Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

đầu tư phát triển nguồn nhân lực hiện nay của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.82 KB, 52 trang )

Bài tập nhóm kinh tế đầu tư:
Nội dung đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Nhóm 17 – Lớp KTĐT 3
Trần Thùy Dung - Đầu tư 50C
Nguyễn Thị Ngọc Hà - Đầu tư 50C
Tạ Thu Hiền - Đầu tư 50C
Dương Thị Mai - Đầu Tư 50C
Đặng Thị Mai - Đầu tư 50C
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương
Hà Nội - 05/2011
1
Mục lục
Lời mở đầu
Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát triển kinh
tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con người … Trong các
nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính chất quyết định
trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay. Một
nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại
nhưng không có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn
lực đó thì khó có khả năng có thể đạt được sự phát triển như mong muốn. Lấy ví
dụ Nhật bản một đất nước không hề giàu tài nguyên thiên nhiên, sau cuộc chiến
tranh thế giới II bị tàn phá nặng nề khiến cả thế giới tưởng rằng nước Nhật không
thể đứng dậy sau những mất mát quá lớn về người và của, thì họ đã chứng minh
bằng tốc độ phát triển thần kỳ trong những năm của thập kỉ 70 đã đưa Nhật trở
thành một cường quốc kinh tế của thế giới. Và một trong những nhân tố quan trọng
góp phần vào thành công đó là con người, với đội ngũ cán bộ khoa học – kĩ thuật
đông đảo và chất lượng cao cộng với đức tính cần kiệm, kiên trì, trung thành, tính
kỉ luật cao, sự sáng tạo…đã làm nên những con người rất “Nhật Bản”
Với Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và ngày nay
trong công cuộc hội nhập và phát triển nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng ta luôn xác định: Nguồn lao động dồi


dào, con người Việt Nam có truyền thông yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng
văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ là nguồn lực
quan trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh.
Ngày nay trong bối cảnh toàn cầu đã đặt ra những cơ hội cũng như thách thức cho
hoạt động Đầu tư phát triển nguồn nhân lực mà chúng ta cần xem xét để có thể đưa ra
những định hướng hợp lý, đáp ứng được những yêu cầu trong giai đoạn hiện nay.
Vì nhiều lý do bài tập này chỉ đề cập được trong một chừng mực nhất định
những lý thuyết chung trong vấn đề đầu tư phát triển nguồn nhân lực, vì vậy cũng
không tránh khỏi những khiếm khuyết chủ quan và khách quan, hi vọng nhiều ở
sự góp ý của thầy và các bạn.
2
Xin trân trọng cảm ơn PSG.TS Từ Quang Phương đã giúp chúng em thực
hiện bài tập này./
3
CHƯƠNG I: LÝ THYẾT CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC.
1. Phát triển nguồn nhân lực
1.1. Nguồn nhân lực là gì?
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực (NNL). Theo Liên
Hợp Quốc thì “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm,
năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá
nhân và của đất nước”.
Ngân hàng thế giới cho rằng: “nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao
gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân”. Như vậy, ở đây
nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất
khác: vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên.
Kinh tế phát triển cho rằng: nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong độ tuổi
quy định có khả năng tham gia lao động.
Từ những quan niệm trên, tiếp cận dưới góc độ của Kinh tế Chính trị có thể
hiểu: “Nguồn nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực

lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh
nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản
xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai
của đất nước”.
Như vậy, dù được hiểu theo cách tiếp cận nào thì nguồn nhân lực luôn được
biểu hiện trên hai phương diện:
- Số lượng nguồn nhân lực là lực lượng lao động và khả năng cung cấp lực
lượng lao động cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Số lượng nguồn nhân lực
được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân
lực. Các chỉ tiêu này có mối quan hệ mật thiết với chỉ tiêu quy mô và tốc độ
tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì quy
mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại. Số lượng nguồn
4
nhân lực đóng vai trò quyết định đến sự phát triển của kinh tế - xã hội. Nếu
số lượng không tương xứng với sự phát triển kinh tế xã hội thì sẽ ảnh hưởng
đến sự phát triển đó.
- Chất lượng nguồn nhân lực được xem là yếu tố quan trọng nhất trong nguồn
nhân lực con người. Chất lượng nguồn nhân lực được xem xét trên các mặt
hàm lượng trí tuệ, trình độ tay nghề, năng lực phẩm chất, sức khỏe, văn hóa
lao động…trong đó yếu tố trí tuệ quyết định chất lượng nguồn nhân lực.
Như chúng ta đã biết vốn, lao động và công nghệ là ba nhân tố chính ảnh
hưởng tới tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Mỗi nhân tố mang đặc trưng riêng do
đó, sự tác động của mỗi nhân tố đến nền kinh tế là khác nhau. Tuy vậy, so với hai
nhân tố còn lại thì nguồn nhân lực vẫn được coi là một nguồn lực đặc biệt, nó đặc
biệt ở chỗ:
- Nguồn nhân lực là một nguồn lực sống: giá trị của con người đối với xã hội
chủ yếu thể hiện ở khả năng lao động của con người. Trong đó, năng lực lao
động không thể tồn tại độc lập ngoài một cơ thể khỏe mạnh. Nguồn nhân lực
còn là một nguồn lực có ý thức, có quan niệm giá trị.
- Nguồn nhân lực là một nguồn lực vô tận: Nhà tương lai hoc người Mỹ

Alvintoffiler đã khẳng định “mọi nguồn lực tự nhiên đều có thể bị cạn kiệt,
chỉ riêng có trí tuệ là vô tận. Bởi tri thức có tính chất không bao giờ hết”.
Như vậy, sự phát triển của tri thức là vô hạn và việc khai thác nguồn nhân
lực cũng là vô hạn. Khoa học kĩ thụât không ngừng phát triển, năng lực học
tập của con người không ngừng được nâng cao.
- Chỉ có nguồn nhân lực mới tạo ra được những nguồn lực khác, đây cũng
chính là sự khác biệt cơ bản của nguồn nhân lực với các nguồn lực khác.
1.2. Phát triển nguồn nhân lực
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một ''tài nguyên đặc biệt'', một
nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con người, phát triển
nguồn nhân lực (PT NNL) trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống
phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm chắc
chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư cho con người
là đầu tư có tính chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững.
Vậy phát triển nguồn nhân lực là gì ?
5
Phát triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con
người, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Phát triển nguồn nhân lực là quá trình tạo ra sự biến đổi về số lượng và chất
lượng nguồn nhân lực, biểu hiện ở sự hình thành và hòan thiện từng bước về thể
lực, kĩ năng, thái độ và nhân cách nghề nghiệp, đáp ứng những nhu cầu hoạt động
lao động của cá nhân và sự phát triển của xã hội.
Phát triển nguồn nhân lực xét từ góc độ một đất nước là quá trình tạo dựng lực
lượng lao động năng động có kỹ năng và sử dụng chúng có hiệu quả, xét từ góc độ
cá nhân là việc nâng cao kỹ năng, năng lực hành động và chất lượng cuộc sống
nhằm nâng cao năng suất lao động và thu nhập. Một cách rõ ràng hơn, có thể nói
PTNNL là các hoạt động nhằm nâng cao và khuyến khích đóng góp tốt hơn kiến
thức và thể lực của người lao động, đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu sản xuất.
Từ những luận điểm trình bày trên, phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia:
chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt thể lực,

trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi
tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực. Nói một cách khái quát nhất, phát triển nguồn
nhân lực chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện con người vì sự
tiến bộ kinh tế - xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người.
Như vậy, phát triển nguồn nhân lực với nội hàm trên đây thực chất là đề cập đến
vấn đề chất lượng nguồn nhân lực và khía cạnh xã hội của nguồn nhân lực của một
quốc gia.
Bên cạnh khái niệm phát triển nguồn nhân lực, chúng ta cần phân biệt chất
lượng nguồn nhân lực với nguồn nhân lực chất lượng cao (NNL CLC). Nguồn
nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một người lao động cụ
thể có trình độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ
thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (Đại học,
trên đại học, cao đẳng, lao động kỹ thuật lành nghề).
Giữa chất lượng NNL và NNL CLC có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong
mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nói đến chất lượng NNL là muốn nói đến
tổng thể NNL của một quốc gia, trong đó NNL CLC là bộ phận cấu thành đặc biệt
quan trọng, là nhóm tinh tuý nhất, có chất lượng nhất. Bởi vậy, khi bàn về NNL
CLC không thể không đặt nó trong tổng thể vấn đề chất lượng nguồn nhân lực nói
chung của một đất nước.
6
Nguồn nhân lực chất lượng cao là NNL phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường
(yêu cầu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước), đó là: có kiến thức: chuyên môn,
kinh tế, tin học; có kỹ năng: kỹ thuật, tìm và tự tạo việc làm, làm việc an toàn, làm
việc hợp tác; có thái độ, tác phong làm việc tốt, trách nhiệm với công việc. Như vậy,
NNL CLC cao phải là những con người phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả
năng lao động, về tính tích cực chính trị- xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng.
Nguồn nhân lực chất lượng cao có thể không cần đông về số lượng, nhưng phải đi
vào thực chất.
Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri
thức và trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, NNL đặc biệt là NNL

CLC ngày càng thể hiện vai trò quyết định của nó. Các lý thuyết tăng trưởng gần
đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa
trên ít nhất ba trụ cột cơ bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện
đại và nâng cao chất lượng NNL. Trong đó động lực quan trọng nhất của sự tăng
trưởng kinh tế bền vững chính là những con người, đặc biệt là NNL CLC, tức là
những con người được đầu tư phát triển, có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh
nghiệm, năng lực sáng tạo nhằm trở thành “nguồn vốn - vốn con người, vốn nhân
lực”. Bởi trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh tranh quyết liệt, phần
thắng sẽ thuộc về những quốc gia có NNL CLC, có môi trường pháp lý thuận lợi
cho đầu tư, có môi trường chính trị - xã hội ổn định.
1.3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực cũng là một bộ phận của đầu tư phát triển, nó
là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm
hoặc tạo ra tăng giá trị của con người về mặt trí tuệ, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ,
làm cho con người trở thành những người lao động có năng lực và phẩm chất mới
cao hơn. Nói cách khác, đầu tư phát triển nguồn nhân lực chính là hoạt động đầu tư
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm: đầu tư cho họat động đào tạo (chính
quy, không chính quy, dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ…) đội
ngũ lao động; đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe, y tế, đầu tư cải thiện môi
trường, điểu kiện làm việc cho người lao động, trả lương đúng và đủ cho người lao
động.
7
2. Đặc điểm đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Ngoài những đặc điểm chung của đầu tư phát triển, thì hoạt động đầu tư phát
triển nguồn nhân lực còn có những đặc trưng riêng, cụ thể như sau:
- Nếu coi đầu tư phát triển NNL là một lĩnh vực đầu tư thì ta cần phân biệt với
các lĩnh vực đầu tư khác, kết quả của đầu tư NNL không phải tăng lên như
tài sản cố định mà là sự tăng lên về mặt thể lực trí lực và kĩ năng nghề
nghiệp… Do vậy giữa NNL và những loại tài sản khác có mối quan hệ biện

chứng tác động qua lại lẫn nhau, có thể thấy trong xã hội càng phát triển thì
việc đầu tư vào con người càng được coi trọng, ngược lại việc phát triển
nguồn nhân lực góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của các nguồn
lực khác (công nghệ, vốn…) qua đó làm tăng năng lực sản xuất của xã hội.
- Một khác biệt quan trọng nữa là ta có thể mua bán, trao đổi và dùng vốn tài
sản như một khoản thế chấp khi vay tiền trong khi ta không thể làm được
như vậy với vốn con người. Ta chỉ có thể thuê vốn con người. Điều này lý
giải phần nào tại sao như chúng ta thấy chỉ có một khoản vay tư nhân hạn
chế dành cho các sinh viên học đại học.
- Vì tri thức là 1 loại “tài sản vô hình” trong nền kinh tế cũng như trong doanh
nghiệp do vậy rất khó để đo lường chính xác được giá trị của nó, do vậy hiệu
quả việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực đôi khi không được thể hiện ngay
mà mất 1 khoảng thời gian, nó giống như một chiến lược phát triển dài hạn.
Ngoài ra, lợi ích có được từ đầu tư vào nhân lực mang một số đặc trưng khác
hẳn với các loại đầu tư khác:
- Đầu tư vào nguồn nhân lực không hề bị giảm giá trị trong quá trình sử dụng
mà ngược lại càng được sử dụng nhiều, càng có khả năng tạo thu nhập và do
vậy thu hồi vốn càng cao. Mặt khác nguồn nhân lực là vô tận, do đó việc đầu
tư vào nguồn nhân lực sẽ luôn đem lại hiệu quả to lớn về mặt chất và lượng.
- So với các hoạt động đầu tư phát triển khác, đầu tư vào nguồn nhân lực có
chi phí tương đối không cao trong khi đó khoảng thời gian sử dụng lại lớn,
thường là khoảng thời gian làm việc của một đời người.
- Các hiệu ứng gián tiếp, và hiệu ứng lan tỏa của đầu tư và vốn nhân lực là rất
lớn, như trình độ nhân lực trung bình ở một nước cao hơn cũng cho phép
8
tăng trưởng kinh tế tốt hơn và điều chỉnh tốt hơn đối với các vấn đề dân số,
kế hoạch hóa gia đình, môi trường và nhiều vấn đề khác.
- Đầu tư vào con người không chỉ là phương tiện để đạt được những mục tiêu
to lớn của xã hội (như tăng trưởng, phát triển bền vững…) mà còn hướng
tới những mục tiêu của mỗi cá nhân trong xã hội (như ngoài việc làm tăng

thu nhập đầu tư con người góp phần nâng cao giá trị cuộc sống cũng như
thỏa mãn nhu cầu của từng cá nhân…)
- Hiệu quả của đầu tư vào con người không chỉ do tỷ lệ thu hồi vốn (tiền bạc,
của cải vật chất) quyết định, mà nó còn chịu ảnh hưởng của kết quả về mặt
xã hội mà dự án đầu tư đó mang lại.
Tuy nhiên, các lợi ích thu được từ đầu tư vào nguồn vốn nhân lực thu được chỉ
trong điều kiện được sử dụng hiệu quả và có môi trường phát triển phù hợp và
thuận lợi. Ngược lại sẽ là sự lãng phí đầu tư. Trong mọi sự lãng phí, lãng phí nguồn
nhân lực con người là mất mát to lớn và đáng sợ nhất.
3. Nội dung đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
3.1. Vĩ mô
3.1.1.Đầu tư cho giáo dục
3.1.1.1. Đầu tư cho chương trình giảng dạy
Chương trình giảng dạy là nội dung được đưa vào nhằm nâng cao tri thức cho
người tham gia khóa học. Vì vậy chương trình giảng dạy phải được coi trọng và
đầu tư một cách hợp lí. Tại Việt Nam, chương trình giảng dạy phổ biến là sách
giáo khoa.
Sách giáo khoa là loại sách cung cấp kiến thức, được biên soạn với mục đích
dạy và học. Thuật ngữ sách giáo khoa còn được hiểu là một loại sách chuẩn cho
ngành học. Sách giáo khoa được phân loại theo đối tượng sử dụng hoặc chủ đề của
sách. Biên soạn một sách giáo khoa có giá trị cả một kì công. Trên thế giới có
nhiều bộ sách giáo khoa khác nhau cùng biên soạn cho cùng một môn học. Tại Việt
Nam, hiện tại chỉ tồn tại một bộ sách duy nhất cho một môn học.
Để sách giáo khoa được đảm bảo phù hợp với trình độ và thời gian học tập của
học sinh thì nó cần phải được đầu tư một cách nghiêm túc, có sự tham gia của các
học giả, các nhà giáo kinh nghiệm để đảm bảo hệ thống kiến thức trong đó phải
chính xác, theo một trình tự logic chặt chẽ, được gia công về mặt sư phạm cho phù
9
hợp với học sinh. Và ngoài phần kiến thức, sách giáo khoa còn có một phần về rèn
luyện các kĩ năng và các phương pháp giảng dạy môn học

3.1.1.2. Đầu tư cho đội ngũ giáo viên, phương pháp giảng dạy
Chương trình giảng dạy chỉ là phương tiện để nâng cao tri thức cho người học,
để người học có thể hiểu và làm tốt thì chính đội ngũ cán bộ giảng dạy là người
truyền tải những kiến thức đó đến với người học. Người ta vẫn có câu “thầy giỏi
thì trò hay” vì vậy muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thì phải có sự đầu tư
cho đội ngũ cán bộ giảng dạy. Đội ngũ cán bộ không chỉ là những người có năng
lực, giỏi chuyên môn mà hơn thế nữa họ phải có tâm huyết với nghề, kinh nghiệm
và sự nhiệt tình kết hợp với các phương pháp giảng dạy khoa học mới có thể đem
lại những kiến thức mới mẻ, bổ ích cho người học. Vì vậy, muốn có được đội ngũ
giảng dạy có chất lượng thì chúng ta cần phải có chế độ đãi ngộ thật tốt ( ví dụ đầu
tư nâng cao thu nhập cho họ, hay tạo một môi trường làm việc lành mạnh….) sẽ
tăng làm hiệu quả của công tác giảng dạy, người giáo viên sẽ dành nhiều tâm sức
để nâng cao hiệu quả bài giảng của mình.
Phương pháp giáo dục là cách thức sử dụng các nguồn lực trong giáo dục
như giáo viên, trường lớp, dụng cụ học tập, các phương tiện vật chất để giáo
dục người học.
Hiện nay đã hình thành và phát triển nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau
như:
• Phương pháp giáo dục truyền thống: Giáo viên độc thoại, chủ động
truyền đạt kỹ năng còn người học tiếp thu một cách thụ động. Giáo viên
làm mẫu còn học viên làm theo.
• Phương pháp giáo dục hiện đại: Giáo viên là người thiết kế tổ chức còn
bản thân học viên tự tìm kiếm tri thức, tự hoạt động theo cách riêng độc
lập và sáng tạo.
• Phương pháp giáo dục thụ động: Giáo viên truyền đạt kiến thức, độc
thoại, phát vấn hay đặt câu hỏi, giáo viên áp đặt kiến thức có sẵn, còn
học viên thì học thuộc lòng và nhớ máy móc. Giáo viên độc quyền đánh
giá cho điểm.
• Phương pháp giáo dục tích cực: Học viên tự tìm ra kiến thức bằng hành
động thao tác giáo viên đối thoại với học viên, giáo viên hợp tác và

10
trao đổi với học viên và giáo viên khẳng định kiến thức do học viên tìm
ra. Học sinh học cách học, cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề, cách
sống và trưởng thành. Học sinh tự đánh giá và điều chỉnh làm cơ sở cho
giáo viên cho điểm cơ động.
Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng nâng cao giáo dục hiện đại với
người học tích cực chủ động tìm kiếm kiến thức là một trong những điều kiện
quyết định đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo hiện nay. Ý thức được tầm
quan trọng của vấn đề này, nhà nước ta rất quan tâm tới việc bồi dưỡng, cập nhật,
vận dụng các phương pháp giảng dạy mới trong nhà trường.
3.1.1.3. Đầu tư về cơ sở vật chất cho giáo dục
Một hệ thống giáo dục đào tạo có hiệu quả phải là kết quả tổng hợp của chương
trình giảng dạy phù hợp, đội ngũ cán bộ giảng dạy có chất lượng và cơ sở vật chất
hiện đại. Người dân Việt Nam được đánh giá là những người thông minh, chăm chỉ
nhưng những gì chúng ta giỏi là lí thuyết, sách vở học không đi đôi với hành khả
năng áp dụng thực tiễn không cao. Để nâng cao chất lượng giáo dục, cụ thể ở bậc
đại học người học phải được tiếp cận với những công nghệ mới liên quan đến cung
cấp thông tin để có thể quản trị sự kiện, tổ chức sự kiện, khai thác giá trị nhân văn
của các địa danh, di tích lịch sử, văn hóa – xã hội vv Nghĩa là người học thực sự
bước vào "thực tế" nghề nghiệp ngay trên giảng đường.
Tóm lại, hiện đại hóa giáo dục là một trong những cấu phần quan trọng nhất
trong quá trình toàn cầu hóa của một quốc gia và là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp
đến những lựa chọn và triển vọng của thế hệ tương lai. Duy trì nguyên trạng hệ
thống giáo dục đại học của Việt Nam hiện nay về cơ bản sẽ không phù hợp với
những đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế.
3.1.2. Đầu tư về y tế
Nguồn nhân lực có chất lượng cao, phải là nguồn nhân lực có chất lượng cả về
thể lực và trí lực. Nếu như hoạt động đầu tư cho giáo dục đào tạo nhằm nâng cao
tri thức, đổi mới tư duy hoàn thiện năng lực làm việc cho lực lượng lao động, thì y
tế góp phần đảm bảo cho một cộng đồng khỏe mạnh (thể lực).

Trước tình hình phát triển kinh tế nhanh chóng đã và đang diễn ra trong vòng
một thập niên trở lại đây, nước ta không còn xếp vào nhóm các nước nghèo khó
nữa, chúng ta có xu hướng quên rằng tình hình y tế và sức khỏe người dân ở nước
11
ta vẫn ở trong tình trạng của một nước nghèo. Những đại dịch bệnh, những vấn đề
còn tồn đọng nhiều trong y tế thời gian gần đây là những nhắc nhở rằng nước ta
vẫn còn đang đương đầu với những bệnh nhiệt đới, những vấn nạn của các nước
nghèo. Trong tình hình như thế, hơn lúc nào hết, nước ta cần một mạng lưới y tế
hiện đại, có sự phối kết hợp của các cấp từ địa phương tới trung ương.
3.1.2.1. Xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng nói chung, bệnh viện nói riêng chính là nơi diễn ra hoạt động
khám, chữa bệnh, do đó cần có chiến lược đầu tư hợp lí để đáp ứng được yêu cầu
khám, chữa của người bệnh. Muốn làm tốt được điều này phải:
- Cần có sự phân tầng đầu tư hợp lí về cơ sở vật chất từ trung ương tới địa
phương, các máy móc thiết bị hiện đại sẽ tập trung đầu tư cho trung ương trước rồi
đến địa phương và các cấp cơ sở. Sự đầu tư mất cân đối khi quá chú trọng đầu tư
cho trung ương mà “bỏ quên” địa phương sẽ gây ra tâm lí không muốn khám chữa
bệnh ở địa phương của người bệnh, điều này sẽ gây ra tình trạng quá tải ở các bệnh
viện tuyến trung ương.
- Ngoài các bệnh viện công lập như trên còn phải khuyến khích việc hình
thành và phát triển các bệnh viện theo hướng đa dạng hóa các loại hình khám chữa
bệnh, khuyến khích thành lập các bệnh viện bán công, dân lập, tư nhân có vốn đầu
tư nước ngoài nhưng bệnh viện công vẫn giữ vai trò chủ đạo. Nhất là bệnh viện
chuyên khoa nhằm thực hiện chính sách xã hội hoá và đa dạng hoá các loại hình
dịch vụ y tế.
3.1.2.2. Sản xuất lắp đặt trang thiết bị
Thiết bị y tế là nhân tố rất quan trọng trong công tác khám chữa bệnh. Muốn
công tác khám chữa bệnh có hiệu quả thì cần chú trọng đầu tư vào trang thiết bị y
tế. Cần thiết là vậy nhưng thực tế phần lớn trang thiết bị y tế còn nghèo nàn, lạc
hậu nhiều máy móc thiết bị hiện đại chủ yếu được nhập khẩu với giá rất cao. Với

nguồn chi mua sắm có hạn, chính điều này khiến cho tình trạng thiếu hụt máy móc
càng trở nên trầm trọng. Chính từ nhu cầu thực tiễn này làm mở đường cho việc
sản xuất, cung ứng thiết bị y tế trong nước. Muốn sản xuất lắp đặt trang thiết bị y tế
có hiệu quả cao, cần chú ý những nội dung cơ bản sau:
- Trang thiết bị y tế là lĩnh vực chuyên dụng và rất đắt tiền đòi hỏi nhiều yêu
cầu khắt khe về kỹ thuật cao, chính xác, an toàn và ổn định. Nhu cầu kinh
12
phí để trang bị mới cũng như duy trì hoạt động liên tục của trang thiết bị đã
có là rất lớn.
- Đầu tư trang thiết bị y tế phải có trọng tâm, trọng điểm nhằm đạt được tính
hiệu quả, khoa học và kinh tế.
- Xây dựng kế hoạch đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ sản xuất trang thiết
bị y tế mà trong nước có ưu thế. Trước hết tập trung sản xuất các thiết bị y tế
thông dụng phục vụ y tế cơ sở, chương trình dân số - kế hoạch hoá gia đình,
chăm sóc sức khỏe ban đầu, dụng cụ sử dụng một lần và các trang thiết bị
phục vụ y tế học đường và gia đình, người lao động.
Xây dựng quy chế nhằm tạo môi trường hấp dẫn cho các doanh nghiệp, các cơ
sở nghiên cứu khoa học và công nghệ thuộc các ngành, các địa phương tham gia
sản xuất trang thiết bị y tế. Khuyến khích dùng trang thiết bị y tế sản xuất trọng
nước, giảm dần nhập khẩu, đến năm 2010 chỉ nhập khẩu những thiết bị y tế chưa
sản xuất được trong nước.
Có chính sách hỗ trợ về vốn và kỹ thuật cho các cơ sở thuộc thành phần kinh tế
nhà nước nhằm phát huy vai trò chủ đạo trong lĩnh vực kinh doanh trang thiết bị y tế.
Tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế có thể tham gia hoạt động kinh
doanh trang thiết bị y tế theo quy định của Nhà nước và hướng dẫn của Bộ y tế.
3.1.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên y tế
Cán bộ y tế là lực lượng chủ chốt trọng ngành y. Dù máy móc, thiết bị có hiện
đại đến đâu đi chăng nữa thì vẫn cần phải có những bác sĩ có trình độ chuyên môn
để khám và chuẩn đoán bệnh. Chính vì vậy mà việc đầu tư cho cán bộ y tế là rất
cần thiết.

Đầu tư cho hệ thống giáo dục đào tạo các y bác sĩ ngay từ trong nhà trường.
Việc đào tạo phải được kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, đầu tư trang bị các
dụng cụ học tập phục vụ giảng dạy, sinh viên phải được tiếp xúc với các loại bệnh
tật ngay khi còn ở trên ghế nhà trường.
Tổ chức các chương trình du học, cấp học bổng cho các sinh viên y khoa có
trình độ giỏi đi du học nước ngoài để nâng cao tầm hiểu biết và kinh nghiệm. Tuy
nhiên đi kèm với nó phải có sự thỏa thuận về công ăn việc làm sau khi học xong
tránh tình trạng chảy máu chất xám cũng như thất nghiệp sau khi về nước.
Đội ngũ y, bác sĩ phải được quan tâm, phụ cấp phải phù hợp với trình độ và hơn
thế nữa là tránh hiện tượng lương được chi trả không đáp ứng được những chi tiêu
thiết yếu của cuộc sống.
13
3.1.2.4. Đầu tư cho y tế dự phòng, giáo dục chăm sóc sức khỏe
Trong thực tế, qui mô, mức độ của các bệnh mà nước đang đối phó rất lớn (đại
dịch SARS, H5N1, dịch tiêu chảy cấp tính…) chúng ta không thể kì vọng rằng xây
thêm bệnh viện hay nhập thiết bị y khoa hiện đại sẽ giải quyết được vấn đề. Nhu
cầu tăng cường cơ sở vật chất y tế hiện đại là cần thiết nhưng mang tính cấp thiết,
bởi vì một nhu cầu khác lâu dài hơn và quan trọng hơn là xây dựng một mạng lưới
y tế cộng đồng hay y tế dự phòng. Tại sao cần phải xây dựng mạng lưới y tế dự
phòng? Câu trả lời đơn giản là tại vì chúng ta muốn phòng bệnh hơn là chữa bệnh.
Các thiết bị hiện đại là để chữa bệnh chứ không ngừa bệnh; các biện pháp phòng
bệnh cần một tư duy mới về y tế.
Nhận thức được vai trò quan trọng của y tế dự phòng, ở các nước tiên tiến đều
thiết lập mạng lưới y tế cộng đồng đến từng phường và các vùng xa thành phố.
Chẳng hạn như ở Úc, các bà mẹ trước và sau khi sinh con đều được tầm soát và
kiểm tra sức khỏe ở các trạm y tế dự phòng này. Ngoài ra, các dịch vụ về phòng
chống bệnh ở qui mô cộng đồng như tiêm chủng ngừa, tuyên truyền và giáo dục y
tế cộng đồng, v.v… đều được thực hiện bởi các cán bộ y tế dự phòng.
Tại Việt Nam, y tế dự phòng vẫn chưa được quan tâm đúng mức, thực tế đã
chứng minh bằng việc “vượt tuyến” khám, chữa bệnh của người bệnh và hiện

tượng quá tải giường bệnh ở các bệnh viện Vì vậy, muốn phát huy hiệu quả hoạt
động của y tế dự phòng cần phải làm tốt công việc sau:
- Đầu tư cho cơ sở vật chất
- Đầu tư cho máy móc trang thiết bị
- Đầu tư cho đội ngũ y bác sĩ, có chế độ đãi ngộ hợp lí
3.1.3 Tiền lương
Đã từ lâu, vấn đề tiền lương là một trong những mối quan tâm hàng đầu của tất
cả mọi người: từ các hộ gia đình, người lao động, đến các nhà quản lý, các chủ
doanh nghiệp và không thể thiếu những nhà kinh tế học; từ người giàu, kẻ nghèo;
từ các nứơc đang phát triển đến các nước phát triển… đều giành những sự lưu tâm
đặc biệt đến tiền lương đồng thời xem xét, nghiên cứu tiền lương dưới nhiều góc
độ khác nhau. Bởi lẽ đã hàng thế kỷ nay tiền lương là cơ sở chủ yếu của mức sống
phần lớn dân cư, là hình thức biểu hiện cụ thể lợi ích kinh tế của người lao động và
tập thể lao động.
14
Đối với chính phủ các nước, Nhà nước có thể thông qua hệ thống tiền lương để
tìm hiểu mức sống của người dân, và qua đó tác động tới cơ cấu, chất lượng của
lực lượng lao động. Một xã hội có giàu mạnh đó là ở sự giàu có tài nguyên thiên
nhiên, tài nguyên con người, do đó quan tâm đến con người chính là làm giàu cho
đất nước. Vì vậy, vấn đề tiền lương luôn giành được sự ưu tiên trong chính sách
của Đảng và Nhà nước, cụ thể như:
- Nhà nước qui định mức lương tối thiểu dành cho người lao động (mức lương
này luôn được điều chỉnh phù hợp với tình hình phát triển của đất nước, với
sự thay đổi của lạm phát…)
- Các chính sách trợ cấp dành cho người có thu nhập thấp, trợ cấp thất
nghiệp…
3.1.4. Đầu tư cải thiện môi trường làm việc
Cải thiện môi trường làm việc không chỉ là mong muốn của mỗi cá nhân, doanh
nghiệp mà nó còn là mục tiêu chính sách của nhà nước.
Cải thiện môi trường làm việc không những đem lại hiệu quả cao công việc mà

còn góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao động, chính điều này
cũng tác động tích cực tới sự phát triển xã hội.
Cải thiện môi trường làm việc góp phần ổn định trật tự an ninh xã hội, một môi
trường làm việc an tòan cũng có thể đem lại một môi trường sống lành mạnh, hơn
nữa đây cũng là nhân tố thu hút vốn đầu tư giúp tăng trưởng kinh tế. Và đây chính là
mong muốn của những nhà quản lí, hoạch định chính sách xã hội.
Chính vì những hiệu quả mà cải thiện môi trường làm việc đem lại, nên hàng
năm chính phủ đã chi một phần ngân sách Nhà nước để đáp ứng nhu cầu làm việc
của đội ngũ công nhân viên chức, cụ thể:
• Xây dựng lại trụ sở cho khối cơ quan hành chính sự nghiệp, các doanh
nghiệp trực thuộc Nhà nước quản lí.
• Tổ chức các đợt mua sắm công, cung cấp trang thiết bị phù hợp với
điều kiện làm việc của công chức.
15
• Tổ chức các cuộc giao lưu (văn hóa, thể thao…) giữa các khối, ban,
ngành trong và ngoài địa phương, tạo điều kiện cho cán bộ công nhân
viên chức có tinh thần hưng phấn, thoải mái hơn trong công việc.
Thực tế cho thấy, đi cùng với sự tăng trưởng, phát triển của kinh tế xã hội là sự
gia tăng của những mối nguy hiểm tiềm ẩn trong công việc đó là bệnh nghề nghiệp
(BNN) và tai nạn lao động (TNLĐ) Những dẫn chứng sau đây phần nào phản
ánh thực trạng môi trường làm việc hiện nay và những thách thức phải đối mặt của
bất kì cá nhân hay toàn xã hội.
Theo số liệu của tổ chức ILO, mỗi năm trên thế giới có khoảng 270 triệu người
bị TNLĐ phải nghỉ việc ít nhất 3 ngày, trong đó 350000 ca chết người và khoảng
160 triệu người mắc BNN làm khoảng 1,7 đến 2 triệu người chết. TNLĐ, BNN
làm thiệt hại khoảng 4% GDP toàn thế giới.
Theo một kết quả nghiên cứu tại cộng đồng Châu Âu cho thấy chi phí trực tiếp
và gián tiếp trung bình cho 1 người bị tai nạn lao động khoảng 25000 EUR, nhưng
nếu phòng ngừa tốt thì nó có thể đem lại cho người lao động khoảng 3000
EUR/người mỗi năm. Đây là những con số lý tưởng nếu so sánh với mức sống trên

1USD/người 1 ngày mà các quốc gia đang phấn đấu trong xóa đói giảm nghèo. Tại
Việt Nam năm 2010, khu vực công nghiệp có khoảng 120-130 tai nạn lao
động/năm, khoảng 2000 người mắc bệnh nghề nghiệp làm thiệt hại cho nền kinh tế
hàng nghìn tỷ đồng. Trước tình hình đó, nhà nước cần có những biện pháp tích cực
để giảm thiểu tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp phải tăng cường giám sát và
đầu tư cho các vấn đề sau:
• Đầu tư tăng cường điều kiện lao động.
• Đầu tư tăng cường bảo hộ lao động.
• Đầu tư giảm tai nạn lao động.
• Đầu tư cho bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội.
3.2. Vi mô
Với doanh nghiệp nhân tố đóng vai trò quan trọng nhất đến sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp là nhân lực. Nguồn nhân lực có chất lượng tốt đáp ứng các
yêu cầu đặt ra quyết định tới sự phát triển lớn mạnh của doanh nghiệp.
16
3.2.1. Đầu tư về giáo dục, doanh nghiệp nâng cao trình độ người lao động.
Nếu như nguồn nhân lực có vai trò quyết định tới sự lớn mạnh của doanh
nghiệp thì giáo dục đào tạo lại có vai trò quyết định tới việc hình thành quy mô và
chất lượng nguồn nhân lực. Để làm tốt công tác đầu tư giáo dục nhằm nâng cao
chất lượng NNL, các doanh nghiệp cần thực hiện công việc sau:
- Đầu tư cho công tác tuyển dụng:
Giáo dục đại học và kỹ thuật nghề nghiệp là nguồn cung cấp nhân lực cho các
doanh nghiệp. Tuy nhiên giáo trình ở bậc đại học còn nhiều hạn chế trong việc cập
nhật thông tin tình hình thực tế, việc dạy và học còn thụ động làm hạn chế khả
năng sáng tạo, sinh viên ỷ lại vào giáo trình…chương trình giảng dạy ở các trường
kỹ thuật nghề nghiệp còn chưa hiệu quả và kém đa dạng. Vì vậy cần sự nỗ lực từ 3
phía: nhà tuyển dụng, người học và nhà trường.
Nhiều trường đại học đã tìm đến các doanh nghiệp để tìm kiếm hợp tác, tài trợ.
Nhiều doanh nghiệp đã tài trợ cho nhà trường với số trang thiết bị lên đến hàng
triệu USD

- Đào tạo nguồn công nhân lành nghề :
Các doanh nghiệp nhận thức rõ tầm quan trong của nguồn nhân lực tới sự phát
triển của doanh nghiệp, cho rằng đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai. Và
ngày càng quan tâm tới việc đào tạo chính lao động của doanh nghiệp. Khắc phục
tình trạng thừa lao động chưa được đào tạo, thiếu lao động có tay nghề đạt tiêu
chuẩn. Các doanh nghiệp không chỉ liên hệ với nhà trường mà còn tự tổ chức đào
tạo dưới nhiều hình thức:
• Mở các lớp đào tạo ngắn hạn và dài hạn:
Các lớp đào tạo ngắn hạn do doanh nghiệp tổ chức nhằm đáp ứng thiếu hụt
về lao động . bên cạnh đó cũng có những lớp đào tạo trung và dài hạn nhằm hướng
tới nguồn nhân lực có chất lượng tốt về lâu dài cho các doanh nghiệp.
• Đầu tư cho hoạt động đào tạo chính quy, không chính quy
Đào tạo tại chính nơi làm việc, đào tạo trực tiếp, thực hành ngay (đào tạo
không chính quy). Các doanh nghiệp thường áp dụng hình thức này khi nguồn
nhân lực đang rất thiếu hoặc đòi hỏi một trình độ nhất định về chuyên môn, kĩ
17
năng. Với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực dịch vụ họ thường mở các đợt tập huấn,
đào tạo chuyên sâu… bằng cách liên kết với các trường đại học.
• Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ lao động
Thường xuyên tiến hành bồi dưỡng kĩ năng cho nhân viên là việc làm hết
sức cần thiết. việc bồi dưỡng đào tạo phải được thường xuyên, ko gián đoạn. Có
như vậy chất lượng nguồn nhân lực sau mỗi lần đào tạo mới có chuyển biến nhất định.
- Đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn
Cán bộ chuyên môn là thành phần chủ chốt của doanh nghiệp, quyết định tới sứ
mệnh, sự phát triển của doanh nghiệp. Các hình thức đào tạo chủ yếu là bồi dưỡng
chuyên tu, một số khóa học ngắn hạn chuyên sâu.
3.2.2. Doanh nghiệp đầu tư cho y tế
Sức khỏe là yếu tố quý nhất của mỗi con người. Nếu làm việc quá sức trong
một thời gian sẽ gây ra những tác động xấu tới sức khoẻ mỗi cá nhân, điều này sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất làm việc của người lao động cũng như doanh

nghiệp. Do vậy cần xây dựng chế độ làm việc, nghỉ ngơi hợp lý cũng như chú
trọng công tác tuyên truyền, chăm sóc sức khỏe cho đội ngũ nhân viên trong doanh
nghiệp.
3.2.2.1. Phát triển cơ sở vật chất trạm y tế trong công ty
Trạm y tế trong công ty là nơi nhân viên tìm đến khi cảm thấy không khỏe
mạnh. Đầu tư cơ sở vật chất trạm y tế trong công ty tùy thuộc vào quy mô của từng
doanh nghiệp. Cơ bản là phải đáp ứng được nhu cầu của lao động cũng như có thể
xử lý tạm thời những trường hợp nghiêm trọng giảm nguy cơ xấu cho người bệnh.
3.2.2.2. Tổ chức khám chữa bệnh định kì
Mỗi ngành nghề có một đặc thù riêng nhưng hầu như ngành nào cũng có bệnh
nghề nghiệp. Doanh nghiệp cần tổ chức khám chữa bệnh định kì cho nhân viên vừa
đảm bảo phát hiện kịp thời và chữa đúng bệnh vừa làm an tâm người lao động,
giúp họ yên tâm sản xuất kinh doanh.
18
3.2.2.3. Tuyên truyền phòng chống dịch bệnh
Các doanh nghiệp cần chú ý tuyên truyền, phổ biến kiến thức cho nhân viên về
những bệnh thường gặp. Tổ chức các buổi giáo dục phòng chống bệnh tật, đảm bảo
môi trường làm việc lành mạnh, giảm nguy cơ nhiễm bệnh.
3.2.3. Tiền lương
a) Tiền lương:
Mức lương được trả cho người lao động dựa trên quan hệ cung cầu và giá cả
sức lao động trên thị trường. Đối với người lao động, tiền lương là thu nhập từ quá
trình lao động của họ, phần thu nhập chủ yếu đối với đại đa số lao động trong xã
hội. Phấn đấu nâng cao tiền lương là mục đích của hết thảy mọi người lao động.
Mục đích này tạo ra động lực để người lao động phát triển trình độ và khả năng lao
động của mình.
Tiền lương phù hợp khuyến khích nhân viên làm việc và thu hút nhân tài cho
doanh nghiệp. Nhận thức rõ vai trò của tiền lương tới cung cách, thái độ và hiệu
quả làm việc của người lao động các doanh nghiệp đều đưa ra những chiến lược
phù hợp trong việc trả lương cho lao động. Tùy vào điều kiện cụ thể vào chiến lược

phát triển và điều kiện làm việc của lao động để từng DN đề đưa ra mức lương cụ
thể phù hợp với cả người lao động và doanh nghiệp.
Bên cạnh việc xác định mức lương phù hợp cho lao động thì điều quan trọng là
phải trả lương đúng và đủ cho người lao động.
b) Tiền thưởng
Gần đây tiền thưởng cho nhân viên là một nét văn hóa của các doanh nghiệp
việt nam. Tiền thưởng cũng là một yếu tố quan trọng nhằm khẳng định thương hiệu
của doanh nghiệp. Trong các DN, tiền thưởng là khoản tiền dn trả cho ng lao động
ngoài tiền lương trích từ lợi nhuận còn lại trong năm, những doanh nghiệp ăn nên
làm ra thường có mức thưởng lớn cho nhân viên
Các loại tiền thưởng
• Tiền thưởng người mua là loại tiền thưởng khi người mua đã mua tới một
ngạch nhất định, kì hạn nhất định. Có thể biểu thị bằng một khoản giảm giá
mà người bán dành cho người mua
19
• Tiền thưởng hoàn thành kế hoạch là tiền thưởng dành cho đơn vị hoặc cá
nhân đã hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh về giá trị , khối lượng và
tiến độ…
• Tiền thưởng cuối năm là tiền thưởng mà công ty hay xí nghiệp dành cho
nhân viên vào dịp cuối năm
• Tiền thưởng phát minh sáng kiến, tiền thưởng hoàn thành nhiệm vụ đột xuất…
Có thể nói, mức tiền thưởng đúng người đúng việc sẽ khuyến khích người lao
động gắn bó với doanh nghiệp, tăng uy tín của doanh nghiệp. Điều này vừa mang
lại lợi ích cho mỗi cá nhân và các doanh nghiệp
3.2.4. Cải thiện môi trường làm việc
Điều kiện và môi trường làm việc là nhân tố ngoại cảnh tác động không nhỏ
đến chất lượng thực hiện công việc. Một môi trường làm việc ồn ào, lộn xộn,
không thân thiện sẽ gây cảm giác nặng nề, khó chịu lên người lao động, năng suất
lao động giảm sút đáng kể. Do vây, vấn đề đặt ra cho doanh nghiệp là cần tạo môi
trường làm việc thân thiện với con người tạo cảm giác thoải mái cho người lao

động. Muốn làm được điều này doanh nghiệp cần đầu tư:
- Tăng cường điều kiện lao động.
- Tăng cường bảo hộ lao động.
- Bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội.
3.2.5. Một số chính sách nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng cuộc sống cho
doanh nghiệp.
- Thực hiện mua bảo hiểm xã hội cho người lao động.Bảo hiểm xã hội là cầu
nối trung gian giúp các chủ doanh nghiệp và người lao động giữ được mức ổn định
về đời sống vật chất tinh thần trước mắt cũng như lâu dài, góp phần thực hiện an
sinh xã hội.
- Cần giải quyết chế độ lương hưu, nghỉ mất sức. Tạo điều kiện cho người
lao động được hưởng tối đa quyền lợi của mình.
- Thực hiện trợ cấp khó khăn trong những trường hợp nhất định, giúp người
lao động yên tâm làm việc.
20
- Ngoài thời gian làm việc cần tiến hành các hoạt động tập thể nhằm gây
dựng tình đoàn kết giữa các thành viên ,các hoạt động dã ngoại, du lịch …giúp
người lao động có một đời sống tinh thần phong phú, đây là một hình thức nhằm
tái tạo sức lao động hiệu quả.
4. Vai trò của đầu tư phát triển nguồn nhân lực
4.1. Vĩ mô
- Đầu tư phát triển nguồn nhân lực là động lực phát triển kinh tế xã hội
Ngày nay, trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
và thông tin, sự giao lưu trí tuệ và tư tưởng liên minh kinh tế giữa các khu vực trên thế
giới. Sự ra đời của nhiều công ty xuyên quốc gia đã tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế
chưa từng thấy. Tình hình đó đã dẫn đến sự quốc tế hoá kinh tế thế giới, gây nên những
đảo lộn về chính trị xã hội sâu sắc mang tính toàn cầu và đang đi đến thiết lập một trật
tự thế giới mới. Trong bối cảnh đó, khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang nổi lên là
khu vực kinh tế năng động nhất. Một trong những yếu tố chủ chốt thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế nhanh chóng là vai trò của nguồn nhân lực.

Mặt khác, khi nền kinh tế tri thức ngày càng có vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế, thì đầu tư phát triển nguồn nhân lực ngày càng cần thiết và
không thể thiếu trong các hoạt động đầu tư. Thật vậy, nền kinh tế tri thức là
kinh tế dựa trên các trụ cột chủ yếu là công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ vật liệu mới Để có được nền kinh tế tri thức cần phải xây
dựng cơ sở hạ tầng vững chắc để phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là
công nghệ thông tin; đồng thời phải đầu tư cho phát triển giáo dục đào tạo.
Hay nói cách khác phải

đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực. Suy cho cùng tri
thức là hệ quả, là tất yếu của sự phát triển nguồn nhân lực. Các nước muốn
phát triển nền kinh tế tri thức cần phải

đầu tư cho phát triển con người mà cốt
lõi là phát triển giáo dục và đào tạo,đặc biệt là

đầu tư phát triển nhân tài. Nhà
kinh tế học người Mỹ, ông Garry Becker-người được giải thưởng Nobel về
kinh rế năm 1992, đã khẳng định:





không có

đầu tư nào mang lại nguồn lợi
lớn như






đầu tư cho giáo dục



(Nguồn: The Economist 17/10/1992). Nhờ có
sự

đầu tư cho phát triển nguồn

nhân lực, mà nhiều nước chỉ trong một thời
gian ngắn đã nhanh chóng trở thành nước công nghiệp phát triển.


21
- Đầu tư phát triển nguồn nhân lực là nhân tố năng động nhất quyết định
sự phát triển.
Lịch sử phát triển con người từ thời kì đồ đá cho đến thời kì hiện đại đã chứng
minh rằng trải qua quá trình lao động hàng triệu năm của con người đã làm tăng
động lực phát triển của xã hội. Như vậy, động lực, mục tiêu của sự phát triển và tác
động của sự phát triển tới bản thân con người nằm trong chính bản thân con người.
Điều đó lí giải tại sao con người là nhân tố năng động nhất, quyết định nhất tới sự
phát triển kinh tế xã hội. So với các nguồn lực khác nguồn lực con người với yếu
tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu tiên ở chỗ nó không bao giờ bị cạn kiệt và có
thể phát triển vô hạn nếu biết bồi dưỡng,khai thác và sử dụng hợp lí. Còn các
nguồn lực khác dù có nhiều đến đâu cũng chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp
với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả . Vì vậy con người với tư cách là là
nguồn lực, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản xuất, là trung

tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết định nhất tới sự phát triển kinh tế xã hội.
4.2. Vi mô
Nhân lực là yếu tố cấu thành không thể thiếu trong mỗi doanh nghiệp, sự thành
hay bại của doanh nghiệp do nhân tố con người quyết định. Do đó, hoạt động đầu
tư phát triển nguồn nhân lực ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp
đó. Nói như vậy, có thể thấy được tầm quan trọng của hoạt động đầu tư nhân lực.
- Đầu tư phát triển nguồn nhân lực – nguồn gốc của lợi nhuận doanh nghiệp.
Mục tiêu của mọi doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận giữa giá trị hàng hóa và
giá trị dịch chuyển, phần giá trị này phần lớn là do lao động sáng tạo ra. Đó chính
là nguồn gốc của lợi nhuận doanh nghiệp. Giá trị gia tăng càng cao thì lợi nhuận
của doanh nghiệp càng lớn, muốn có giá trị gia tăng cao thì phải dựa vào chất
lượng và giá trị nguồn nhân lực. Điều này đồng nghĩa với việc phải có sự đầu tư
vào nhân tố con người.
- Đầu tư phát triển nguồn nhân lực - mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp
Bất cứ một doanh nghiệp thành công nào lại không thể không có một đội ngũ
nhân lực có chất lượng cao. Hay nói cách khác, nguồn nhân lực đem lại thương
hiệu cho doanh nghiệp, nhận thức được tầm quan trọng đó nên các doanh nghiệp
luôn coi đầu tư phát triển nguồn nhân lực là mục tiêu chiến lực lâu dài của doanh
nghiệp mình
22
Hàng năm, các doanh nghiệp luôn trích một phần chi phí cho hoạt động đào tạo
nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cho nhân viên: các khóa đào tạo ngắn, dài hạn, các
chương trình đào tạo từ xa, cho một bộ phận nhân viên đào tạo ở nước ngoài…
Mặt khác, đầu vào nguồn nhân lực cũng đóng vai trò quan trọng, trong cấu
thành chất lượng nguồn nhân lực. Giống như đặc điểm của đầu tư phát triển nguồn
nhân lực, thì hoạt động đào tạo lại, chuyên tu trong doanh nghiệp không thể đem
lại hiệu quả tức thời mà cần có thời gian. Chính vì vậy, nếu doanh nghiệp có sự đầu
tư nhân lực từ khâu đầu vào, sẽ đem lại những hiệu quả to lớn và tiết kiệm được
thời gian, chi phí đào tạo lại. Vì vậy công tác tuyển dụng nhân lực của mỗi doanh
nghiệp cần có những đòi hỏi cao về chất lượng, về kỹ năng tuyển dụng nhân lực,

kỹ năng mềm cũng như chuyên môn của người lao động.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC
1. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực tầm vĩ mô.
1.1. Đầu tư giáo dục đào tạo.
Trong thời đại ngày nay, mọi quốc gia trên thế giới đều nhận thức rõ vai trò
quan trọng hàng đầu của giáo dục. Đầu tư cho giáo dục được coi là đầu tư có lãi
lớn nhất cho tương lai của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng, mỗi gia đình, dòng tộc và
mỗi cá nhân.
Xã hội hóa giáo dục là một chủ trương và giải pháp quan trọng mà Đảng, Nhà
nước ta đã triển khai nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội cho sự
nghiệp xây dựng, phát triển giáo dục và đào tạo. Đảng, Nhà nước luôn quan tâm và
coi “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài”, “Đầu tư giáo dục là đầu tư phát triển, Nhà nước ưu tiên đầu
tư cho giáo dục. Khuyến khích bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá
nhân trong và ngoài nước đầu tư cho giáo dục, trong đó ngân sách Nhà nước giữ vai trò
chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục”
1.1.1. Tình hình chi ngân sách cho giáo dục đào tạo.
23
Theo báo cáo của Bộ GD&ĐT ngân sách nhà nước cho giáo dục năm 2006 tăng
so với 2005 là 13.940 tỷ đồng, năm 2007 tăng so với 2006 là 11.400 tỷ đồng.
Riêng phần ngân sách cho chi thương xuyên của năm 2006 là 42.625 tỷ đồng, của
năm 2007 51.860 tỷ đồng. Trong giai đoạn 2002-2006, ngân sách nhà nước chi cho
GD&ĐT đã tăng gấp 2.4 lần, từ hơn 22.600 tỷ đồng năm 2002 lên gần 55.00 tỷ
năm 2006. Tỷ trọng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục tăng từ 4,2% năm 2002
lên 5.6% năm 2006. Trong đó, chi thương xuyên cho giáo dục đại học tăng 2,4 lần
giai đoạn 2002-2006.
Theo bộ giáo dục và đào tạo cho biết tổng dự đoán chi cho giáo dục và đào tạo
năm 2011 là 5018.6 tỉ tăng 2.9% so với năm 2010 (4937.5 tỷ) trong đó các khoản
chi sẽ tăng bao gồm sự nghiệp khoa học công nghệ (KHCN) tăng 8.1%, sự nghiệp

bảo vệ môi trường tăng 5.3%.
Ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục mỗi năm một tăng, hiện nay cao hơn
20% trong tổng chi ngân sách. Như vậy Việt Nam là một trong những nước đầu tư
cho giáo dục từ ngân sách vào loại cao trên thế giới.
1.1.2. Giáo dục mầm non
Giáo dục mầm non (GDMN) là cấp học đầu trong hệ thống giáo dục quốc dân,
đặt nền móng cho sự phát triển thể chất, trí tuệ, tình cảm và thẩm mỹ của trẻ. Ðể
GDMN thật sự đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng, ngoài việc bảo đảm tốt
các yếu tố như chương trình học, đội ngũ giáo viên thì hệ thống cơ sở hạ tầng
trường, lớp học cũng giữ vai trò quan trọng.
Phát triển GDMN nhằm tạo bước chuyển biến cơ bản, vững chắc và toàn diện,
nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ. Những năm qua, mạng
lưới cơ sở vật chất cho GDMN được quan tâm phát triển. Theo Bộ Giáo dục và
Ðào tạo (GD và ÐT), từ khi Ðề án kiên cố hóa trường lớp học, nhà công vụ giáo
viên được triển khai, nhiều trường học nói chung, trường mầm non nói riêng được
xây dựng khang trang, đáp ứng nhu cầu học tập của trẻ mầm non, nhất là trẻ ở
vùng khó khăn. Mặt khác, trong năm năm gần đây, nhiều tỉnh, thành phố đã quan
tâm đầu tư xây dựng các công trình nước sạch, công trình vệ sinh đạt tiêu chuẩn;
cải tạo, củng cố và xây dựng hơn 26 nghìn sân chơi ngoài trời, trang bị đồ chơi bổ
ích cho 16 nghìn sân chơi tạo môi trường học tập tốt cho GDMN.
Kết quả của Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 là
24
• Tỷ lệ trẻ dưới 3 tuổi đến nhà trẻ đạt 21,1% (vượt 1,2% so với kế
hoạch)
• Tỷ lệ trẻ 3-5 tuổi đến nhà trẻ, mẫu giáo đạt 80,9% (vượt 13,9% so
với kế hoạch)
• Tỷ lệ trẻ 5 tuổi đi học mẫu giáo đạt 98% (vượt 3% so với kế
hoạch)
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, với số lượng khoảng hơn ba triệu trẻ học mầm non
hằng năm, mạng lưới trường, lớp hiện nay vẫn còn thiếu để thực hiện huy động trẻ

ra lớp đồng đều giữa các vùng, miền, nhất là cơ hội đến trường của trẻ em miền núi
vùng sâu, vùng xa bị hạn chế. Ðáng chú ý, năm học 2008-2009, vẫn còn khoảng
15% số xã chỉ có một đến hai lớp mẫu giáo gắn với trường tiểu học hoặc lớp mẫu
giáo độc lập đặt ở trung tâm xã; thậm chí nhiều thôn, bản ở xa chưa có phòng học
để mở lớp mẫu giáo. Ở một số tỉnh, thành phố, việc xây dựng quy hoạch các khu
dân cư, khu đô thị chưa gắn với quy hoạch đất đai để xây dựng trường, lớp mầm
non đã dẫn đến tình trạng, một số trẻ em ở lứa tuổi mầm non không được đến
trường. Tình trạng nhiều trẻ em không được đến lớp, hoặc đến nhưng chỉ học một
buổi và với chương trình rút gọn xảy ra ở nhiều địa phương.
Mặc dù phát triển GDMN được đánh giá như điểm khởi đầu cho GD và ÐT con
người nhưng thực tế việc nâng cao chất lượng cơ sở vật chất trường, lớp học của
bậc học mầm non còn nhiều hạn chế. Phòng học kiên cố của GDMN hiện nay
chiếm tỷ lệ thấp; số phòng học tạm, phòng tranh tre, nứa, lá, phòng học nhờ nhà
dân và đình chùa còn phổ biến. Theo các chuyên gia giáo dục, công tác quản lý, chỉ
đạo phát triển GDMN trong nhiều năm qua chưa đổi mới và chưa theo kịp yêu cầu.
Việc chăm lo để mọi trẻ em được đến trường, lớp mầm non là trách nhiệm của các
cấp, các ngành, của mỗi gia đình và toàn xã hội. Tuy nhiên, tình trạng thiếu cơ sở
vật chất trường, lớp học cho GDMN cho thấy cần có sự quan tâm đúng mức, thiết
thực đối với bậc học này
Bên cạnh đó, chất lượng chăm sóc GDMN hạn chế, nhất là đội ngũ giáo viên và
cán bộ quản lý còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, chưa đáp ứng yêu cầu đổi
mới GDMN hiện nay. Nhiều nơi nhóm lớp mầm non tư thục tận dụng nhà ở, nhà
thuê, thiếu nhiều trang thiết bị và phòng lớp không đủ điều kiện để đáp ứng nhu
cầu chăm sóc, giáo dục trẻ. Thậm chí nhiều điểm trông giữ trẻ mở 'chui', vừa thiếu
thốn về cơ sở vật chất, thiết bị, vừa thiếu phương pháp sư phạm chăm sóc trẻ
25

×