Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

TOÀN TẬP CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN ÔN THI MÔN TRIẾT HỌC CAO HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.83 KB, 75 trang )

1
TOÀN TẬP CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN ÔN THI MÔN TRIẾT HỌC CAO HỌC
2
CHƯƠNG I . LỊCH SỬ TRIẾT HỌC CÁC NƯỚC PHƯƠNG ĐÔNG 5
Câu 1. Triết học là gì? Sự khác nhau cơ bản giữa quan điểm hiện đại và quan điểm lịch sử về triết
học? Vì sao có sự khác nhau đó? Triết học có những chức năng gì? 5
Câu 2. Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề gì? Tại sao lại có vấn đề đó? Ý nghĩa của việc phân
tích vấn đề cơ bản của triết học 7
Câu 3. Có những trường phái triết học cơ bản nào? Khái quát các hình thức phát triển của trường
phái duy vật trong lịch sử. V.I Lê nin đã chỉ ra những nguồn gốc nào của chủ nghĩa duy tâm ? 9
Câu 4. Phép biện chứng là gì? Khái quát các hình thức lịch sử phát triển của phép biện chứng?
Phép siêu hình là gì? Giá trị của phép siêu hình là ở chỗ nào? 16
Câu 5. Thực chất của triết học là gì? Hãy nêu các tính quy luật cơ bản của lịch sử triết học 16
Câu 6. Triết học Trung Hoa và triết học Ấn Độ có những đặc điểm nào? Giải thik tại sao lại có
những đặc điểm đó? Hãy so sánh những nét tương đồng và dị biệt của hai nền triết học này 16
Câu 7.Hãy diễn giải những nội dung của triết học Nho Giáo. So sánh sự khác nhau giữa Nho giáo
Cổ đại và Nho giáo thời phong kiến. Tại sao có sự khác nhau đó? Nho giáo có những giá trị và
hạn chế nào? 16
Câu 8.Hãy diến giải những nội dung chính của triết học Phật giáo? Nhận định các giá trị và hạn
chế của những tư tưởng triết học Phật Giáo 17
Câu 9.Nêu khái quát tư tưởng triết học của các trường phái - Đạo gia và Âm Dương- Ngũ Hành
gia.Nhận định các giá trị và hạn chế của những tư tưởng ấy 17
Câu 10. Nêu khái quát tư tưởng triết học của các trường phái Samkhuya, Mimansa, Lokayta và
nhận định các giá trị,hạn chế của các trường phái đó 24
CHƯƠNG II. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC CÁC NƯỚC PHƯƠNG TÂY TRƯỚC MAC 26
Câu 11. Phân tích sự khác nhau cơ bản giữa triết học phương Đông cổ đại (mà Ấn Độ và Trung
Quốc là đại biểu) và triết học phương Tây cổ đại( mà hy Lạp là đại biểu) 26
Câu 12. Trình bày những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại. Trong đó đặc điểm nào
được coi là quan trọng nhất.? vì sao? Phân tích những nội dung chính của sự đối lập giữa đường
lối Đêmôcrit và “đường lối Platon” 27
Câu 13. Nêu lên những nội dung cơ bản của Triết học Tây âu thời Trung cổ. Vì sao Triết học Tây


Âu thời trung cổ, nhìn chung là một bước lùi so với Triết học Cổ đại? 30
Câu 14. Trình bày những đóng góp của triết học Tây Âu thời kỳ phục hưng đối với sự phát triển
của triết học nhân loại 30
Câu 15. Vì sao triết học Cận đại có tính máy móc siêu hình,thụ động-trực quan và duy vật ko triệt
để. Phân tích những nội dung chính của triết học ph.Becon và R.Đềcáctơ 31
Câu 16 . Phân tích và đánh giá những giá trị và hạn chế của triết học cổ điển Đức.Nêu rõ những
đóng góp của triết học cổ điển Đức đối với sự phát triển của triết học nhân loại 31
Câu 17. Khái quát những tư tương triết học của Heeghen. Thành tựu vĩ đại nhất của triết học
Heeghen là gì? Khái quát những tư tưởng triết học của Phoiobắc. thành tựu vĩ đại nhất của triết
học Phoiơắc là j? 32
CHƯƠNG III. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC MAC LÊ NIN 32
Câu 18. Chứng mính sự ra đời của triết học Mac là một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết
học 32
Câu 19. V.I LÊnin đã bảo vệ và phát triển triết học Mác như thế nào 32
Câu 20. Ngày nay có cần phải tiếp tục bổ sung và phát triển triết học Mác nữa ko? Vì sao 34
CHƯƠNG IV. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆC NAM 35
Câu 21. Phân tích những biểu hiện của lập trường duy vật và duy tâm trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam 35
3
Câu 22. Phân tích vị trí của tư tưởng yêu nước Việt Nam trong quá trình phát triển của lịch sử tư
tưởng Việt Nam và cơ sở hiện thực xã hội của nó 36
Câu 23. Phân tích vị trí của đạo làm người trong quan niệm về đạo làm người trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam. Ảnh hưởng của Nho giáo đối với quan niệm về đạo đức làm người trong lịch sử
tư tưởng Việt Nam 36
CHƯƠNG V. THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ VẬN DỤNG TRONG NGHIÊN
CỨU, QUẢN LÝ KINH TẾ 36
Câu 24. Thế nào là thế giới quan triết học? Phân tích chức năng thế giới quan của triết học 36
Câu 25. Trình bày những đặc trưng của thế giới quan duy vật biện chứng. Vì sao thế giới quan
duy vật biện chứng là đỉnh cao trong lịch sử phát triển thế giới quan duy vật trong triết học 36
Câu 26. Phân tích vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức. Liên hệ bài học “ xuất phát từ

thực tế khách quan” với thực tiễn quản lý của cơ quan anh/chị 36
Câu 27. Phân tích tính năng động, sáng tạo của ý thức. Vận dụng phân tích lĩnh vực chuyên môn
của anh/chị 38
Câu 28. Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Liên hệ với những
vấn đề thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay 38
CHƯƠNG VI. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀ VẬN DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU QUẢN
LÝ KINH TẾ 38
Câu 29. Phép biện chứng duy vật là gì? Nó có những nội dung nào? Tại sao nói: Phép biện chứng
duy vật là hình thái phát triển hoàn bị của lịch sử phép biện chứng? 38
Câu 30. phép biện chứng duy vật có vị trí như thế nào trong triết học Mác- Lê Nin và trong
nghiên cứu khoa học cũng như trong nhận thức giải quyết các vấn đề thực tiễn kinh tế- xã hội.
Cho một vài ví dụ thực tế 41
Câu 31. Phân tích những nôi dung cơ bản của quy luật và xây dựng những ý nghĩa phương pháp
luận cơ bản từ nội dung đó. Phân biệt quan điểm biện chứng và quan niệm siêu hình về mâu
thuẫn. Vì sao nói: Phát triển là một cuộc đấu tranh của các mặt đối lập.? hãy nêu một số loại mâu
thuẫn của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, và phương hướng, biện
pháp lớn trong giải quyết các mâu thuẫn đó (đã được nói trong các văn kiện của Đản) 41
Câu 32. Phân tích những nội dung cơ bản của quy luật lượng- chất và các nguyên tắc phương
pháp luận cơ bản của quy luật này. Có phải mọi sự thay đổi về lượng đều dẫn đến sự thay đổi về
chất hay không? Vì sao? 42
Câu 33. Phân tích nội dung cơ bản của phủ định biện chứng và xây dựng các nguyên tắc phương
pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Liên hệ với những vấn đề của thực tiễn đổi mới ở Việt Nam
44
Câu 34. Phân tích khái quát nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của 6 cặp phạm trù cơ bản của
phép biện chứng duy vật. Liên hệ với thực tiễn quản lý của cơ quan anh/ chị 46
CHƯƠNG VII. THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN VÀ VẬN DỤNG TRONG
KINH TẾ 51
Câu 35. Phân tích sự khác nhau cơ bản giữa thực tiễn và nhận thức. Vì sao hoạt động sản xuất vật
chất là dạng hoạt động thực tiễn cơ bản và quan trọng nhất 51
Câu 36. Trình bày sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.Liên hệ

với hoạt động chuyên môn của anh/ chị 51
Câu 37. Phân biệt tri thức kinh nghiêm và tri thức lý luận. Vì sao kinh nghiệm phải được bổ sung
bằng lý luận 53
Câu 38. Vì sao thống nhất giữa lý luận thực tiễn và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mac Lê Nin? Phê phán bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều 53
CHƯƠNG VIII LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI VÀ VẬN DỤNG VÀO SỰ NGHIỆP
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA 53
4
Câu 39. Phân tích vai trò sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển xã hội 53
Câu 40. Vì sao trong nghiên cứu về xã hội xuất phát từ sản xuất vật chất, từ phương thức sản xuất
chứ không thể xuất phát từ ý thức tư tưởng, từ ý chí của người cẩm quyền 54
Câu 41. Trình bày nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật đó? Liên hệ với quá trình xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta 55
Câu 42. Con người có thể tự do lựa chọn quan hệ sản xuất theo ý muốn của mình được không? Vì
sao? Liên hệ với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa nước ta 55
Câu 43. Trình bày mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng, giữa kinh tế với
chính trị. Liên hệ với công cuộc đổi mới ở nước ta 55
Câu 44. Phân tích sự phát triển của các hình thái kinh tế -xã hội . ý nghĩa phương pháp luận của
phạm trù đó. Vận dụng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta hiện nay 55
Câu 45. Phân tích sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên.
Chúng ta tiến lên Xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa có phù hợp với quá trình lịch
sử - tự nhiên hay không? Vì sao 55
CHƯƠNG IX . VẤN ĐỀ GIAI CẤP, DÂN TỘC,NHÂN LOẠI VÀ VẬN DỤNG VÀO SỰ
NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA 58
Câu 46. Giai cấp là gì/ Cở sở phân định giai cấp? Nguồn gốc trực tiếp và sâu xa của sự phân hóa
giai cấp trong xã hội là gì? 58
Câu 47. Tại sao nói đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của lịch sử trong điều kiện xã hội
phân hóa thành giai cấp đối kháng. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản có vị trí gì đối với sự phát
triển lịch sử nhân loại trong thời đại hiện nay 58

Câu 48. Dân tộc là cộng đồng lịch sử có những đặc trưng cơ bản nào? Phân tích các đặc trưng đó
và liên hệ với quá trình hình thành, phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Làm rõ sự khác nhau
vê nguồn gốc hình thành dân tộc Việt Nam so với lịch sử hình thành các dân tộc Châu Âu 59
Vì sao trong thời đại ngày nay đối với các dân tộc thường là các quốc gia – dân tộc? ý nghĩa của
vấn đề này đối vấn đề giữ vững độc lập dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo đảm chủ
quyền an ninh quốc gia của nước ta hiện nay 59
Câu 49. Giai cấp và dân tộc luôn có mối quan hệ thống nhất biện chứng. hãy Phân tích mối quan
hệ đó và liên hệ với thực tiễn cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam trước đây và công cuộc
đổi mới hiện nay 59
Câu 50. Nhân loại là gì? Phân tích cơ sở thống nhất của cộng đồng dân tộc, nhân loaj và giai cấp
có quan hệ với nhau như thế nào? Giải phóng giai cấp có ý nghĩa như thế nào đối với sự nghiệp
giải phóng nhân loại? 60
Câu 51. Thế nào là xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ? Bản chất của nền kinh tế độc lập tự
chủ trong thời đại hiện nay? 61
Câu 52. Hội nhập kinh tế quốc tế là thế nào? Phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản nào? Đảng ta
quan niệm như thế nào về hội nhập kinh tế quốc tế? 62
CHƯƠNG X. LÝ LUẬN NHẬN THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ 66
Câu 53. Phân tích bản chất và những đặc trưng của Nhà nước.? Vì sao nói nhà nước không phải
cơ quan điều hòa mâu thuẫn giai cấp? Chứng minh rằng sự ra đời của nhà nước là một tất yếu
khách quan của quá trình phát triển kinh tế- xã hội? 66
Câu 54. Nhà nước có những chức năng cơ bản nào? Quan hệ giữa các chức năng đó? Tại sao chức
năng chính trị là chức năng cơ bản nhất. Vì sao chức năng kinh tế là chức năng riêng có của kiểu
Nhà nước chuyên chính vô sản 66
Câu 55. Nhà nước có những vai trò gì đối với quá trình phát triển kinh tế của xã hội? Vì sao sự
phát triển của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự can thiệp của vai trò nhà nước? Lấy một số
ví dụ về vai trò của nhà nước đối với quá trình phát triển kinh tế thị trường ở các nước tư bản 67
5
Câu 56. Hãy nên quan điểm của Đảng công sản Việt Nam về việc tăng cường vai trò quản lý kinh
tế của nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa,hiện đại hóa nhằm xây dựng một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh 69

CHƯƠNG XI .QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MAC LÊ NIN VỀ CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ XÂY
DỰNG CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA 69
Câu 57. Phân tích những giá trị trong quan niệm về con người của các nền triết học trước Mác.
Triết học Mác đã kế thừa những yếu tố hợp lý nào trong các quan điểm đó? 69
Câu 58. Cách tiếp cận của triết học Mác đối với con người khác với các tiếp cận của các nền triết
học trước Mác ở chỗ nào? Ý nghĩa của cách tiếp cận đó? 69
Câu 59. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa phương diện sinh học và phương tiện xã hội trong
con người? vận dụng vào lĩnh vực công tác của anh/ chị 73
Câu 60. Phân tích bản chất của con người. Hiểu thế nào là luận điểm “con người vừa là chủ thể,
vừa là sản phẩm của hoàn cảnh?” 73
Câu 61: Vì sao phát triển nguồn nhân lực con người Việt Nam là yếu tố quyết định thành công
của sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa? 75
CHƯƠNG I . LỊCH SỬ TRIẾT HỌC CÁC NƯỚC PHƯƠNG ĐÔNG
Câu 1. Triết học là gì? Sự khác nhau cơ bản giữa quan điểm hiện đại và quan điểm lịch sử
về triết học? Vì sao có sự khác nhau đó? Triết học có những chức năng gì?
Khái niệm "Triết học”
Triết học là bộ môn chung nhất, nghiên cứu về các sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội,
nhằm tìm ra các quy luật của các đối tượng nghiên cứu. Mục đích của triết học là giải quyết các vấn
đề cơ bản của bản thể luận và nhận thức luận.
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ
VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên) tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như
Trung Quốc, ấn Độ, Hy Lạp. ở Trung Quốc, thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ triết ( );
người Trung Quốc hiểu triết học không phải là sự miêu tả mà là sự truy tìm bản chất của đối tượng,
triết học chính là trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người.
Sự khác nhau cơ bản giữa quan điểm hiện đại và quan điểm lịch sử về triết học?
* Quan điểm lịch sử
Phương pháp nhận thức các sự vật và hiện tượng theo quá trình phát sinh, phát triển của nó
trong những điều kiện lịch sử nhất định, như là sản phẩm của sự phát triển lịch sử. QĐLS có những
nét đặc trưng cơ bản sau:
1) Nó xem xét không phải sự thay đổi đơn giản, mà là sự tự vận động, kết cấu nội tại, nguồn

gốc của sự tự vận động;
2) Quá trình phát triển của sự vật và hiện tượng, những giai đoạn chủ yếu đã trải qua, thực trạng
hiện nay, xu thế phát triển tương lai, khả năng tối ưu và những điều kiện khách quan, chủ quan cho
sự thực hiện khả năng tối ưu ấy;
3) Tính kế thừa trong sự phát triển của mọi sự vật và hiện tượng. Vận dụng QĐLS, chủ nghĩa
Mac đã phát hiện quy luật vận động của chủ nghĩa tư bản, đi đến kết luận: chủ nghĩa tư bản sẽ diệt
vong; chủ nghĩa xã hội sẽ thắng lợi, và đề ra những dự kiến khoa học về sự phát triển của xã hội
cộng sản chủ nghĩa tương lai.
* Quan điểm hiện đại
Tính hiện đại thường được miêu tả như là sự phản ánh một loạt những nguyên tắc cơ bản sau
đây.
1. Nó phủ nhận truyền thống và phong tục tập quán với tư cách một quyền lực tiên thiên, mọi
thứ phải chịu sự phê phán mang tính lý tính (thuần lý).
6
2. Nó truy tìm tri thức và chân lý khách quan – những nguyên tắc mang tính lý tưởng, tuyệt đối,
có tính quy luật, phi lịch sử, mà chỉ có thể được nhận biết qua lý tính, sử dụng phương pháp có tính
hình thức và thuần lý.
3. Nó thừa nhận rằng, những điều kiện của nhận thức, theo cách nào đó, được quyết định bởi
những năng lực của chủ thể nhận thức; kế tiếp là “sự quay về với chủ thể” và thừa nhận vị thế cao
hơn của nhận thức luận so với siêu hình học; Sự ưu tiên đối với chủ thể cũng được phản ánh trong
sự nhấn mạnh giá trị cá nhân so với giá trị cộng đồng.
Vì sao có sự khác nhau đó?
Những nhà triết học hiện đại chối bỏ quan niệm cho rằng văn hoá, văn cảnh hoặc truyền thống
đóng vai trò quyết định trong tri thức. Thay vào đó, họ tìm kiếm những nguyên lý mang tính quy
luật, tuyệt đối, mang tính nền tảng và những chân lý phi lịch sử, phi thời gian, khách quan.
Ví dụ như Kant từ chối bất kỳ một nền đạo đức học nào dựa trên phong tục tập quán, hoặc
truyền thống, hoặc hành động trong quá khứ, hoặc tác động nào từ bên ngoài. Theo ông, để là “triết
học đạo đức” đích thực, nó phải mang tính quy luật; có nghĩa, nó phải là thứ tiên thiên. Cách tiếp
cận của Kant là không phải chú tâm đến văn hoá, hoặc văn cảnh, hoặc truyền thống cụ thể – công
việc của xã hội học, chứ không phải triết học – mà là suy ngẫm xem chủ thể thuần lý có thể khám

phá và “tuân theo” cái gì khi phản tư về cái nên làm (cái phải là).
Quy luật đạo đức mà Kant tìm kiếm với tư cách quy luật – là cái khách quan, phổ quát và tuyệt
đối; nó mang tính tiên thiên và không chứa các ngoại lệ. Đặc biệt, nó chỉ được “thừa nhận” và có
hiệu lực chỉ duy nhất bởi lý tính – lý tính của mỗi nhân tố cá nhân – vì thế, nó (chỉ trong nghĩa đó)
mang tính chủ quan. Không nhất thiết con người có muốn hay không, có đồng ý hay không, quy luật
này không phụ thuộc vào người lập luật bên ngoài. Đạo đức cũng không phụ thuộc vào hậu quả hay
kết quả, mà chỉ tuân theo lý tính.
Do đó, rõ ràng luật đạo đức là thứ độc lập với bất kỳ một ngẫu nhiên nào của văn hoá, lịch sử,
hay truyền thống. Quả thực, đây là lý do vì sao mà nó áp dụng với tất cả sinh thể thuần lý chứ không
phải là con người nói chung.
Quan điểm của thuyết hiện đại là, người ta phải phán xét tất cả các tuyên bố (tuyên xưng) về
văn hoá, phong tục và truyền thống dưới ánh sáng của lý tính và loại trừ tất cả những gì không phù
hợp với lý tính. Do đó, mối quan hệ giữa triết học và văn hoá không có ý nghĩa gì lắm, hoặc nếu có
mối quan hệ này thì cũng hoàn toàn không quan trọng.
Triết học có những chức năng gì?
* Chức năng thế giới quan của triết học
Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về
cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó.
Trong thế giới quan có sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự
hình thành thế giới quan, song nó chỉ gia nhập thế giới quan khi nó đã trở thành niềm tin định hướng
cho hoạt động của con người.
Có thể chia thế giới quan thành ba loại hình cơ bản: Thế giới quan huyền thoại, thế giới quan
tôn giáo và thế giới quan triết học.
Những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết là những vấn đề thuộc về thế
giới quan. Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con người và xã hội
loài người. Tồn tại trong thế giới, dù muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và
nhận thức bản thân mình. Những tri thức này dần dần hình thành nên thế giới quan. Khi đã hình
thành, thế giới quan lại trở thành nhân tố định hướng cho quá trình con người tiếp tục nhận thức thế
giới. Có thể ví thế giới quan như một "thấu kính", qua đó con người nhìn nhận thế giới xung quanh
cũng như tự xem xét chính bản thân mình để xác định cho mình mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa

chọn cách thức hoạt động đạt được mục đích, ý nghĩa đó. Như vậy thế giới quan đúng đắn là tiền đề
7
để xác lập nhân sinh quan tích cực và trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về
sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất định.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát
triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa
học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
Các trường phái chính của triết học là sự diễn tả thế giới quan khác nhau, đối lập nhau bằng lý luận;
đó là các thế giới quan triết học, phân biệt với thế giới quan thông thường.
* Chức năng phương pháp luận của triết học
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống các quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi,
xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
Xét phạm vi tác dụng của nó, phương pháp luận có thể chia thành ba cấp độ: Phương pháp luận
ngành, phương pháp luận chung và phương pháp luận chung nhất.
Trong triết học Mác - Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với nhau. Phép biện
chứng duy vật là lý luận khoa học phản ánh khái quát sự vận động và phát triển của hiện thực; do
đó, nó không chỉ là lý luận về phương pháp mà còn là sự diễn tả quan niệm về thế giới, là lý luận về
thế giới quan. Hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa duy vật mácxít, do tính đúng đắn và triệt để
của nó đem lại đã trở thành nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, trở
thành những nguyên tắc xuất phát của phương pháp luận.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng, đề phòng và chống chủ nghĩa
chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình vừa là kết quả, vừa là mục đích trực tiếp của việc học
tập, nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng
Câu 2. Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề gì? Tại sao lại có vấn đề đó? Ý nghĩa của việc
phân tích vấn đề cơ bản của triết học
Triết học là hệ thống lí luận chung nhất của con người về tự nhiên, xã hội, tư duy cũng như chỉ
ra vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
2.1 Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Nguyên nhân:
 Giải thích mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần là tiền đề, xuất phát điểm của bất kì

một trường phái triết học nào, một học thuyết triết học nào dù theo cách này hay cách khác,
dù gián tiếp hay trực tiếp.
 Ang-ghen là người chứng minh và khẳng định một cách thuyết phục rằng giải quyết
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học nói chung và của triết học
hiện đại nói riêng.
2.2 Vấn đề cơ bản của Triết học gồm có 2 mặt . Mỗi mặt trả lời cho 1 câu hỏi lớn.
2.2.1 Mặt thứ nhất (Bản thể luận) :
Bàn về nguồn gốc của thế giới: vật chất có trước hay ý thức có trước, cái nào quyết định cái
nào. Có 2 cách trả lời khác nhau đã dẫn đến việc hình thành 2 khuynh hướng triết học lớn đối lập
nhau
a) Chủ nghĩa duy vật Những người theo chủ nghĩa duy vật cho rằng và chứng minh rằng : vật chất
là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh vất chất.
Trong chủ nghĩa duy vật gồm 3 dạng phái khác nhau:
+ Chủ nghĩa duy vật ngây thơ : là dựa vào việc quan sát một cách trực tiếp các sự vật hiện tượng để
từ đó kết luận về nó. Chính vì vậy mà những kết luận đưa ra thường đúng nhưng không sâu sắc,
không đầy đủ, chưa phản ánh hết sự sinh đọng của thế giới hiện thực khách quan
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình : là dựa vào phương pháp nghiên cứu sự vật trong trạng thái tĩnh tại,
không tính tới qúa trình vận động và phát triển không ngừng của sự vật; cô lập sự vật đó với các sự
vật khác. Vì vậy những kết luận đưa ra thường không đúng và có khi làm méo mó sự vật hiện tượng.
8
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng: là dựa vào phương pháp nghiên cứu, xem xét, đánh giá sự vật ở
trong trạng thái vừa tĩnh tại vừa luôn luôn vận động phát triển không ngừng và trong mối quan hệ
với các sự vật hiện tượng khác nhau. Chính vì vậy mà những kết luận mà họ đưa ra phản ánh đúng
sự vật hiện tượng một cách khách quan.
b) Chủ nghĩa duy tâm là học thuyết khẳng định rằng ý thức là cái có trước, vật chất là cái có sau, ý
thức sinh ra vật chất quyết định vật chất.
- Chủ nghĩa duy tâm có 2 dạng phái:
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan : cho rằng có một thế giới tinh thần, một thế giới ý niệm tuyệt đối
tồn tại trước con người, vĩnh hằng, hoàn hảo, luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng. Trong
quá trình vận động và biến đổi đó tha hoá nên tạo nên thế giới hiện thực. Cũng chính vì quan điểm

như vậy mà những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng thế giới hiện thực chỉ là cái
bóng của thế giới tinh thần, bị chi phối bởi thế giới tinh thần ấy.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan : cho rằng thế giới hiện thực là sự phức hợp các cảm giác của con
người, khi cảm giác của con người không còn thì thế giới cũng không còn tồn tại.
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm làm thành thuyết “Nhất nguyên luận”
Bên cạnh đó còn có một thuyết “Nhị nguyên luận” : ý thức và vật chất cùng song song tồn tại, không
có cái nào quyết định cái nào, không có cái nào sinh ra cái nào
.
2.2.2 Mặt thứ hai (Nhận thức luận) : bàn về việc con người có khả năng nhận thức hay không;
những hiểu biết, những tri thức của con người có phản ánh được đầy đủ, sâu sắc bản chất về thế giới
hiện thực khách quan hay không.
Trong triết học hiện đại có 2 trường phái :
a) Trường phái Khả tri luận
Trường phái này gồm đa số các nhà triết học theo chủ nghĩa, tuyệt đại bộ phận các nhà triết học theo
chủ nghĩa duy vật ; khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới. Tuy nhiên khả
năng nhậ thức đó lại được hiểu khác nhau:
 Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng quá trình nhận thức của
con người là quá trình hồi tưởng lại của linh hồn bất tử
 Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng tri thức là cái có sẵn dưới
dạng bẩm sinh, chủ thể nhận thức chỉ cần tạo điều kiện cho các nhận thức ấy bùng nổ.
 Những người theo chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng nhận thức là một quá trình
của con người đi từ những hiểu biết đơn giản đến những hiểu biết phức tạp, không phải là cái
có sẵn dưới dạng bẩm sinh mà đó là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn của mỗi bản
thân con người. Khả năng nhận thức của con người là hữu hạn nhưng khả năng nhận thức
của loài người là vô hạn. Về nguyên tắn cho dù thế giới khách quan có vận đọng không
ngừng thì con người hoàn toàn có khả năng nhận thức được nó.
b) Trường phái Bất khả tri
Cho rằng con người không thể nhận thức được thế giới, nếu có nhận thức được thì cũng chỉ là nhận
thức được hiện tượng, không thể nhận thức được bản chất của sự vật
2.3 Ý nghĩa:

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ bao trùm của mọi sự vật hiện tượng trong
thế giới, là vấn đề nền tảng và xuất phát điểm để giải quyết những vấn đề còn lại của triết học, là
tiêu chuẩn để xác định lập trường thế giới quan của triết gia và học thuyết của họ.
Hiểu các vấn đề cơ bản của Triết học giúp người nghiên cứu có định hướng từ đó rèn luyện
năng lực tư duy và áp dụng vào thực tiễn.
9
Phân tích các vấn đề cơ bản của Triết học, chúng ta có cơ sở để phân tích thế giới quan và xây
dựng phương pháp luận khoa học theo các trường phái triết học mà mình theo đuổi, lý giải được các
vấn đề Triết học sau này, ví dụ như: thế giới quan duy vật là thế giới quan khoa học hay thế giới
quan duy tâm là thế giới quan tôn giáo, ….
Câu 3. Có những trường phái triết học cơ bản nào? Khái quát các hình thức phát triển của
trường phái duy vật trong lịch sử. V.I Lê nin đã chỉ ra những nguồn gốc nào của chủ nghĩa duy
tâm ?
Các trường phái triết học cơ bản
Triết học là hệ thống những quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người
trong thế giới đó. Triết học là một môn khoa học nhằm tập trung giả quyết vấn đề cơ bản là giải
thích mối quan hệ giữa con người và môi trường, được biểu hiện thành quan hệ giữa tư duy và tồn
tại, giữa vật chất và ý thức.
Vấn đề cơ bản của triết học được biểu hiện thành hai mặt cơ bản. Đó là:
Thứ nhất, giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào quyết định cái nào.
Thứ hai, Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không.
Tập trung giải quyết mặt thứ nhất, trong triết học có ba cách giải quyết hình thành ba trường
phái.
Một là vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, hình thành trường phái duy
vật.
Hai là, ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất, tạo ra trường phái duy tâm.
Hai cách giải quyết trên tuy có đối lập nhau về nội dung nhưng giống nhau ở chỗ, chúng đều
thừa nhận một nguyên thể là nguồn gốc tạo ra thế giới. Hai cách giải quyết này thuộc về triết học
nhất nguyên.
Ba là, vật chất và ý thức tồn tại đôc lập, chúng không có quan hệ sản sinh nhau, không có quan

hệ quyết định nhau. Cách giải quyết này thừa nhận cả vật chất và ý thức cùng là nguồn gốc của thế
giới, trường phái này thuộc về triết học nhị nguyên. Triết học nhị nguyên có khuynh hướng điều hòa
hai trường phái duy vật và duy tâm để dẫn đến một trường phái duy nhất.
Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, thế giới vật chất tồn tại một cách
khách quan, độc lập với ý thức con người và không do ai sáng tạo ra, còn ý thức là phản ánh thế giới
khách quan vào bộ óc con người, không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật chất. Chủ nghĩa
duy vật đã phát triển qua ba hình thức cơ bản là: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu
hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng, tinh thần, ý thức có trước và là cơ sở tồn tại của giới tự nhiên, của
vật chất. Chủ nghĩa duy tâm chia thành hai trường phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa
duy tâm khách quan.
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều có nguồn gốc xã hội và nguồn gốc nhận thức.
nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy vật là các lực lượng xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng,
nguồn gốc nhận thức của nó là mối liên hệ với khoa học. Còn nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy
tâm là mối liên hệ của nó với các lực lượng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ, nguồn gốc nhận thức
của nó là tuyệt đối hóa một mặt của các quá trình nhận thức (mặt hình thức), tách nhận thức, ý thức
khỏi vật chất.
Để trả lời câu hỏi thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học, các nhà triết học chia thành hai
trường phái: khả tri và bất khả tri. Hầu hết các nhà duy vật và duy tâm đều cho rằng con người có
thể nhận thức được thế giới. Tuy nhiên, dưới góc độ duy tâm, các nhà triết học theo trường phái này
cho rằng sự nhân thức của con người chỉ là sự tự nhận thức về chính bản thân mình. Còn những nhà
triết học phủ nhận sự nhận thức của con người đã cho ra đời “thuyết không thể biết”. Học thuyết này
cho rằng con người không thể hiểu được đối tượng hoặc có chăng là chỉ hiểu hình thức bề ngoài vì
10
tính xác thực của hình ảnh về đối tượng mà các giác quan của con người cung cấp trong quá trình
nhận thức không đảm bảo tính chân thực. Tính tương đối của nhận thức dẫn đến sự hình thành trào
lưu “hoài nghi luận”, những người theo trào lưu này nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong
việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người không thể đạt đến chân lý khách quan.
Việc xác định được vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở để phân biệt các trường phái triết học,
các quan điểm triết học, các nhà triết học; là cơ sở giải quyết một loạt các vấn đề khác của triết học

như nhận thức luận, nhà nước, tôn giáo. Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học giúp con người ta có
thể hình thành thế giới quan và phương pháp luận trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con
người. Thế giới quan là nhân tố để con người nhận thức và hành động. Là thấu kính giúp con người
xem xét chính bản thân mình để xác đinh cho mình mục đích và ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách
thức hoạt động để có nhân sinh quan tích cực. Trình độ thế giới quan chính là tiêu chí đánh giá sự
trưởng thành của cá nhân và toàn xã hội. Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học làm triết học thực
hiện chức năng phương pháp luận. Vì thế, mỗi quan điểm lý luận về triết học đồng thời là một
nguyên tắc về phương pháp và lý luận về phương pháp đó tạo khả năng cải biến thế giới.
Các hình thức phát triển của trường phái duy vật trong lịch sử
Chủ nghĩa duy vật đã phát triển qua ba hình thức cơ bản là: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ
nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
a. Triết học duy vật cổ đại (Duy vật chất phác – ngây thơ)
Chủ nghĩa duy vật cổ đại còn gọi là chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ, xuất hiện trong chế
độ chiếm hữu nô lệ như ở Ấn Độ, Trung Hoa, Hylạp. Về thế giới quan là duy vật có ý nghĩa chống
lại những tư tưởng sai lầm của triết học duy tâm và tôn giáo; nhưng về mặt phương pháp luận thì
chưa có cơ sở khoa học, bởi nó mang tính trực quan, cảm tính chủ yếu dựa vào tri thức kinh nghiệm
của chính bản thân các nhà triết học hơn là những khái quát khoa học của bản thân tri thức triết học.
Vì, quan niệm về thế giới là vũ trụ, là vạn vật, vật chất là vật thể cụ thể hoặc thuộc tính của vật thể
cụ thể, v.v… còn ý thức là linh hồn, là cảm giác nhưng nó phụ thuộc vào vật chất.
Anghen viết: “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy, ngây thơ, nhưng căn bản là đúng
ấy, là quan niệm của các nhà triết học Hy lạp thời cổ, và nguời đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan
niệm ấy là Héraclite: mọi vật đều tồn tại nhưng đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi,
mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều luôn ở trong quá trình xuất hiện và biến đi”.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này nói chung là đúng đắn nhưng mang tính ngây thơ
chất phác vì chủ yếu dựa vào quan sát trực tiếp, chưa dựa vào các thành tựu của các bộ môn khoa
học chuyên ngành vì lúc đó chưa phát triển.
- Chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại
Ở Ấn Độ, chủ nghĩa duy vật xuất hiện tương đối sớm và mang những nét độc đáo, tập trung ở
một số trường phái sau:
+ Trường phái Sam Khuya

Vào thời gian đầu, triết lý Samkhuya không thừa nhận "tinh thần vũ trụ tối cao" phủ nhận sự tồn
tại của thần. Ngược lại nó khẳng định thế giới này là thế giới vật chất. Đã giải thích mọi vật của thế
giới là kết quả của sự thống nhất ba yếu tố. Đó là Sativa (sự trong sáng; Tamas (tính ỳ thụ động) và
Rajas (kích thích động). Khi 3 yếu tố này ở trạng thái cân bằng thì vật chất đầu tiên chưa biểu hiện
nhưng khi cân bằng bị phá vỡ thì sinh thành vạn vật của vũ trụ.
Tuy nhiên quan niệm về vật chất của phái Samkhuya còn có nhiều hạn chế. Họ cho ràng dạng
vật chất đầu tiên là không nhận biết được và giải thích về hình thành vạn vật còn chưa đúng đắn đó
là quan niệm về sự hình thành thế giới hữu hình đa dạng từ thế giới vô hình, đồng nhất.
+Trường phái Nyaya:
Thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất rất phong phú đa dạng bao gồm nhiều sự vật, hiện
tượng. Thế giới này tồn tại trong không gian do các hạt nhỏ cấu tạo nên và được gọi là nguyên tử.
11
Nguyên tử của thực thể này khác nguyên tử của thực thể kia ở chất lượng, hình dạng và cách kết
hợp. Các vật thể chỉ tồn tại nhất thời, thường xuyên thay đổi và chuyển hoá. Đây quả là một quan
niệm thiên tài hết sức đúng đắn trong điều kiện khoa học tự nhiên thời bấy giờ chưa phát triển. Đã
để lại một tư tưởng quý báu cho nhân loại mà các nhà duy vật sau này tiếp tục kế thừa và phát huy.
Tuy nhiên chủ nghĩa duy vật của phái Nyaya còn hạn chế ở chỗ coi thế giới vật chất tạo nên bởi
4 yếu tố đất, nước, lửa, không khí, cho rằng nguyên tử không biến đổi, không chia cắt được. Âu
cũng là do hạ chế về khoa học tự nhiên lúc bấy giờ.
- Chủ nghĩa duy vật Trung Hoa cổ đại
Trung Quốc là một trong những trung tâm văn minh lớn của Phương Đông cổ - trung đại. Cùng
với những phát minh có tính chất vạch đường trên mọi lĩnh vực khoa học tự nhiên, y học, Trung
Quốc còn là quê hương của nhiều hệ thống triết học lớn. Nhìn một cách tổng thể, các trường phái
triết học cổ đại Trung Quốc đa phần theo khuynh hướng duy tâm, tuy nhiên vẫn có một số tư tưởng
duy vật tiến bộ có ý nghĩa to lớn mà điển hình là Mạc Gia.
Mạc Gia đầu tiên đề xuất quan hệ giữa thực và danh như một phạm trù triết học. Chủ trương
"lấy thực đặt tên để nêu ra cái thực", "cái dùng để gọi tên, cái được gọi lên là thực". Điều đó có
nghĩa khách quan là tồn tại thực.
Đồng thời, Mạc Gia cho rằng để đánh giá đúng sai trong thực tế khách quan phải dựa vào 3 tiêu
chuẩn: trước hết lập luận phải có căn cứ, thứ hai phải được chứng minh và thứ ba lập luận cần có

hiệu quả. Thuyết "tam biểu" này của Mạc Gia thể hiện thuyết phản ánh của chủ nghĩa duy vật chất
phác, các học thuyết cùng thời khó sánh kịp.
Về sau thời Hậu Mạc đã phát triển khía cạnh duy vật lên một tầm cao mới. Họ cho rằng sự tồn
tại của vật chất là bất diệt, hình thái tồn tại của sự vật thì có thay đổi, thời gian, không gian liên hệ
mật thiết với sự vận động của sự vật. Vật thể vận động trong không gian và thời gian và muốn nhận
thức được thế giới, trước hết nhờ các khí quan cảm giác (tai, mũi, miệng, mắt, thân) đồng thời để
nhận thức sâu sắc sự vật, con người phải nhờ tâm, tức là hoạt động tư duy là quá trình phân tích so
sánh, tổng hợp trừu tượng hoá để đạt đến ý nghĩa của nó. Vì vậy họ đã làm rõ mối quan hệ giữa cảm
giác và tư duy.
Các triết gia hậu Mạc còn phân ra tri thức thành 3 loại: "Văn tử" là sự hiểu biết nhờ sự truyền
thụ của người khác, "Thuyết trị" là kết quả do sự hoạt động suy luận đem lại, "Thân trị" là kết quả
do sự quan sát, đúc kết kinh nghiệm đem lại.
Những quan điểm duy vật của phái Mạc Gia đã hơn hẳn những phái khác về nhận thức lý luận.
Hệ thống lôgic của họ đã tấn công vào thuyết hoài nghi và bất khả thi của phái Trang - Chu. Đồng
thời phê phán khía cạnh duy tâm trong học thuyết của phái Công Tôn Long.
Tuy vậy, học thuyết của Mạc Gia vẫn không tránh khỏi một số sai lầm như xem trời là đấng anh
minh có quyền lực tối cao, trời tạo ra muôn loài. Mạc Tử còn tin có cả quỉ thần giám sát hành vi con
người. Dù vậy, những tư tưởng của Mạc Gia đã khiến cho thế hệ sau này phải ngưỡng mộ bởi tính
đúng đắn tiến bộ của nó trong điều kiện hết sức lạc hậu như vậy. Cũng có lẽ vì thế mà học phái Mạc
Gia đã không có chỗ đứng trong tư tưởng của giai cấp phong kiến và bị tuyệt diệt vào đời Tần hán.
- Chủ nghĩa duy vật Phương Tây cổ đại
+Triết học Hy Lạp cổ đại
Thời cổ đại, các ngành khoa học của Hy Lạp đã rất phát triển, đặc biệt thiên văn, toán học, y
học… Triết học duy vật nhờ đó phát triển rực rỡ, chứa đựng hầu hết các nội dung cơ bản của nó. Sau
đây ta sẽ xem xét một số trường phái tiêu biểu.
+Hêraclit (530-470 TCN)
Ông cho rằng thế giới muôn vật không do thần thánh nào tạo nên, cũng không phải con người
tạo ra mà là do ngọn lửa vĩnh viễn, linh động nhen nhóm lên. Mọi sự vật luôn ở trạng thái vận động,
biến đổi và chuyển hoá qua lại. Ông nêu lên tư tưởng hiện vật đều trôi đi, hiện vật đều biến đổi
12

"người ta không thể tắm 2 lần trên 1 dòng sông". "Mặt trời luôn luôn luôn đổi mới và vĩnh viễn đổi
mới"
Theo ông nguồn gốc của mọi sự vật thay đổi là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
trong sự vật. Mọi vật đều nảy nở trong quá trình đấu tranh và sự vận động, phát triển liên tục của sự
vật tuân theo các yếu tố khách quan, qui luật quyết định.
Về lý luận nhận thức, Hêraclit cho rằng nhận thức là phản ánh hiện tượng khách quan. Ông chia
quá trình nhận thức ra làm 2 giai đoạn cảm tính và lí tính. Hai giai đoạn này có quan hệ chặt chẽ với
nhau, không thể chỉ có một giai đoạn tồn tại độc lập.
Về hạn chế: Hêraclit đã quan niệm lửa là nguồn gốc tạo ra vạn vật. Mọi vật trao đổi với lửa và
lửa trao đổi với tất cả. Mọi sự biến hoá của sự vật dựa trên sự chuyển hoá của chúng thành những
dạng vật chất đối lập với bản thân chúng. "Nước sinh ra từ cái chết của đất, không khí sinh ra từ cái
chết của nước, lửa sinh ra từ cái chết của không khí.
+Triết học Hy Lạp thế kỷ V Đêmôcrit
Ông là nhà Triết học duy vật cổ đại nhất trong thế giới cổ đại. Ông là người hiểu biết sâu rộng
rất nhiều lĩnh vực: Triết học, toán học, đạo đức học, sinh vật học… là học trò và người kế tục phát
triển quan điểm của Lơxip.
Đêmôcrit cho rằng nguyên tử không nhìn thấy được, không âm thanh, màu sắc và mùi vị.
Chúng đồng nhất với nhau về chất nhưng khác nhau về hình thức, thứ tự và tư thế. Ông quan niệm
nguyên tử là vô hạn về lượng và hình thức. Mỗi sự vật đều được cấu tạo bởi những nguyên tử do sự
kết hợp giữa chúng với nhau theo một trật tự và thế nhất định.
Sự biến đổi vật chất là do sự thay đổi trình tự sắp xếp của những nguyên tử tạo thành còn bản thân
nguyên tử thì không thay đổi.
Nguyên tử luôn vận động trong không gian ông thấy rõ quan hệ chặt chẽ giữa vật chất và vận
động. Vận động là vốn có của nguyên tử chứ không phải được đưa từ ngoài vào. Nhưng ông chưa
thấy được nguồn gốc của vận động và vận động không chỉ là sự di chuyển trong chân không của các
nguyên tử.
Dựa vào thuyết nguyên tử, Đêmôcrit thừa nhận sự ràng buộc lẫn nhau theo quy luật nhân quả
tính khách qan trong tính tất yếu của sự vật, hiện tượng tự nhiên. Đó là đóng góp quan trọng của
Đêmôcrit vào triết học duy vật. Song ông lại phủ nhận tính ngẫu nhiên, ông coi ngẫu nhiên là một
hiện tượng không có nguyên nhân.

Đêmôcrit bác bỏ quan nhiệm về sự sản sinh ra sự sống và con người của thần thánh. Theo ông
sự sống là kết quả của quá trình biến đổi dần đần từ thấp đến cao cảu tự nhiên. Sinh vật đầu tiên
sống ở dưới nước, sau đó chuyển lên cạn, cuối cùng con người được ra đời. Ông coi cái chết là sự
phân tích của các nguyên tử tạo nên xác và của những nguyên tử cấu tạo lên tinh hồn chứ không
phải linh hồn rời khởi thể xác. Tuy quan niệm của Đêmôcrit còn mang tính mộc mạc song nó giữ vai
trò rất quan trọng trong việc chống các quan điểm duy tâm và tôn giáo về tính bất tử của linh hồn
người.
Đêmôcrit đã có công lao to lớn trong xây dựng lý luận nhận thức giải quyết một cách duy vật
vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trò của cảm giác là điểm khởi đầu của nhận thức và tư duy trong
việc nhận thức thế giới.
Ông cho rằng đối tượng của nhận thức là vật chất, là thế giới xung quanh con người và nhờ sự
tác động của đối tượng nhận thức vào con người nên con người mới nhận thức được.
Đêmôcrit phân chia nhận thức thành nhận thức mờ tối và nhận thức chân lý. Nhận thức mờ tối
do các giác quan đem lại còn nhận thức chân lý là do sự phân tích sâu sắc về sự vật để nắm bắt bản
chất bên trong của nó.
Triết học duy vật của Đêmôcrit đã đóng vai trò quan trọng trog chủ nghĩa vô thần. Ông cho rằng
sự tồn tại của thần chẳng qua là sự cách hoá những hiện tượng của tự nhiên hay những thuộc tính
13
của con người chẳng hạn thần Dớt là sự nhân cách hoá mặt trời, thần ATêna là sự nhân cách hoá
thuộc tính của con người.
- Duy vật Tây Âu Trung Cổ Phục Hưng và cận đại: đây là những thời kỳ mà chủ
nghĩa duy vật có nhiều thắng lợi rực rỡ.
+Fran xiBêcơn (1561 - 1621):
Là người sáng lập triết học duy vật Anh. Becơn thừa nhận sự tồn tại khách quan của Thế giới
vật chất khoa học không biết cái gì khác ngoài thế giới vật chất, ngoài giới tựnhiên ông cho rằng con
người cần phải thống trị làm chủ tựnhiên. Điều đó thực hiện được hay không phụ thuộc vào hiểu
biết của con người.
Theo BêCơn, nhận thức tốt nhất là đi từ cái riêng lẻ đến cái chung, cái trừu tượng. Tri thức chỉ
có thể đạt được bằng cách giải quyết những quan hệ nhân quả hiểu biết đúng là hiểu biết bằng
nguyên nhân.

Song chủ nghĩa duy vật của Bêcơn là duy vật siêu hình. Ông quy sự vận động của vật chất thất
thành sự lặp lại vĩnh viễn những hình tứhc bất biến. Ông cũng chưa vượt qua được bức tường tôn
giáo và nhà thờ để hoàn toàn tự do với những tư tưởng khoa học và biết học đặc sắc của mình.
+Lút Vích Phoi ơ bắc (1807 - 1872):
Là một nhà nhân vật kiệt suất trước Mác, là nhà tư tưởng của giai cấp tư sản dân chủ. Có công
lớn trong phê phán chủ nghĩa duy tâm công Hêghen nói riêng và chủ nghĩa duy tâm nói chung phê
phán tôn giáo, khôi phục chủ nghĩa duy vật cổ đại.
Phoi ơ bắc cho rằng thế giới vật chát không do ai sáng tạo ra, tồn tại khách quan không phụ
thuộc vào ý thức của con người. Giới tự nhiên vận động biến đổi do những nguyên nhân bên trong
của nó.
Ông cho rằng ý thức là sản phẩm của con người. Nếu vật chất chưa tiến hoá đến con người thì
chưa có ý thức.
Phoi ơ bắc giải quyết vấn đề nhận thức trên quan điểm duy vật và không có gì con người không
nhận thức được, chỉ có cái chưa nhận thức được mà thôi.
Tuy nhiên khi khẳng định nhận thức của con người, Phoi ơ bắc nhấn mạnh mặt quan sát chứ
không quan tâm đến mặt quan trọng tạo nên nhận thức là hoạt động thực tiễn. Ông coi thường thực
tiễn, hạ thấp vai trò thực tiễn. Đồng thời con người mà Phoi ơ bắc nghiên cứu là con người thuần tuý
động vật. Tức ông chỉ quan tâm đến mặt sinh học mà không quan tâm đến mặt xã hội. Vì vậy, con
người của Phoi ơ bắc là con người trừu tượng.

Do hạn chế trong sự phát triển khoa học kỹ thuật, đồng thời sự tác động trong hệ tư tưởng của
triết học mà những kết luận của chủ nghĩa duy vật cổ đại còn mang nặng tính trực quan, ngây thơ,
chất phác, cảm tính, dự báo, định hướng chứ không có cơ sở khoa học khi giải thích về nguồn gốc
hoặc bản chất của thế giới vật chất và vai trò của con người. Chủ nghĩa duy vật cổ đại thể hiện đồng
nhất vật chất vào thực thể được coi là bản nguyên của thế giới vật chất.
Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại về cơ bản là đúng vì nó đã lấy
giới tự nhiên để giải thích về giới tự nhiên, không viện đến thần linh hay Thượng đế. Chủ nghĩa duy
vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ
này thừa nhận tính thứ nhất của vật chất và đã đồng nhất vật chất với một số dạng vật chất cụ thể
hoặc thuộc tính của nó. Chủ nghĩa duy vật cổ đại còn được gọi là triết học tự nhiên. Nó khái quát

những tư tưởng của khoa học cụ thể và cùng khoa học cụ thể giải quyết những vấn đề của khoa học
lý thuyết.

b. Chủ nghĩa duy vật phục hương và cận đại (Duy vật siêu hình)
Siêu hình là thuật ngữ triết học phản ánh khuynh hướng phát triển của triết học duy vật từ thời
kỳ phục hưng đến thời cận đại, còn được gọi là triết học tự nhiên. Xét về mặt thế giới quan là duy
14
vật, nhưng về phương pháp luận lại ảnh hưởng bởi phương pháp nghiên cứu của khoa học tự nhiên
(phương pháp thực nghiệm) của thời kỳ này, nhất là khoa học vật lý.
Thế giới quan triết học đối lập với chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển mạnh ở Châu Âu
vào các thế kỉ XVI - XVIII. Thời kì này, triết học gắn liền với khoa học tự nhiên, các nhà triết học
đồng thời là những nhà khoa học tự nhiên. Họ đã chủ trương giải thích tự nhiên từ bản thân nó. Nhờ
các phương pháp phân tích, mổ xẻ giới tự nhiên thành những bộ phận tách biệt nhau mà khoa học tự
nhiên đã đạt được những bước tiến khổng lồ. Chính cách xem xét đó đã được Bêcơn (F. Bacon) và
Lôckơ (J. Locke) áp dụng vào triết học, đem lại cho triết học một hình thức mới – chủ nghĩa duy vật
siêu hình. Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa duy vật siêu hình:
a) Xem xét sự vật một cách hoàn toàn cô lập, tách rời với các sự vật khác;
b) Xem xét sự vật trong trạng thái tĩnh tại không vận động, không biến đổi, vĩnh viễn cố định;
c) Quá trình phát triển được xem như là sự tăng trưởng đơn thuần về mặt số lượng chứ không
có sự thay đổi về chất lượng;
d) Tìm nguồn gốc của sự vận động và phát triển ở bên ngoài sự vật (ở Thượng đế, ở cái hích
đầu tiên, vv.), chứ không tìm trong sự đấu tranh giữa các mặt đối lập ở ngay trong lòng sự vật;
e) Có quan điểm cứng nhắc chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối không thể dung hợp được; nói
có là có, không là không, cái gì vượt ra ngoài phạm vi đó chẳng có giá trị gì hết.
Đối với những người theo chủ nghĩa duy vật siêu hình thì một sự vật hoặc tồn tại, hoặc không
tồn tại; một sự vật không thể vừa là chính nó, lại vừa là cái khác, cái khẳng định và cái phủ định
tuyệt đối bài trừ lẫn nhau, nguyên nhân và kết quả cũng đối lập nhau một cách cứng nhắc như vậy.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định chủ nghĩa duy vật siêu hình là một giai đoạn tất yếu trong
sự phát triển của triết học. Nó có vai trò nhất định trong việc bảo vệ và phát triển quan điểm duy vật,
nhưng tất yếu bị thay thế bằng chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Triết học duy vật thời kỳ này đại diện cho những tư tưởng của giai cấp tư sản tiến bộ, họ đã tiến
hành đấu tranh chống chủ nghĩa kinh viện, nhà thờ trung cổ. Trong số các đại biểu cơ bản của triết
học duy vật thời kỳ này là triết học duy vật Pháp với những quan điểm của Metri (La Mettrie),
Điđơrô (Diderot Denis), Hônbách (Holbach Paul Henri), chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Chủ
nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII-XVIII khẳng định vai trò của vật lý học cổ điển trong lịch sử
phát triển của khoa học, vì vậy phương pháp của khoa học, vật lý học cổ điển không chỉ ảnh hưởng
đối với các khoa học khác mà còn ảnh hưởng đối với triết học, đó là ảnh hưởng của chủ nghĩa duy
vật trong thời kì này tạo ra phương pháp tư duy siêu hình ở trong triết học nên nó được xem là triết
học tự nhiên.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII do ảnh hưởng của cơ học cổ điển nên chủ
nghĩa duy vật thời kỳ này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc -
phương pháp nhìn nhận thế giới trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện
thực, nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại
thế giới quan duy tâm và tôn giáo. Ví dụ như quan niệm của Niutơn, Bêcơn và các nhà duy vật Pháp
thế kỷ XVIII.

c. Chủ nghĩa duy vật biện chứng (Triết học Mác-Lênin)
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do Mác –
Anghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được Lênin phát triển. Với sự kế thừa
tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và vận dụng triệt để thành tựu của khoa học đương
thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được những hạn chế của
chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII – XVIII và nó đã thể
hiện được sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật khoa học và phương pháp nhận thức khoa học.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh đúng đắn hiện thực mà còn là một công cụ hữu
hiệu giúp các lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực đó.
15
Triết học Mác - Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy nhân
loại, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét tự nhiên cũng như đời sống xã hội
và tư duy con người.
Trong triết học Mác-Lênin, lý luận duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật

thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất đó làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép
biện chứng trở thành lý luận khoa học. Nhờ đó, triết học Mác - Lênin có khả năng nhận thức đúng
đắn tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện chứng duy vật không chỉ là lý luận về phương pháp mà
còn là lý luận về thế giới quan. Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành
nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, trở thành những nguyên tắc xuất phát
điểm của phương pháp luận.
Triết học Mác – Lênin còn được coi là hệ thống các nguyên lý, phạm trù, qui luật cơ bản của
phép biện chứng và sự vận dụng nó trong việc nghiên cứu lịch sử và nghiên cứu con người. Cho nên
triết học Mác – Lênin còn được gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Nghiên cứu triết học Mác – Lênin thực chất là việc khẳng định ý nghĩa bước ngoặc cách mạng
do Mác thực hiện trong lịch sử triết học và được Lênin bổ sung phát triển thêm.
Triết học Mác – Lênin không chỉ giải thích về thế giới vật chất và vai trò con người về mặt lí
luận mà chủ yếu là sự vận dụng nó trong hoạt động thực tiễn xã hội để khẳng định vai trò của triết
học đối với đời sống xã hội.
Sự hình thành và phát triển của phép biện chứng duy vật Mác – Lênin đã bao hàm sự thống nhất
giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa học.
Sự hình thành những quan điểm duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin được coi là cơ sở lí
luận về mặt thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa học để nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu
con người. Đó cũng là việc khẳng định sản xuất vật chất được coi là cơ sở đối với sự tồn tại, vận
động phát triển của xã hội, khẳng định con người là chủ thể của lịch sử, khẳng định quần chúng
nhân dân là lực lượng sang tạo chân chính của lịch sử, đồng thời nhấn mạnh vai trò quyết định tồn
tại của xã hội, ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Triết học Mác – Lênin giải quyết mối quan hệ triết hộc và khoa học hiện đại trên cơ sở nghiên
cứu của triết học. Song, nó cũng là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân thế giới, là cơ sở lí luận cho
sự hoạt động của đảng cộng sản trong quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân thế
giới, và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, trong triết học Mác - Lênin, thế giới quan và phương pháp luận thống nhất hữu cơ với
nhau, làm cho triết học Mác trở thành chủ nghĩa duy vật hoàn bị, một "công cụ nhận thức vĩ đại".
Triết học Mác ra đời đã làm thay đổi mối quan hệ giữa triết học và khoa học; sự phát triển của
khoa học tạo điều kiện cho sự phát triển của triết học. Ngược lại, triết học Mác - Lênin đem lại thế

giới quan và phương pháp luận đúng đắn cho sự phát triển khoa học.
Ngày nay, khi khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ thì sự gắn bó giữa triết học Mác -
Lênin và khoa học càng trở nên đặc biệt quan trọng. Lý luận triết học sẽ khô cứng và lạc hậu nếu
tách rời các tri thức khoa học chuyên ngành. Ngược lại, nếu không đứng vững trên lập trường duy
vật khoa học và thiếu tư duy biện chứng thì trước những phát hiện mới, người ta dễ mất phương h-
ướng và đi đến những kết luận sai lầm về mặt triết học.
Đời sống xã hội hiện đại đang có những biến đổi sâu sắc; việc nắm vững triết học Mác - Lênin
giúp chúng ta tự giác trong quá trình trao dồi phẩm chất chính trị, tinh thần và năng lực tư duy sáng
tạo của mình, tránh những sai lầm do chủ nghĩa chủ quan và phương pháp tư duy siêu hình gây ra.
Tuy nhiên, triết học Mác - Lênin không phải là đơn thuốc vạn năng có thể giải quyết mọi vấn đề
trong cuộc sống. Bởi vậy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần tránh cả hai khuynh hướng sai
lầm: hoặc xem thường triết học hoặc là tuyệt đối hóa vai trò của triết học. Nếu xem thường triết học
sẽ rơi vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể nhất thời, dễ mất phương h-
ướng, thiếu chủ động và sáng tạo.
16
Còn nếu tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng máy móc
những nguyên lý, quy luật chung mà không tính đến tình hình cụ thể trong những trường hợp riêng,
dẫn đến những vấp váp, dễ thất bại.

3. Kết Luận:
Chủ nghĩa duy vật trong lịch sử là những kho tàng quý giá để lại cho thế giới loài người mà sau
này Mác và Ăng ghen là những người kế tục hoàn hảo nhất. Đặc biệt là duy vật HyLạp cổ đại, duy
vật phoi ơ bắc và phép biện chứng của Hêghen. Hai ông nhiều lần nói rằng, trong sự phát triển của
mình, hai ông chịu ơn nhiều nhà triết học Đức và là học trò của triết học HyLạp cổ đại.
Tuy trong từng thời kỳ các tư tưởng duy vật còn có những hạn chế riêng song đã đóng góp tích
cực vào kho tàng nhận thức của nhân loại. Lịch sử tư tưởng và thực tiễn cho thấy chỉ khi nào đứng
trên quan điểm duy vật, chúng ta mới có thể nhận thức được các sự vật, một cách khoa học, bản chất
và giải quyết các mối quan hệ một cách đúng đắn, mới có thể cải tạo tự nhiên biến đổi xã hội theo
hướng phát triển. Ngược lại các quan điểm duy tâm duy ý chí siêu hình sẽ dẫn đến sai lầm, khuyết
điểm gây tổn thất cho quá trình phát triển của xã hội.

Vì vậy học tập nghiên cứu sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa duy vật là hết sức cần thiết.
Nó giúp ta nắm vững phép biện chứng duy vật, thấu suốt những phương pháp luận đồng thời nắm
được nguồn gốc ra đời, hình thành, phát triển qua quá trình đấu tranh gay gắt với chủ nghĩa duy tâm
và các quan điểm siêu hình để khẳng định được vị trí to lớn của nó trong nhận thức và cải tạo thế
giới.
Hiện nay đất nước ta đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc nghiên cứu lịch sử
chủ nghĩa duy vật là nhu cầu bức thiết để đổi mới tư duy. Nghiên cứu từ lịch sử của nó cũng là một
phương pháp biện chứng trong nghiên cứu triết học. Đảng ta khảng định nguyên tắc là phải trung
thành với Mác - Lênin, giữ đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, không che giấu sai lầm và phải vận
dụng sáng tạo phương pháp biện chứng Mác Xít để khắc phục những sai lầm xây dựng thành công
nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác về nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm
Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc xã hội và nguồn gốc nhận thức. Nguồn gốc xã hội của chủ
nghĩa duy tâm là mối liên hệ của nó với các lực lượng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ, nguồn gốc
nhận thức của nó là tuyệt đối hóa một mặt của các quá trình nhận thức (mặt hình thức), tách nhận
thức, ý thức khỏi vật chất
Câu 4. Phép biện chứng là gì? Khái quát các hình thức lịch sử phát triển của phép biện
chứng? Phép siêu hình là gì? Giá trị của phép siêu hình là ở chỗ nào?
Câu 5. Thực chất của triết học là gì? Hãy nêu các tính quy luật cơ bản của lịch sử triết học
Câu 6. Triết học Trung Hoa và triết học Ấn Độ có những đặc điểm nào? Giải thik tại sao lại
có những đặc điểm đó? Hãy so sánh những nét tương đồng và dị biệt của hai nền triết học này
Câu 7.Hãy diễn giải những nội dung của triết học Nho Giáo. So sánh sự khác nhau giữa
Nho giáo Cổ đại và Nho giáo thời phong kiến. Tại sao có sự khác nhau đó? Nho giáo có những
giá trị và hạn chế nào?
17
Câu 8.Hãy diến giải những nội dung chính của triết học Phật giáo? Nhận định các giá trị và
hạn chế của những tư tưởng triết học Phật Giáo
Câu 9.Nêu khái quát tư tưởng triết học của các trường phái - Đạo gia và Âm Dương- Ngũ
Hành gia.Nhận định các giá trị và hạn chế của những tư tưởng ấy
1. Sự ra đời và các đại diện tiêu biểu của Đạo gia

a) Nguồn gốc tư tưởng và sự ra đời:
Đạo gia là tên gọi với tư cách một trường phái triết học lớn, lấy tên của phạm trù “Đạo”, một
phạm trù trung tâm và nền tảng của nó. Nguồn gốc tư tưởng của Đạo gia xuất phát từ những quan
điểm về vũ trụ luận, thiên địa, ngũ hành, âm dương, Kinh Dịch…
Đạo gia ra đời và phát triển rực rỡ từ cuối thời Xuân Thu đến cuối thời Chiến Quốc và sau đó
có tác động ảnh hưởng to lớn đến nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, triết học, văn chương, nghệ
thuật, âm nhạc, y thuật, sinh học, hoá học, vũ thuật, địa lí… ở Trung Quốc và một số nước châu Á
khác.
b) Người sáng lập và các đại diện tiêu biểu:
Ngoài Lão Tử là người sáng lập, thì Đạo gia còn có hai yếu nhân khác được thừa nhận và tôn
vinh muôn đời, đó là Dương Chu và Trang Tử. Trong đó vị trí của Trang Tử được sánh ngang với
Lão Tử, nên còn gọi là Đạo Lão – Trang.
Lão Tử (khoảng 580 – 500 TCN), sinh ra ở huyện Khổ, nước Sở, nay là Lộc Ấp, tỉnh Hà Nam.
Tiểu sử của ông còn gây nhiều tranh luận trong giới học thuật. Tương truyền, trước khi Lão Tử cưỡi
trâu qua nước Tần và biến mất, ông đã nghe lời Doãn Hy (người gác cửa ải phía tây Hàm Cốc) viết
lại "Đạo Đức Kinh", gồm 81 chương. Phần thứ nhất nói về Đạo, phần hai nói về Đức. Các học giả
hiện đại đánh giá, đó là một tập hợp những ngạn ngữ huyền bí, tối nghĩa, dường như muốn người
đọc phải tự lí giải. Chính vì vậy, về sau có hàng trăm bản dịch nghĩa cho bộ sách này.
Dương Chu (khoảng 440 – 360 TCN) là một đạo sĩ ẩn danh và bí hiểm. Theo luận giải, ông phải
sinh trước Mạnh Tử (372 - 289 TCN) và sau Mặc Tử (478 - 392 TCN). Tư tưởng của ông được diễn
đạt lại thông qua các tác phẩm của cả những người ủng hộ lẫn những người chống đối ông. Chủ
thuyết của ông là quý sự sống, trọng bản thân. Ông thường mượn chuyện Bá Thành Tử Cao không
chịu mất một sợi lông để làm lợi cho thiên hạ, nhằm trình bày tư tưởng của mình.
Trang Tử (365 – 290 TCN), tên thật là Trang Chu, tác giả bộ Nam Hoa kinh, là một trong hai
bộ kinh điển của Đạo gia. Bộ sách gồm ba phần, chứa 33 thiên. Trong đó, có nhiều điểm lấy từ Đạo
Đức kinh làm chủ đề, nhưng không phải bao giờ cũng đồng thuận. Một số nhà nghiên cứu sau này
cho rằng phần lớn nội dung tác phẩm Nam Hoa kinh là do các đệ tử của ông biên tập.
2. NHỮNG QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA ĐẠO GIA
Quan điểm triết học của Đạo gia tuy hết sức phong phú, đa dạng, song tựu trung lại không đi
sâu vào giải quyết vấn đề cơ bản của triết học theo cách lý giải của truyền thống triết học phương

Tây, mà tập trung vào vấn đề con người trong mối tương quan và thống nhất với tự nhiên, trực giác
tâm linh và phi lý tính. Nó được thể hiện qua các tác phẩm “Đạo Đức kinh” của Lão Tử, “Nam Hoa
kinh” của Trang Tử và một số tư tưởng của Dương Du được ghi chép tản mạn trong các sách “Mạnh
Tử”, “Nam Hoa kinh”, “Hàn Phi Tử”, “Lã Thị Xuân Thu”, “Liệt tử”…
Mặc dù cả Lão Tử, Dương Chu và Trang Tử đều có những luận điểm khác nhau, đặc biệt là
giữa Dương Chu và Trang Tử, song về cơ bản, những tư tưởng triết học chính yếu của phái Đạo gia
đều thống nhất trên nên tảng các quan điểm về Đạo, tư tưởng biện chứng và quan điểm “vô vi”.
Dưới đây xin trình bày khái quát về ba quan điểm triết học cơ bản đó.
2.1. Quan điểm về “ĐẠO” hay vấn đề bản thể luận:
18
“Đạo” là một danh từ triết học đã được người Trung Hoa dùng từ thời thượng cổ, nhưng chỉ đạt
được tầm quan trọng đặc biệt và trở nên phổ biến nhờ bộ Đạo Đức kinh của Lão Tử. Theo tiếng Hán
cổ, Đạo có nghĩa là "con đường", "phương tiện", "nguyên lý"…
Còn “Đạo mà ta có thể nói đến được, không phải là Đạo thường còn. Danh mà ta có thể gọi
được, không phải là Danh thật sự. Vô danh là gốc của thiên địa, hữu danh là mẹ của vạn vật” (Đạo
khả đạo, phi thường Đạo. Danh khả danh, phi thường Danh. Vô danh thiên địa chi thuỷ, hữu danh
vạn vật chi mẫu – Đạo Đức kinh)”. Bởi vì: “Đạo chẳng có thể nghe được, nghe được không còn phải
là nó. Đạo cũng chẳng có thể thấy được, thấy được không còn phải là nó nữa.Có thể nào lấy trí mà
hiểu được cái hình dung của cái không hình dung được chăng? Vậy thì không nên đặt tên cho đạo”
(Nam Hoa kinh).
Khái niệm Đạo được xem là siêu việt, vượt lên trên mọi khái niệm, vì nó là cơ sở của tồn tại và
phi tồn tại, ta không thể luận đàm, định nghĩa được. Đạo sinh ra âm dương và nhờ sự chuyển động
của âm dương mà phát sinh thế giới thiên hình vạn trạng. “Vạn vật trong trời đất sanh từ hữu, hữu
sanh từ vô. Hữu vô đều từ thiên đạo” (Đạo Đức kinh).
Xét về mặt bản thể luận, “đạo” được trình bày dưới ba dạng thức: Thể, Tướng, Dụng. Nhưng nó
không đồng nhất với phạm trù “bản thể” của triết học phương Tây.
2.1.1. Thể của Đạo:
Chỉ nguồn gốc, nguyên lý tối sơ, tối hậu, cái tuyệt đối của vũ trụ vạn vật, cả tồn tại lẫn không
tồn tại, cả hữu hình lẫn vô hình, cả cái tĩnh lặng và cái biến đổi, cả cái đậm đặc và cái trống rỗng. Nó
là “đạo huyền”, “đại đạo”, “đạo thường”, “một”, “cốc thần”, “thái cực” và đồng nhất với “đạo” nói

chung, có sức sáng tạo vô lượng vô biên: “Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn
vật”…
Thể của Đạo là vô thủy vô chung: “Ta không biết Đạo con ai mà hình hiện ra ngoài trước cả
tiên đế” (Lão Tử, Đạo Đức kinh). “Đạo tự bản tự căn, vốn tồn tại như xưa, khi chưa có trời đất, làm
thiêng liêng quỷ thần, Thượng đế, sinh ra trời đất, ở trước thái cực mà chẳng là cao, ở dưới lục cực
mà chẳng là sâu. Sinh trước trời đất mà chẳng là lâu, dài hơn thượng cổ mà chẳng là già” (Nam Hoa
kinh, Đại tông sư). Đạo sinh ra vạn vật, là “mẹ” của muôn loài, làm chủ trời đất một cách tự nhiên,
không ý chí, không mục đích, nên cũng không tự cho vạn vật là của mình. Nhờ đó mà trời đất vạn
vật phó mặc tự nhiên, cứ sinh sinh hóa hóa không ngừng…
2.1.2. Tướng của Đạo:
Nhằm ngụ ý đến hình dáng, trạng thái của Đạo. Nó không có một thuộc tính quy định nào ngoài
vẻ tự nhiên chất phác, sâu thẳm, mập mờ, thấp thoáng, trống rỗng, huyền diệu, nhìn không thấy,
nghe không được, không nắm được, không nếm được, không ngửi được, không sáng, không tối…
“Thoắt lặng không hình, biến hóa không thường ” (Trang Tử, Nam Hoa kinh, Thiên hạ). Nói
chung, Đạo không thể cảm giác, không thể diễn tả dưới bất cứ hình thức nào.
2.1.3. Dụng của Đạo:
Nhằm nói đến công dụng và năng lực của Đạo. Đó là trạng thái vận động, biến đổi, sản sinh,
nuôi dưỡng và “huyền đồng”, làm cho vạn vật hiện ra muôn hình vạn trạn, vô cùng, vô tận… theo
trật tự của Đạo. Đạo làm cái không làm, săn sóc cái không việc, không làm mà như đã làm, đã làm
mà như không làm…
2.2. Quan điểm vô vi về chính trị xã hội
“Vô vi”, theo Đạo gia, không có nghĩa là không làm gì, không có hoạt động gì, mà là phải tiến
hành các hoạt động một cách tự nhiên, thuần phác; không làm trái với Đạo, không cố gắng hoạt
động mang tính giả tạo, gượng ép, thái quá, bất cập… Bởi vì “Đạo đức là cái luật tự nhiên, không
cần tranh mà thắng, không cần nói mà ứng nghiệm, không cần mời mà các vật vẫn theo về, lờ mờ
mà hay mưu tính”
19
Như vậy, “vô vi” nghĩa là không làm mất cái đức tự nhiên, thuần phác vốn có của sự vật. Nếu
để mất nó, tức là ham muốn, dục vọng… thì sẽ chuốc lấy tai họa. Về mặt chính trị - xã hội, Đạo gia
chủ trương đường lối trị quốc theo đạo “vô vi”, chống lại chủ trương “hữu vi” cùng mọi chuẩn mực

đạo đức và thể chế pháp luật, vì coi đó là sự áp đặt, cưỡng chế, can thiệp vào bản tính tự nhiên của
con người. Nó là nguyên nhân gây ra điều ác và bất ổn: “Nước nào chính sự lờ mờ thì dân thuần
thục, nước nào chính sự rành rọt thì dân lao đao”; “Thiên hạ nhiều kỵ húy thì dân càng nghèo, dân
nhiều khí giới nhà nước càng loạn, người nhiều tài khéo vật xảo càng thêm, pháp luật càng tăng
trộm cướp càng nhiều” (Đạo đức kinh, chương 57).
Lão Tử lên án mạnh mẽ giai cấp thống trị đương thời và ông gọi giới quý tộc thống trị là bọn ăn
bám và đàn áp, gây ra mọi ham muốn và dục vọng nơi dân chúng. Bọn họ chẳng “vô vi”.
Ngược lại: “Ta vô vi mà dân tự hóa. Ta vô tình mà dân tự chính. Ta vô dự mà dân tự giàu. Ta
vô dục mà dân chất phác” (sđd, chương 57). Do đó, cần phải xóa bỏ mọi lễ giáo, pháp luật, văn hóa,
kỹ thuật, nghệ thuật… Nói chung, bỏ tất cả những gì do con người sáng tạo ra trái với bản tính tự
nhiên thuần phác.
Tư tưởng “vô vi” chủ trương thực hiện triệt để chính sách ngu dân, “không làm cho dân sáng
mà làm cho dân ngu” (sđd, chương 65); “Trí tuệ sinh thì có đại ngụy” (sđd, chương 18). Bởi hiểu
biết càng nhiều thì trí xảo càng nhiều, trí xảo càng nhiều thì ham muốn càng nhiều, càng muốn tranh
đoạt và xâm phạm lẫn nhau, làm trái với đạo tự nhiên. Con người càng “theo học thì càng phiền
phức, mà theo đạo thì ngày càng bớt, bớt rồi thì lại bớt, bớt đến mức vô vi” (sđd, chương 48). Cũng
như: “Không chuộng hiền khiến dân không tranh, không trọng vật nên dân không trộm cướp, không
thấy vật đáng ham khiến lòng dân khỏi loạn. Cho nên lối trị dân của bậc thánh nhân là làm cho dân
lòng trống, bụng no, ý chí yếu, xương cốt mạnh, thường khiến dân không biết, không muốn” (sđd,
chương 3).
2.3. Một số tư tưởng biện chứng:
Quan điểm biện chứng của Đạo gia được thể hiện ngay trong tư tưởng về Đạo, nơi cội nguồn
của mối liên hệ phổ biến và sự vận động biến đổi của vũ trụ vạn vật, mà nguồn gốc là do các mối
liên hệ, tác động, chuyển hóa giữa các mặt đối lập; cách thức là khi phát triển đến tột đỉnh rồi sẽ trở
thành cái đối lập, tương phản với chính nó; khuynh hướng của sự vận động biến đổi là sự trở về với
Đạo.
Đặc biệt, thông qua tư tưởng biện chứng đó, Đạo gia đã khái quát thành hai quy luật căn bản chi
phối toàn bộ vũ trụ vạn vật, đó là luật quân bình và luật phản phục.
2.3.1. Luật quân bình (luật bù trừ):
Bắt nguồn từ tư tưởng Dịch học (quẻ Thái), nói về thế cân bằng, trung dung trong trời đất; là

trạng thái trời đất giao hòa, muôn vật hanh thông, vũ trụ vạn vật vận động biến đổi theo một trật tự
điều hòa, tự nhiên, không có gì thái quá hay bất cập, “gãy thì liền, cong thì thẳng, trống thì đầy, cũ
thì mới, ít thì được, nhiều thì mất” (Lão Tử, Đạo đức kinh, chương 22); “Đạo của trời bớt chỗ dư bù
chỗ thiếu” (sđd, chương 42); “Một âm một dương”; “rắn thì nát, nhọn thì nhụt” (Trang Tử, Nam
Hoa kinh).
Thế quân bình của Đạo được ví như nước, mềm mại và linh hoạt, làm bằng phẳng tất cả. Nước
ở chỗ thấp, là nơi chỗ cao đổ về, là “nơi thiên hạ họp về”, như biển mênh mông rộng lớn, không gì
không thể chứa đựng. “Trong thiên hạ không có gì mềm yếu hơn nước, mà công phá vật rắn mạnh
thì không gì hơn được nó, không lấy gì thay thế được nó” (Lão Tử, Đạo đức kinh, chương 78).
Nếu vi phạm luật quân bình, phá vỡ trạng thái vận động cân bằng của vũ trụ, thì vạn vật sẽ rối
loạn, trì trệ và có nguy cơ bị phá hoại, chẳng khác nào “nhón gót lên thì không đứng vững, xoạc
chân ra thì không bước được…”.
2.3.2. Luật phản phục:
20
Quan niệm cái gì phát triển đến tột đỉnh thì tất sẽ trở thành cái đối lập với chính nó; sự vật khi
phát triển đến cực điểm các tính chất của nó thì những tính chất ấy sẽ đi ngược lại để trở thành tính
chất tương phản. Điều đó cần phải hiểu theo hai nghĩa.
Nghĩa thứ nhất, phản phục là sự vận động, biến hóa có tính chất tuần hoàn, đều đặn, nhịp nhàng
và tự nhiên của vạn vật, như hết ngày đến đêm, hết đêm sang ngày, trăng tròn lại khuyết, trăng
khuyết lại tròn… Vạn vật cứ mập mờ, thấp thoáng, khi đầy khi vơi, lúc sinh lúc tử… Đó là vòng
biến đổi tuần hoàn bất tận.
Nghĩa thứ hai, phản phục là sự vận động trở về với Đạo (“phản giả đạo chi động”), “đến chỗ
cùng cực hư không là giữ vững được trong cái tĩnh. Vạn vật cùng đều sinh ra, ta lại thấy nó trở về
với gốc. Ôi! Mọi vật đều trùng trùng trở về với cội rễ của nó. Trở về với cội rễ gọi là tĩnh, thế gọi là
quay về với mạng” (Đạo đức kinh, chương 16). Sự trở về với Đạo của vạn vật chính là sự trở về với
trạng thái tự nhiên, nguyên sơ, tĩnh lặng, trống rỗng… Đó là tất yếu và không thể cưỡng lại. “Đạo
pháp tự nhiên” là vậy. Mọi sự can thiệp vào Đạo – luật tự nhiên – nhất định sẽ thất bại.
3. GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ
Những tư tưởng triết học cơ bản của Đạo gia tuy đã được xây dựng cách đây hơn hai ngàn năm,
và tất nhiên có không ít hạn chế, nhưng đến nay vẫn còn ý nghĩa thiết thực về mặt phương pháp

luận, gợi mở cho chúng ta nhiều điều cả trong hoạt động nhận thức lẫn trong hoạt động thực tiễn.
3.1. Trong hoạt động nhận thức:
Những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia nêu trên đã cung cấp cho chúng ta một số hạt
nhân hợp lý về sự tồn tại, vận động và biến đổi không ngừng của thế giới khách quan, độc lập với ý
thức con người. Thế giới ấy thống nhất trong đa dạng và phong phú, thể hiện ra muôn hình vạn
trạng, với các mặt đối lập và vô vàn các mối liên hệ. Thế giới ấy không do ai sáng tạo ra hoặc chi
phối nó dưới bất kỳ hình thức nào, mà tự sinh thành và hoạt động theo những quy luật tự nhiên vốn
có.
Do đó, trong hoạt động nhận thức, con người cần tránh lối tư duy gán ghép, máy móc, siêu
hình, áp đặt chủ quan đối với mọi sự vật hiện tượng tự nhiên… Mà phải nhận thức cái khách quan,
cái bản tính tự
nhiên thuân phác, vốn có của nó.
Đồng thời, thông qua luật quân bình (bù trừ) và luật phản phục, Đạo gia đã cung cấp nhân sinh
quan và nghệ thuật sống mang tính nhân văn sâu sắc, có tác dụng an ủi con người hài lòng và hạnh
phúc với những gì mình có trong cuộc sống, không nên ham muốn, mơ tưởng hão huyền.
Mặc dù quan điểm “vô vi” về chính trị - xã hội của Đạo gia mong muốn quay ngược bánh xe
lịch sử trở về chế độ công xã nguyên thủy ở giai đoạn cuối, nhưng đã hé lộ cho chúng ta những khát
vọng chân chính về một xã hội công bằng, bình đẳng, xóa bỏ mọi bất công, áp bức, bóc lột, không
còn chế độ tư hữu và nhà nước, con người được sống tự do… Nó khiến chúng ta liên tưởng tới và
rất có thể là nguồn gốc lịch sử gián tiếp cho những tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng ở Tây Âu
sau này.
Với ý nghĩa đó, nếu chúng ta biết rút ra bài học từ những hạt nhân tư tưởng tích cực và tiến bộ,
thì nó sẽ cung cấp cho chúng ta những cơ sở quan trọng để xây dựng và phát triển quan điểm duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử; chống lại chủ nghĩa duy tâm, quan điểm siêu hình… Ngược lại,
nếu nhìn về những mặt hạn chế, nó sẽ dẫn chúng ta đến với chủ nghĩa duy tâm thần bí về “đạo”, tư
tưởng biện chứng tuần hoàn thô thiển, chủ nghĩa khách quan tuyệt đối, thuyết bất khả tri…
3.2. Trong hoạt động thực tiễn:
Những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia đã góp phần chỉ ra cho chúng ta, trong hoạt động
thực tiễn, con người cần phải tôn trọng quy luật khách quan, nắm vững và vận dụng phù hợp các
quy luật tự nhiên vào cuộc sống, nếu không sẽ phải trả giá và chuốc lấy hậu quả khôn lường, như

Lão Tử cảnh báo: “Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt” (Đạo đức kinh, chương 73).
21
Đặc biệt, Đạo gia yêu cầu trong hoạt động thực tiễn, con người cần phải “thuận theo tự nhiên”,
không được làm trái quy luật tự nhiên, không được cải tạo tự nhiên theo những toan tính lợi ích tầm
thường của mình. Điều này có tính thời sự đặc biệt và sâu sắc trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn
cầu hiện nay, với thiên tai và dịch bệnh luôn đe dọa nghiêm trọng, cộng thêm những bất ổn về chính
trị - xã hội, một hệ lụy trực tiếp từ quá trình con người “nhân tạo hóa thiên nhiên”, tạo dựng một nền
“văn minh” không tương thích với bản tính tự nhiên của vũ trụ vạn vật.
Đồng thời, trong hoạt động thực tiễn, con người cần phải biết quý trọng mọi sự sống nói chung,
gắn với quý trọng môi trường tự nhiên, không được tàn sát sinh vật và hủy hoại môi trường một
cách tùy tiện.
Bên cạnh đó, với việc chỉ ra luật quân bình (bù trừ) và luật phản phục, Đạo gia đòi hỏi con
người cần tránh mọi cực đoan, thái quá, nóng vội, chủ quan duy ý chí… Mà phải luôn luôn tạo dựng
sự cân bằng, hợp lý, tự nhiên; khách quan nhưng không ỷ lại, thụ động trước các điều kiện khách
quan, không nên “cầm đèn chạy trước ô tô”…
Đạo gia còn dạy con người phải biết sống khiêm tốn, giản dị, mà vẫn ung dung, tự tại, không lo
sợ, không đau buồn… trước mọi biến động xảy ra trong đời; không tham lam, vụ lợi, giả dối; không
đấu tranh, giành giật; không đua đòi, bon chen, đố kỵ… Mà cần phải sống hòa nhã, trung dung,
ngay thẳng, tự nhiên thuần phác, “thản nhiên mà đến, thản nhiên mà đi”…
Tuy nhiên, nếu xét ngược lại, với những mặt tiêu cực và hạn chế, thì Đạo gia chủ trương con
người không nên tăng cường các hoạt động sáng tạo, không cần mở mang trí tuệ, chấm dứt cải tạo tự
nhiên và cải tạo xã hội, mà quay về sống như thời nguyên thủy, đúng với bản tính tự nhiên thuần
phác của một loài động vật bậc cao được sinh ra từ “đạo”… phủ nhận mọi hoạt động thực tiễn của
con người.
Ngày nay, mặc dù tồn tại xã hội và ý thức xã hội đã thay đổi vượt bậc, song những tư tưởng
triết học của Đạo gia vẫn có sức sống và tác động đáng kể đối với đời sống con người, đặc biệt ở
những nước vốn chịu sự ảnh hưởng truyền thống của nó
ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH GIA
Âm Dương và Ngũ hành là hai phạm trù quan trọng trong tư tưởng triết học Trung Hoa, là
những khái niệm trừu tượng đầu tiên của người xưa đối với sự sản sinh biến hóa của vũ trụ. Việc sử

dụng hai phạm trù Âm - Dương và Ngũ hành đánh dấu bước tiến bộ tư duy khoa học đầu tiên nhằm
thoát khỏi sự khống chế về tư tưởng do các khái niệm Thượng đế, Quỷ thần truyền thống đem lại.
Đó là cội nguồn của quan điểm duy vật và biện chứng trong tư tưởng triết học của người Trung Hoa.
- Tư tưởng triết học về Âm - Dương
"Dương" nguyên nghĩa là ánh sáng mặt trời hay những gì thuộc về ánh sáng mặt trời và ánh
sáng; "Âm" có nghĩa là thiếu ánh sáng mặt trời, tức là bóng râm hay bóng tối. Về sau, Âm - Dương
được coi như hai khí; hai nguyên lý hay hai thế lực vũ trụ: biểu thị cho giống đực, hoạt động, hơi
nóng, ánh sáng, khôn ngoan, rắn rỏi, v.v. tức là Dương; giống cái, thụ động, khí lạnh, bóng tối, ẩm
ướt, mềm mỏng, v.v. tức là Âm. Chính do sự tác động qua lại giữa chúng mà sinh ra mọi sự vật,
hiện tượng trong trời đất. Trong Kinh Dịch sau này có bổ sung thêm lịch trình biến hóa của vũ trụ có
khởi điểm là Thái cực. Từ Thái cực mà sinh ra Lưỡng nghi (âm dương), rồi Tứ tượng, rồi Bát quái.
Vậy, nguồn gốc vũ trụ là Thái cực, chứ không phải Âm Dương. Đa số học giả đời sau cho Thái cực
là thứ khí "Tiên Thiên", trong đó tiềm phục hai nguyên tố ngược nhau về tính chất là Âm - Dương.
Đây là một quan niệm tiến bộ so với quan niệm Thượng đế làm chủ vũ trụ của các đời trước.
Hai thế lực Âm - Dương không tồn tại biệt lập mà thống nhất, chế ước lẫn nhau theo các
nguyên lý sau:
- Âm - Dương thống nhất thành thái cực. Nguyên lý này nói lên tính toàn vẹn, tính chỉnh thể,
cân bằng của cái đa và cái duy nhất. Chính nó bao hàm tư tưởng về sự thống nhất giữa cái bất biến
và biến đổi.
22
- Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên khả năng biến đổi Âm -
Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực.
Các nguyên lý trên được khái quát bằng vòng tròn khép kín, có hai hình đen trắng tượng trưng
cho Âm Dương, hai hình này tuy cách biệt hẳn nhau, đối lập nhau nhưng ôm lấy nhau, xoắn lấy
nhau.
- Tư tưởng triết học về Ngũ hành
Từ "Ngũ hành" được dịch là năm yếu tố. Nhưng ta không nên coi chúng là những yếu tố tĩnh
mà nên coi là năm thế lực động có ảnh hưởng đến nhau. Từ "Hành" có nghĩa là "làm", "hoạt động",
cho nên từ "Ngũ hành" theo nghĩa đen là năm hoạt động, hay năm tác nhân. Người ta cũng gọi là
"ngũ đức" có nghĩa là năm thế lực. "Thứ nhất là Thủy, hai là Hỏa, ba là Mộc, bốn là Kim, năm là

Thổ.
Cuối Tây Chu, xuất hiện thuyết Ngũ hành đan xen. Ngũ hành được dùng để giải thích sự sinh
trưởng của vạn vật trong vũ trụ. "Thổ mộc hỏa đan xen thành ra trăm vật", "hoà hợp thì sinh ra vật,
đồng nhất thì không tiếp nối" (Quốc ngữ - trịnh ngữ). Tức là nói những vật giống nhau thì không thể
kết hợp thành vật mới, chỉ có những vật có tính chất khác nhau mới có thể hóa sinh thành vật mới.
Tiếp theo là thuyết Ngũ hành tương thắng, rồi xuất hiện thuyết Ngũ hành tương sinh đã bổ khuyết
chỗ chưa đầy đủ của thuyết Ngũ hành đan xen.
Tư tưởng Ngũ hành đến thời Chiến Quốc đã phát triển thành một thuyết tương đối hoàn chỉnh là
"Ngũ hành sinh thắng". "Sinh" có nghĩa là dựa vào nhau mà tồn tại, thắng có nghĩa là đối lập lẫn
nhau.
Như vậy, tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng phân tích cấu trúc của vạn vật và quy nó
về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau, nhưng tương tác với nhau.
Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ thống ảnh hưởng sinh - khắc
với nhau theo hai nguyên tắc sau:
+ Tương sinh (sinh hóa cho nhau): Thổ sinh Kim; Kim sinh Thủy; Thủy sinh Mộc; Mộc sinh
Hỏa; Hoả sinh Thổ, v.v
+ Tương khắc (chế ước lẫn nhau): Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa; Hỏa khắc Kim; Kim khắc
Mộc; và Mộc khắc Thổ, v.v
Thuyết Âm Dương và Ngũ hành được kết hợp làm một vào thời Chiến Quốc đại biểu lớn nhất
là Trâu Diễn. Ông đã dùng hệ thống lý luận Âm Dương Ngũ hành "tương sinh tương khắc" để giải
thích mọi vật trong trời đất và giữa nhân gian. Từ đó phát sinh ra quan điểm duy tâm Ngũ đức có
trước có sau. Từ thời Tần Hán về sau, các nhà thống trị có ý thức phát triển thuyết Âm Dương Ngũ
hành, biến thành một thứ thần học, chẳng hạn thuyết "thiên nhân cảm ứng" của Đổng Trọng Thư,
hoặc "Phụng mệnh trời" của các triều đại sau đời Hán.
2. Giá trị và hạn chế
Thuyết Âm dương ngũ hành đã đươc Đổng Trọng Thư kết hợp để giải thích các hiện tượng tự
nhiên, xã hội, con người. Theo ông, giữa con người và tự nhiên có một mối quan hệ thần bí. Khi giải
đáp về khởi nguồn, kết cấu của vũ trụ, ông đã sáng tạo ra một vị thần có nhân cách đứng trên cả vũ
trụ, có ý thức và đạo đức đó là trời. Theo ông, trong vũ trụ con người là sự sáng tạo đặc biệt của trò
vượt lên vạn vật, tương hợp với trời, trời có bốn mùa, con người có tứ chi. Từ thuyết "thiên nhân

hợp nhất", ông đã dẫn dắt ra mệnh đề "thiên nhân cảm ứng", cho rằng thiên tai là do trời cảnh cáo
loài người. Ông còn lợi dụng quan điểm định mệnh trong học thuyết âm dương ngũ hành để nói rằng
"dương thiên, âm ác". Tuy Đổng Trọng Thư đưa ra phạm trù "khí", "âm dương", "ngũ hành" để giải
thích quy luật biến hóa của thế giới, song ông lại cho rằng những thử khí ấy bi ý chí của thượng đế
chi phối. Triết học của ông có màu sắc mục đích luận rõ nét. Bên cạnh đó ông còn nói trời không
đổi, đạo cũng không đổi để phủ nhận sự phát triển và biến hóa của thế giới khách quan.
23
Tác phẩm "Hoàng Đế Nội kinh" đã sử dụng triết học âm dương ngũ hành làm hệ thống lý luận
của y học. Tác phẩm này đã dùng học thuyết trên để giải thích mối quan hệ giữa con người với trời
đất: coi con người và hoàn cảnh là một khối thống nhất, con người chẳng qua là cơ năng của trời và
đất thu nhỏ lại, con người không thể tách rời giới tụ nhiên mà sinh sống được, con người với giới tự
nhiên là tương ứng. Tự nhiên có âm dương ngũ hành thì con người có "thủy hỏa" ngũ tạng. Nội kinh
viết: "âm dương là quy luật của trời đất tuy không thấy được nhưng chúng ta có thể hiểu được nó
thông qua sự biểu hiện của thủy hỏa khí huyết, trong đó hỏa khí thuộc dương, thủy huyết thuộc âm".
Tác phẩm này còn dùng các quy luật âm dương ngũ hành để giải thích mối quan hệ giữa các phú
tạng trong cơ thể. Tác phẩm đã vãn dụng sự kết hợp giữa học thuyết âm dương với học thuyết ngũ
hãnh để giải thích các hiện tượng tự nhiên cũng như các biểu hiện trong cơ thể con người và mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên. Đây là một quan điểm hoàn chỉnh và là một điển hình của
phép biện chứng thô sơ.
Học thuyết âm dương đã nói rõ sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan với hai mặt
đối lập thống nhất đó là âm dương. Âm dương là quy luật chung của vũ trụ, là kỉ cương của vạn vật,
là khởi đầu của sự sinh trưởng, biến hóa. Nhưng nó sẽ gặp khó khăn khi lý giải sự biến hóa, phức
tạp của vật chất. Khi đó nó phải dùng thuyết ngũ hành để giải thích. Vì vậy có kết hợp học thuyết
âm dương với học thuyết ngũ hành mới có thể giải thích mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội một cách
hợp lý.
Hai học thuyết này luôn luôn phối hợp với nhau, hỗ trợ cho nhau, không thể tách rời. Muốn
nhìn nhận con người một cách chỉnh thể, đòi hỏi phải vận dụng kết hợp cả hai học thuyết âm dương
và ngũ hành. Vì học thuyết âm dương mang tính tổng hợp có thể nói lên được tính đối lập thống
nhất, tính thiên lệch và cân bằng của các bộ phận trong cơ thể con người, còn học thuyết ngũ hành
nói lên mối quan hệ phức tạp, nhiều vẻ giữa các yếu tố, các bộ phận của cơ thể con người và giữa

con người với tự nhiên. Có thể khẳng định, trên cơ bản, âm dương ngũ hành là một khâu hoàn chỉnh,
giữa âm dương và ngũ hành có mối quan hệ không thể tách rời.
Âm dương ngũ hành là những phạm trù cơ bản trong tư tưởng của người Trung Quốc cổ đại. Đó
cũng là những khái niệm trừu tượng đầu tiên của người xưa để giải thích sụ sinh thành, biến hóa của
vũ trụ. Đến thời Chiến quốc, học thuyết âm dương ngũ hành đã phát triển đến một trình độ khá cao
và trở thành phổ biến trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên. Song học thuyết âm dương ngũ hành
cũng như các học thuyết triết học Trung Quốc cổ đại là thế giới quan của người Trung Hoa ở vào
một thời kỳ lịch sử đã lùi vào dĩ vãng, lúc đó lực lượng sản xuất và khoa học còn ở trình độ thấp,
cho nên không khỏi có những hạn chế do những điều kiện lịch sử đương thời quy định Đặc biệt, sự
phát triển của nó chưa gắn với những thành tựu của khoa học tự nhiên cận hiện đại, nó còn mang
dấu ấn của tính trực giác và tính kinh nghiệm. Song học thuyết đó đã trang bị cho con người tư
tưởng duy vật khá sâu sắc và độc đáo nên đã trở thành lý luận cho một số ngành khoa học cụ thể.
24
Câu 10. Nêu khái quát tư tưởng triết học của các trường phái Samkhuya, Mimansa, Lokayta
và nhận định các giá trị,hạn chế của các trường phái đó
1.Đặt vấn đề
Trong thời kì cổ đại, CNDV đã thu được nhiều thành tựu giúp xác lập chỗ đứng và tạo nên
nền tảng vững chắc là cơ sở cho sự phát triển của CNDV những giai đoạn sau. Xuất phát từ sự
quan sát thực tế, CNDV thời kì cổ đại đã đưa ra nhiều quan điểm đúng đắn nhưng mang tính ngây
thơ, chất phác. Trong thời kì cổ đại ở phương Đông nổi lên có triết học Ấn Độ và Trung Quốc.
2.Nội dung
Ở Ấn Độ những yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị và khoa học…là những cơ sở cho sự phát
sinh và phát triển của những tư tưởng triết học. Mặc dù xuất hiện từ rất sớm nhưng triết học Ấn
Độ chỉ thực sự xuất hiện vào cuối giai đoạn Vesda với những thành tựu nổi bật là sự ra đời của 9
trường phái triết học
Triết học có 9 phái: 6 phái chính thống & 3 tà giáo.
+ 6 phái chính thống
Samkhya, Vaisesika, Nyaya,
Yoga, Mymansa, Vedanta.
+ 3 phái tà giáo

Lokayata, Buddhism, Jaina.
A. Trường phái Samkhya (Số luận)
Trường phái Samkhya bắt nguồn từ tư tưởng triết học ở nhiều tác phẩm rất cổ xưa. Lý luận về bản
nguyên vũ trụ là tư tưởng triết học trung tâm của trường phái này.
Ưu điểm: Những nhà tư tưởng của phái Samkhya sơ kỳ đã bộc lộ những tư tưởng có tính duy
vật và ít nhiều biện chứng về bản nguyên hiện hữu. Họ đưa ra học thuyết về sự tồn tại của kết quả
trong nguyên nhân trước khi nó xuất hiện và học thuyết về sự chuyển hóa thực tế của nguyên nhân
trong kết quả. Họ cho rằng loại nào có nguyên nhân của loại ấy với luận điểm nổi tiếng " Trồng
Sali được Sali, trồng Vrihi được Vrihi". Từ đó, trong quan niệm về sự hình thành sự vật, họ cho
rằng nếu vạn vật của thế giới này là vật chất thì yếu tố tạo nên vạn vật với tính cách là nguyên
nhân cũng phải là vật chất; đó là "vật chất đầu tiên"(Prakriti) - một dạng vật chất không thể dùng
cảm giác mà có thể biết được. Thế giới vật chất là thể thống nhất của ba yếu tố: Sattva (nhẹ, sáng,
vui tươi); Rajas (kích thích, động); Tamas (nặng, ỳ). Khi ba yếu tố trên ở trạng thái cân bằng thì
Prakriti ở trạng thái chưa biểu hiện - tức là trạng thái không thể trực quan được. Nhưng khi sự cân
bằng bị phá vỡ thì đó là điểm khởi đầu của sự sinh thành vạn vật của vũ trụ.
Trái lại, các nhà tư tưởng của phái Samkhya hậu kỳ lại có khuynh hướng nhị nguyên luận khi
thừa nhận sự tồn tại song song của hai yếu tố đầu tiên là vật chất (Prakriti) và tinh thần (Purusa).
Yếu tố tinh thần (Purusa) mang tính phổ quát vĩnh hằng và bất biến, nó truyền sinh khí, năng
lượng và biến hóa vào yếu tố vật chất. ở con người, khi tinh thần chiếu rọi vào Sattva thì sinh ra trí
tuệ; khi tinh thần chiếu rọi vào Rajas thì sinh ra vận động; khi tinh thần chiếu rọi vào Tamas thì
sinh ra hình thể.
Hạn chế: Về bản chất con người, phái Samkhya cho rằng con người có sự ý thức về mình.
Chính vì vậy mà họ nảy sinh ra những lo lắng, ham muốn và hành động để đạt đến cái "tôi". Do
đó tinh thần con người không thoát ra được, luôn bị chìm đắm trong vòng luân hồi, khổ não.
25
Muốn giải thoát, con người phải dùng phương pháp Yoga.
B. Trường phái Mimansa
Kinh điển của triết học Mimansa là "Mimansa - Sutra". Một đại biểu lớn của trường phái này
là Sabara, người viết chú giải cho "Mimansa - Sutra".
Các nhà triết học Mimansa dựa vào tư tưởng triết học - tôn giáo của Véđa, nhưng coi Véđa

như các tập công thức hay thần chú về nghi lễ. Mimansa sơ kỳ không thừa nhận sự tồn tại của
thần. Theo Sabara thì chúng ta thiếu chứng cứ về sự tồn tại của thần và cảm giác không nhận thức
được thần. Nhưng cảm giác lại được coi là nguồn gốc của mọi tri thức khác. Phái Mimansa không
phản đối việc coi thần linh như cái tên hay âm thanh cần thiết cho các câu thần chú của nghi lễ.
Nghi lễ không phải là hành động khẩn cầu, sùng bái thần linh, mà nghi lễ tự nó có sức mạnh, có
thể đưa lại hiệu quả. Họ hiểu nghi lễ như một hành động ma thuật. Tuy nhiên, tinh thần duy vật và
vô thần của phái Mimansa không được tiếp tục phát triển. Những nhà triết học Mimansa hậu kỳ đã
thừa nhận sự tồn tại của thần.
Về nguồn gốc thế giới, phái Mimansa có quan điểm duy vật cho rằng thế giới được sinh ra từ
các nguyên tử (Anu)
Ưu điểm: Phái Mimansa coi đời người là khổ và vấn đề đặt ra là phải thoát khỏi nỗi khổ ấy.
Họ chủ trương thoát khổ bằng cách duy trì các nghi lễ, đặc biệt là lễ "Hiến sinh". Họ cho rằng cần
phải biết kết hợp lòng tin và kiến thức để đạt đến giải thoát. Có hai con đường để tạo kiến thức là
bằng giác quan và bằng suy luận.
Hạn chế: Khi giải quyết mối quan hệ giữa tinh thần với thể xác, họ lại đứng trên lập trường
duy tâm coi tinh thần tồn tại mãi mãi, còn thể xác thì mất đi.
C. Trường phái triết học Lokayata và phong trào tư do tư tưởng ở Đông Ấn
Đông ấn là vùng đồng bằng sông Hằng với điều kiện tự nhiên, khí hậu điều hòa, đất đai phì nhiêu,
màu mỡ thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, chăn nuôi, công, thương mại và kỹ nghệ tạo nên
những khu đô thị, những trung tâm kinh tế, buôn bán sầm uất trong nước cũng như giao lưu với
bên ngoài, hình thành những tầng lớp điền chủ, đại công thương làm chủ về kinh tế, về tư tưởng
và sinh hoạt xã hội. Trên cơ sở đó đã nảy sinh những tư tưởng triết học mới với những trường phái
triết học duy vật, vô thần. Họ cố gắng giải thích thế giới bằng các sự vật, hiện tượng của tự nhiên
như nước, lửa, không khí, đất , phủ nhận linh hồn bất tử và đưa ra các khái niệm, phạm trù của
triết học. Đặc biệt trong các trào lưu duy vật, vô thần, hoài nghi tôn giáo và thần linh ấy là trường
phái triết học duy vật Lokayata.
Trong học thuyết về tồn tại, phái Lokayata cho rằng tất cả mọi sự vật và hiện tượng trong vũ
trụ đều do bốn nguyên tố đất, nước, lửa và không khí cấu thành. Chúng có khả năng tự tồn tại, tự
vận động trong không gian để tạo thành vạn vật, kể cả con người. Tương ứng với bốn nguyên tố là
bốn nguyên tử đất, nước, lửa và không khí tồn tại ngay từ đầu, không thay đổi và không thể tiêu

diệt được. Mọi đặc tính của các vật thể đều phụ thuộc vào chỗ chúng là kết hợp của các nguyên tử
nào, vào số lượng và tỷ lệ kết hợp của các nguyên tử. ý thức, lý tính và các giác quan cũng xuất
hiện do sự kết hợp của các nguyên tử và sẽ mất đi khi sự kết hợp đó bị tan rã.
Ưu điểm: Về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, họ giải thích trên quan điểm duy vật thô
sơ, mộc mạc. Theo họ, ý thức là thuộc tính cố hữu của cơ thể; rời khỏi nhục thể thì người ta không
thể có ý thức. Khi con người chết đi, thể xác tan ra thì ý thức về "cái tôi" cũng hết.
Về đạo đức học, họ phê phán những thuyết tuyên truyền cho sự chấm dứt khổ đau bằng cách

×