Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tình hình tiếp nhận và sử dụng vốn ODA ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.99 KB, 27 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIÊN NGÂN HÀNG
LỚP: TCDN.B-LTĐH 8
Tình hình tiếp nhận và
sử dụng vốn ODA ở Việt Nam
1. Tổng quan về vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).
1.1. Khái niệm về vốn hỗ trợ phát triển chính thức.
ODA là tên viết tắt của cụm từ Official Development Assistance có nghĩa là: Hỗ
trợ phát triển chính thức hay Viện trợ phát triển chính thức. Hiện nay trên thế giới có
nhiều quan điểm khác nhau về ODA nhưng nói chung những quan điểm này đều có
chung một bản chất. Theo cách hiểu chung nhất thì ODA là các khoản viện trợ không
hoàn lại hoặc cho vay với những điều kiện ưu đãi của các cơ quan tài chính , các tổ chức
quốc tế các nước, các tổ chức phi chính phủ nhằm hỗ trợ phát triển cho các nước khác.
1.2. Phân loại.
1.2.1. Phân loại theo nguồn cung cấp và nơi tiếp nhận:
- Theo nguồn cung cấp :
+ ODA song phương: là viện trợ phát triển chính thức của chính phủ nước này
dành cho chính phủ nước kia.
+ ODA đa phương: là viện trợ phát triển chính thức của một tổ chức quốc tế hoặc
của chính phủ một nước dành cho chính phủ một nước khác nhưng được thực hiện thông
qua các tổ chức Quốc tế. Ví dụ: Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP)
- Theo nơi tiếp nhận :
+ ODA thông thường: là hỗ trợ cho nước có thu nhập bình quân đầu người thấp.
+ ODA đặc biệt: là hỗ trợ cho các nước đang phát triển với thời hạn cho vay ngắn,
lãi suất cao hơn so với ODA thông thường.
1.2.2. Phân loại theo tính chất:
+ Viện trợ không hoàn lại là viện trợ cấp không, không phải trả lại và thường
được thực hiện dưới hai dạng: Hỗ trợ kỹ thuật, viện trợ nhân đạo bằng hiện vật.
+ Viện trợ có hoàn lại: Viện trợ có hoàn lại thực chất là vay tín dụng với điều kiện
ưu đãi. Tính ưu đãi thể hiện qua mức lãi xuất cho vay thấp thường dưới 3%/năm, thời
gian kéo dài.


+ Hình thức hỗn hợp: ODA theo hình thức nay bao gồm một phần là ODA không
hoàn lại và một phần là ODA vốn vay ưu đãi.
1.2.3. Phân loại theo điều kiện:
+ ODA không ràng buộc: Là việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng buộc bởi
người sử dụng hay mục đích sử dụng. VD: Thụy Điển là nước duy nhất cung cấp ODA
không điều kiện.
+ ODA có ràng buộc: Là nguồn ODA được cung cấp chỉ giới hạn cho một số công
ty.hay chỉ được cung cấp nguồn ODA với điều kiện là phải sử dụng nguồn vốn này cho
những lĩnh vực nhất định hay những dự án cụ thể.
+ ODA ràng buộc một phần: Nước nhận viện trợ phải dành một phần ODA chi ở
nước viện trợ (như mua sắm hàng hóa hay sử dụng các dịch vụ của nước cung cấp ODA),
phần còn lại có thể chi ở bất cứ đâu.
1.2.4. Phân loại theo hình thức:
+ Hỗ trợ dự án: Đây là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án cụ thể.
Nó có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không hoặc cho vay ưu đãi.
+ Hỗ trợ phí dự án: Là loại ODA được nhà tài trợ cung cấp trên cơ sở tự nguyện.
Loại ODA này thường được cung cấp kèm theo những đòi hỏi từ phía chính phủ nước tài
trợ. Do đó, chính phủ nước này phải cân nhắc kỹ các đòi hỏi từ phía nhà tài trợ xem có
thỏa đáng hay không. Nếu không thỏa đáng thì phải tiến hành đàm phán nhằm dung hòa
điều kiện giữa hai bên.
+ Hỗ trợ cán cân thanh toán: Trong đó thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp hoặc hỗ
trợ hàng hóa hay hỗ trợ xuất nhập khẩu. Ngoại tệ hoặc hàng hóa được chuyển vào qua
hình thức này có thể được sử dụng hỗ trợ cho ngân sách.
+ Hỗ trợ trả nợ: Nguồn ODA cung cấp dùng để thanh toán những món nợ mà nước
nhận viện trợ đang phải gánh chịu.
+ Viện trợ chương trình: Là khoản ODA dành cho một mục đích tổng quát với
thời gian nhất định mà không phải xác định chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào.
1.3. Vai trò của ODA:
1.3.1. Đối với các nước tài trợ:
 Thứ nhất: Tăng cường vị thế chính trị và ảnh hưởng của mình trên thế giới.

Nhìn chung, các nước phát triển sử dụng ODA như một công cụ để thực hiện ý đồ
chính trị đối ngoại, xác định vai trò và ảnh hưởng chính trị của mình tại các nước và khu
vực tiếp cận ODA.
Ví dụ như Mỹ là một trong những quốc gia thường xuyên sử dụng các điều kiện
chính trị để “ mặc cả “ với các quốc gia tiếp nhận viện trợ. Mỹ đã công khai gắn việc tăng
viện trợ với thái độ hợp tác của các nước đồng minh trong cuộc chiến chống khổng bố ở
Mỹ. Năm 2003 Mỹ sẵn sàng viện trợ và cho Thổ Nhĩ Kỳ vay một khoản tiền lớn để đổi
lấy việc Thổ Nhĩ Kỳ cho phép Mỹ đóng quân trong cuộc chiến tranh tấn công I- Rắc.
Hay như Nhật Bản, Nhật Bản đã bình thường hóa quan hệ với các nước Đông Nam Á…
Thực chất các điều kiện chính trị này đã trở thành vũ khí để xâm phạm thô bạo chủ
quyền của các quốc gia độc lập.Có nhiều cam kết không phù hợp, thậm chí không thể
chấp nhận được đối với các nước nhận viện trợ.Đặc biệt có những điều kiện mà đằng sau
nó là những mưu toan chính trị của các thế lực bên ngoài.
 Thứ hai: Tăng cường lợi ích và ảnh hưởng kinh tế
ODA có điều kiện đã khơi nguồn cho dòng chảy kinh doanh, và với các điều kiện
ràng buộc, tiền viện trợ lại quay về nơi xuất phát của nó mà vẫn đem lại lợi ích cho người
chủ sở hữu vốn. Một số nước đòi bên nhận ODA phải mở cửa thị trường, dành cho họ
những thuận lợi trong quan hệ kinh tế.
Ví dụ các điều kiện đi kèm với ODA của Nhật Bản là : các khoản vay phải được
thực hiện bằng đồng yên; các khoản ODA này chỉ được cung cấp cho các dự án có các
công ty của Nhật tham gia. Nhật Bản dành một tỷ lệ tương đối lớn viện trợ cho các dự án
xây dựng cơ sở hạ tầng vốn mang lại rất ít lợi ích trước mắt cho người nghèo.
Xét cho cùng sự tặng trưởng, phát tiển của các nước đang phát triển cũng sẽ đem
lại lợi ích cho các nước phát triển.
1.3.2. Đối với các nước nhận tài trợ:
- ODA là nguồn vốn bổ sung giúp cho các nước nghèo đảm bảo chi đầu tư phát
triển, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Vốn ODA với đặc tính ưu việt là thời hạn
cho vay dài thường là 10 - 30 năm, lãi suất thấp khoảng từ 0,25% đến 2%/năm. Chỉ có
nguồn vốn lớn với điều kiện cho vay ưu đãi như vậy Chính phủ các nước ĐPT mới có thể
tập trung đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế như đường sá, điện, nước,

thuỷ lợi và các hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế. Những cơ sở hạ tầng KTXH được xây
dựng mới hoặc cải tạo nhờ nguồn vốn ODA là điều kiện quan trọng thúc đẩy tăng trưởng
nền kinh tế của các nước nghèo. Theo tính toán của các chuyên gia của WB, đối với các
nước ĐPT có thể chế và chính sách tốt, khi ODA tăng lên 1% GDP thì tốc độ tăng trưởng
tăng thêm 0,5%.
- Nước tiếp nhận viện trợ có điều kiện trang bị công nghệ cao ở nhiều lĩnh vực.
Đặc biệt là những lĩnh vực mũi nhọn phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của mình, đồng thời làm tiền đề cho việc phát triển các ngành công nghiệp khác. Đây
thực sự là cơ hội lớn cho các nước tiếp nhận, bởi lẽ có nhiều loại công nghệ mà nước tiếp
nhận tài trợ không thể có được qua phương thức thương mại thuần túy do các rào cản bảo
vệ công nghệ của các nước phát triển.
- ODA còn tạo điều kiện cho các nước tiếp nhận viện trợ tăng cường khả năng thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hơn nữa, việc tiếp nhận nhiều nguồn vốn ODA là
một đảm bảo vô hình cho việc các nhà đầu tư nước ngoài quyết định mô hình và quy mô
đầu tư.
Ví dụ như Trung Quốc, việc đầu tư hàng chục tỷ USD vào nâng cấp cơ sở hạ tầng
xã hội như mạng lưới giao thông liên quốc gia,liên tỉnh và liên xã, xây dựng hệ thống
cung cấp điện – nước – bưu chính viễn thông hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế đã giúp
Trung Quốc thu hút một lượng FDI bằng tất cả các quốc gia Đông Á cộng lại.
- ODA giúp các nước ĐPT phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường. Một
lượng ODA lớn được các nhà tài trợ và các nước tiếp nhận ưu tiên dành cho đầu tư phát
triển giáo dục, đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của lĩnh vực này, tăng
cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc dạy và học của các nước ĐPT. Bên cạnh
đó, một lượng ODA khá lớn cũng được dành cho các chương trình hỗ trợ lĩnh vực y tế,
đảm bảo sức khoẻ cộng đồng.Nhờ có sự tài trợ của cộng đồng quốc tế, các nước ĐPT đã
gia tăng đáng kể chỉ số phát triển con người của quốc gia mình.
- ODA giúp các nước ĐPT xoá đói, giảm nghèo. Xoá đói nghèo là một trong
những tôn chỉ đầu tiên được các nhà tài trợ quốc tế đưa ra khi hình thành phương thức hỗ
trợ phát triển chính thức.Mục tiêu này biểu hiện tính nhân đạo của ODA. Trong bối cảnh
sử dụng có hiệu quả, tăng ODA một lượng bằng 1% GDP sẽ làm giảm 1% nghèo khổ, và

giảm 0,9% tỷ lệ tỷ vong ở trẻ sơ sinh. Và nếu như các nước giầu tăng 10 tỷ USD viện trợ
hằng năm sẽ cứu được 25 triệu người thoát khỏi cảnh đói nghèo.
- ODA là nguồn bổ sung ngoại tệ và làm lành mạnh cán cân thanh toán quốc tế của
các nước ĐPT. Đa phần các nước ĐPT rơi vào tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai, gây
bất lợi cho cán cân thanh toán quốc tế của các quốc gia này. ODA, đặc biệt các khoản trợ
giúp của IMF có chức năng làm lành mạnh hoá cán cân vãng lai cho các nước tiếp nhận,
từ đó ổn định đồng bản tệ.
- ODA được sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành nguồn lực bổ sung cho đầu tư tư
nhân. Ở những quốc gia có cơ chế quản lý kinh tế tốt, ODA đóng vai trò như nam châm
“hút” đầu tư tư nhân theo tỷ lệ xấp xỉ 2 USD trên 1 USD viện trợ. Đối với những nước
đang trong tiến trình cải cách thể chế, ODA còn góp phần củng cố niềm tin của khu vực
tư nhân vào công cuộc đổi mới của Chính phủ.Tuy nhiên, không phải lúc nào ODA cũng
phát huy tác dụng đối với đầu tư tư nhân. Ở những nền kinh tế có môi trường bị bóp méo
nghiêm trọng thì viện trợ không những không bổ sung mà còn “loại trừ” đầu tư tư nhân.
Điều này giải thích tại sao các nước ĐPT mắc nợ nhiều, mặc dù nhận được một lượng
ODA lớn của cộng đồng quốc tế song lại không hoặc tiếp nhận được rất ít vốn FDI.
- ODA giúp các nước ĐPT tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương
trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây dựng chính
sách quản lý kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế.
Tuy nhiên, nguồn vốn ODA cũng tiềm ẩn nhiều hậu quả bất lợi đối với các nước
tiếp nhận nếu ODA không được sử dụng hiệu quả, như làm tăng gánh nặng nợ quốc gia,
lệ thuộc chính trị vào nhà tài trợ,….
1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến thu hút ODA:
1.4.1 Đối tượng của ODA:
ODA của các tổ chức và các quốc gia trên thế giới chỉ tập trung vào những nước
có thu nhập bình quân đầu người thấp, đặc biệt là những nước ở dưới mức 220
USD/người, năm.
Mặc dù vậy, việc xem xét một quốc gia có đủ điều kiện để được viện trợ ODA hay
không còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác trong đó quan trọng nhất lại là chính sách
ngoại giao, tiếp đến là mức độ ổn định chính trị- kinh tế -xã hội và lộ trình cam kết phát

triển kinh tế xã hội của quốc gia đó. Do đó, một quốc gia có mức thu nhập bình quân đầu
người cao hơn 220 USD/ người, năm vẫn có thể thu hút lượng ODA lớn hơn nhiều lần so
với một nước có thu nhập thấp hơn 220 USD/người, năm. Điều kiện về thu nhập luôn
luôn được nhắc đến trong việc cấp ODA nhưng đó chỉ là điều kiện cần chứ không hẳn là
điều kiện đủ để một quốc gia trở thành nước được nhận viện trợ. Do vậy, năng lực của bộ
máy lãnh đạo của một quốc gia cũng chính là điều kiện quyết định khả năng thu hút ODA
của quốc gia đó vì đôi khi việc tăng hoặc giảm quyết định viện trợ cũng do các lý do
chính trị chứ không phải lý do viện trợ kinh tế theo đúng nghĩa của nó.
Sau khi đã ký các cam kết viện trợ, để được tiếp nhận nguồn viện trợ ODA, các
nước phát triển phải tuân theo các điều kiện của nguồn hỗ trợ và từng dự án, chương
trình.
Một yêu cầu nữa đối với nước nhận viện trợ là uy tín của nước đó và những tiến
bộ đạt được thông qua quá trình sử dụng vốn viện trợ của các nước này. Đây là tiền đề
quan trọng tạo thuận lợi cho nước tiếp nhận ODA có được sự tin tưởng từ phía các nhà
tài trợ qua đó tiếp tục và nhận được nhiều sự ủng hộ hơn nữa.
Ngoài những yêu cầu được đặt ra ở trên, nước nhận viện trợ, thường là những
nước đang phát triển còn gặp một khó khăn không nhỏ đó là nguồn vốn đối ứng theo yêu
cầu của từng dự án, từng giai đoạn của dự án. Khi các nước đó gặp phải khó khăn về kinh
tế hoặc do sự yếu kém của các cơ quan thi hành, việc không đáp ứng đủ nguồn vốn đối
ứng sẽ làm chậm tiến độ giải ngân, làm chậm thời gian đưa công trình vào sử dụng, tăng
chi phí thực hiện dự án và làm giảm sút uy tín đối với nhà tài trợ.
Ngoài ra còn có các nhân tố khác cũng ảnh hưởng rất lớn đến nguồn vốn ODA của
các nước, như:
- Thời gian phê duyệt thẩm định dự án.
- Thủ tục giải ngân các dự án.
- Nguồn nhân lực cho các dự án ODA.
- Nền kinh tế của các nước viện trợ: Trong những năm qua nền kinh tế thế giới
phát triển không ổn định, đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đã làm
các nước phát triển trên thế giới lâm vào khủng hoảng, tiếp theo là lạm phát xảy ra ở hầu
hết các nền kinh tế lớn đã ảnh hưởng không ít đến đầu tư của các nước này vào các nước

đang phát triển.
1.4.2. Các tiêu chuẩn được viện trợ và vay ODA:
Tiêu chuẩn được viện trợ và vay ODA thường được xác định trên cơ sở tình hình
phát triển kinh tế xã hội của từng quốc gia, trong đó các tiêu chuẩn cơ bản chủ yếu nhất là
GDP tính theo đầu người và khả năng trả nợ của quốc gia đó. Thông thường những nước
đang phát triển có mức thu nhập bình quân đầu người một năm thấp hơn mức tối thiểu
mới có đủ tiêu chuẩn để vay ODA. Mức tối thiểu này được điều chỉnh theo thời gian và
tuỳ vào chính sách của từng tổ chức tài trợ. Ví dụ năm 1996 Ngân hàng phát triển Châu Á
(ADB) quy định mức thu nhập bình quân tối thiểu là 851 USD/người, đối với Ngân hàng
Thế giới, con số này là 1.305 USD/người,
1.4.3. Các điều kiện và thời hạn vay ODA:
Các khoản vay ODA dành cho các nước nghèo, kém phát triển thường có lãi suất
thấp, thậm chí không có lãi suất, thời hạn trả vốn lâu, thời gian ân hạn dài. Ví dụ như thời
gian hoàn trả vốn của Nhật Bản là 30 năm, của ADB và WB là 40 năm, lãi suất của ADB
là 1%/năm, của WB là 0,75%/năm, thời gian ân hạn là 10 năm, Nếu cán cân thanh toán
và tình hình kinh tế của nước đi vay được cải thiện một cách đáng kể thì thời hạn các
khoản vay có thể được điều chỉnh nhằm thể hiện những thay đổi to lớn trong tình hình
kinh tế của từng nước. Tuy nhiên, nếu sự điều chỉnh đó làm nền kinh tế của quốc gia vay
vốn bị bất ổn thì có thể điều chỉnh lại.
2. Thực trạng tiếp nhận và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam:
2.1. Tình hình tiếp nhận vốn ODA ở Việt Nam
2.1.1. Những thành tựu đạt được:
 Trước năm 1993:
Từ năm 1950, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước xã hội chủ nghĩa và
đã nhận được nhiều khoản viện trợ, trong đó có nguồn vốn ODA.Trong những năm chiến
tranh, nhân dân Việt Nam đã vượt qua những khó khăn, thiếu thốn và có đủ sức mạnh
chiến thắng đế quốc Mỹ một phần cũng là nhờ vào những khoản viện trợ này.
+ ODA vào Việt Nam từ 1976- 1990 là:
- Các tổ chức thuộc hệ thống liên hiệp quốc 1,6 tỷ USD.
- Liên Xô cũ và các nước Pháp, Úc, Đan Mạch, CHLB Đức, Hà Lan: 12,6 tỷ RCN.

Trong các nguồn viện trợ trên, nguồn viện trợ của Liên Xô đã giúp Việt Nam xây
dựng một số công trình quan trọng mà cho đến nay vẫn phát huy hiệu quả như nhà máy
thủy điện Hoà Bình, thủy điện Trị An, nhiệt điện Phả Lại, xi măng Bỉm Sơn, apatit Lao
Cai, cầu Thăng Long…
Bảng giải ngân ODA 1985-1992:
Năm 1985 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992
Vốn giải ngân
(1000 USD)
114 146,5 111 147,8 120 189,6 218,5 356
Nguồn: chỉ số phát triển các nước Châu á-TBD ADB 1994
Tuy nhiên, trong thời kỳ 1989-1992, những giúp đỡ của các tổ chức tài chính thế giới
cùng với sự nỗ lực của chính phủ Việt Nam đã tạo ra một sự cải cách nhanh và có tổ chức
hệ thống. Viện trợ thời kỳ 1989-1992 chỉ tập trung chủ yếu vào tư vấn về chính sách và
hỗ trợ kỹ thuật trong quá trình điều chỉnh và cải cách.Hỗ trợ tài chính quy mô lớn chỉ tới
sau khi có một môi trường chính sách tốt ở Việt Nam.
 Sau năm 1993:
Sau 1993, Việt Nam đã chính thức nối lại quan hệ với nhiều tổ chức và Quốc gia trên thế
giới đánh dấu một giai đoạn mới trong tài trợ phát triển chính thức đối với Việt Nam.
Khối lượng ODA đến Việt Nam tăng nhanh lên nhanh chóng. Chính phủ đã quan tâm
nhiều hơn đến việc xây dựng và hoàn thiện các chính sách để quản lý và sử dụng ODA có
hiệu quả.Nhiều văn bản pháp quy đã ra đời nhằm đưa ra những hướng dẫn về quy trình,
thủ tục thực hiện và quản lý ODA làm rõ trách nhiệm của từng cơ quan trong việc quản
lý và sử dụng ODA.
Có thể nhận thấy trong thời kỳ này tình hình giải ngân vốn ODA có những cải
thiện nhất định với chiều hướng tích cực qua các năm.
BIỂU ĐỒ CAM KẾT, KÝ KẾT, GIẢI NGÂN TỪ 1993 - 2010
Đơn vị: Triệu USD
Những năm gần đây, lượng vốn ODA cam kết năm sau đều cao hơn năm trước,
lên tới khoảng 8 tỷ USD mỗi năm, thể hiện sự tin tưởng của các nhà tài trợ vào khả năng
phát triển (và trả nợ) của Việt Nam. Số liệu Bộ Kế hoạch - Đầu tư (KH-ĐT) cho thấy

trong 5 năm 2006-2010, tổng số vốn ODA cam kết cho Việt Nam đạt 31,7 tỷ USD, tăng
21,5% so với giai đoạn 5 năm trước đó. Các chương trình, dự án tài trợ được ký kết trong
thời kỳ 2006-2010 cũng đạt 20,1 tỷ USD, tăng 17,9% so với 5 năm trước. Vốn giải ngân
được trong thời kỳ này đạt 13,8 tỷ USD, tăng 17% so với giai đoạn trước đó.
Năm 2011, trong bối cảnh Việt Nam phải cắt giảm đầu tư công để kiềm chế lạm
phát, nguồn vốn ODA với lãi suất ưu đãi và thời hạn vay kéo dài càng được coi là nguồn
lực quan trọng để đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong 6
tháng đầu năm nay, việc huy động và giải ngân ODA tiếp tục đạt kết quả ấn tượng, trong
đó giải ngân vốn ODA đã tăng cao kỷ lục. Theo số liệu của Bộ KH-ĐT, tổng giá trị giải
ngân vốn ODA 5 tháng đầu năm 2011 ước tính đạt 1,26 tỷ USD, bằng 52,5% kế hoạch
giải ngân của cả năm. Đây được xem là con số giải ngân ODA cao kỷ lục so với nhiều
năm trước đó.
Công tác thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam trong 17 năm qua đã đạt
được những thành quả to lớn, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Một trong những nguyên nhân dẫn đến kết quả trên là sự chỉ đạo và điều
hành của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đối với công tác quản lý và sử dụng nguồn
vốn ODA thông qua việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện khung thể chế về quản lý
và sử dụng nguồn vốn này. Đây cũng chính là điểm nổi bật nhất trong việc quản lý ODA
tại Việt Nam trong những năm qua.
Những thành công cơ bản :
 Mục tiêu quản lý nợ nước ngoài trong đó có nguồn nợ ODA đã được Chính phủ
xác định một cách cụ thể và rõ ràng. Đó là: đáp ứng được các yêu cầu về huy động vốn
với chi phí thấp nhất cho đầu tư phát triển và cơ cấu lại nền kinh tế theo định hướng,
chiến lược phát triển kinh tế xã hội; đảm bảo quản lý phân bổ và sử dụng vốn có hiệu
quả, giảm thiểu rủi ro và áp lực đối với các nguồn lực quốc gia, đảm bảo an toàn nợ và an
ninh tài chính quốc gia; tạo điều kiện tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế.
 Về tổng thể đã có sự phân công tương đối rõ ràng giữa các cấp bộ, ngành trong
vấn đê quản lý ODA.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối trong việc thu hút, điều phối và quản
lý ODA. Bộ Tài chính là đại diện chính thức cho “người vay” là Nhà nước hoặc Chính

phủ đối với các khoản vay nước ngoài nói chung và nguồn vay nợ ODA nói riêng. Bộ Tài
chính cũng chính là tổ chức cho vay lại, hoặc ký hợp đồng ủy quyền cho vay lại với cơ
quan cho vay lại và thu hồi phần vốn cho vay lại của các chương trình, dự án cho vay lại
từ NSNN, quản lý tài chính đối với các chương trình, dự án … Ngân hàng nhà nước chịu
trách nhiệm tiến hành đàm phán và ký các điều ước quốc tế cụ thể về ODA với WB,
RMF và ADB v v…
 Các khoản nợ nước ngoài nói chung và nguồn vay nợ ODA nói riêng hiện tại đảm
bảo trong giới hạn an toàn cho phép; có lãi suất, thời hạn và đồng tiền vay hợp lí.
 Nguồn vay nợ nước ngoài trong đó có ODA là nguồn tài chính quan trọng bổ sung
cho ngân sách nhà nước, đảm bảo cho đầu tư phát triển, tăng trưởng kinh tế, đầu tư cơ sở
hạ tầng, giải quyết các vấn đề về an sinh xã hội, đặc biệt là vấn đề xóa đói giảm nghèo,
tăng cường và củng cố thể chế pháp lý, pháp triển quan hệ đối tác chặt chẽ với nước
ngoài.
 Trong thời gian qua, cộng đồng tài trợ tại Việt Nam đã được mở rộng rất nhiều và hiện
có 51 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương đang
hoạt động thường xuyên tại Việt Nam. Ngoài các nước là thành viên của Tổ chức OECD-
DAC còn có các nhà tài trợ mới nổi như Trung Quốc, Ấn độ, Hung-ga-ri, Séc,
2.1.2. Những khó khăn, hạn chế cần khắc phục:
 Trước năm 1993: Trong thời kỳ này viện trợ không mang lại tác dụng đáng kể. Là
một trong những nước nghèo nhất trên thế giới, quản lý kinh tế yếu kém, chế độ thương
mại đóng cửa, nền kinh tế không có chỗ cho đầu tư tư nhân, thâm hụt ngân sách trầm
trọng được bù đắp bằng việc in tiền dẫn đến siêu lạm phát trong những năm đầu thập kỷ
80 đã được các nhà tài trợ đánh giá là một môi trường khó khăncho viện trợ. .
 Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư giữ vai trò là cơ quan đầu mối. Tuy nhiên dự
án của các cơ quan cấp dưới đưa lên thường sơ sài,thiếu luận cứ khoa học. Mặt khác,
cũng là do các cơ quan đề xuất dự án không có kinh phí để chuẩn bị đề xuất hoặc đôi khi
thiếu năng lực chuẩn bị đề xuất nên đề án đưa lên không đạt yêu cầu. Các cơ quan chính
phủ phải tốn khá nhiều thời gian tìm hiểu, thảo luận để đi đến nhất trí. Đây cũng là một
trong những khó khăn khi thương thuyết với các nhà tài trợ về danh mục dự án được tài
trợ.

 Trong giai đoạn thẩm định dự án vốn vay: Điểm yếu của chúng ta trong khâu này
là quá trình thẩm định, phê duyệt dự án nói chung và dự án ODA nói riêng thường kéo
dài, quy trình thủ tục thiếu rõ ràng. Điều đó dẫn đến tình trạng chậm trễ kém chính xác
trong xử lý vấn đề.Làm chậm thời gian thương thuyết và giải ngân vốn cho các dự án.
Về nội dung thẩm định: Cho đến nay vẫn chưa có hướng dẫn thẩm định cụ thể, đặc
biệt là những yêu cầu chặt chẽ về đánh giá tác động xã hội và môi trường đối với các loại
dự án khác nhau, gây khó khăn cho quá trình thẩm định.
Công tác đấu thầu, xét thầu: Qua thực tế triển khai công tác này bộc lộ nhiều thiếu
sót, chưa sát với thực tế và chưa hài hòa với quy trình thủ tục của bên tài trợ. Riêng với
quy chế Đấu thầu 88/CP và quy chế quản lý Đầu tư 52/CP, Bộ kế hoạch và đầu tư, các
ban quản lý dự án và các nhà tài trợ đều thừa nhận rằng có sự thiếu nhất quán trong hai
quy định này, chẳng hạn như quy định mang tính nguyên tắc về lựa chọn nhà đầu tư chưa
phù hợp với đặc thù của từng dự án, các nội dung về quản lý đấu thầu và chỉ định thầu
còn nhiều điểm chưa đồng nhất khiến việc thực hiện các dự án gặp nhiều khó khăn.
 Nguồn vốn giải ngân còn thấp: Mặc dù, mức cam kết ODA năm sau luôn cao hơn
năm trước, song việc giải ngân nguồn vốn này chưa được như mong muốn. Năm 2011,
tổng vốn giải ngân chỉ đạt 33,414 tỷ USD, chiếm trên 61% tổng vốn ODA ký kết. Đáng
chú ý là, trong khi tỷ lệ vốn vay tăng từ 80% (1993 - 2000) lên mức 81% (2001 - 2005)
và đạt mức cao nhất 93% (2006 - 2009) thì vốn viện trợ không hoàn lại giảm từ 20% và
19% (1993 - 2000 và 2001 - 2005) xuống còn 7,1% (2006 - 2010).
Đề cập tới vấn đề trên, Bộ KH&ĐT thừa nhận, mặc dù các chỉ tiêu về cam kết, ký
kết và giải ngân nguồn vốn ODA đều đạt và vượt kế hoạch đề ra, nhưng tiến độ thực hiện
và giải ngân nguồn vốn ODA vẫn chưa đạt yêu cầu và đối với một số nhà tài trợ còn thấp
hơn với mức bình quân của khu vực và thế giới. Đơn cử như, với vốn của WB, tỷ lệ của
Việt Nam là 11,6% so với 19,4% của khu vực; với vốn của JICA, tỷ lệ của Việt Nam là
13,6% so với 16,6% của quốc tế. Nhiều chương trình, dự án đầu tư bằng vốn vay ODA
phải gia hạn, dẫn đến hiệu quả đầu tư giảm, do các công trình này chậm đưa vào khai
thác, sử dụng.
Sự chậm trễ trong triển khai và giải ngân thấp thời gian qua không những chưa
đem lại hiệu quả cao mà còn gây khó trong việc thuyết phục các nhà tài trợ đưa ra các

khoản cam kết mới hoặc tăng vốn ODA cho Việt Nam. Hiện nay, số vốn ODA đang ký
kết, có hiệu lực là 26,383 tỷ USD, tuy nhiên giá trị giải ngân mới đạt được 6,965 tỷ USD,
còn 19,418 tỷ USD chưa được giải ngân. Một số nhà tài trợ còn tồn đọng vốn lớn như
Ngân hàng thế giới (6,128 tỷ USD), Nhật Bản (5,981 tỷ USD), Ngân hàng Phát triển châu
Á (4,575 tỷ USD) Các số liệu của Bộ KH&ĐT cũng cho thấy, khoảng cách giữa tổng
giá trị giải ngân so với tổng giá trị ODA ký kết theo từng nhà tài trợ cụ thể của các
chương trình, dự án ODA chủ yếu đang triển khai thực hiện là rất lớn.
Nhận thức rõ vấn đề này, thời gian qua, Bộ KH&ĐT đã phối hợp chặt chẽ với các
cơ quan Việt Nam và các nhà tài trợ, đặc biệt nhóm 6 Ngân hàng Phát triển (ADB, AFD,
JICA, KFW, KEXIM, WB) trong việc xác định, giải quyết, tháo gỡ các khó khăn, vướng
mắc nảy sinh trong quá trình chuẩn bị và thực hiện các chương trình, dự án ODA. Tuy
nhiên, tình hình giải ngân nguồn vốn ODA vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn, do đó
rất cần có sự vào cuộc mạnh mẽ từ phía các cơ quản chủ quản.
Theo số liệu của Bộ KH&ĐT, hiện nay tổng giá trị các chương trình, dự án ODA
chủ yếu đang được triển khai thực hiện là trên 26,383 tỷ USD (25,600 tỷ USD ODA vốn
vay và 782.89 triệu USD viện trợ không hoàn lại),song tổng mức giải ngân của các
chương trình, dự án này tính đến ngày 31/8/2011 chỉ đạt 6,965 tỷ USD (6,796 tỷ USD
ODA vốn vay và 169 triệu USD viện trợ không hoàn lại), chiếm 26,4% tổng vốn đã ký
kết. Với tình hình này, rõ ràng việc hoàn thành các mục tiêu theo hiệp định đã ký kết với
khoảng 50% các chương trình, dự án phải kết thúc trong năm 2012; khoảng 30% phải kết
thúc trong các năm 2013 – 2014; và 20% còn lại phải kết thúc trong các năm 2015 - 2017
là rất khó khăn.
2.2. Tình hình sử dụng vốn ODA của Việt Nam:
2.2.1. Thành tựu trong sử dụng vốn ODA của Việt Nam
 Trước tháng 10/1993
Trong các nguồn viện trợ trên, nguồn viện trợ của Liên Xô đã giúp Việt Nam xây
dựng một số công trình quan trọng mà cho đến nay vẫn phát huy hiệu quả như nhà máy
thủy điện Hoà Bình, thủy điện Trị An, nhiệt điện Phả Lại, xi măng Bỉm Sơn, apatit Lao
Cai, cầu Thăng Long…
Trước đây nước ta nhận được 2 nguồn ODA song phương chủ yếu.Một từ các

nước thuộc tổ chức SEV (hội đồng tương trợ thế giới) trong đó chủ yếu là Liên xô cũ.
Hai là các nước thuộc tổ chức DAC (uỷ ban hỗ trợ phát triển) và một số nước khác, trong
đó chủ yếu là thuỵ điển, phần lan, đan mạch….
Các khoản ODA trên giúp chúng ta xây dựng một số nghành quan trọng nhất là sự
nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế nước ta.Sau cuộc khủng hoảng chính trị ở Liên xô
cũ và Đông âu, SEV giải thể đã làm cho nguồn viện trợ từ các nước này chấm dứt dẫn tới
rất nhiều khó khăn cho nước ta, nhiều kế hoạch không có vốn để hoàn thành.
Số dự án Vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ)
(*)
TỔNG SỐ 16 10,7
1989 1 0,6
1990 3 0,0
1991 3 4,0
1992 4 5,4
1993 5 0,7
 Sau tháng 10/1993 tới nay
Giai đoạn này bắt đầu bằng sự kiện rất quan trọng vào tháng 10/1993, quan hệ của
nước ta với quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng châu á
(ADB) được khai thông.
Trong thời gian qua, ODA được ưu tiên sử dụng để phát triển hạ tầng kinh tế và xã
hội, tập trung vào các lĩnh vực sau:
• Phát triển hệ thống giao thông (đường bộ, đường thuỷ, đường sắt và đường
hàng không);
• Phát triển hệ thống nguồn và lưới điện;
• Phát triển nông nghiệp và nông thôn gắn với xoá đói giảm nghèo;
• Cấp thoát nước và vệ sinh môi trường;
• Y tế, dân số và kế hoạch hoá gia đình;
• Giáo dục, đào tạo và dạy nghề;
• Khoa học - công nghệ - môi trường;
• Tăng cường năng lực, phát triển thể chế và quản lý nhà nước.

Nhiều chương trình, dự án ODA thực hiện xong đưa vào sử dụng góp phần phát
triển kinh tế, xã hội và cải thiện đời sống nhân dân, xoá đói giảm nghèo, phát triển nguồn
nhân lực, bảo vệ môi trường, tăng cường năng lực thể chế, như các nhà máy và hệ thống
điện, cầu, cảng, sân bay, đường giao thông; hệ thống cấp thoát nước; hệ thống thuỷ lợi;
bệnh viện, trường học; xử lý rác thải và môi trường đô thị…
Công tác quản lý nhà nước về ODA đã được tăng cường. từ 1993 đến nay, Chính
phủ đã ban hành 03 Nghị định về Quản lý và sử dụng ODA, tạo ra khung pháp lý chặt
chẽ và khá đồng bộ đối với công tác quản lý nhà nước về ODA.
• Vốn ODA đã làm thay đổi đáng kể bộ mặt của cơ sở hạ tầng kinh tế.
Cũng giống như các nước đang phát triển khác, Việt Nam thường được nhận nhiều
ODA nhằm mục tiêu cải thiện cơ sở hạ tầng, đặc biệt trong lĩnh vực giao thông vận tải,
truyền thông và năng lượng.
Hơn 4,5 tỷ USD vốn ODA với 101 dự án do Trung ương quản lý đã và đang được
thực hiện để phát triển ngành giao thông vận tải, chủ yếu tập trung cho đường bộ, đường
biển và giao thông nông thôn.
Vốn ODA đã được sử dụng để khôi phục, nâng cấp và xây dựng mới 3.676 km
đường quốc lộ; khôi phục và cải tạo khoảng 1.000 km đường tỉnh lộ; Quốc lộ 5, quốc lộ
1A (đoạn Hà Nội-Vinh; đoạn TP. Hồ Chí Minh-Cần Thơ, TP. Hồ Chí Minh-Nha Trang);
làm mới và khôi phục 188 cầu, chủ yếu trên các Quốc lộ 1, Quốc lộ 10, Quốc lộ 18 với
tổng chiều dài 33,7 km; cải tạo và nâng cấp 10.000 km đường nông thôn và khoảng 31
km cầu nông thôn quy mô nhỏ; Cầu Mỹ Thuận; xây dựng mới 111 cầu nông thôn với
tổng chiều dài 7,62 km (khẩu độ bình quân khoảng 25 – 100 m). . . .
Nguồn vốn ODA đầu tư cho việc phát triển ngành điện với tổng cam kết cho đến
năm 2003 là 3,7 tỷ USD, hiện chiếm 40,3% trong tổng vốn đầu tư với 7 nhà máy điện lớn
(Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2, Hàm Thuận - Đa Mi, Sông Hinh, Đa Nhim, Phả Lại 2, Trà Nóc)
có công suất thiết kế chiếm 40% tổng công suất của các nhà máy điện ở Việt Nam xây
dựng trong kế hoạch 5 năm 1996 – 2000. Tổng công suất phát điện tăng thêm do đầu tư
bằng nguồn vốn ODA là 3.403 MW, bằng tổng công suất điện từ trước cho tới năm 1995.
Trong ngành năng lượng điện, vốn ODA còn đầu tư để phát triển hệ thông đường dây và
mạng lưới điện phân phối điện, bao gồm các dự án đường dây 500 KV Plâyku – Phú

Lâm, đường dây 220 KV Tao Đàn – Nhà Bè, gần 50 trạm biến áp của cả nước, cải tạo
nâng cấp mạng lưới điện thành thị và nông thôn ở trên 30 tỉnh và thành phố.
Trong số 4,45 tỉ USD vốn ODA mà các nhà tài trợ cam kết danh cho Việt nam
đưa ra tháng 12 năm 2006, các nước tài trợ cũng dành ưu tiên viện trợ cho các lĩnh vực
cơ sở hạ tầng. Nhật bản, nước ở vị trí dẫn đầu với mức cam kết 890,3 triệu USD cho biết
số ưu tiên này sẽ ưu tiên cho phát triển cơ sở hạ tầng, cụ thể là tuyến đường săt cao tốc
Bắc – Nam và bảo vệ môi trường. Pháp với vốn viện trợ cam kết lớn thứ hai trong các
nhà tài trợ và đứng đầu khối EU là 370,4 triệu USD cũng cho biết nguồn vốn ODA sẽ
được sử dụng trong bốn lĩnh vực ưu tiên là giao thông đô thị, đường sắt, môi trường
(quản lý nước và rác thải), phát triển nông thôn
• ODA góp phần quan trọng vào sự phát triển cơ sở hạ tầng xã hội.
* ODA góp phần lớn vào phát triển yếu tố con người
Tổng nguồn vốn ODA dành cho giáo dục và đào tạo ước khoảng 550 triệu USD,
chiếm khoảng 8,5 – 10% tổng kinh phí giáo dục và đào tạo, đã góp phần cải thiện chất
lượng và hiệu quả của công tác giáo dục và đào tạo, tăng cường một bước cơ sở vật chất
kỹ thuật cho việc nâng cao chất lượng dạy và học, như dự án giáo dục tiểu học, trung học
và đại học, dự án đào tạo nghề
Nguồn vốn ODA đã đóng góp cho sự thành công của một số chương trình xã hội
có ý nghĩa sâu rộng như Chương trình dân số và phát triển, Chương trình tiêm chủng mở
rộng, Chương trình dinh dưỡng trẻ em, Chương trình nước sạch nông thôn, Chương trình
chăm sóc sức khỏe ban đầu, Chương trình xóa đói giảm nghèo. Nhờ vậy, thứ hạng của
nước ta trong bảng xếp hạng các quốc gia và chỉ số phát triển con người của Liên hợp
quốc đều được cải thiện hàng năm.
ODA không chỉ bổ sung nguồn lực cho các chương trình xã hội mà điều quan
trọng là đã góp phần thay đổi nhận thức và hành vi của người dân trong các lĩnh vực xã
hội đòi hỏi có sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp dân cư, như phòng chống đại dịch
HIV/AIDS, phòng chống ma túy
* ODA đã có tác dụng tích cực trong tăng cường năng lực, phát triển thể chế
trên nhiều lĩnh vực, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng pháp luật, cải cách hành
chính

Nhiều cơ quan đã được tăng cường năng lực với một lượng lớn các cán bộ được
đào tạo và tái đào tạo về khoa học, công nghệ và kinh tế. ODA cũng mang lại những kinh
nghiệm quốc tế có giá trị đối với sự nghiệp phát triển của nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội,
khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường, quản lý nhà nước, pháp luật.
Với sự hỗ trợ kỹ thuật của ODA, một số bộ luật quan trọng đã được chuẩn bị đúng
hạn và được Chính phủ trình Quốc hộ thông qua góp phần đáp ứng yêu cầu cải cách thể
chế trong tiến trình của Việt Nam gia nhập WTO như Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật
Phòng chống tham nhũng ;
Việc cải thiện và nâng cao chất lượng trang thiết bị cũng như trình độ khám chữa
bệnh thông qua các dự án viện trợ không hoàn lại tại hai bệnh viện lớn là Chợ Rẫy và
Bạch Mai và các dự án hợp tác kỹ thuật của Nhật Bản trong lĩnh vực y tế cũng đã góp
phần nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ y bác sỹ cũng như trang thiết bị khám chữa
bệnh, qua đó cải thiện đời sống của nhân dân, đặc biệt là dân nghèo thành thị.
Thông qua chương trình tài trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ giai đoạn 1 do Nhật Bản
tài trợ, Ngân hàng Nhà nước đã hỗ trợ phát triển sản xuất cho 105 doanh nghiệp vừa và
nhỏ, tạo nhiều công ăn việc làm ổn định. Ngoài số vốn 216 tỷ VND cho vay lại, các Ngân
hàng thực hiện tham gia đóng góp khoảng 130 tỷ VND và người vay cuối cùng góp
khoảng 256 tỷ VND, nâng tổng số vốn đầu tư cho nền kinh tế lên khoảng 602 tỷ VND.
* ODA đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn,
xóa đói giảm nghèo.
Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới năm 1986 cho tới nay, công cuộc xoá đói
giảm nghèo ở Việt Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng. Số liệu các cuộc điều
tra mức sống dân cư trong thời gian qua cho thấy tỷ lệ dân nghèo đã giảm từ 58% vào
năm 1993 xuống còn 37% năm 1998 và 28,9% vào năm 2002 trong khi tỷ lệ nghèo lương
thực giảm từ 25% năm 1993 xuống 15% năm 1998 và 9,96% năm 2002. Trong giai đoạn
1993-1998, tốc độ giảm nghèo đói trung bình hàng năm ở Việt Nam là 7,5% nhanh hơn
tốc độ phát triển kinh tế trung bình là 6,4% cho cùng thời kỳ. Kết quả này cho thấy Việt
Nam đã vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ mà nước ta đã cam kết với thế giới.
Khoảng 200 dự án với tổng vốn ODA hơn 3 tỷ USD đầu tư cho phát triển nông
nghiệp và nông thôn, chiếm 14.4% tổng mức ODA cam kết. Các dự án ODA đã góp phần

cung cấp nguồn tín dụng cho nông dân, tạo ra các ngành nghề phụ, phát triển công tác
khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, phát triển giao thông nông thôn, cung cấp nước
sạch, phát triển lưới điện sinh hoạt, trạm y tế, trường học.
• ODA được quản lý chặt chẽ và hiệu quả:
Với nhận thức ODA là một bộ phận của đầu tư công nên phải được quản lý chặt
chẽ và hiệu quả, trong 15 năm qua Chính phủ không ngừng hoàn thiện hệ thống tổ chức
và quản lý nguồn vốn này. Theo tinh thần đó, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về
ODA trong đó có phân công trách nhiệm và quyền hạn cụ thể cho từng cơ quan với một
cơ chế phối hợp nhịp nhàng, cụ thể Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan
đầu mối về điều phối, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA; Bộ Tài Chính thực hiện chức
năng quản lý tài chính đối với nguồn vốn này; Bộ Ngoại Giao, Bộ Tư Pháp, Ngân hàng
Nhà nước, Văn phòng Chính phủ, tham gia quản lý nhà nước về ODA theo chức năng
và nhiệm vụ cụ thể của mình trong chu trình ODA; các Bộ, ngành và địa phương với vai
trò cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm quản lý và tổ chức thực hiện các chương trình, dự
án ODA thông qua chủ dự án và Ban quản lý dự án.
Về khung thể chế pháp lý, công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA từ năm
1994 đến nay được thực hiện trên cơ sở các Nghị định của Chính phủ. Trong 15 năm qua
Chính phủ đã ban hành 4 Nghị định về quản lý và sử dụng ODA (Nghị định 20/CP
(1994), Nghị định 87/CP (1997), Nghị định 17/2001/NĐ-CP (2001) và Nghị định
131/2006/NĐ-CP (2006)) đáp ứng đòi hỏi từ thực tiễn cung cấp và tiếp nhận nguồn vốn
ODA ở từng thời kỳ.
2.2.2. Những hạn chế cân khắc phục của việc sử dụng vốn ODA ở VN:
- Về thủ tục xem xét và trình duyệt dự án: Nhiều thủ tục hành chính rườm rà là
một nguyên nhân gây khó khăn, chậm chạp cho việc triển khai công việc của ban quản lý
dự án, thủ tục chuẩn bị và triển khai đầu tư chồng chéo, phải qua nhiều cấp. (Như dự án
" Cảng Sài Gòn" có hai gói thầu 7 và 8 để mua cần cẩu được trình duyệt từ tháng 7 năm
1997, mà đến tháng 8 năm 1998 mới thực hiện được. Quá trình xem xét và lựa chọn nhà
thầu của dự án "Cung cấp nước ở Thành phố Hồ Chí Minh" cũng gặp khó khăn khi nhà
thầu tham gia không tuân thủ điều kiện của nhà tài trợ). Đây cũng là nguyên nhân góp
phần làm cản trở quá trình thực thi dự án, làm chậm tiến độ giải ngân. Bên cạnh đó,

quyền hạn của các ban quản lý dự án chưa được xác định đầy đủ, thường bị động trong
xử lý công việc, mất nhiều thời gian xin và phụ thuộc vào ý kiến cấp trên.
- Khuôn khổ thể chế pháp lý chưa hoàn thiện và động bộ: Cơ chế tài chính trong
nước đang tiếp tục được hoàn thiện. Tuy nhiên vẫn còn có những vướng mắc trong cơ
chế chính sách, cho đến nay vẫn chưa có khung lãi suất và điều kiện cho vay lại đối với
các dự án vốn vay. Chính phủ chưa xây dựng được cơ chế thống nhất giữa nợ trong nước
và nợ nước ngoài.Các quy định pháp lý khác cũng rất sơ sài, gây khó khăn cho việc sử
dụng nguồn vốn.
- Vướng mắc trong công tác đền bù giải phóng mặt bằng, chậm bàn giao mặt bằng,
gây lãng phí thời gian thực hiện và đưa công trình vào hoạt động. Trong thực tế, chúng ta
đã phải trả giá cho sự chậm trễ này. Ví dụ: Việc giải phóng mặt bằng thi công xây dựng
một dự án chậm, chủ dự án đã phải chi bổ sung hàng trăm tỷ đồng cho các nhà thầu Nhật
Bản. Nguyên nhân dẫn đến chậm trễ là do chính sách đền bù giải phóng mặt bằng và tái
định cư của Việt Nam chưa phù hợp với các yêu cầu đặt ra của các nhà tài trợ (giá cả đền
bù, phạm vi đề bù );
- Nhận thức của người dân về chính sách đầu tư của nhà nước hạn chế; sự quan
liêu, cửa quyền và sách nhiễu của một số cán bộ kém phẩm chất ở tất cả các cấp, ngành
từ trung ương đến địa phương, chương trình đã được phê duyệt để triển khai thi công mà
chưa hoàn thành các thủ tục giải phóng mặt bằng.
- Giai đoạn sau dự án: Là giai đoạn ít được quan tâm nhất trong chu trình quản lý
dự án. Chính phủ Việt Nam vẫn chưa có văn bản nào quy định về các hoạt động sau dự
án.Điều đó cũng làm ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch đầu tư phát triển. Kết quả quản lý
thường được đánh giá bằng công trình (mức độ hoàn thành, tiến độ thực hiện) mà chưa
xem xét đến hiệu quả sau đầu tư một khi dự án được đưa vào sử dụng.
- Nguồn viện trợ không hoàn lại bị phân tán, dàn trải quá nhiều, chưa tập trung vào
những lĩnh vực có lợi thế tương đối và có khả năng tác động thúc đẩy sự phát triển các
ngành khác của nền kinh tế.
- Nhiều người vẫn coi viện trợ là của "trời cho", vì vậy việc sử dụng và quản lý
các nguồn viện trợ thường không được đảm bảo đúng chế độ tài chính, thậm chí còn rất
lãng phí và tuỳ tiện, dễ bị thất thoát. Điều đó cũng góp phần làm giảm hiệu quả ử dụng

nguồn vốn ODA.Ví dụ về vụ việc PMU18 và DA Đại lộ Đông Tây khiến cho công luận
và Quốc hội thực sự lo ngại về việc quản lý vốn ODA.
- Về năng lực và khả năng làm việc của các nhân viên trong môi trường ODA:
theo đánh giá của nhiều nhà phân tích trong và ngoài nước, mặc dù ta đã qua một thời
gian khá dài tiếp nhận nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, nhưng nhân sự và kỹ năng
nhân sự trong công tác điều hành - sử dụng nguồn vốn ODA ở những cấp khác nhau hiện
đang thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, họ còn quá yếu so với yêu cầu quốc tế và
yêu cầu của các nhà tài trợ. Đây là một vấn đề đã được nhiều người quan tâm xem xét
nhưng tốc độ khắc phục những yếu kém này còn quá chậm.Hậu quả là các khâu trong quá
trình tiếp nhận và sử dụng viện trợ đều có những sai lầm lặp lại nhiều lần, làm ảnh hưởng
đến hiệu quả sử dụng vốn vay và uy tín của Việt Nam trong lĩnh vực huy động và tiềp
nhận ODA.
- Nguồn vốn ODA thu hút được chủ yếu tập trung vào các vùng kinh tế trọng
điểm. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ là địa bàn thu hút ODA lớn nhất, chiếm gần 30%
số vốn ODA ký kết nhưng chủ yếu tập trung vào tam giác kinh tế gồm 3 tỉnh Hà Nội, Hải
Phòng và Quảng Ninh. Vùng đồng bằng Sông Cửu Long thu hút được một lượng đáng kể
vốn ODA và phân bổ tương đối đồng đều giữa các tỉnh trong vùng. Còn vùng kinh tế
trọng điểm Trung Bộ không có lợi thế về nhiều mặt, trong đó nguồn vốn ODA thu hút
cũng ít.
Đó là những hạn chế nổi bật đòi hỏi Việt Nam cần từng bước khắc phục để nguồn
vốn ODA sử dụng có hiệu quả hơn.
3. Các giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút và nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn
ODA.
3.1. Các giải pháp đẩy mạnh thu hút ODA vào Việt Nam.
3.1.1. Về Cơ chế chính sách:
- Ban hành các văn bản luật, các quy định cụ thể về thu hút, quản lý, sử dụng vốn
ODA. Xây dựng một đề cương về thu hút ODA trong tương lai.
- Tăng cường mở rộng phạm vi thu hút, không chỉ gồm ODA theo nghĩa truyền
thống, mà cả nguồn vốn kém ưu đãi hơn của các nhà tài trợ, vừa đảm bảo “cung- cầu”
hợp lý về ODA của các nhà tài trợ, cũng như nhu cầu về phía Việt Nam. Ngoài ra, tăng

cường các biện pháp ngoại giao, quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên thế giới, từ
đó tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè trên thế giới.
- Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính để nguồn vốn ODA có thể nhanh chóng đi
vào các dự án.
- Cần điều chỉnh chính sách thuế phù hợp. Trên thực tế chỉ trừ những dự án ODA ở
dạng viện trợ không hoàn lại mới được miễn thuế hàng hóa, còn các dự án vay lại từ phía
chính phủ thì tiền thuế cho các hàng hóa thuộc dự án đều được giải ngân từ nguồn vốn
đối ứng, lấy từ ngân sách nhà nước. Do đó, việc đánh thuế hàng hóa các dự án sử dụng
vốn ODA thực chất là “ lấy tiền từ túi này bỏ vào túi kia” của Nhà nước, làm cho các dự
án chậm tiến độ mà lại tốn kém chi phí quản lý. Vì vậy cần tiến tới miễn thuế cho các
hàng hóa nhập khẩu của dự án.
3.1.2. Về tổ chức thực hiện dự án:
- Công tác thẩm định phê duyệt dự án:
Giảm bớt thời gian cho công tác chuẩn bị dự án.Để có thể chuẩn bị tốt dự án cần
phải có đội ngũ cán bộ am hiểu cách thức lập dự án khả thi cũng như các điều kiện của
nhà tài trợ để đảm bảo không có sự sai lệch.
Tiến hành thẩm định, phê duyệt dự án một cách nhanh nhất. Muốn vậy thì phải giảm
bớt các thủ tục hành chính phiền hà, có những linh hoạt trong việc xét duyệt đối với chủ
đầu tư. Một giải pháp nữa là phải tăng cường hiệu quả của các đầu mối quản lý và điều
phối ODA, các cơ quan này có vai trò quan trọng đối với quá trình tiếp nhận và sử dụng
ODA. Trong thời gian tới cần tăng cường giám sát đối với cơ quan đầu mối là Bộ kế
họach và đầu tư để kịp thời giải quyết những vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án,
đông thời các cơ quan phối hợp với cơ quan đầu mối thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Có như vậy mới đảm bảo thực hiện tốt tiến độ dự án.
- Công tác đấu thầu:
Cổ phần hóa là biện pháp triệt để và là duy nhất cho tình trạng giá đấu thầu thấp như
hiện nay. Khi đã cổ phần hóa, những người có trách nhiệm trong công tác bỏ giá thầu sẽ
phải cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề lỗ lãi chứ không chỉ vì mục đích trúng thầu.Tổ chức đấu
thầu công khai minh bạch, xử lý triệt để các sai phạm.
- Quản lý chất lượng công trình:

Khâu then chốt trong công tác này là chất lượng đội ngũ tư vấn giám sát. Vì vậy,
cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng phẩm chất và năng lực chuyên môn cho tư vấn trong
nước để thay thế cho tư vấn nước ngoài.
Nâng cao chế độ đãi ngộ đối với đầu tư trong nước, đặc biệt là đối với các công
trình có điều kiện khó khăn.
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA .
Từ thực trạng như đã nêu, để có thể hình dung những định hướng và giải pháp nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn ODA, cần thống nhất một số quan điểm cơ bản sau:
 Nguồn vốn ODA là không chắc chắn. Vì vậy, quốc gia tiếp nhận vốn ODA không
nên quá kì vọng vào nguồn vốn này.
 Vốn ODA phải được nhìn nhận là một bộ phận của Ngân sách Nhà nước. Các cấp
quyết định, cơ quan chủ quản và chủ đầu tư các DA ODA phải chịu trách nhiệm trước
toàn dân - không chỉ với thế hệ hôm nay mà cả mai sau - về hiệu quả sử dụng nguồn vốn
này.
 Hiệu quả quản lý vốn ODA phải được đảm bảo từ 2 phía: nhà tài trợ và quốc gia
tiếp nhận tài trợ.
 Mọi thông tin của quá trình quản lý vốn ODA phải rõ ràng và minh bạch, cần được
cập nhật và công bố công khai một cách thường xuyên.
Từ thực trạng và trên cơ sở quan điểm đã nêu, để nâng cao hiệu quả quản lý vốn
ODA cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, Chính phủ, chính quyền địa phương, cơ quan chủ quản và chủ đầu tư các
DA ODA phải thống nhất nhận thức:nguồn vốn ODA là một bộ phận NSNN, là một phần
nguồn lực tài chính quốc gia và tạo gánh nặng nợ nần cho người dân, không chỉ thế hệ
hôm nay mà cả mai sau. Quản lý lãng phí và không hiệu quả nguồn vốn này là có tội đối
với dân tộc.
Thứ hai, Chính phủ cũng như từng chính quyền địa phương phải hoạch định
chiến lược vận động và sử dụng vốn ODA phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã
hội:
Do phụ thuộc khá nhiều vào các yếu tố bất định nên khó có thể dự kiến chuẩn xác
(trong dài hạn) vốn ODA vận động được. Vì vậy, các chương trình, dự án dự định sẽđầu

tư bằng vốn ODA phải được sắp xếp thứ tự ưu tiên theo một số phương án với các khả
năng khác nhau. Các chương trình dự án có mức ưu tiên cao cần bố trí nguồn vốn thay
thế nếu không vận động được vốn ODA. Mặt khác, kinh nghiệm của Malaysia trong
vấn đề này cũng rất đáng tham khảo: họ lựa chọn rất kĩ các DA sử dụng vốn ODA và
nguồn vốn vay ODA, chỉ tập trung vào các DA qui mô lớn và tận dụng tối đa sự hỗtrợ
của nhà tài trợ.
Mục tiêu thu hút và sử dụng vốn ODA trong giai đoạn 2011- 2015 xác định 3 đột
phá trong thời gian tới là phát triển cơ sở hạ tầng, hoàn thiện thể chế và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, các lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội và
ứng phó với biến đổi khí hậu cũng là những lĩnh vực được ưu tiên.
Thứ ba, cần quán triệt nguyên tắc quản lý vốn ODA phải căn cứ vào kết quả và
hiệu quả:
Xây dựng và thực hiện qui trình kỹ thuật dự án theo hướng chuyên nghiệp hóa: từ
khi xác định DA, chuẩn bị DA, đánh giá DA, phê duyệt DA, đàm phán, kí kết, đấu thầu,
thi công, giám định, đánh giá sau DA và kiểm toán, cố gắng mỗi khâu phải được đảm
nhiệm bởi cơ quan chuyên trách. Ban hành hệ thống các hướng dẫn chi tiết trong từng
khâu, từ đó phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các cấp liên quan.
Đặc biệt, cần có những hướng dẫn cụ thể thực hiện quá trình đánh giá dự án sau
hoàn thành. Các thông tin về quá trình quản lý vốn ODA phải rõ ràng minh bạch, được
thông báo đầy đủ cho nhân dân và các nhà tài trợ.
Thứ tư, Chính phủ cần xây dựng hệ thống tiêu chí hợp lý, phân cấp quản lý vốn
ODA:
Để xây dựng được hệ thống tiêu chí này cần đánh giá lại một cách toàn diện và
thống kê đầy đủ các DA ODA đã và đang được triển khai thực hiện nhằm xác định mối
quan hệ giữa mức độ hiệu quả đạt được của DA với các tiêu chí: qui mô, trách nhiệm trả
nợ, năng lực quản lý vốn ODA của địa phương, lĩnh vực đầu tư của DA, nhà tài trợ v.v…
Thứ năm, các bộ ngành trong Chính phủ và chính quyền các địa phương cần có kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực của cán bộ làm công tác quản lý vốn ODA
theo hướng chuyên môn hóa:
Thời gian qua trong khuôn khổ các chương trình, dự án ODA, một đội ngũ khá

đông đảo cán bộ đã được đào tạo và huấn luyện về công tác quản lý và thực hiện các
chương trình, dự án ODA. Tuy nhiên, trong thời gian tới cần có một chương trình huấn
luyện rộng rãi để tạo ra những thay đổi về nhận thức, thái độ và kỹ năng cho đội ngũ cán
bộ ở tất cả các cấp.
Thứ sáu, hoàn thiện công tác kế hoạch hoá và xác định thứ tự ưu tiên phân bổ
nguồn vốn ODA:
Hoàn thiện kế hoạch hóa vốn ODA là tạo điều kiện để liên tục hóa các bộ phận của
kế hoạch đầu tư xây dựng: Kế hoạch chuẩn bị đầu tư, kế hoạch chuẩn bị thực hiện dự án
và kế hoạch thực hiện dự án. Ngoài ra, phải xác định thứ tự ưu tiên phân bổ nguồn vốn
theo từng ngành và lĩnh vực cụ thể. Các ngành, các địa phương và các đơn vị sử dụng
nguồn vốn ODA cần tính toán chính xác hiệu quả để tránh sử dụng lãng phí các nguồn
vốn và xác định đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, chịu trách nhiệm chính trong quá trình sử dụng
vốn và phải đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu.
Thứ bảy, chuẩn bị vốn đối ứng cho các chương trình, dựán ODA:
Tất cả các chương trình, dự án ODA khi chuẩn bị phê duyệt ở các cấp phải chỉ rõ
nguồn vốn trong nước và phải được bố trí trong các kế hoạch ở các cấp tương ứng.
Thứ tám, các dự án phải tập trung phát huy nguồn lực hiện có của địa phương:
Các chương trình, dự án ODA phải nghiên cứu để phát huy được những lợi thế sẵn
có và phải xuất phát từ thực tế của địa phương để tài trợ hiệu quả hơn, phải tạo điều kiện
để người dân của địa phương có thể trực tiếp tham gia và quản lý chương trình, dự án.
Thứ chín, xây dựng hệ thống theo dõi và đánh giá dự án:
Điều này sẽ góp phần khắc phục được những yếu kém trong quá trình thực hiện dự
án và quản lý nguồn vốn ODA một cách có hiệu quả, đạt được những mục tiêu ưu tiên
của đất nước.
Thứ mười, thực hiệnlợi ích của các nhà tài trợ:
Để sử dụng nguồn vốn ODA một cách có hiệu quả nhất, chúng ta cần kiên trì và
kiên quyết loại bỏ các ràng buộc chính trị ra khỏi quan hệ của hỗ trợ phát triển chính
thức. Bên cạnh đó, cần quan tâm đến những lợi ích của các nhà tài trợ khi họ mở rộng
quan hệ hỗ trợ cũng như đầu tư, thương mại với nước ta.Từ đó, mới có thể huy động một
cách có hiệu quả nguồn vốn này phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.

Mười một, hài hoà thủ tục giữa các nhà tài trợ:
Hiện nay, các nhà tài trợ cũng như các quốc gia đối tác đều mong muốn có các quy
chế và hệ thống đơn giản hoá để cùng nhau thực hiện, tiến tới các điểm chung về mẫu,
nội dung và tính thường xuyên cho một báo cáo định kỳ ở mỗi chương trình, dự án phù
hợp yêu cầu của tất cả các nhà tài trợ. Hơn nữa, những điểm chung là cần thiết để loại bỏ

×