã góp phần đưa họat động tín dụng của các NHTM trên địa bàn dần đi vào ổn định, tổng dư nợ
tăng trưởng khá trong khi tỷ lệ nợ quá hạn có xu hướng giảm dần.
Về bản thân các NHTM trên địa bàn, sau những sự việc đáng tiếc xảy ra, cũng tác giải quyết khắc phục hậu quả đã
được thực hiện với những cố gắng hết mình, đồng thời công tác phòng chống, quản lý rủi ro tín dụng cũng được chú
trọng hơn. Các ngân hàng tập trung đưa ra những chiến lược kinh doanh phù hợp, đổi mới quy trình và bộ máy cho
vay sao cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn và đảm bảo an toàn khi cho vay.
Ngoài ra, công tác tuyển chọn, đào tạo và đào tạo lại, nâng cao tư cách, phẩm chất đạo đức của cán bộ tín dụng cũng
được các ngân hàng đặc biệt quan tâm và mang tính thường xuyên hơn. Các hoạt động khác như công tác kiểm soát
nội bộ ngày càng được chú trọng nhằm phát hiện sớm các dấu hiệu rủi ro cũng như các sai xót trong quá trình cho vay
để có biện pháp xử lý kịp thời, tránh việc gây những hậu quả đáng tiếc xảy ra. Thành lập phòng xử lý rủi ro tín dụng
hoặc các công ty khai thác tài sản đã góp phần đưa hoạt động tín dụng của các NHTM nói chung trên địa bàn phát
triển ổn định, chất lượng tín dụng dần được nâng cao, đảm bảo tín dụng tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá
hạn trên tổng dư nợ hiện nay tại các NHTM trên địa bàn vẫn còn cao hơn mức quy định (5%). Nợ quá hạn còn cao

chủ yếu là do hậu quả của các năm trước để lại, chưa giải quyết dứt điểm, song tại một số ngân hàng vẫn có tình trạng
phát sinh mới về nợ quá hạn, cho thấy rủi ro tín dụng luôn tiềm tàng trong hoạt động kinh doanh đòi hỏi các ngân
hàng phải chú trọng hơn nữa đến công tác phòng chống, quản lý rủi ro nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt
hại xảy ra.
Tóm lại, cùng với sự phát triển của TP.HCM, nhu cầu vốn cho nền kinh tế ngày càng tăng, dẫn đến mức độ tăng
trưởng tín dụng cũng tăng lên tương ứng. Sự tăng trưởng tín dụng của các NHTM phù hợp với sự tăng trưởng của nền
kinh tế cả nước nói chung và của kinh tế thành phố nói riêng. Tuy nhiên sự tăng trưởng tín dụng cũng kéo theo sự gia
tăng rủi ro tín dụng, điều này làm ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả sử dụng vốn và làm hạn chế việc mở rộng tín
dụng của các NHTM. Do đó việc phát triển tín dụng phải đi đôi với chất lượng tín dụng.
Vì vậy các giải pháp tốt trong quản lý rủi ro tín dụng là vấn đề quan tâm hàng đầu của các ngân hàng nhằm tạo ra sự
tăng trưởng tín dụng một cách ổn định, bền vững
Cạnh tranh lãi suất giữa các ngân hàng thương mại việt nam
1.Cạnh tranh "truyền thống" bằng lãi suất
Cạnh tranh bằng lãi suất là biện pháp cạnh tranh có tính chất truyền thống của các ngân hàng thương mại Việt Nam
hiện nay, cũng như sự lựa chọn có tính chất truyền thống của ngườii Việt Nam, của khách hàng trong việc gửi tiền,
13
vay vốn mà đến nay chưa thể thay đổi được. Hơn nữa đây là quy luật của kinh tế thị trường, lãi suất có tác động điều
hoà cung cầu vốn. Vốn sẽ chảy vào nơi có lãi suất cao, hoặc khách hàng sẽ tìm đến vay vốn nơi có lãi suất thấp.
Nhìn chung khách hàng sẽ lựa chọn nơi có lãi suất huy động vốn hấp dẫn để gửi tiền và tìm đến ngân hàng có lãi suất
thấp hơn để vay vốn. Tất nhiên, uy tín của ngân hàng thương mại khi gửi tiền, thủ tục và phong cách cho vay của cán
bộ ngân hàng thương mại cũng rất quan trọng.
Bản thân các nước có nền kinh tế phát triển, hệ thống ngân hàng ở trình độ cao, họ vẫn phải sử dụng công cụ lãi suất,
như Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED), hoặc các ngân hàng thương mại Việt Nam tham gia đầu tư vốn trên thị trường
tiền gửi, tiền vay quốc tế cũng vậy, lãi suất biến động theo diễn biến thị trường. Tất nhiên, lãi suất giao dịch với khách
hàng của các ngân hàng thương mại ở các nước đó tương đối ổn định, vấn đề là uy tín, thương hiệu, chất lượng phục
vụ của ngân hàng.
Ŀể hạn chế những bất lợi của cạnh tranh lãi suất, ảnh hưởng tình hình tài chính của chung các ngân hàng thương mại
và nếu cạnh tranh tăng cao lãi suất, trong điều kiện nguồn vốn nhàn rỗi trong dân có hạn, người dân lại có cơ hội lựa
chọn nhiều kênh đầu tư vốn sinh lợi khác nhau, thì sẽ chỉ làm cho tiền gửi từ ngân hàng thương mại này chạy sang
ngân hàng thương mại khác.

Trong điều kiện từ tháng 6/2002, Ngân hàng Nhà nước đã chuyển sang thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận, nên dưới
vai trò của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, các ngân hàng thương mại nhà nước đã họp và thống nhất với nhau giới
hạn tối đa lãi suất huy động vốn nội tệ. Thoả thuận này phần nào có hiệu quả vì các ngân hàng thương mại nhà nước
chiếm tới 76% thị phần huy động vốn của toàn bộ ngành ngân hàng, nên đã hạn chế phần nào sự gia tăng lãi suất.
Song, do chỉ thống nhất giới hạn lãi suất kỳ hạn 6 tháng và 12 tháng, còn kỳ hạn trên 12 tháng vẫn do các ngân hàng
thương mại chủ động quy định, nên các ngân hàng thương mại nhà nước vẫn tăng cao lãi suất huy động VND kỳ hạn
trên 12 tháng. Thí dụ, hiện nay Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, ngân hàng thương mại nhà nước có uy tín, nhưng
cũng phải đưa ra lãi suất huy động VND kỳ hạn 36 tháng tới 0,73%/tháng cho món tiền gửi từ 500 triệu đồng trở lên.
Ngân hàng Ŀầu tư và Phát triển Việt Nam cũng có mức lãi suất hấp dẫn.
Hơn nữa, các ngân hàng thương mại cổ phần nằm ngoài việc thống nhất giới hạn lãi suất, mới đây họ có tham gia thoả
thuận giới hạn lãi suất, nhưng họ không thực hiện. Do đó các ngân hàng thương mại cổ phần vẫn tăng cao lãi suất.
ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - VP Bank - hiện có lãi suất huy động vốn VND
cao nhất tới 0,81%/tháng, cao hơn lãi suất cho vay của Ngân hàng Ngoại thương. Nhiều ngân hàng thương mại cổ
phần cũng có lãi suất cao tới 0,78%/tháng.
Cạnh tranh trong giảm lãi suất cho vay đối với các khách hàng lớn, doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có uy tín, kim
ngạch xuất khẩu cao cũng vậy, một số ngân hàng thương mại giảm thấp lãi suất cho vay, chỉ khoảng 0,75% -
0,77%/tháng.
Cạnh tranh về lãi suất tạo điều kiện cho khách hàng, người dân chủ động lựa chọn các ngân hàng thương mại khác
nhau có lãi suất phù hợp với mình và cảm thấy an tâm, an toàn để gửi tiền.
Ta có thể thấy lãi suất các ngân hàng thường khác nhau ở các ở các kỳ hạn chủ yếu do mục tiêu và khưynh hướng
hoạt động của ngân hàng hướng vào đối tượng khách hàng trọng tâm, thể hiện lãi suất ngắn hạn của một số ngân hàng
có thể thấp do không hướng vào khu vực tiền gửi thanh toán nhưng cao ở các kỳ hạn dài hơn.
Nguyên nhân việc tăng lãi suất – cạnh tranh
Trên thực tế, vì nhiều lý do khác nhau, hầu hết các NH đều điều chỉnh tăng lãi suất. Hiệu ứng "đôminô" này đã đẩy
các NH vào một cuộc đua hoàn toàn không mong đợi.
Theo nghị quyết của Đại hội đồng Hiệp hội Ngân hàng VN, hàng tháng, các NH đều phải "ngồi" lại với nhau để thống
nhất về lãi suất huy động tiền gửi, nhằm duy trì hoạt động bình ổn của các NH.
14
Tuy nhiên, thoả thuận vẫn chỉ là thoả thuận và các NH đều đã liên tục bằng nhiều cách xé rào. Dù tỏ ra khá nghiêm
túc trong việc thực hiện mức lãi suất đã cam kết, nhưng lãi suất ở những kỳ hạn không cam kết (13 tháng, 7 tháng, 5

tháng, trái phiếu, kỳ phiếu ) lại liên tục bị đẩy lên.
Nguyên nhân chính:
1>Do Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã nhiều lần tăng lãi suất và hiện lãi suất USD của FED đã đạt 5%/năm. Đây
chính là sức ép khiến các NH trong nước phải điều chỉnh lãi suất USD. Vì một khi lãi suất USD tăng, lãi suất VND
cũng buộc phải điều chỉnh tăng theo. Bên cạnh đó, theo quy luật hàng năm, 6 tháng đầu năm là thời kỳ bắt đầu chu kỳ
sản xuất kinh doanh trong năm, do đó, nhu cầu vay vốn của DN và dân cư thường tăng rất mạnh. Để đảm bảo nguồn
vốn đáp ứng nhu cầu vay, các NH thường phải tìm mọi cách để tăng vốn huy động và tăng lãi suất là biện pháp
thường được các NH sử dụng
2>Thị phần của các NHTM quốc doanh dần bị các NHTM cổ phần chia sẻ. Nhận thức được điều này, các NHTM
quốc doanh đã phải nhanh chóng điều chỉnh tăng lãi suất huy động để giữ cho nguồn vốn huy động của mình được ổn
định. Và vì thế, dù không muốn, lãi suất huy động của các NHTM vẫn phải tăng lên.
3>Trong điều kiện giá xăng dầu, giá cả hàng hóa tăng cao ảnh hưởng trực tiếp đến LS NH hiện nay, nếu không tăng
LS thì NH sẽ phải thu hẹp khả năng tài chính của mình".
4>Ảnh hưởng của thị trường chứng khoán: khi giá chứng khoán tăng thì cầu về thị trường tiền tệ giảm làm giảm lãi
suất.
5>Sự tăng trưởng kinh tế và nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp vấn rất lớn đòi hỏi các ngân hàng phải cung một
lượng vốn lớn trong khi nguồn vốn dân cư sẽ không nằm nhiều ở ngân hàng nữa vì thị trường chứng khoán đã thu hút
một lượng lớn. Thị trường vàng cũng hấp dẫn đầu tư.
6>Do nước ta đã là thành viên của WTO nên sẽ dẫn đến cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa ngân hàng trong nước và ngân
hàng nước ngoài trong những năm tới khi nước ta mở cửa hoàn toàn.
Diễn biến từ thị trường tiền tệ Mỹ là một trong những áp lực không nhỏ trong việc hoạch định chính sách lãi suất của
các ngân hàng Việt Nam, bên cạnh yếu tố giá cả tiêu dùng.
Do lãi suất USD đang tăng cao nên nếu các NH không điều chỉnh tăng lãi suất tiền đồng thì rất dễ xuất hiện tình trạng
khách hàng rút tiền đồng, chuyển sang mua USD gửi. Tuy nhiên phải nhìn nhận rằng các NH hiện nay vẫn chủ yếu
cạnh tranh huy động vốn thông qua việc tăng lãi suất chứ chưa có được nguồn vốn giá rẻ huy động từ các dịch vụ,
chẳng hạn như dịch vụ thẻ thanh toán.
Câu 7: Đặc điểm kinh doanh ngoại hối. Chu chuyển vốn giữa các quốc gia
Thị trường ngoại hối
Thị trường ngoại hối hay thị trường hối đoái ngoại tệ là thị trường tiền tệ quốc tế diễn ra các hoạt động giao dịch các
ngoại tệ và các phương tiện thanh toán có giá trị như ngoại tệ.

Hệ thống thị trường ngoại hối
Hệ thống tổ chức thị trường ngoại hối theo hệ thống ngoại hối Anh-Mỹ:
Thị trường ngoại hối này có tính chất biểu tượng,các giao dịch chỉ xảy ra thường xuyên giữa một số ngân hàng với
người môi giới,chủ yếu thông qua điện thoại ,fax.
Hệ thống tổ chức thị trường ngoại hối theo hệ thống ngoại hối châu Âu:
Thị trường này có địa điểm nhất định ,giao dịch hàng ngày.
Đặc điểm của thị trường ngoại hối
15
Hoạt động liên tục suốt ngày đêm.
Thị trường ngoại hối mang tính chất quốc tế.
Tỷ giá hối đoái được xác định trên cơ sở cung - cầu ngoại tệ.
Đồng Đô la Mỹ được coi là đồng tiền phương tiện.
Các chức năng cơ bản của thị trường ngoại hối
Đáp ứng nhu cầu mua bán ,trao đổi ngoại tệ nhằm phục vụ cho quá trình chu chuyển, thanh toán trong các lĩnh vực
thương mại và phi thương mại.
Công cụ để ngân hàng trung ương có thể thực hiện chính sách tiền tệ nhằm điều khiển nền kinh tế theo mục tiêu chính
phủ.
Thị trường ngoại hối có chức năng tín dụng.
Cung cấp các công cụ cho các nhà kinh tế nghiên cứu để phòng ngừa rủi ro hối đoái trong trao đổi ngoại tệ.Đồng thời
giúp các nhà đầu cơ nghiên cứu thu được lợi nhuận nếu họ dự đoán được tỷ giá hối đoái.
Thành phần tham gia thị trường ngoại hối
Các ngân hàng:
Các ngân hàng trung ương: hầu hết ở các nước ngân hàng trung ương đóng vai trò tổ chức ,kiểm soát,điều hành và ổn
định thị trường ngoại hối.
Các ngân hàng thương mại và các ngân hàng đầu tư: tham gia với mục đích kinh doanh,cung cấp dịch vụ cho khác
hàng như một nhà môi giới.
Các nhà môi giới : là chủ thể trung gian trong các giao dịch trên thị trường.
Các doanh nghiệp : các doanh nghiệp tham gia chủ yếu là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.Họ vừa là chủ thể cầu
ngoại tệ,vừa là chủ thể cung ngoại tệ.
Các cá nhân ,các nhà kinh doanh : bao gồm các công dân trong và ngoài nước có nhu cầu mua và bán ngoại tệ.

Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
Các công ty đa quốc gia.
Các nghiệp vụ kinh doanh cơ bản trên thị trường ngoại hối
Nghiệp vụ giao dịch ngoại hối giao ngay:
Là nghiệp vụ mua hay bán ngoại tệ mà việc chuyển giao được thực hiện ngay lập tức hay là chậm nhất là sau 2 ngày
kể từ khi thỏa thuận hợp đồng mua bán.
Nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch tỷ giá:
Là nghiệp vụ dựa vào mức chênh lệch tỷ giá giữa các thị trường ngoại hối để thu lợi nhuận thông qua hoạt động
mua bán.
Nghiệp vụ giao dịch ngoại hối có kỳ hạn:
Là nghiệp vụ mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận sẽ được thực hiện sau một thời gian nhất định theo tỷ giá thỏa
thuận lúc ký kết hợp đồng.
16
Nghiệp vụ hoán đổi:
Là nghiệp vụ ngoại hối phối hợp giữa hai nghiệp vụ giao dịch ngoại hối giao ngay và giao dịch ngoại hối có kỳ hạn
để kiếm lợi nhuận.
Nghiệp vụ ngoại hối giao sau:
Là nghiệp vụ tiến hành một thỏa thuận mua bán một số lượng ngoại tệ đã biết theo tỷ giá cố định tại thời điểm hợp
đồng có hiệu lực,việc chuyển giao ngoại tệ được thực hiện vào một ngày trong tương lai.
Nghiệp vụ giao dịch ngoại hối chọn quyền:
Là nghiệp vụ giữa bên mua quyền và bên bán quyền, trong đó bên mua quyền có quyền nhưng không có nghĩa vụ
mua hoặc bán một lượng ngoại tệ xác định ở một mức tỷ giá xác định trong một khoảng thời gian . Nếu bên mua
quyền lựa chọn thực hiện quyền của mình, bên bán quyền có nghĩa vụ bán hoặc mua lượng ngoại tệ trong hợp đồng
theo tỷ giá .
Câu 9: Một công cụ quản trị hữu hiệu đối với việc quản trị rủi ro tín dụng là xem xét Báo cáo tài chính KH.
Với nhận định trên, hãy giải thích những lợi thế và lỗi có thể gặp phải khi sử dụng báo cáo tài chính
Các thông tin về báo cáo tài chính của doanh nghiệp chưa bị bắt buộc phải qua kiểm toán nên độ chính xác của các
báo cáo chưa cao.
Lợi thế: Nhanh chóng, có khả năng định lượng chính xác mức độ rủi ro.
Khuyết điểm: Số liệu có thể bị thay đổi theo mục đích của chủ doanh nghiệp đối với cơ quan quản lý và tổ chức tín

dụng cho vay.
Đứng trên góc độ tích cực
Phù phép BCTC là hiện tượng khá phổ biến trong các DN của nước ta hiện nay và có nhiều nguyên nhân. Sự nóng lên
một cách nhanh chóng của thị trường chứng khoán nước ta hiện nay là một trong những nguyên nhân chính của việc
nhiều DN phù phép cho BCTC của mình. Việc đánh giá quá cao cổ phiếu của một số công ty khiến các nhà lãnh đạo
công ty phải tạo ra một khoản lợi nhuận ảo tương ứng với kì vọng từ phía các NĐT về khả năng sinh lời của công ty
nếu như không muốn phản ứng tiêu cực từ phía thị trường và kéo theo sự giảm sút về giá trị cổ phiếu. Điều này không
chỉ ảnh hưởng về phía NĐT mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến các nhà lãnh đạo bởi bản thân họ cũng nắm giữ phần lớn
cổ phiếu của công ty.
Đứng về góc độ tác động tích cực, những bản BCTC bị phù phép với động cơ tích cực, thực sự phát huy tác dụng của
mình cho DN khi nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty, nâng cao lợi nhuận theo kế hoạch, đảm bảo một số
hệ tài chính mà công ty đặt ra. Như vậy, việc phù phép tài chính lúc này trở thành công cụ can thiệp hữu hiệu vào các
số liệu tài chính không chỉ cho các nhà lãnh đạo và các NĐT.
Nếu không phù phép BCTC thì buộc các nhà lãnh đạo DN nếu không muốn làm mất kì vọng của NĐT vào sự sinh lời
của công ty phải vạch rõ dự án mà công ty đang đầu tư song điều này lại tạo điều kiện cho các đối thủ cạnh tranh nắm
được hoạt động của công ty. Điều này gây bất lợi cho dự án đầu tư và có thể gây thua lỗ cho dự án. Còn nếu chỉ khai
báo chung chung thì sẽ không tạo ra niềm tin đối với các NĐT, như vậy, cũng bất lợi về nguồn vốn đầu tư cho công
ty. Phương án này sẽ làm cho công ty bị mất một khoản lợi nhuận tương đối, tưc chi phí cơ hội của lựa chọn này khá
cao. Do vậy, lựa chọn phương án phù phép BCTC là lựa chọn tối ưu.
Đứng trên góc độ tiêu cực
Về góc độ tiêu cực, những thủ thuật phù phép tài chính gây một thiệt hại không nhỏ chỉ đối với các DN mà còn với cả
NĐT và có thể dẫn đến phá sản DN. Khi được sử dụng với mục đích không tích cực nó có thể là công cụ của những
kẻ tham nhuãng hay để che giấu hoạt động kinh doanh giảm sút của công ty mà việc phá sản của tập đoàn viễn thông
Worldcom của Mỹ do việc cung cấp số liệu không chính xác trong các BCTC là một ví dụ điển hình. Sự phá sản này
17
kéo theo sự khủng hoảng của cả hệ thống các tập đoàn viễn thông của Mỹ, làm thất thoát 18 tỷ USD và khiến 2.000
nhân viên mất việc làm.
Các công cụ sử dụng để phù phép BCTC thường được sử dụng theo nhiều hình thức và có một số hình thức khá phổ
biến với các nhà DN Mỹ và cũng không xa lạ với các DN Việt Nam hiện nay. Ở đây, chỉ xét đến những công cụ hợp
pháp, tuân thủ những quy định của kế toán tài chính.

Các công cụ phù phép Báo cáo tài chính
Phù phép thông qua các ước tính kế toán.Vì không có chỉ tiêu cụ thể cho ước tính kế toán nên đây có lẽ là công cụ khá
hữu hiệu cho việc phù phép BCTC. Các ước tính kế toán nhằm tăng mức lợi nhuận của công ty trong các kì sau, vì
vậy nó là con số tạo niềm tin cho khả năng sinh lời của công ty trong tương lai với các NĐT. Vì vậy, để không muốn
mất một khoản vốn đầu tư, các nhà kinh doanh đã dự tính cho mức ước tính kế toán cao hơn thông qua việc tăng lợi
nhuận của kì hiện tại bằng cách giảm mức khấu hao, giảm hàng tồn kho, không tính các khoản giá trị giảm so với giá
trị thuần. Về lâu dài, các ước tính kế toán này sẽ càng xa rời với con số giá trị thực của công ty và việc gây ra khủng
hoảng là không thể tránh khỏi. Thực chất của việc này là chuyển lợi nhuận của kì sau sang lợi nhuận của kì hiện tại và
điều này không ảnh hưởng đến lợi nhuận thực của công ty trong tương lai. Mặt khác, sử dụng công cụ này, các nhà
kinh doanh sẽ phải đối mặt với các nhà kiểm toán.
Phù phép thông qua các giao dịch thực. Công cụ này được sử dụng thông qua sự dàn xếp lợi nhuận của kì sau và kì
hiện tại và có thể không có lợi cho DN về sau.
Tăng doanh thu thông qua các chính sách giá và tài chính: giảm giá bán, nới lỏng điều kiện tín dụng nhằm tăng lượng
bán vào thơờ kì cuối của kì báo cáo. Việc này làm cho doanh thu kì sau giảm tức doanh thu kì này sau đã chuyển sang
kì hiện tại.
Thông báo tăng giá bán kì sau sẽ làm tăng lượng bán ra của kì hiện tại nhưng lại giảm lượng bán ra của kì sau và nó
cũng làm mất lợi nhuận của kì sau.
Cắt giảm chi phí hữu ích: Tức là cắt giảm những khoản chi cho công tác nghiên cứu và phát triển, dịch vụ quảng cáo,
việc duy tu và bảo dưỡng máy móc. Về lâu dài, đây không phải là phương án tốt với sự phát triển của công ty, làm
cho công ty không mở rộng được quy mô, phát triển sản xuất cũng như thương mại và dịch vụ, bỏ qua nhiều cơ hội để
tăng khoản lợi nhuận cho công ty.
Trì hoãn thanh toán các tài sản không có nhu cầu sử dụng, hàng tồn kho:
Các tài sản không sử dụng và mất giá trị nếu không thanh toán để lâu sẽ sinh ra những khoản lỗ đáng kể cho công ty;
đồng thời làm tăng chi phí bảo dưỡng.
Sản xuất vượt mức công suất: Phương pháp này nhằm tăng sản lượng bán ra cho DN nhưng bù lại DN phải bỏ thêm
chi phí cho bảo dưỡng máy móc, dịch vụ thương mại cho việc bán hàng…Không những thế, câu hỏi đặt ra là sản
phẩm liệu có bán được hay không lúc này nhà sản xuất lại mất thêm một khoản cho việc bảo dưỡng hàng tồn kho.
Các biện pháp hạn chế việc phù phép BCTC
Từ việc phân tích các công cụ của phù phép tài chính, một câu hỏi được đặt ra là: Liệu có nên tin vào BCTC hay
không? Thực sự là nhà tài chính vẫn nên tin vào BCTC bởi bên cạnh việc bóp méo sự thật của BCTC thì vẫn còn rất

nhiều yếu tố tích cực từ BCTC được phù phép.
Việc phù phép BCTC còn được hạn chế bởi lợi ích dài hạn của giám đốc công ty. Mỗi giám đốc công ty được nắm giữ
một mức cổ phiếu nhất định của công ty và trong thời gian lãnh đạo của mình, giám đốc ẽ được phép mua thêm một
số lượng cổ phiếu nào đó sẽ đặt thu nhập làm tăng lợi nhuận cho công ty và giảm những rủi ro sẽ là yếu tốt yêu cầu
của nhà lãnh đạo phải thể hiện tính minh bạch trong BCTC. HĐQT và ban giám sát cũng góp phần quan trọng vào
việc hạn chế việc phù phép BCTC, hội đồng quản trị có thu nhập hỗ trợ và tư vấn cho giám đốc công ty, thay mặt cổ
đông giám sát hoạt động của công ty. Theo nghiên cứ về các công ty Anh (1993-1998), các công ty có hội đồng quản
trị có tính độc lập cao thì tình trạng phù phép trong BCTC sẽ thấp. Hỗ trợ cho HĐQT, còn có ban kiểm soát gồm các
18
thành viên am hiểu về kế toán tài chính. Tính chất của ban kiểm soát đi ngược lại với tình trạng phù phép của BCTC,
đi ngược với lợi ích vai trò cổ đông nên hoạt động mang tính khách quan cao.
Bên cạnh đó, còn phải kể đến vai trò của kiểm toán viên độc lập, phát hiện ra thủ thuật phù phép của BCTC. Có tính
chất độc lập cao, lợi ích của kiểm toán viên độc lập mang lại cũng phụ thuộc vào năng lực, uy tính của kiểm toán viên.
Từ sự kiểm soát chặt chẽ từ nội bộ công ty đến kiểm toán viên độc lập đối với BCTC cũng như việc ban hành ngày
càng đầy đủ các chuẩn mực kế toán quy định về việc lập BCTC, các nhà đầu tư có thể yên tâm vào ngôn ngữ và tính
chính xác, minh bạch của các BCTC.
Câu 10:
Thanh niên 30 tuổi có gia đình, tốt nghiệp ĐH và đi làm 6 năm muốn tiếp cận dịch vụ cho vay mua nhà của NH bạn.
Trong 6 năm làm việc, anh ta thay đổi công việc 3 lần, lần gần nhất cách đây 3 tháng, anh ta còn 3 tháng thử việc. Vợ
anh ta 28 tuổi, 6 năm làm việc tại một công ty. Thu nhập hàng tháng hiện tại của anh ta là 3000 USD và của vợ anh ta
là 2500 USD. Hiện tại họ sống trong một căn hộ 600 USD, hàng tháng trả 700 USD cho xe hơi trả góp, và cần 3 năm
mới trả góp hết cho chiếc xe đó. Có 1 thẻ tín dụng với hạn mức 5000 USD từ NH bạn nhưng đang có 1 khoản nợ 3500
Mức trả tối thiểu cho khoản nợ là 10%/tháng, anh ta thường không đúng hẹn trong việc trả các khoản nợ phát sinh
trong thẻ tín dụng. Vợ anh ta cũng có thẻ tín dụng riêng nhưng rất nghiêm túc thanh toán nợ. Hai vợ chồng có 1 khoản
tiết kiệm chung 25000USD và 1 danh mục đầu tư cổ phiếu 45000USD. Anh ta muốn tự mình đứng tên để vay 1 khoản
225000USD để mua 1 ngôi nhà trị giá 200000USD. Cả hai vợ chồng đều nghỉ hưu ở tuổi 55. Chính sách cho vay mua
nhà của NH chỉ tài trợ 70% giá trị tài sản và có mức lãi suất 12%/năm
a. Bạn là cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm về khoản vay này, bạn quyết định như thế nào, tại sao?
b. Nếu được đề nghị cơ cấu lại khoản vay cho hợp lý thì bạn sẽ cơ cấu như thế nào?
19

Câu 8: Giả sử anh/ chị làm trưởng phòng tín dụng trong 1 NH lớn và chịu trách nhiệm ra chính sách tín dụng và triển
khai các chính sách đó. Anh/chị phải đảm bảo hoạt động phân tích tín dụng của các chuyên viên tín dụng và việc chấp
nhận và cho vay tín dụng phải mang tính hệ thống, chặt chẽ và chuẩn hóa về quy cách. Do vậy việc cung cấp đầy đủ
cho các nhân viên về các thông tin, yêu cầu của quy trình thẩm định đúng quy trình, trình tự khi xử lý một hồ sơ vay
là vấn đề cần thiết
a. Hãy giải thích đầy đủ những yêu cầu của một quy trình phân tích tín dụng đúng cách để ra các quyết định cho
vay
b. Liên hệ kinh nghiệm bản thân về các yêu cầu tín dụng (quy trình xử lý) tại Việt Nam từ góc độ người vay
c. Một nhân viên thiết bị điện tới NH vay vốn để mua dụng cụ điện và một chiếc xe tải. Yêu cầu được vay
100.000 USD và đặt chiếc xe tải là tài sản thế chấp. Anh ta là KH của NH và cũng chậm trả thẻ tín dụng.
Người này cũng vài lần làm cho công ty lớn trong thời gian gần đây. Giờ đây anh ta cần vốn để khởi nghiệp,
20
ở nhà thuê và chuyển chỗ ở vài lần, có kế hoạch kinh doanh trong khu vực với khoản vay này sẽ cho mức
thặng du tăng hàng năm
21

×