Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Quá kích ứng buồng trứng ở bệnh nhân thụ tinh ống nghiệm tại Bệnh viện Phụ sản trung ương trong hai năm 2006 - 2007

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.33 KB, 72 trang )

đặt vấn đề
Vô sinh là vấn đề luôn nhận được nhiều sự quan tâm trên thế giới cũng
nh ở Việt Nam. Việc điều trị thành công cho những cặp vợ chồng vô sinh
mang ý nghĩa nhân đạo và khoa học của chương trình chăm sóc sức khoẻ sinh
sản. Đặc biệt điều trị vô sinh được coi là một nội dung quan trọng trong chiến
lược dân số 2001 – 2010 của nước ta.
Từ khi ra đời đến nay, kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đã đưa lại
niềm vui cho các cặp vợ chồng vô sinh. Ba mươi năm qua kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm ngày càng phát triển nhanh chóng và không ngừng hoàn
thiện. Song song với sự phát triển của kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm là
các kỹ thuật liên quan đặc biệt là kích thích buồng trứng – Một khâu quan
trọng trong điều trị vô sinh. Các thuốc kích thích buồng trứng cũng như các
phác đồ kích thích buồng trứng ngày càng phát triển nhằm đưa lại kết quả cao
trong thô tinh ống nghiệm đồng thời giảm tối đa các biến chứng của kích
thích buồng trứng, nhất là biến chứng quá kích ứng buồng trứng.
Quá kích ứng buồng trứng là tình trạng đáp ứng quá mức của buồng
trứng đối với thuốc kích thích buồng trứng. Hội chứng này biểu hiện bằng
nhiều triệu chứng, đặc điểm chung là do tình trạng đa hoàng thể hoá và thoát
dịch từ lòng mạch vào khoang “thứ ba” của cơ thể [14], [22].
Tần suất gặp quá kích ứng buồng trứng có ranh giới rộng [22]. Đối với
những bệnh nhân không phóng noãn, người ta thường gặp QKƯBT với thể
lâm sàng nhẹ hơn so với những bệnh nhân có phóng noãn. QKƯBT trên bệnh
nhân điều trị clomiphen citrate hiếm gặp hơn trên bệnh nhân điều trị bằng
FSH – hCG [14][19] . Theo các thống kê từ nhiều tài liệu trên thế giới, hội
chứng quá kích ứng buồng trứng có thể gặp khoảng 30% các trường hợp sử
dụng các phác đồ kích thích buồng trứng, với mức độ từ nhẹ đến nặng. Trên
1
bệnh nhân bị QKƯBT, tỷ lệ có thai cao hơn nhưng lại hay bị sẩy thai hơn
[14].
Bệnh viện PSTƯ đã thành công trong kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm từ những năm 2000. Đặc biệt trong những năm gần đây nhờ áp dụng


những kỹ thuật và công nghệ mới trong thô tinh ống nghiệm, bệnh viện PSTƯ
đã trở thành một trong những trung tâm thụ tinh ống nghiệm lớn của Việt nam
còng nh của các nước trong khu vực Đông Nam á. Tỷ lệ các cặp vợ chồng vô
sinh tham gia thô tinh ống nghiệm ngày càng tăng, do đó tần suất gặp bệnh
nhân bị QKƯBT cũng tăng lên hàng năm [1]. Với mong muốn nghiên cứu
làm rõ thêm về biến chứng QKƯBT và các yếu tố nguy cơ đến với mức độ
QKƯBT. Từ đó hy vọng có thể đề ra những biện pháp điều trị cũng như
phòng ngừa biến chứng này. Bởi vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Quá kích ứng buồng trứng ở bệnh nhân thụ tinh ống nghiệm tại Bệnh
viện Phụ sản trung ương trong hai năm 2006 - 2007’’ với các mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm bệnh nhân bị QKƯBT và một số yếu tố nguy cơ gây
quá kích ứng buồng trứng ở bệnh nhân thụ tinh ống nghiệm tại
viện PSTƯ trong 2 năm 2006- 2007.
2. Đánh giá kết quả điều trị ở bệnh nhân QKƯBT tại viện PSTƯ trong
2 năm 2006 – 2007.
2
Chương 1
Tổng quan
1.1. ĐẠI CƯƠNG VỀ VÔ SINH
1.1.1. Khái niệm vô sinh
Theo Tổ chức Y tế thế giới, vô sinh là tình trạng không có thai sau 1 năm
chung sống vợ chồng mà không dùng một biện pháp tránh thai nào, đồng thời
tần xuất giao hợp Ýt nhất là 2 lần mỗi tuần [9] [12]. Đối với những trường
hợp trong đó nguyên nhân vô sinh đã rõ ràng thì việc tính thời gian không còn
được đặt ra.
Vô sinh nguyên phát là chưa có thai lần nào, vô sinh thứ phát là trong tiền
sử đã từng có thai Ýt nhất một lần.
Vô sinh nữ là khi nguyên nhân vô sinh hoàn toàn do người vợ, vô sinh
nam là vô sinh có nguyên nhân hoàn toàn do người chồng.Vô sinh không có
nguyên nhân là trường hợp khám và làm các xét nghiệm thăm dò mà không

phát hiện được nguyên nhân [9], [12].
1.1.2. Tình hình và nguyên nhân vô sinh
- Trên thế giới: Tuỳ từng nước, tỷ lệ vô sinh thay đổi từ 10 – 18%, đột xuất
có nước lên tới 40 %. Về nguyên nhân vô sinh theo Tổ chức Y tế thế giới năm
1985, khoảng 20% không rõ nguyên nhân, 80% có nguyên nhân trong đó vô
sinh nữ 40%,vô sinh nam 40% và vô sinh do cả hai chiếm 20% [9][12].
- Ở Việt Nam: Theo điều tra dân số quốc gia năm 1982, vô sinh chiếm
13%. Theo nghiên cứu của Nguyễn Khắc Liêu và cộng sự [9] tại bệnh viện
PSTƯ trong các năm 1993 – 1997 trên 1000 tường hợp vô sinh có đầy đủ các
xét nghiệm thăm dò về độ thông đường sinh dục nữ, về phóng noãn, về tinh
3
trùng, thống kê tỷ lệ vô sinh nữ chiếm 55,4%, vô sinh nam chiếm 35,6% và
không rõ nguyên nhân 10%
1.2 SINH LÝ HIỆN TƯỢNG PHÁT TRIỂN NANG NOÃN
Sự phát triển của nang noãn gồm một chuỗi các sự kiện xảy ra một
cách có trật tự dẫn tới sự phóng noãn giữa chu kỳ, bao gồm:
- Sự chiêu mộ các nang noãn.
- Sự chọn lọc nang noãn.
- Sự vượt trội của một nang noãn.
- Sự phóng noãn.
- Sự thoái hoá của nang noãn.
Quá trình này bắt đầu từ sự phát triển của nang noãn nguyên thuỷ, qua
các giai đoạn nang noãn sơ cấp, nang noãn thứ cấp, và nang noãn trước phóng
noãn. Một chu kỳ phát triển của nang noãn kéo dài 85 ngày (khoảng 3 chu
kỳ), và thông thường chỉ có một nang trưởng thành và phóng noãn trong mỗi
chu kỳ kinh [6] [12].
1.2.1 Sự chiêu mộ các nang noãn
Mỗi chu kỳ kinh có khoảng vài trăm nang noãn nguyên thuỷ được
chiêu mộ vào nhóm nang noãn phát triển để sau khoảng 12 ngày có một nang
noãn đạt đến giai đoạn trưởng thành và phóng noãn [3][6]. Số lượng của các

nang noãn nguyên thuỷ được chiêu mộ vào nhóm nang noãn phát triển thay
đổi theo tuổi, nhiều nhất lúc mới sinh và giảm dần khi tuổi càng lớn.
1.2.2. Sự chọn lọc nang noãn
Khoảng ngày thứ 7 của chu kỳ kinh, sự chọn lọc của nang noãn xảy ra.
Một số nang trong số các nang noãn thứ cấp sẽ được chọn lọc để chuẩn bị cho
sự phóng noãn sau này. Các nang noãn này thường là các nang đáp ứng tốt với
tác dụng của FSH, có nhiều thụ thể của FSH trên tế bào hạt và chế tiết nhiều
estradiol. Cơ chế của quá trình chọn lọc này vẫn chưa được hiểu rõ.
4
1.2.3. Sự vượt trội của một nang noãn
Khoảng ngày 8 - 10 của chu kỳ kinh, mét nang noãn đã được chọn lọc
sẽ vượt trội hơn những nang noãn khác. Trong nang noãn vượt trội, hoạt động
chế tiết ra estradol tăng rất nhanh, đồng thời dưới tác dụng của FSH, nang
noãn vượt trội sẽ tiết ra inhibin. Inhibin sẽ ức chế sự chế tiết FSH của tuyến
yên, làm cho các nang noãn khác thiếu FSH, làm giảm khả năng chế tiết
estradiol của các nang noãn khác dẫn đến sự tích luỹ androgen và thoái hoá,
đảm bảo cho vai trò vượt trội của chỉ riêng nang noãn đã vượt trội. Nang noãn
vượt trội ức chế sự phát triển của các nang nhỏ và của các nang thứ cấp khác.
1.2.4. Sự phóng noãn
Phóng noãn là một quá trình một noãn được giải phóng từ một nang vượt
trội và chín có khả năng thụ tinh.
Thời gian phóng noãn thay đổi rất nhiều trong từng chu kỳ kinh, ngay cả
trên cùng một người phụ nữ. Ước tính thời gian trung bình phóng noãn là 34 -
38 giê sau sự khởi phát của đỉnh LH. Tuy nhiên, nồng độ đỉnh LH phải được
duy trì Ýt nhất trong 14 - 27 giờ để đảm bảo cho sự trưởng thành hoàn toàn
của nang noãn. Thông thường, đỉnh LH kéo dài 48 - 50 giờ. Phóng noãn
không phải là một sự kiện đột ngột. Đỉnh LH khởi phát một chuỗi các biến
cố mà cuối cùng dẫn đến sự phóng thích một noãn và cumulus bao quanh
noãn[3] [6] [12].
Các biến cố xảy ra khi phóng noãn:

- Đỉnh LH kích thích sự tiếp tục phân chia giảm phân của noãn, sự
hoàng thể hoá của các tế bào hạt, và sự tổng hợp progesterone và
prostaglandin bên trong nang.
- Progesteron làm gia tăng hoạt động của các men ly giải, cùng với
prostaglandin, tiêu hoá và làm vỡ thành nang.
5
Đỉnh FSH ở giữa chu kỳ góp phần làm chuyển plasminogen thành
plasmin, là một men ly giải và cũng đảm bảo đầy đủ thụ thể của LH trên tế
bào hạt để tạo một giai đoạn hoàng thể bình thường
1.2.5. Sự thoái hoá của nang noãn
Dihydrotestosterone đã được chứng minh ức chế hoạt động chuyển hoá
của androgen thành estradiol của nang noãn. Do đó, môi trường chứa
androgen của nang noãn chịu trách nhiệm cho sự thoái hoá của nó. Số phận
của các nang sơ cấp được định đoạt bởi sự cân bằng nồng độ androgen và
estradiol trong dịch nang, hoạt động của men chuyển hoá androgen thành
estrogen và của chính bản thân hoạt động của chuyển hoá đó.
1.3 KÍCH THÍCH BUỒNG TRỨNG
Kích thích buồng trứng (KTBT) trong hỗ trợ sinh sản đóng một vai trò
hết sức quan trọng [16]. Mục đích của KTBT trong kỹ thuật thụ tinh trong
ống nghiệm là tăng số noãn trưởng thành. Ưu điểm của KTBT là tạo ra nhiều
noãn để từ đó có nhiều phôi; nếu chuyển nhiều hơn một phôi và nếu có Ýt
nhất một phôi làm tổ và phát triển trong buồng tử cung được thì tỷ lệ thành
công của kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm tăng. Một ưu điểm khác là qua
đó thầy thuốc lâm sàng có thể kiểm soát được cả chu kỳ và các trung tâm có
thể chọn thời điểm chọc hút noãn [8], [22].
Tuy nhiên KTBT cũng có một số nhược điểm đó là noãn có thể không
hoàn toàn trưởng thành, do vậy noãn này không có chất lượng bằng noãn của
các chu kỳ tự nhiên. Các noãn KTBT có thể không ở cùng một mức độ
chín. Ngoài ra có thể xuất hiện tình trạng noãn chín đồng nhất ở mức độ
tương đối. Điều đó giải thích tỷ lệ thụ tinh của noãn tạo thành trong chu

kỳ KTBT thấp hơn so với noãn chín một cách sinh lý trong các chu kỳ tự
nhiên [8], [9], [31], [39].
6
1.3.1. Các chỉ định của KTBT
- Không phóng noãn
- Ýt phóng noãn: trong các trường hợp mà giai đoạn nang noãn kéo dài,
không có đỉnh E2 và LH thích hợp, hoặc giai đoạn hoàng thể ngắn.
- KTBT để thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản [9].
1.3.2. Nguyên lý của KTBT
Cơ sở của phương pháp KTBT là làm cho nồng độ FSH có LH cao
trong cơ thể dù bằng phương pháp nội sinh, kích thích hoạt động của vùng
dưới đồi, tuyến yên hay bằng phương pháp ngoại lai, dùng FSH và hCG thay
thế. Khi có nồng độ FSH mong muốn sẽ làm cho nang noãn của buồng trứng
phát triển và sau đó nếu có nồng độ LH hoặc hCG đạt yêu cầu thì sẽ kích
thích phóng noãn. Như thế sự kích thích phóng noãn diễn biến theo hai bước:
bước đầu là kích thích cho các nang noãn phát triển và chín, bước sau là kích
thích các nang chín phóng noãn [9].
Sau khi kích thích buồng trứng:
- Gia tăng số lượng các nang noãn nhỏ phát triển đến giai đoạn trưởng thành.
- Vượt qua giai đoạn chọn lọc và vượt trội của các nang noãn.
- Giảm đi sự thoái hóa của các nang noãn làm nhiều nang noãn phát
triển đến giai đoạn trưởng thành.
- Nội mạc tử cung được chuẩn bị tốt do estradiol (estrogen) được tiết ra
từ các nang noãn, thuận lợi cho quá trình làm tổ [8].
1.3.3. Các thuốc và phác đồ kích thích buồng trứng
Muốn KTBT tốt, cần phải chọn lọc được phác đồ và sử dụng liều thuốc
thích hợp cho từng bệnh nhân. Như vậy mới đảm bảo được:
- Đủ số lượng nang noãn cần thiết.
- Lượng thuốc sử dụng mức tối thiểu.
7

- Không bị quá kích ứng buồng trứng [16].
1.3.3.1. Các thuốc sử dụng kích thích buồng trứng [3], [4]
- Ức chế estrogen: clomiphen citrat, tamoxifen. Các thuốc này có cấu
trúc tương tự như estrogen, ức chế cạnh tranh với các thụ thể estrogen ở vùng
dưới đồi, làm ức chế điều khiển ngược của estrogen dẫn đến tăng tiết FSH,
LH (chủ yếu FSH) làm kích thích quá trình phát triển các nang noãn.
- FSH: có tác dụng kích thích quá trình phát triển các nang noãn.
+ uFSH: HMG (75IU FSH và 75IU LH, tỷ lệ 1:1)
+ Recombinant FSH: Puregon 50 và 100 IU/lọ, Gonal f 751U/ống.
- hCG: Pregnyl, Profasi 1500 và 5000 IU, tác dụng tương tự như LH
nhưng mạnh và kéo dài hơn, có tác dụng làm chín các nang noãn trưởng thành
và gây phóng noãn.
- GnRH: tiêm GnRH theo nhịp sinh lý bình thường sẽ kích thích tuyến
yên tiết nhiều FSH, LH kích thích các nang noãn trưởng thành và phóng noãn.
+ GnRH agonist: decapeptyl, suprefact.
+ GnRH antagonist: cetrorelix, ganirelix.
1.3.3.2. Các phác đồ kích thích buồng trứng
Có nhiều phác đồ kích thích buồng trứng khác nhau, các phác đồ này
được chia làm hai nhóm chính.
(1) Nhóm không ức chế gonadotropin nội sinh:
- Sử dụng clomiphen citrat từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 7 của vòng kinh
kết hợp với tiêm hMG hoặc FSH tái tổ hợp vào ngày thứ 4, 6 và 8;
- Hoặc sử dụng hMG hoặc FSH từ ngày thứ 2 hoặc 3 của chu kỳ.
(2) Nhóm ức chế gonadotropin nội sinh
Mục đích của phác đồ này là ức chế hiện tượng tiết gonadotropin, chế
ngự quá trình trưởng thành của noãn không bị ảnh hưởng bởi tác động sinh lý
của đỉnh LH. Để đạt được sự ức chế này, các trung tâm HTSS hiện nay đang
8
sử dụng phổ biến các chất đồng vận hormon tăng trưởng (GnRH agonits) [8],
[6], [33], [40]. Sự kết hợp GnRH với FSH được thực hiện qua 3 phác đồ:

- Phác đồ dài:
GnRH được bắt đầu từ ngày thứ nhất của chu kỳ kinh hoặc từ ngày 21
của chu kỳ và liên tục rong 14 ngày. Tác dụng được thể hiện bằng xét
nghiệm estradiol < 180 pmol/L, LH < 2 IU/L và progesteron < 2 nmol/L. FSH
(phổ biến hiện nay là Humegon, Puregon hoặc Gonal F) được sử dụng tiếp
theo phối hợp với GnRH cho đến khi tiêm hCG.
Liều lượng sử dụng FSH dựa trên tuổi và tiền sử người bệnh [19]
Tuổi Liều thuốc (đơn vị FSH)
< 37 150
37 - 40 300
> 40 300
Tiền sử
Buồng trứng đa nang 75
Buồng trứng đáp ứng kém, 3-5 nang 300
Đáp ứng bình thường > 5 nang 150
Đáp ứng rất kém < 3 nang 450
Hội chứng quá kích ứng buồng trứng 75
Ngày thứ 7 sau tiêm FSH cần đánh giá đáp ứng của buồng trứng qua siêu
âm đường âm đạo với đầu dò âm đạo sector 5000 MHz để điều chỉnh liều
thuốc. Tiêm bắp hCG (5000 - 10000 IU) cho bệnh nhân khi đạt các tiêu chuẩn
sau: (1) Mức độ tăng estradiol hợp lý, (2) có Ýt nhất 3 nang noãn kích thước
18 - 20 mm và (3) nồng độ estradiol > 3000 pg/ml. Thủ thuật chọc hút noãn
được tiến hành sau khi tiêm hCG 36 giê
9
- Phác đồ ngắn:
Mục đích của phác đồ ngắn là tận dụng kích thích buồng trứng của
GnRH đồng vận. GnRH đồng vận được tiêm từ ngày đầu của chu kỳ và kéo
dài cho đến khi tiêm hCG. Đến khi nang noãn đã phát triển, tuyến yên bị giảm
nhạy cảm nên có thể tránh được hiện tượng hoàng thể hóa sớm do LH nội
sinh. Phác đồ ngắn còn có thể được sử dụng kết hợp FSH tiêm từ ngày đầu

chu kỳ sinh với GnRH đối vận tiêm từ ngày tiêm mũi FSH thứ 6 hoặc từ khi
có Ýt nhất 1 nang trứng có kích thước đạt 13-14 mm.
- Phác đồ cực ngắn
Với phác đồ này, GnRH đồng vận chỉ được sử dụng trong ngày thứ 2, 3,
4 của chu kỳ điều trị.
Tuy phác đồ ngắn và cực ngắn giảm chi phí và có thể phù hợp với những
phụ nữ lớn tuổi nhưng hiệu quả điều trị thấp hơn (do chất lượng nang noãn) rõ
rệt so với phác đồ dài. Gần đây, bên cạnh các GnRH đồng vận, GnRH đối vận
đã được bắt đầu sử dụng phối hợp với gonadotropin có thể tránh được hoàng
thể hóa sớm (premature) mà không cần ức chế tuyến yên từ đầu chu kỳ.
Buồng trứng được kích thích từ đầu chu kỳ bằng hMG hoặc FSH và GnRH
đối vận được sử dụng vào giai đoạn cuối để đề phòng đỉnh LH nội sinh.
Việc lựa chọn phác đồ khác nhau là tùy thuộc vào từng bệnh nhân cụ thể
và từng Trung tâm HTSS. Nhiều trung tâm sử dụng phác đồ dài một cách phổ
biến nhưng trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm tại Monash (Melbourne -
Australia) phác đồ ngắn lại được sử dụng như một thông lệ vì được chấp
nhận, thuận tiện và có giá thành thấp, hiệu quả cao [32].
1.4. HỘI CHỨNG QUÁ KÍCH ỨNG BUỒNG TRỨNG
1.4.1. Khái niệm
Hội chứng quá kích buồng trứng (Ovarian hyperstimulation syndrome)
được mô tả lần đầu tiên bởi Muller năm 1962 [27].
10
Về từ ngữ, để mô tả hội chứng này có tác giả dùng từ hội chứng quá kích
thích buồng trứng, quá kích buồng trứng, quá kích ứng buồng trứng, hay hội
chứng quá mẫn buồng trứng [10].
Hội chứng quá kích ứng buồng trứng (HCQKƯBT) là biến chứng do sử
dụng thuốc KTBT (kích thích nang noãn) gây ra các nang noãn phát triển,
trưởng thành và phóng noãn [27]. Hay có thể nói đây là tình trạng đáp ứng
quá mức của cơ thể với các thuốc kích thích buồng trứng trong các chu kỳ
điều trị vô sinh.

Các triệu chứng của hội chứng này xuất phát từ tình trạng tăng tính thấm
thành mạch gây tràn dịch đa màng. Các biểu hiện lâm sàng thường thấy sau
khi phóng noãn hay sau khi chọc hút noãn. Các triệu chứng chính của
HCQKƯBT bao gồm buồng trứng to, tăng tính thấm thành mạch, dịch thấm
giàu protein thoát khỏi thành mạch. Hiện tượng này dẫn đến tình trạng cô đặc
máu và tràn dịch ở các khoang của cơ thể như tràn dịch màng bụng, tràn dịch
màng phổi, màng tim [10].
Tỷ lệ HCQKƯBT có nhiều ý kiến khác nhau, đa số cho rằng do tiêu
chuẩn đánh giá khác nhau nên tỷ lệ đưa ra cũng khác nhau [22], [29], [37].
Bảng 1.1. Tỷ lệ QKƯBT
Tác giả Nhẹ Trung bình Nặng
Schenker & Weistein, 1978 8 - 23% 0,005 - 7% 0,008 - 10%
Bassil, 1995 1 - 6% 0,1 - 4%
Nguyễn Thị Xiêm 14,4% 4,5 3%
B. Danninger, 1997 18,7% 1,3 1%
Banker M, 2006 / 1 - 6% 0,1 - 4%
Cao Ngọc Thành (1992) [17] thấy có 8/82 trường hợp điều trị HMG-
hCG bị quá kích thích, chiếm 9,7%. Trịnh Thị Phương Nhung (2003) [13]
11
nghiên cứu 360 hồ sơ vô sinh tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2002
chỉ thấy có 1 ca bị quá kích buồng trứng chiếm 0,27%. Cũng tại địa điểm trên
Nguyễn Xuân Huy [5] nghiên cứu kết quả 540 ca thô tinh trong ống nghiệm
năm 2003 gặp 1 trường hợp có thai quá mẫn nặng đã xin hót thai.
Theo các thống kê từ nhiều tài liệu trên thế giới, HCQKƯBT có thể gặp
khoảng 30% các trường hợp sử dụng các phác đồ KTBT, với mức độ từ nhẹ
đến nặng. Tỷ lệ có thai ở các chu kỳ có HCQKƯBT có thể cao hơn bình
thường, nhưng tỷ lệ sẩy thai lại cao hơn [14].
1.4.2. Cơ chế bệnh sinh
Cơ chế bệnh sinh của HCQKƯBT cho đến nay vẫn chưa được chứng
minh rõ ràng. Tuy nhiên, giả thuyết được nhiều người chấp nhận nhất là do

hậu quả của việc kích thích buồng trứng quá mức, buồng trứng sản xuất ra các
peptids gây tăng tính thấm thành mạch. Dịch nội mạch thoát vào khoang "thứ
ba" của cơ thể dẫn đến các rối loạn chính bao gồm: giảm thể tích nội mạch, cô
đặc máu, tắc mạch. Từ đó dẫn đến các rối loạn chức năng khác đi kèm [18],
[19], [30], [34], [38].
Hạ huyết áp và tăng nhịp tim bù trừ là dấu hiệu của hiện tượng giảm
khối lượng tuần hoàn máu. Các vấn đề tuần hoàn máu tăng lên khi dịch màng
bụng càng tập trung nhiều. Hiện tượng chèn Ðp tĩnh mạch chủ dưới gây hậu
quả là làm giảm dòng máu đi ra từ tim và nh thế ảnh hưởng đến dòng máu ra
từ thận. Khó thở do chèn Ðp của nước màng bụng lên cơ hoành [22].
Xét nghiệm thấy có cô đặc máu, thiếu khối lượng tuần hoàn, do dịch
thoát ra ngoài lòng mạch. Máu cô đặc, tăng kết dính tiểu cầu gây ra cục máu
đông trong lòng mạch. Hiện tượng tắc mạch do cục máu đông là biến chứng
nặng thường dẫn đến tử vong [19].
Giảm khối lượng tuần hoàn dẫn đến thiếu máu vào thận do tăng hút
muối và nước trở lại tại các ống thận gần. Trong thời kỳ "hoạt động" của quá
12
mẫn, nước và muối được hút trở lại nhanh chóng đi vào khoang thứ 3, bệnh
nhân bị giảm khối lượng tuần hoàn và dịch cổ trướng càng tăng. Hiện tượng
giảm khối lượng tuần hoàn càng kéo dài có thể gây ra co mạch của các vi
mạch đến và như vậy gây ra suy thận cấp vì tưới máu vào nhu mô thận giảm.
Triệu chứng báo hiệu của suy thận là đái Ýt, mất thăng bằng điện giải, tăng
creatinin. Tiến triển của quá trình này là vô niệu, tăng kali và ure máu [29].
Thay đổi trong tế bào gan và ứ mật trong quá trình buồng trứng là do
nhiều yếu tố, trong đó nồng độ estrogen cao và tăng thẩm thấu thành mạch.
Tại phổi có hiện tượng ứ nước màng phổi cùng với co mạch và tăng thẩm
thấu thành mạch. Trong trường hợp nặng có thể khó thở và ngừng tim [22].
1.4.3. Các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng
HCQKƯBT có thể có bao gồm các triệu chứng sau, tuỳ theo mức độ
nhẹ hay nặng [14], [17], [29], [40].

- Tăng cân nhanh do giữ nước, thường tăng trên 5 kg, trường hợp nặng
có thể tăng đến 15-20 kg.
- Hai buồng trứng thường to.
- Bụng căng đau, đây là dấu hiệu thường gặp.
- Đo vòng bụng thấy tăng lên dần.
- Tình trạng thoát dịch nội mạch ra các khoang của cơ thể do tăng tính
thấm thành mạch gây thoát mạch albulmin. QKƯBT thường có dịch cổ
trướng do dịch thoát ra từ các mạch máu tăng sinh ở buồng trứng và vùng
xung quanh. Các trường hợp nặng có thể có tràn dịch màng phổi, màng tim,
từ đó dẫn đến rối loạn chức năng hô hấp, tuần hoàn. Đa số các trường hợp
bệnh nhân có phù.
13
- Giảm thể tích nội mạch, mạch nhanh, huyết áp tụt. Bệnh nhân thường
có thiểu niệu, nếu nặng có thể dẫn đến vô niệu và suy thận cấp. HCQKƯBT
cũng có thể gây suy chức năng gan.
- Cô đặc máu. Triệu chứng này xuất hiện ở hầu hết các trường hợp
QKƯBT. Đây là một dấu hiệu đáng tin cậy để tiên lượng và theo dõi bệnh nhân.
- Có thể rối loạn điện giải: như tăng kali, giảm natri máu gây nhiễm
toan nhẹ có thể xảy ra ở một số trường hợp.
1.4.4. Phân loại
Trong nhiều năm qua HCQKƯBT được phân làm nhiều loại khác nhau.
Phổ biến của việc phân loại là phân chia hội chứng QKƯBT theo các thể nhẹ,
trung bình và nặng. Việc phân loại đầu tiên được đưa ra bởi Rabau (1967) dựa
trên kích thước của buồng trứng hơn là các triệu chứng lâm sàng. Sau dó cách
phân loại được đề nghị bởi WHO (1973) và bởi Schenker và Weistein (1978),
các tác giả này tập trung nhiều hơn vào các triệu chứng lâm sàng [29].
1.4.4.1. Dựa vào triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng HCQKƯBT thường
được phân thành ba mức độ[14]
Mức độ nhẹ - độ I
Theo một số thống kê, HCQKƯBT nhẹ có thể xuất hiện từ 8-23% chu

kỳ KTBT.
Các triệu chứng thường gặp bao gồm:
- Đau vùng chậu
- Tăng cân Ýt ≤ 3kg, khát nước
- Kích thước buồng trứng (trên siêu âm) thường nhỏ hơn 5cm
- Nồng độ E2 trong máu tăng. Khi E2 tăng nhanh là một báo
động diễn biến sẽ tăng lên.
Mức độ trung bình - độ II
Xuất hiện từ 1-7% các chu kỳ kích thích, triệu chứng bao gồm:
14
- Đau vùng chậu
- Bụng căng, Ên không đau hay đau Ýt.
- Cổ trướng phát hiện trên siêu âm.
- Thường có tăng cân nhanh (> 3kg)
- Kích thước buồng trứng đo được trên siêu âm thường ≥ 5cm -<
12cm khi khám bệnh nhân có thể thấy đau nhiều.
- Có thể có các triệu chứng rối loạn tiêu hóa nh: đau bụng, nôn, tiêu
chảy… những trường hợp này thường sẽ nặng lên.
Mức độ nặng - độ III
Xuất hiện từ 1-4,7% các chu kỳ kích thích buồng trứng. Các triệu
chứng có thể gặp:
- Buồng trứng rất to khi quan sát trên siêu âm, kích thước > 12cm
- Hầu hết bệnh nhân có cổ trướng. Trường hợp cổ trướng nhiều làm
bụng căng to và bệnh nhân có triệu chứng khó thở. Khó thở có thể
do tràn dịch màng phổi, màng tim. Trường hợp nặng có thể khó thở
nhiều và có chèn Ðp tim, nguy hiểm đến tính mạng.
- Đo vòng bụng thấy tăng lên dần.
- Tình trạng giảm thể tích nội mạch và cô đặc máu có thể nặng, dẫn
đến vô niệu, choáng. Hematocrit tăng rất cao, có thể đến 50-55%.
Tình trạng rối loạn nước, điện giải cũng thường gặp.

Golan (1989) đưa ra phân loại hội chứng QKƯBT như sau [29]:
Bảng 1.2. Phân loại QKƯBT của Golan (1989)
Loại
Kích thước
buồng trứng
Độ Triệu chứng
Nhẹ 5-10 cm
độ 1 Bụng căng khó chịu
độ 2 Độ 1 + buồn nôn, nôn và/hoặc ỉa chảy
Trung bình >10-12cm độ 3 Độ 2 + siêu âm có dịch cổ trướng
15
Nặng > 12cm
độ 4
Độ 3 + bụng có dịch cổ trướng và/hoặc
nước màng phổi và khó thở
độ 5
Độ 3 + cô đặc máu, tăng độ kết dính
máu, giảm khối lượng tuần hoàn, giảm
cấp máu thận, đái Ýt
1.4.4.2. Tùy theo thời gian xuất hiện bệnh
Chia làm hai loại: sớm và muộn [17], [36]
+ Quá kích buồng trứng sớm gồm: xẩy ra sau khi tiêm hCG trong giai
đoạn 7 ngày, thường là do thuốc.
+ Quá kích buồng trứng muộn: xẩy ra sau khi tiêm hCG trong giai đoạn
sau 7 ngày, thường do thai và nặng thêm.
1.4.5. Các biến chứng có thể gặp [14], [33]
Trên những bệnh nhân QKƯBT có thể xảy ra các biến chứng sau:
- Hai buồng trứng to, xung huyết, rất dễ vỡ gây chảy máu trong.
- Nguy cơ xoắn buồng trứng cao.
- Trụy tim mạch có thể xảy ra do giảm thể tích tuần hoàn nghiêm

trọng, huyết khối hay do chèn Ðp tim.
- Vô niệu, suy thận cấp do giảm lưu lượng máu đến thận.
- Rối loạn chức năng gan, suy gan có thể xảy ra ở những trường hợp
nặng hơn.
- Huyết khối có thể xảy ra ở bất cứ nơi nào, thường là nặng.
- Phù phổi kẽ
- Tử vong: Chủ yếu là do tai biến tim mạch gây nên.
1.4.6. Các yếu tố liên quan đến sự xuất hiện HCQKƯBT
16
Có nhiều yếu tố liên quan đến sự xuất hiện HCQKƯBT khi sử dụng
thuốc KTBT. Đó là các yếu tố có sẵn từ trước (tuổi, thể trạng, loại và thời
gian vô sinh, có hộ chứng buồng trứng đa nang, tiền sử đã có KTBT đặc biệt
đã bị QKƯBT), hoặc xuất hiện ngay trong chu kỳ KTBT lần này (phác đồ
KTBT và liều FSH đã dùng, nồng độ E2 ngày tiêm hCG (> 4000 pg/ml), số
lượng nang noãn (> 35) ngày chọc hút, số lượng noãn chọc hút được, số phôi
chuyển, tình trạng có thai và việc sử dụng hCG hỗ trợ giai đoạn hoàng thể.
Dehan Chen và cộng sự [28] nghiên cứu tại trung tâm sức khoẻ sinh sản và vô
sinh (New York, Hoa Kỳ) cho rằng các yếu tố nguy cơ báo trước QKƯBT
bao gồm bệnh buồng trứng đa nang, tuổi trẻ, tiền sử có QKƯBT và cân nặng
thấp (low body weight).
* Tuổi: những bệnh nhân trẻ tuổi thường đáp ứng tốt với các phác đồ
KTBT, sè nang noãn thường nhiều. Do vậy kéo theo tình trạng đa hoàng thể,
nguy cơ quá kích tăng lên. Tác giả Bùi Văn Êm [1] nghiên cứu 113 ca
QKƯBT gặp 103 ca (91,2%) ≤ 35 tuổi, chỉ có 10 ca > 35 tuổi (8,8%).
* Thể trạng của bệnh nhân - được đánh giá qua chỉ số khối cơ thể (BMI
- Mass Body Index): theo tác giả P.G. Crosignani [26] thuộc trường đại học
Milan, Italy hoặc Nguyễn Thị Ngọc Phượng [14] thì một trong những yếu tố
nguy cơ của HCQKƯBT là suy nhược thể chất (Asthenic habitus). Nhưng
một số nghiên cứu khác lại chưa tìm thấy mối liên quan rõ rệt giữa cân nặng
và nguy cơ QKƯBT [19].

* Hội chứng BTĐN: Rất nhiều nghiên cứu cho rằng khi KTBT,
HCQKƯBT thường xảy ra ở những phụ nữ có hội chứng BTĐN [11], [12],
[24], [37]. Hội chứng BTĐN được đặc trưng bởi hình ảnh buồng trứng đa
nang (hình ảnh "vòng chuỗi hạt" trên siêu âm), rối loạn kinh nguyệt (vô kinh
hay kinh Ýt) kèm theo các triệu chứng cường androgen (rậm lông, béo phì).
17
Người ta thấy ở những người BTĐN, buồng trứng có nhiều nang kích thước
từ 5-10mm, nhưng có thể do FSH bị ức chế quá mạnh mà các nang không
phát triển được [20].
Khi sử dụng FSH ngoại sinh, có sự tăng đáp ứng với FSH ngoại sinh và
tăng hoạt động thơm hóa để tổng hợp estrogen. Do vậy khi sử dụng các thuốc
KTBT dễ gặp QKƯBT [12].
* Tiền sử đã có KTBT hay bị QKƯBT ở các chu kỳ điều trị trước: những
bệnh nhân thực hiện TTTON để đạt được kết quả có thai thường phải trải qua
vài chu kỳ điều trị. Mỗi lần kích thích buồng trứng đều có nguy cơ xuất hiện hội
chứng quá kích đặc biệt nếu lần trước đã bị QKƯBT, đó là ý kiến thống nhất của
nhiều tác giả khi nghiên cứu vấn đề KTBT [22], [29], [26].
* Phác đồ KTBT và liều FSH: tiền sử bệnh nhân, nguyên nhân vô sinh
và đặc biệt, đáp ứng KTBT lần trước và hết sức cần thiết để quyết định phác
đồ cũng như liều lượng thuốc sử dụng cho kích thích lần này [16]
Nguyễn Thị Xiêm [18] nghiên cứu 242 chu kỳ bằng hMG - hCG gặp 6
trường hợp QKƯBT thể nặng. Tác giả đã đưa ra nhận xét liều lượng hMG gây
quá mẫn tối thiểu là 900 UI; tối đa là 2250 UI. Liều điều trị hMG không
giống nhau cho từng bệnh nhân, cho mỗi chu kỳ điều trị, liều thấp sẽ không
có kết quả, liều cao gây QKƯBT hoặc đa thai.
* Nồng độ E2 và số lượng nang noãn: trong chu kỳ KTBT số lượng
nang noãn phát triển cũng như tốc độ gia tăng kích thước của nang noãn thay
đổi rất nhiều tùy theo loại thuốc và phác đồ kích thích được sử dụng [7]
Sự tăng mức estrogen (17- β estradiol trong huyết tương) có tỷ lệ thuận
với số lượng nang phát triển và kích thước nang noãn. Như vậy, với số tế bào

hạt hoạt động làm nồng độ estrogen định lượng được tác động trực tiếp đến
18
đáp ứng của nang noãn buồng trứng. Nồng độ estrogen có thể dùng tiên lượng
kết quả của TTTON. Đường biểu diễn estrogen có giá trị để đánh giá khi có
dạng đường cong tăng dần. Nếu estrogen hạ thấp đột ngột biểu thị có ý nghĩa
là các nang noãn bắt đầu thoái hóa. Hoặc ngược lại sự tăng nhanh đột ngột
estrogen có thể dự báo QKƯBT. Cách xử lý trong trường hợp này có thể giảm
liều, hoặc ngừng điều trị bằng FSH, hoặc không có hCG nữa tùy mức độ đe
dọa QKƯBT [22].
Tác giả P.G. Crosignani [44] cũng như tác giả khác [23], [35] đều cho
rằng khi nồng độ E2 ngày tiêm hCG > 4000 pg/ml hay sè nang noãn phát hiện
qua siêu âm trước khi chọc hút > 20 là nguy cơ rõ rệt của QKƯBT.
* Có thai sau KTBT và sử dụng hCG hỗ trợ giai đoạn hoàng thể: sau
khi chuyển phôi nếu thai làm tổ và phát triển thì sẽ tăng sản xuất hCG do rau
thai bài tiết. Đặc biệt khi dùng hCG để hỗ trợ pha hoàng thể thì QKƯBT dễ
chuyển sang hình thái nặng hơn [35].
1.4.7. Điều trị hội chứng QKƯBT
Theo các tác giả B.C. Tarlatzis và G. Grimbizis [41] điều trị bệnh nhân
QKƯBT là điều trị triệu chứng bởi nguyên nhân bệnh sinh chưa rõ ràng. Các ca
bệnh nhẹ có thể theo dõi tại nhà, trường hợp trung bình, nặng cần được nhập
viện để điều trị tránh các biến chứng nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân.
Trong trường hợp bệnh nhân bắt đầu cảm thấy đau bụng nhiều, buồn
nôn, không ăn được hoặc nôn nhiều, tiêu chảy, đái Ýt thì cần được nhập viện
để theo dõi và điều trị. Chế độ điều trị tại bệnh viện được áp dụng cho bệnh
nhân QKƯBT độ II và độ III. Điều trị nội khoa là chính, chỉ can thiệp phẫu
thuật khi thật cần thiết [19].
* Điều trị nội khoa:
19
Nếu không có thai, QKƯBT sẽ rút đi nhanh chóng và sau 10-12 ngày.
Nếu có thai thì hiện tượng quá kích ứng buồng trứng sẽ tiến triển nặng lên và

kéo dài hơn. Bệnh nhân cần được theo dõi hàng ngày.
* Ngoại khoa:
Cần tránh các can thiệp phẫu thuật không cần thiết đối với bệnh nhân
có hội chứng QKƯBT [19] ,[22].
- Chọc hút nước màng bụng khi cổ trướng quá to, hút nước màng phổi
khi khó thở do tràn dịch màng phổi, chọc hút bớt các nang trứng có kích
thước to hơn 30mm.
- Chấm dứt thai nghén khi có hội chứng suy thận đe doạ đến tính mạng.
- Chỉ phẫu thuật khi có: vỡ nang buồng trứng chảy máu, u buồng trứng
xoắn, thai ngoài tử cung. Trong những trường hợp này phẫu thuật đòi hỏi
quan tâm bảo tồn tối đa.
* Theo dõi sau điều trị
Nếu bệnh nhân có các biểu hiện: triệu chứng lâm sàng giảm, siêu âm
thấy các nang noãn nhỏ đi, Htc giảm và nước tiểu tăng thì bệnh sẽ không diễn
biến nặng hơn và bệnh nhân sẽ hồi phục, lúc này có thể cho bệnh nhân về tiếp
tục theo dõi ở nhà nếu điều kiện bệnh nhân cho phép [10], [19].
1.4.8. Các biện pháp phòng ngừa
Điều trị dự phòng là yếu tố quan trọng nhất để giảm tỷ suất mắc của
HCQKƯBT trên những phụ nữ sử dụng các phác đồ kích thích buồng trứng.
Các điểm cần lưu ý và các nguyên tắc của điều trị dự phòng bao gồm:
- Biết các yếu tố nguy cơ để thận trọng và theo dõi sát bệnh nhân.
- Sử dụng thuốc liều thấp đối với các bệnh nhân trẻ, nhệ cân, có buồng
trứng đa nang.
20
- Nếu nồng độ E2 quá cao (> 3500 - 4000pg/ml) hay buồng trứng có
quá nhiều nang (> 35 nang) nên ngừng điều trị KTBT, không nên tiếp tục
tiêm hCG. Chọc hút dịch nang có thể làm giảm nguy cơ QKQBT.
- Sử dụng hCG liều thấp với những trường hợp có nguy cơ quá kích
buồng trứng.
- Sử dụng progesterone để hỗ trợ giai đoạn hoàng thể, không dùng hCG

nếu có nguy cơ QKƯBT hay E2 quá cao [14], [18], [23].
1.4.9. Những nghiên cứu về hội chứng QKƯBT trên thế giới và tại Việt Nam.
* Trên thế giới: Các trung tâm điều trị vô sinh hầu như đều ghi nhận
hiện tượng QKƯBT trên những bệnh nhân sử dụng thuốc KTBT. Theo y văn
bệnh nhân QKƯBT đầu tiên được Muller mô tả năm 1962 [27].
Tác giả B. Danninger và W. Feichtingẻ [28] đã nghiên cứu một nhóm
699 bệnh nhân sử dụng thuốc KTBT theo 2 phác đồ: 589 người dùng phác đồ
elomiphen citrat/ HMG (nhóm 1) và 111 người dùng GnRH - a HMG/ FSH
(nhóm 2). Kết quả nghiên cứu cho thấy có 147 bệnh nhân bị QKƯBT (thể
nhẹ: 18,7%; thể trung bình: 1,3%; thể nặng: 1%). Tỷ lệ QKƯBT ở nhóm 1
thấp hơn nhóm 2 có ý nghĩa thống kê (p < 0,050). Sè nang noãn và số noãn
trung bình cũng cao hơn ở nhóm 2.
A.P.Ferraretti và cộng sự [29] nghiên cứu trên 3124 chu kỳ KTBT tại
Italy gặp 20 ca bị QKƯBT thể nặng (chiếm 1,6%0. Trong số này có 7 trường
hợp không có thai, 13 trường hợp có thai, bệnh nhân khỏi bệnh hoàn toàn,
không để lại di chứng.
* Tại Việt Nam:
- Nguyễn Thị Xiêm [21] trong 20 năm (1971 - 1990) đã điều trị HMG -
hCG cho 160 bệnh nhân với 242 chu kỳ, đã gặp 6 trường hợp QKƯBT thể
nặng, chiếm 2,48% tổng số chu kỳ. Điều trị nội khoa là chủ yếu, có một
21
trường hợp phải chọc hút dịch cổ trướng. Sau điều trị có 2 bệnh nhân không
có thai, 2 bệnh nhân bị sẩy thai, 1 ca đẻ thường đủ tháng.
- Cao Ngọc Thành (1992) [15] điều trị KTBT cho 82 bệnh nhân bằng
HMG - hCG gặp 8 ca QKƯBT (tỷ lệ là 9,7%). Trong đó có 5 trường hợp
QKƯBT thể nhẹ và thể trung bình, 3 trường hợp thể nặng.
- Tác giả Bùi Văn Êm [1] nghiên cứu 113 trường hợp QKƯBT trong 6
năm (1999 - 5/2006) đưa ra nhận xét: QKƯBT là biến chứng nặng nhất trong
sử dụng thuốc KTBT và tỷ lệ bệnh có xu hướng tăng nhanh. Về phân loại,
trong sè 113 trường hợp này có 9 ca độ II (7,97%), 104 ca độ III (92,03%).

bệnh nhân ≤ 35 tuổi chiếm 91,2%, > 35 tuổi chỉ chiếm 8,8%. Tất cả bệnh
nhân đều xuất hiện QKƯBT sau mũi tiêm hCG kích thích phóng noãn. Tỷ lệ
có thai lâm sàng đi đôi với mức độ QKƯBT. Trong đó 113 bệnh nhân này có
4 bệnh nhân được coi là tai biến do điều trị vô sinh: 1 bệnh nhân đau bụng
nhiều chẩn đoán nhầm là nang buồng trứng xoắn và được mổ cắt một bên
buồng trứng; 1 bệnh nhân chảy máu trong nang sau chọc noãn phải mổ lấy
khối máu tụ và cầm máu; 1 trường hợp nhiễm trùng sau chọc hút noãn; trường
hợp tắc tĩnh mạch chủ trên. 100% bệnh nhân khỏi sau một thời gian điều trị
bình quân từ 15 - 30 ngày.
22
Chương 2
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
 Nhóm nghiên cứu
Là những bệnh nhân sau dùng thuốc KTBT để thực hiện kỹ thuật thụ
tinh trong ống nghiệm tại trung tâm hỗ trợ sinh sản có xuất hiện HCQKƯBT
phải vào viện điều trị tại Bệnh viện PSTƯ từ 1- 2006 đến 12- 2007
 Nhóm đối chứng:
Là những bệnh nhân sau dùng thuốc KTBT để thực hiện kỹ thuật thụ
tinh trong ống nghiệm tại trung tâm hỗ trợ sinh sản – Bệnh viện PSTƯ nhưng
không xuất hiện HCQKƯBT có cùng nhóm tuổi, cùng phác đồ KTBT
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Là những bệnh nhân chỉ KTBT để hiến tặng noãn hoặc những bệnh
nhân không có đầy đủ thông tin nghiên cứu cần thiết.
2.2. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
- Thời gian nghiên cứu: 2/2008 – 9/2008
- Địa điểm nghiên cứu: Tại bệnh viện PSTƯ
2.3 Phương pháp nghiên cứu
2.3.1 Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang kết hợp nghiên cứu phân tích để
đánh giá các yếu tố liên quan đến HCQKƯBT.
23
2.3.3 Chọn mẫu
 Nhóm nghiên cứu (QKƯBT): Chúng tôi áp dụng phương pháp chon mẫu
không xác suất, lấy mẫu thuận tiện [2]. Chẩn đoán và phân loại bệnh dựa
vào tiêu chuẩn sau[14].
+ Mức độ nhẹ - độ I
- Đau vùng chậu
- Tăng cân Ýt ≤ 3kg, khát nước
- Kích thước buồng trứng (trên siêu âm) thường nhỏ hơn 5cm
- Nồng độ E2 trong máu tăng.
+ Mức độ trung bình - độ II
- Đau vùng chậu
- Bụng căng, Ên không đau hay đau Ýt.
- Cổ trướng phát hiện trên siêu âm.
- Thường có tăng cân nhanh (> 3kg)
- Kích thước buồng trứng đo được trên siêu âm thường ≥
5cm -< 12cm khi khám bệnh nhân có thể thấy đau nhiều.
- Có thể có các triệu chứng rối loạn tiêu hóa nh: đau bụng,
nôn, tiêu chảy…
+ Mức độ nặng - độ III
- Buồng trứng rất to khi quan sát trên siêu âm, kích thước >
12cm
- Hầu hết bệnh nhân có cổ trướng. Trường hợp hợp cổ
trướng nhiều làm bụng căng to và bệnh nhân có triệu chứng khó
24
thở. Khó thở có thể do tràn dịch màng phổi, màng tim. Trường
hợp nặng có thể khó thở nhiều và có chèn Ðp tim, nguy hiểm đến
tính mạng.

- Tình trạng giảm thể tích nội mạch và cô đặc máu có thể
nặng, dẫn đến vô niệu, choáng. Hematocrit tăng rất cao, có thể
đến 50-55%. Tình trạng rối loạn nước, điện giải
Trong thời gian từ 01/01/2006 – 31/12/2007 có 116 bệnh nhân bị
QKƯBT phải nằm viện điều trị sau khi thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm, có đủ tiêu chuẩn lựa chọn.
 Nhóm đối chứng:
Để so sánh các yếu tố liên quan, chúng tôi chọn thêm những bệnh nhân
có đầy đủ tiêu chuẩn lựa chọn, có cùng nhóm tuổi, cùng dùng phác đồ KTBT
để thụ tinh trong ống nghiệm nhưng không có QKƯBT, có số thứ tự hồ sơ
bệnh án vô sinh gần kề số thứ tự hồ sơ bệnh án vô sinh của bệnh nhân có
QKƯBT được lựa chọn. Số hồ sơ nhóm đối chứng là 232 hồ sơ.
2.3.4. Các biến số nghiên cứu và phương pháp thu thập số liệu
- Tuổi: được tính bằng hiệu số giữa năm có thực hiện KTBT và năm
sinh theo dương lịch.
- Trọng lượng cơ thể (tính bằng kg).
- Chiều cao (cm)
- Chỉ số khối cơ thể (BMI- Body Mass Index)
BMI = Cân nặng (Kg)/ Chiều cao
2
(m).
- Loại vô sinh: Vô sinh I (chưa có thai lần nào)
Vô sinh II (đã có thai Ýt nhất một lần).
- Thời gian vô sinh: tính theo năm.
25

×