Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lí đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 69 trang )

Đề tài: Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này
trong công tác quản lí đầu tư
MỤC LỤC
Mục lục
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1: Lý luận chung về đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những
đặc điểm này trong công tác quản lý đầu tư
1.1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư phát triển
1.1.1. Đầu tư
1.1.2. Đầu tư phát triển
1.1.2. Mối tương quan giữa đầu tư và đầu tư phát triển
1.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển
1.2.1. Qui mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường
rất lớn
1.2.2. Thời kì đầu tư kéo dài
1.2.3. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài
1.2.4. Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển
1.2.5. Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao
1.3. Sự quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư
1.3.1.Đặc điểm thứ nhất
1.3.2. Đặc điểm thứ hai
1.3.3. Đặc điểm thứ ba
1.3.4. Đặc điểm thứ tư
1.3.5. Đặc điểm thứ năm
Chương 2: Thực trạng về đầu tư phát triển và đánh giá sự quán triệt những đặc điểm của
đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2000-2010
2.1.Thực trạng chung về đầu tư phát triển ở Việt Nam
2.2. Thực trạng chung về công tác quản lý hoạt động đầu tư phát triển ở Việt Nam
2.3Đánh giá thực trạng sự quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác
quản lý đầu tư ở Việt Nam


2.3.1. Đánh giá sự quán triệt đặc điểm thứ nhất
2.3.1.1. Thực trạng chuẩn bị và sử dụng tiền vốn đầu tư
2.3.1.1.1 Khả năng tạo lập huy động vốn đầu tư phát triển ngày càng tăng
2.3.1.1.2 Tình hình các nguồn vốn cho đầu tư phát triển
2.3.1.1.3 Một số bất cập trong việc huy động vốn hiện nay và giải pháp khắc phục
2.3.1.2. Thực trạng chuẩn bị và sử dụng nguồn nhân lực
2.3.1.3. Thực trạng chuẩn bị và sử dụng nguồn vật tư
2.3.2. Đánh giá sự quán triệt đặc điểm thứ hai
2.3.2.1. Thực trạng về lập kế hoạch vốn đầu tư cho thời kỳ đầu tư kéo dài
2.3.2.2. Tình trạng đầu tư dàn trải
2.3.2.3. Công tác quản lý giám sát còn thực hiện chưa tốt, dẫn đến tình trạng các công
trình sai phạm, chất lượng thấp xảy ra ngày càng nghiêm trọng.
2.3.2.4. Nghiên cứu tình huống cụ thể trường hợp tập đoàn Vinashin
2.3.3. Đánh giá sự quán triệt của đặc điểm thứ ba:
2.3.3.1 Thực trạng về hoạt động xây dựng cơ chế trong họat động đầu tư
2.3.3.1.1 Cơ chế vận hành chính sách đầu tư:
2.3.3.1.1.1.Cơ chế vận hành chính sách đầu tư còn nhiều hạn chế
2.3.3.1.2.Quá trình bảo hành bảo trì ở Việt Nam vẫn chưa được đề cao đúng mức.
2.3.3.2. Phương pháp dự báo khoa học:
2.3.3.2.1. Phân loại
2.3.3.2.2. Quy trình dự báo
2.3.3.2.3. Tình hình các phương pháp/mô hình dự báo ở Việt nam
2.3.4. Đánh giá sự quán triệt của đặc điểm thứ tư
2.3.5. Đánh giá sự quán triệt đặc điểm thứ năm
Chương 3: Giải pháp tăng cường quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong
công tác quản lý đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư
3.1. Dự báo xu hướng đầu tư phát triển trong giai đoạn 2011- 2015
3.2. . Giải pháp tăng cường quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác
quản lý đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư.
3.2.1. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ nhất

3.2.1.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình huy động vốn
3.2.1.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình sử dụng vốn
3.2.2. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ hai
3.2.2.1. Giải pháp tiến hành phân kì đầu tư
3.2.2.2. Giải pháp Thực hiện tốt cơ chế giám sát cộng đồng nhằm nâng cao chất lượng của
hoạt động đầu tư
3.2.3. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ ba
3.2.3.1. Giải pháp xây dựng cơ chế và phương pháp dự báo khoa học
3.2.3.2. Giải pháp quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh chóng đưa các kết quả đầu tư vào sử
dụng và hoạt động tối đa công suất
3.2.3.3. Giải pháp quan tâm đúng mức đến độ rễ thời gian trong đầu tư
3.2.4. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ tư
3.2.4.1. Giải pháp hoàn thiện các chủ trương , quyết định đầu tư
3.2.4.2. Giải pháp lựa chọnn đia điểm dầu tư hợp lý
3.2.5. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ năm
3.2.5.1. Giải pháp hoàn thiện, nâng cao hoạt động nhận diện và quá trình đánh giá mức độ
rủi ro
3.2.5.2.Giải pháp xây dựng các biện pháp phòng và chống rủi ro
3.2.5.3. Giải pháp đối với Nhà nước
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
I.Phần mở đầu
Kinh tế thế giới năm 2008 qua đi đã để lại những hậu quả lớn cho nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, khi khó khăn dần qua đi nền kinh tế thế giới đang tìm lại sự cần bằng và phát
triển cần có. Là một thành viên trong cộng đồng thế giới, kinh tế Việt Nam cũng có những
bước tiến đáng kể, bước lên từ trong khó khăn. Năm 2010 là một năm đáng nhớ đối với nền
kinh tế Việt Nam, đan xen giữa những thành công trong điều kiện khó khăn là những vấn đề
bộc lộ đòi hỏi phải giải quyết. Nhìn lại một năm đầy biến động của nền kinh tế có thể thấy rõ
điều này. Trong bối cảnh khó khăn của kinh tế toàn cầu, dù nội lực nền kinh tế còn chưa
mạnh, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 6,78%, cao hơn chỉ tiêu kế hoạch đề ra (6,5%).

Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2010, con số này ước tăng 14% so năm trước và cao hơn
kế hoạch năm (12%). Giá trị sản xuất toàn ngành nông, lâm, thủy sản cả năm 2010 ước tăng
4,69% so năm trước, trong đó nông nghiệp tăng 4,24%, lâm nghiệp tăng 4,6%, thủy sản tăng
6,05%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tính chung cả năm 2010
ước đạt hơn 1.561,6 nghìn tỷ đồng, tăng 24,5% so với năm 2009. Thu ngân sách Nhà nước
tính từ đầu năm đến ngày 15/12 ước đạt 504,4 nghìn tỷ đồng, bằng 109,3% dự toán năm.
Bên cạnh những thành tựu chung thì nhìn lại năm 2010, nền kinh tế cũng bộc lộ nhiều
vấn đề. Kinh tế vĩ mô vẫn thiếu nền tảng vững chắc, chất lượng tăng trưởng thấp, tiềm ẩn
không ít bất trắc, nếu không sớm khắc phục có thể ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định trong
những năm tiếp theo. Ðánh giá chung, tình hình kinh tế-xã hội năm 2010 phát triển theo
chiều hướng tích cực, nền kinh tế phục hồi khá nhanh trong điều kiện kinh tế thế giới vẫn
còn nhiều diễn biến phức tạp; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống nhân dân ngày càng
được cải thiện; chính trị, xã hội tiếp tục ổn định. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn nhiều khó
khăn, thách thức: Thiên tai, lũ lụt đã gây thiệt hại rất lớn về người và tài sản; áp lực của nền
kinh tế thế giới tác động không nhỏ đến nền kinh tế trong nước. Hy vọng bước sang năm
2011, năm đầu của thập niên mới, con thuyền kinh tế của Việt Nam sẽ không ngừng vươn
lên, tiếp tục phát triển vững chắc nhằm đưa đời sống nhân dân ngày càng cải thiện hơn nữa.
Có thể thấy, Việt Nam có đẩy đủ các điều kiện thuận lợi để phát triển một nền kinh tế
toàn cầu cởi mở hơn trong vòng 20 năm vừa qua. Bằng việc mở rộng ngoại thương và đầu tư
và hòa nhập nhanh chóng với các nền kinh tế phát triển, Bằng việc mở rộng ngoại thương và
đầu tư và hòa nhập nhanh chóng với các nền kinh tế phát triển, kinh tế Việt Nam đã đạt được
những thành tựu đáng kể. Kinh tế Việt Nam hiện nay đang đứng trước những thuận lợi cũng
như những thách thức lớn, trong hoàn cảnh này, vai trò của công tác đầu tư phát triển trở nên
hết sức quan trọng, là điểm mốc đánh dấu sự phát triển tương lai của đất nước. Bài viết “Đặc
điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lí đầu
tư” sẽ tập trung nghiên cứu đặc điểm của đầu tư phát triển tại Việt Nam cũng như định
hướng cho công tác quản lí đầu tư hiệu quả trong thời gian tới.
II.Phần nội dung
Chương 1: Lý luận chung về đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những
đặc điểm này trong công tác đầu tư

1.1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư phát triển
1.1.1. Đầu tư
Hiện nay đầu tư là một hoạt động khá phổ biến trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc
dân . Nhưng trong mỗi lĩnh vực thì hoạt động đầu tư được biểu hiện dưới những tính chất
khác nhau . Do đó có khá nhiều khái niệm đầu tư ra đời . Sau đây chúng tôi xin đưa ra một
vài khái niệm về đầu tư
- Đầu tư là sự gia tăng của các tài sản hiện vật, là sự bỏ ra một cái gì đó ở hiện tại ( như
tiền, sức lao động, của cải vật chất,trí tuệ) nhằm đạt được kết quả có lợi cho nhà đầu tư trong
tương lai
-Đầu tư là sự sử dụng vốn để tạo ra các nhân tố sản xuất, đặc biệt là các tư liệu sản xuất
như nhà xưởng,máy móc và vật tư cũng như để mua cổ phiếu, trái phiếu hoặc cho vay lấy lãi
mà ở đó những chủ đầu tư này có thể sinh lợi dần hoặc thỏa mãn nhu cầu nào đó cho người
bỏ vốn cũng như toàn xã hội tại thời gian nhất định trong tương lai
-Đầu tư là sử dụng vốn nhằm tạo nên các dự trữ và tiềm năng về tài sản để sinh lợi dần về
thời gian trong tương lai ( Dự trữ : Sử dụng dần , VD: Nhà máy xây dựng để sử dụng dần )
-Đầu tư là một chuỗi hành động chi cho một chủ trương kinh doanh nào đó và từ đó chủ
đầu tư sẽ thu được một chuỗi các khoản thu để đảm bảo hoàn vốn và có lãi một cách thích
đáng
-Đầu tư là một quá trình quản lý, sử dụng tài snr một cách hợp lý(nhất là về mặt cơ cấu
tài sản ) để sinh lời
-Đầu tư là sử dụng các khoản tiền tích lũy của xã hội ,của các cơ sở sản xuất kinh doanh
và dịch vụ, tiết kiệm của dân vào tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra tiềm lực lớn hơn về mọi
mặt của đời sống xã hội
Từ những khái niệm trên chúng ta thấy rằng hoạt động đầu tư có những đặc điểm chung
như sau:
+ Nguồn lực sử dụng sẽ không mất đi mà lớn hơn nguồn lực sử dụng ban đầu khi thực
hiện hoạt động đầu tư
+ Mục tiêu của hoạt động đầu tư ở đây là kì vọng còn thực hiện hay không còn phụ thuộc
nhiều yếu tố khác của chủ đầu tư
+ Đều phải bỏ ra một chi phí nhất định ở hiện tại

+ Phạm trù thời gian thường là dài
Từ đây ta có thể đưa ra khái niệm chung nhất về đầu tư :
“ Đầu tư nói chung là quá trình sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ
ra để đạt được kết quả đó ”
1.2.2. Đầu tư phát triển:
Nguồn lực cho hoạt động đầu tư phát triển tương đối lớn do bản chất của hoạt động này
mang tính phức tạp hơn các hoạt động đầu tư khác. Xét theo nghĩa hẹp,nguồn lực sử dụng
cho đầu tư phát triển là tiền vốn nhưng xét theo nghĩa rộng, nguồn lực đầu tư bao gồm cả
tiền vốn, đất đai, lao động,máy móc, thiết bị, tài nguyên. Do đó ,khi xem xét lựa chọn dự án
đầu tư hay đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển cần tính đúng ,tính đủ các nguồn
lực tham gia để đưa ra những quyết định hợp lý nhất
Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn thực hiện
nhằm đạt được mục tiêu nhất định trong tương lai. Mỗi đối tượng đều mang những nét đặc
trưng riêng , trên mỗi góc độ của nền kinh tế nó lại mang một tính chất khác nhau .Vì vậy
mà có khá nhiều cách phân loại đối tượng của đầu tư phát triển
+ Xét trên quan điểm phân công lao động xã hội có 2 nhóm đối tượng đầu tư chính là :
Đầu tư theo ngành và đầu tư theo lãnh thổ
+ Xét trên góc độ tính chất và mục đích đầu tư chia thành 2 nhóm chính : Công trình vì
mục đích lợi nhuận và công trình vì mục đích phi lợi nhuận
+Xét trên góc độ tầm quan trọng, đối tượng đầu tư chia thành: Loại được khuyến khích
đầu tư, loại không được khuyến khích đầu tư, loại bị cấm đầu tư
+Xét trên góc độ tài sản, đối tượng đầu tư chia thành: Tài sản vật chất và tài sản vô hình
Kết quả của đầu phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và tài sản vô
hình. Kết quả đạt được của đầu tư phát triển góp phần làm gia tăng năng lực sản xuất của xã
hội. Hiệu quả của đầu tư phát triển phản ánh quan hệ giữa kết quả về cả mặt tài chính và
mặt kinh tế xã hội , chi phí phải bỏ ra để đạt được kết quả đó trong một thời kì nhất định. Kết
quả cũng như hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển cần được xem xét cả trên phương
diện chủ đầu tư và xã hội ,nó phải đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích của các bên , vừa
phát huy vai trò chủ động sáng tạo của chủ đầu tư , vừa thực hiện tốt vai trò quản lý, kiểm tra

giám sát của cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp . Trên thực tế có những khoản đầu tư
không trực tiếp tạo ra tài sản cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng lại rất quan trọng để
nâng cao chất lượng cuộc sống và vì mục tiêu phát triển ,cũng được xem là đầu tư phát triển
như : đầu tư cho y tế, đầu tư cho giáo dục
Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích của quốc gia, cộng
đồng và nhà đầu tư. Mỗi chủ thể có liên quan tới hoạt động đầu tư phát triển đều vì một mục
đích nhất định. Đối với các doanh nghiệp mục đích của họ là tối thiểu chi phí, tối đa lợi
nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực. Còn đầu tư nhà nước
với mục đích thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập quốc dân , góp phần giải quyết việc
làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Đối với đầu tư phát triển thường được thực hiện bởi một chủ đầu tư nhất định . Xác định
rõ chủ đầu tư có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình quản lý đầu tư nói chung và vốn
đầu tư nói riêng. Chủ đầu tư là người sở hữu vốn, ra quyết định đầu tư , quản lý quá trình
thực hiện và vận hành kết quả đầu tư và là người hưởng lợi từ thành quả đầu tư đó. Chủ đầu
tư chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát đầu tư, chịu trách nhiệm về những sai phạm và hậu
quả do ảnh hưởng của đầu tư đến môi trường và môi sinh , vì vậy có ảnh hưởng quan trọng
đến việc nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư
Hoạt động đầu tư phát triển là một quá trình tương đối dài và nảy sinh vấn đề về “độ trễ
thời gian”. Độ trễ thời gian là sự không trùng hợp giữa thời gian đầu tư với thời gian vận
hành các kết quả đầu tư. Đầu tư ở hiện tại nhưng kết quả thì thường thu được trong tương lai.
Kiểm soát được độ trễ thời gian sẽ giúp cho chủ đầu tư đưa ra những quyết định hợp lý từ đó
nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
Xét trên phương diện nền kinh tế đầu tư phát triển là hình thức đầu tư trực tiếp tạo ra tài
sản mới cho nền kinh tế, đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ. nó đóng vai trò quan trọng đối
với tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế tại mỗi quốc gia
Do vậy chúng ta có thể khái quát như sau:
“Đầu tư phát triển là một hoạt động đầu tư trực tiếp, hoạt động đầu tư này nhằm duy trì và
tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt đời sống của xã hội”
1.2.3. Mối quan hệ giữa đầu tư phát triển và các loại hình đầu tư khác:
Trong nền kinh tế quốc dân hoạt động đầu tư được chia thành 3 nhóm chính : đầu tư tài

chính, đầu tư thương mại và đầu tư phát triển . Mỗi hoạt động đầu tư này đều mang những
đặc trưng của hoạt động đầu tư nói chung nhưng bên cạnh đó chúng lại khác nhau về mặt
bản chất . Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua
các chứng chỉ có giá trị trên thị trường tiền tệ , thị trường vốn để hưởng lãi suất định trước
hoặc lợi nhuận tùy vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Trong
hoạt động đầu tư tài chính chủ đầu tư thường có kì vọng thu được lợi nhuận cao khi đầu tư
nhưng thực tế lợi nhuận thu được có thể tăng giảm không theo ý muốn và thường được thực
hiện gián tiếp thông qua các trung gian tài chính như: ngân hàng, công ty chứng khoán. Khác
với hoạt động đầu tư phát triển , đầu tư tài chính không trực tiếp làm tăng tài sản thực cho
nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính cho chủ đầu tư. Còn đầu tư thương mại là
hoạt động đầu tư trong lĩnh vực lưu thông và phân phối hàng hóa, người có tiền mua hàng
hóa và bán với giá cao hơn để hưởng chênh lệch giá khi mua và khi bán . Khác với hoạt
động đầu tư phát triển, nếu không xét đến quan hệ ngoại thương thì loại đầu tư này đầu tư
thương mại cũng không trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế , những giá trị tăng
thêm do hoạt động đầu tư thương mại mang lại chỉ là sự phân phối lại thu nhập giữa các
ngành, các địa phương , các tầng lớp dân cư trong xã hội. Mặc dù như thế nhưng những hoạt
động dầu tư này lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đầu tư tài chính là kênh huy động
vốn rất quan trọng cho hoạt động đầu tư phát triển và là một trong những loại hình đầu tư lựa
chọn để tối đa hóa lợi ích, giảm thiểu rủi ro cho các chủ đầu tư . Với đầu tư thương mại lại
chính là kênh phân phối cho đầu tư phát triển, nó quyết định tới khả năng thu hồi vốn và có
lãi đối với hoạt động đầu tư này.
1.3. Đặc điểm của đầu tư phát triển
1.2.1. Qui mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển
thường rất lớn
Bản chất của hoạt động đầu tư phát triển là nhằm duy trì và tạo ra năng lực sản xuất mới
vì vậy hoạt động này thường gắn liền với quá trình hình thành một loại sản phẩm cho xã hội
dưới dạng các công trình xây dựng, nhà xưởng ,máy móc trang thiết bị khoa học,hay thực
hiện các chi phí phục vụ cho một chu kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào đó. Các sản
phẩm này thường có tính chất và kết cấu phức tạp vì vậy mà để tạo được một sản phẩm như
thế thường đòi hỏi một lượng vốn lớn. Mặt khác hoạt động đầu tư phát triển mang tính chất

liên hoàn, đồng bộ tức là khi một công đoạn thi công chưa hoàn thành thì không thể vận hành
hoặc vận hành nhưng không đạt được năng suất cao , chất lượng như dự tính cho nên thường
lượng vốn cho đầu tư phát triển sẽ tồn tại dưới dạng sản phẩm dở dang , nằm khê đọng trong
suốt quá trình thực hiện đầu tư. Hoạt động đầu tư phát triển có tính chất phức tạp hơn các
hình thức đầu tư khác bởi sản phẩm của nó thường là vật chất, quy mô lớn vì vậy nên nguồn
nguyên liệu đầu vào cũng phải phong phú, đa dạng và tương đối lớn ,có thể phải nhập khẩu từ
nước ngoài. Đối với các dự án đầu tư phát triển thì phải thi công nhiều hạng mục công trình
đòi hỏi kĩ thuật cao do đó cần một lượng lao động dồi dào, có tính chất công việc, trình độ
chuyên môn trong nhiều lĩnh vực khác nhau mới có thể đáp ứng được yêu cầu đặt ra .
1.2.2.Thời kì đầu tư kéo dài
Vì tính chất phức tạp của dự án đâù tư phát triển, đòi hỏi trình độ kĩ thuật cao mới tạo ra
được kết quả đầu tư như mong muốn. Cho nên trong quá trình đầu tư phải tỉ mỉ theo sát từng
công đoạn thực hiện bởi với tính chất liên hoàn của công trình nếu một khâu làm không đúng
sẽ ảnh hưởng tới chất lượng kết quả cuối cùng gây nên tổn thất lớn cho chủ đầu tư Bên cạnh
đó, các dự án đầu tư phát triển thường chịu ảnh hưởng của các yếu tố khó có thể tránh khỏi
trong quá trình thi công công trình như: thiên tai, bão lũ, thời tiết, khí hậu,chính trị bất ổn…
làm cho công trình bị ngưng trệ và không thể thực hiện trong một thời gian dài. Hơn nữa với
sự phá hủy công trình, cộng thêm một lượng vốn bỏ vào đó khá lớn, các hiện tượng tự nhiên
lại diễn ra bất ngờ khó nằm trong dự đoán của chủ đầu tư vì vậy chủ đầu tư cần phải có thời
gian huy động thêm vốn để có thể khắc phục hậu quả và tiếp tục thực hiện dự án. Trong quá
trình đầu tư cũng chịu tác động của môi trường xã hội xung quanh, nếu dự án bị cản trở bởi
sự không đồng tình của dân chúng trong khu vực xây dựng hay của nhân công, xảy ra các vụ
biểu tình, phản đối, đình công đã làm cho dự án phải kéo dài thời gian để giải quyết hay là
biến động nguồn nguyên vật liệu đầu vào cũng làm ngưng trệ quá trình sản xuất…Do tính
chất đòi hỏi sự kì công cũng như chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên ngoài cho nên hoạt
động đầu tư phát triển thường có thời kì đầu tư kéo dài hơn các hoạt động đầu tư khác.
1.2.3. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài
Đối với hoạt động đầu tư phát triển thời gian vận hành các kết quả đầu tư tính từ khi đưa
công trình vào hoạt động cho tới khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình. Do hoạt
động đầu tư phát triển phải bỏ ra một lượng vốn lớn, trong thời gian thực hiện đầu tư vốn

nằm khê đọng dưới hình thái sản phẩm dở dang thì không thể vận hành hay vận hành được
nhưng hiệu quả không cao do đó khó thu hồi được lượng vốn lớn bỏ ra trong một thời gian
ngắn. Hơn nữa khi sản phẩm của quá trình vận hành ra đời không thể ngay lập tức tiếp cận
với người tiêu dùng như một sản phẩm quen thuộc mà cũng cần một thời gian nhất định nào
đó mới xâm nhập được vào thị trường. Cho nên sau khi hoạt động đầu tư kết thúc để thu lại
được khoản vốn lớn và có lãi thì quá trình vận hành kết quả đầu tư phải diễn ra trong thời
gian tương đối dài. Mặt khác do thời kì đầu tư phát triển diễn ra dài nên các kết quả của hoạt
động này thường là các công trình kiên cố, phát huy tác dụng lâu dài từ 10 năm, 20 năm…và
có thể có giá trị sử dụng vĩnh viễn về mặt tinh thần như các công trình : Kim Tự Tháp, Vạn
Lý Trường Thành. Trong quá trình vận hành kết quả đầu tư chịu tác động cả hai mặt tích cực
và tiêu cực của nhiều yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế xã hội tại nơi mà nó tồn tại. Để thích
ứng, giải quyết các vấn đề này cần phải có thời gian đi tìm hiểu và khắc phục dần vì vậy sẽ
kéo dài tiến độ vận hành kết quả đầu tư.
1.2.4. Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển sẽ hoạt động ở ngay tại nơi nó
được tạo dựng nên
Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển thường là các công trình xây dựng kiên cố
không thể di dời được do đó quá trình vận hành kết quả đầu tư thường diễn ra tại ngay nơi
mà nó được tạo dựng nên và chịu sự chi phối bởi tình hình kinh tế,xã hội, điều kiện tự
nhiên tại khu vực đó. Ví dụ như quy mô đầu tư xây dựng nhà máy lọc dầu phụ thuộc rất
nhiều vào trữ lượng dầu của mỏ; nếu trữ lượng của mỏ ít thì nhà máy lọc dầu không nên
quá lớn để đảm bảo cho nhà máy hoạt động hết công suất theo dự kiến trong dự án tránh
tình trạng lãng phí vốn đầu tư. Do đó trước khi thực hiện hoạt động đầu tư cần có kế hoạch
thăm dò, tìm hiểu, tính toán kĩ lưỡng toàn diện tất cả các khía cạnh thị trường, môi trường
xã hội, kinh tế kĩ thuật, kinh tế tài chính, diều kiện tự nhiên, môi trường pháp lý….có liên
quan tới quá trình thực hiện cũng như vận hành kết quả đầu tư để đảm bảo cho hoạt động
đầu tư được tiến hành thuận lợi, đạt được mục tiêu như mong muốn và đem lại hiệu quả
kinh tế xã hội cao. Cần có các biện pháp hợp lý nhằm dự đoán trước các ảnh hưởng mà
quá trình phát huy tác dụng của kết quả đầu tư đối với môi trường sống xung quanh để có
thể khắc phục ngay trong quá trình thực hiện dự án tránh tình trạng khi vận hành mới thấy
hậu quả của nó gây ra làm xáo trộn cuộc sống của dân cư trong khu vực đặt dự án thì rất

khó có thể khắc phục được.Như vậy chủ đầu tư sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình
vận hành làm giảm hiệu quả phát huy tác dụng của dự án gây ra tổn thất không nhỏ tới lợi
nhuận của dự án.
1.2.5. Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao
Hoạt động đầu tư phát triển cần một lượng vốn lớn, vốn lại nằm khê đọng trong quá trình
thực hiện đầu tư dưới hình thái là sản phẩm dở dang , thêm vào đó là thời gian đầu tư kéo dài
cho nên không thể tránh khỏi tác động của các yếu tố tiêu cực gây ra rủi ro cho hoạt động
đầu tư . Rủi ro đầu tư do nhiều nguyên nhân gây ra, có những nguyên nhân có thể khắc phục
được đó là những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ phiá các nhà đầu tư như quản lý kém,
chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu, ….nhưng bên cạnh đó cũng có những nguyên nhân
khách quan khó có thể tránh được như giá nguyên vật liệu tăng , giá bán sản phẩm giảm,
thiên tai, bão lũ, hay tình hình kinh tế xã hội tại khu vực thực hiện dự án không ổn
định….những rủi ro này tác động xấu tới quá trình vận hành kết quả đầu tư cũng như khả
năng thu hồi vốn của chủ đầu tư . Do đó có thể dẫn tới hành động phá sản, đóng cửa sản xuất
trong quá trình phát huy tác dụng của kết quả đầu tư.Việc nhận định rõ các nguyên nhân rủi
ro và tìm ra biện pháp ứng phó kịp thời sẽ làm giảm mức độ thiệt hại cho chủ đầu tư
1.3.Sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư
1.3.1. Quy mô tiền vốn cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn. Do đó
cần có giải pháp huy động vốn hợp lí, sử dụng nguồn vốn hiệu quả.
Vốn của hoạt động đầu tư phát triển rất lớn do đó để chuẩn bị đầy đủ nguồn vốn cần thiết
cần tiến hành huy động qua các kênh khác nhau với các biện pháp thích hợp.
Thu hút vốn với phương châm dựa vào nguồn vốn trong nước là chính, vốn nước ngoài là
yếu tố quan trọng và hướng tới giảm dần về tỉ trọng.
-Với vốn trong nước, tạo điều kiện khuyến khích bằng cơ chế lãi suất, và các chính sách
cổ phần hóa nhằm tăng nguồn vốn huy động cũng như tạo thuận lợi cho quá trình huy động.
-Với nguồn huy động vốn nước ngoài, thực hiện các chủ trương mở cửa, tạo môi trường
hấp dẫn các nhà đầu tư đồng thời hoàn thiện các quy định của luật pháp một cách rõ ràng,
chặt chẽ nhằm tránh những thiệt hại không đáng có.
Với nguồn vốn lớn, trong thời gian thực hiện dễ xảy ra thất thoát do đó, cần có sự quản lí
chặt chẽ để tránh những dòng đi không đúng hướng của vốn cũng như những thất thoát,

thiếu hiệu quả.
Vốn đầu tư lớn nằm khe đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu tư, vốn tồn tại dưới
dạng công trình xây dựng dở dang, không có khả năng sinh lời. Nên để phát huy được hiệu
quả của dự án, trước tiên công tác quản lý cần phải đánh giá và phân tích được tính khả thi
và tính hiệu quả của dự án, mức độ chính xác của quyết định thực hiện đầu tư thông qua:
Nghiên cứu điều kiện vĩ mô: phân tích khía cạnh kinh tế, chính trị, môi trường pháp lý,
môi trường tự nhiên, tài nguyên, môi trường văn hóa xã hội.
Nghiên cứu thị trường: Phân tích, đánh giá hiện trạng tổng thể cung cầu, đưa ra thị trường
mục tiêu, sản phẩm, khách hàng mục tiêu, phân tích và dự báo cung cầu trong tương lai, tìm
kiếm và phát triển lợi thế so sánh, đưa ra chiến lược cạnh tranh.
Nghiên cứu kỹ thuật: nghiên cứu công suất, giải pháp công nghệ- máy móc thiết bị,
nguồn nguyên liệu đầu vào, lịch trình thực hiện các hạng mục công trình.
Nghiên cứu tổ chức và quản lý và nhân sự: đưa ra cơ cấu tổ chức hợp lí, phân công công
việc, đảm bảo quá trình thực hiện.
Phân tích tài chính, phân tích khía cạnh kinh tế- xã hội.
Sau đó đưa ra các giải pháp huy động vốn hợp lý. Bên cạnh đó, công tác quản lý còn phải
thực hiện xây dựng các chính sách quy hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ, phân bổ
vốn hợp lý, thực hiện đầu tư trọng tâm, trọng điểm để phát huy hiệu quả sử dụng vốn.
Dự án đầu tư phát triển đòi hỏi một lượng lớn lao động đặc biệt là sự góp mặt của lao
động có trình độ chuyên môn, tay nghề cao. Hiện nay, khả năng cung ứng lao động của nước
ta ở loại cao tuy nhiên lượng lao động có tay nghề còn khá hạn chế, do đó khâu đầu tiên cần
chú trọng công tác đào tạo nghề, hướng tới nâng cao chất lượng của đội ngũ lao động kế cận.
Sinh viên, nguồn tri thức đang được quan tâm hiện nay chủ yếu được đào tạo qua trường lớp
về lí thuyết, tính thực tế chưa cao, cần được mài giũa. Việc tận dụng đội ngũ sinh viên đông
đảo sẽ đem lạo hiệu quả rõ rệt. Đồng thời cần song song với việc có chế độ đãi ngộ thỏa
đáng, tránh hiện tượng chảy máu chất xám.
1.3.2. Thời kì đầu tư kéo dài:
Thời kì đầu tư được tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và
đưa vào hoạt động. Hoạt động đầu tư phát triển là hoạt động khá phức tạp, đòi hỏi trải qua
nhiều khâu do đó thời gian thường kéo dài. Tùy theo từng dự án đầu tư, thời gian này khác

nhau, tuy nhiên, nhìn chung các dự án đều mang tính kéo dài, có dự án 2 năm, 5 năm, thậm
chí có dự án lên tới hàng chục năm. 90-98% vốn được chia ra và huy động trong suốt thời
gian thực hiện đầu tư. Đây là những năm vốn không sinh lời, thời gian thực hiện càng kéo
dài vốn khê đọng càng nhiều, tổn thất càng lớn.
Trong suốt quá trình triển khai dự án, do thời gian dài nên dự án chịu sự tác động lớn từ
sự thay đổi của các yếu tố bên ngoài đến đầu vào cũng như đầu ra.
a, Các yếu tố đầu vào:
Đầu tiên phải kể đến nguồn nguyên vật liệu cho công trình. Giá nguyên vật liệu chính
dùng cho thi công như sắt, thép, xi măng, đá, cát… thường xuyên thay đổi do tác động
chung của thị trường. Giá sắt thép, gạch, sơn trong thời gian qua đã có nhiều đợt tăng
chóng mặt. Chi phí cho quá trình sản xuất còn kể đến chi cho năng lượng như điện, than,
xăng dầu, đây đều là những mặt hàng có biên độ tăng giá khá cao. Tiếp đến là giá thành
nguyên liệu phục vụ sản xuất kinh doanh. Sự tăng giá của các nguyên liệu trong nước cũng
như nước ngoài ảnh hưởng rất lớn đến chi phí sản xuất. Mặt khác, thực tế khá nhiều doanh
nghiệp Việt Nam sử dụng nguồn nguyên liệu nhập khẩu, do đó chịu ảnh hưởng nhiều bởi các
yếu tố chính trị - xã hội nước ngoài, chính sách tỉ giá, Đặc biệt phải kể đến các ngành như
dược, sắt thép, xi măng, dệt may, chế biến thức ăn thủy sản.
Lạm phát cao trong thời gian qua cùng với hiệu ứng dây chuyền đã tác động làm tăng giá
đầu vào của các xí nghiệp sản xuất.
Ngoài ra có thể kể tới sự thay đổi chính sách của nhà nước. Trong thời gian thi công,
chính sách nhà nước mặc dù không thay đổi nhiều nhưng cũng có những tác động nhất định
đến dự án. Chính sách quy hoạch, ưu đãi, chính sách tỉ giá ( tác động tới các doanh nghiệp
nhập khẩu nguyên vật liệu từ nước ngoài) …
b, Các yếu tố đầu ra:
Nhu cầu thị trường hay nói khác đi là thị hiếu của người tiêu dùng thay đổi khá nhanh,
đặc biệt là với đối tượng trẻ tuổi, chiếm tỉ trọng cao trong dân số nước ta. Tỉ lệ dân trong độ
tuổi lao động vào khoảng 66%. Sự thay đổi trong thị hiếu của bộ phận dân số này có tác
động rất lớn đến đầu ra của sản phẩm. Với lĩnh vực điện tử, công nghệ thông tin có mức tăng
trưởng chóng mặt, việc thời gian thi công kéo dài có thể dẫn tới những hậu quả nghiêm
trọng, sản phẩm làm ra không đáp ứng được nhu cầu thị trường, gây thất thu cho chủ đầu tư.

Bên cạnh đó, do thời gian đưa sản phẩm ra thị trường kéo dài dẫn tới giảm khả năng cạnh
tranh, yếu tố sống còn của doanh nghiệp.
Từ những tác động lớn của sự thay đổi các yếu tố liên quan tới quá trình thi công cũng
như sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặt ra vấn đề cần thực hiện công tác chuẩn bị
đầu tư một cách chi tiết, cụ thể, rõ ràng, chuẩn bị mọi tình huống có thể xảy ra. Khâu chuẩn
bị dự án bao gồm các giai đoạn nhỏ:
+ Nghiên cứu và phát hiện cơ hội đầu tư: Trong giai đoạn này đòi hỏi chủ đầu tư phải xem
xét kĩ lưỡng, nhận định nhu cầu thị trường cũng như tiềm lực của mình, lựa chọn các loại
hình đầu tư tiềm năng nằm trong khả năng của mình.
+ Nghiên cứu tiền khả thi: Đối với các dự án lớn, có quy mô quốc gia cần thực hiện nghiên
cứu tiền khả thi chi tiết nhằm đưa ra những đánh giá sát với dự án.
+ Nghiên cứu khả thi: Để đánh giá lại một lần nữa hiệu quả cũng như tính khả thi của dự
án.
+ Thẩm định dự án: Do tính chất quan trọng của dự án đầu tư phát triển, nhằm hạn chế yếu
tố chủ quan của chủ đầu tư, cần tiến hành công tác thẩm định dự án chặt chẽ, nghiêm minh,
đảm bảo dự án thực hiện chắc chắn đem lại hiệu quả kinh tế cũng như hiệu quả xã hội. Đối
với các dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách, cơ quan có thẩm quyền thẩm định, đối với các
dự án sử dụng vốn tư nhân, đòi hỏi doanh nghiệp cần thuê đội ngũ chuyên môn đánh giá mọi
mặt của dự án.
Cần căn cứ vào độ quan trọng mà phân bổ nguồn vốn hợp lí, tránh tình trạng dàn trải,
thiếu hiệu quả. Tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình có thể tiết kiệm chi
phí và thời gian. Trong quá trình triển khai dự án cần quản lí chặt chẽ chất lượng cũng như
tiến độ công trình, tránh thất thoát vốn, kéo dài thời gian hay nôn nóng chạy theo thành tích
coi nhẹ yêu cầu chất lượng, khắc phục tình trạng thiếu vốn, ứ đọng vốn trong quá trình thi
công… Đồng thời cần tuân thủ đúng lịch trình của dự án.
Mặt khác cần rút ngắn thời gian thi công công trình, giảm thiểu rủi ro và chi phí. Đồng
thời quản lí chặt chẽ việc sử dụng nguyên vật liệu, tránh lãng phí, nâng cao hiệu suất sử
dụng. Để đẩy mạnh quá trình thi công, cần áp dụng những trang thiết bị công nghệ hiện đại,
phù hợp với trình độ của công nhân cũng như năng lực quản lí của doanh nghiệp, nâng cao
chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu, nhân công, năng lượng, tạo lên hiệu

quả đầu tư.
1.3.3. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài
Thời gian vận hành kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi
hết thời gian sử dụng và đào thải công trình. Thời gian vận hành tùy thuộc vào loại hình đầu
tư, tuy nhiên đặc điểm này được thể hiện rõ trong các công trình kiến trúc. Có thể kể đến vài
công trình có thời gian sử dụng lâu dài như tòa nhà KangNam, các khu trung cư, thậm chí có
giá trị vĩnh viễn như Vạn Lí Trường Thành ở Trung Quốc, Đền thờ Ăng Co Vát
( Campuchia ), tháp nghiêng Pisa ( Italia) …. Trong suốt quãng thời gian vận hành đó, công
trình chịu sự tác động rất lớn của các yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội.
Đây là thời gian quyết định việc dự án có thực hiện được các mục tiêu đề ra hay không,
là quá trình thu hồi vốn, thời gian này khá dài nhất là đối với các công trình kiến trúc, do đó
chịu ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội:
+ Về thiên nhiên, sự tác động của thiên tai như bão, lũ ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng
cũng như tuổi thọ của công trính.
+ Về kinh tế, sự thay đổi của các yếu tố như tăng trưởng nhanh, cải thiện đời sống người
dân, làm thay đổi nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng. Ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử
dụng công trình.
+ Về chính trị - xã hội, các yếu tố như chiến tranh, xung đột vũ trang tuy ít xảy ra nhưng
có thể gây tác động rất lớn, ảnh hưởng, thậm chí hủy hoại công trình. Hay sự thay đổi trong
quan niệm, cách thức sử dụng của người tiêu dùng góp phần tác động thông qua việc khai
thác công trình đó như thế nào.
Quá trình vận hành kết quả đầu tư bao gồm các giai đoạn: sử dụng chưa hết công suất, sử
dụng công suất ở mức cao nhất, công xuất giảm dần và kết thúc dự án. Quá trình này gắn
liền với chu kì sống của sản phẩm: đưa sản phẩm vào thị trường, phát triển, chín muồi và suy
thoái. Nếu như các kết quả của giai đoạn thực hiện đầu tư tạo ra đảm bảo tính đồng bộ, giá
thành thấp, chất lượng tốt, đúng tiến độ, tại địa điểm thích hợp, với quy mô tối ưu thì hiệu
quả đầu tư của các kết quả này và mục tiêu của dự án chỉ còn phụ thuộc trực tiếp vào quá
trình quản lý hoạt động các kết quả đầu tư. Để quá trình sản xuất, kinh doanh đạt được mục
tiêu đề ra cần thực hiện tốt công tác quản lý dự án đầu tư:
+ Thứ nhất, cần xây dựng cơ chế và phương pháp dự báo khoa học ở cấp vĩ mô và vi mô

về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm đầu tư trong tương lai ,dự kiến khả năng cung hàng
năm và toàn bộ vòng đời dự án. Đối với sản phẩm, việc đáp ứng nhu cầu thị trường là hết
sức quan trọng, nếu như việc nghiên cứu thị trường không được thực hiện hiệu quả, không
nắm được toàn bộ thông tin về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm thì hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không được đảm bảo theo đúng quy luật cung - cầu , đặc
biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay của nước ta. Mặc khác nếu như việc dự báo không
được khoa học và chính xác thì hoạt động của doanh nghiệp có thể sẽ đi chệch hướng hay
hoạt động thiếu hiệu quả. Do đó, công tác dự báo là hết sức quan trọng, cần tiến hành tỉ mỉ
ngay từ khi lập dự án đồng thời cần tiếp tục thực hiện trong quá trình triển khai dự án để kịp
thời nắm bắt những thay đổi nhu cầu thị trường cũng như thay đổi của đối thủ cạnh tranh.
Sau khi tìm hiểu nhu cầu thị trường, cần xác định khả năng của doanh nghiệp từ đó đưa
ra lượng cung ứng phù hợp, quyết định mở rộng hay thu hẹp sản xuất. Việc phân tích đánh
giá tiềm năng của dự án cần phải dựa trên phân tích tổng quát, toàn diện, xem xét dựa trên cả
các vần đề về pháp luật, môi trường, văn hóa – xã hội …
+ Thứ hai, quản lý tốt quá trình vận hành nhanh chóng đưa các thành quả hoạt động đầu tư
vào sử dụng, hoạt động tối đa công suất, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư tránh hao mòn vô
hình . Đồng thời tuân thủ chiến lược về công suất, sử dụng công suất ở mức thấp để đối phó
với những thay đổi của thị trường.Vì trong giai đoạn đầu này sản phẩm mới được tung ra thị
trường cần có thời gian để sản phẩm thích ứng với người tiêu dùng. Phần nữa do máy móc
mới được đưa vào sử dụng cần phải hoạt động dưới mức công suất để đảm bảo cho máy móc
lâu bền và cũng cần thời gian để người công nhân lao động quen với tay nghề, máy móc .
Sau khi qua giai đoạn này, cần nhanh chóng sử dụng hết công suất để tránh hao mòn vô
hình, chiếm lĩnh thị trường. Giai đoạn này nhà đầu tư cố gắng duy trì trong một thời gian
càng dài càng tốt, kéo dài chu kì sống của sản phẩm. Nâng cao công tác quản lí hoạt động
sản xuất kinh doanh như đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, tăng cường tìm kiếm đối
tác mở rộng thị trường, sử dụng quảng cáo, tiếp thị sản phẩm, chăm sóc khách hàng, Chủ
đầu tư cần chuẩn bị một lượng vốn lớn cho giai đoạn này tránh tình trạng dự án phải nằm
chờ, đồng thời đảm bảo đủ nguồn cung đầu vào cho hoạt động sản xuất và tránh những
trường hợp rủi ro có thể gặp phải.
Đến khi chu kì sống của sản phẩm kết thúc chủ đầu tư cần phải dự báo được. Chu kì của

sản phẩm kết thúc khi có những dấu hiệu cơ bản sau: số lượng sản phẩm tiêu thụ giảm xuống
một cách rõ rệt giá thị trường của sản phẩm giảm dẫn tới sự giảm sút của doanh thu và lợi
nhuận, sự xuất hiện nhiều sản phẩm cùng loại trên thị trường nhưng mẫu mã, chất lượng
vượt trội. Khi đó chủ đầu tư phải nhanh chóng cắt giảm sản lượng, giảm công suất, chuẩn bị
mọi điều kiện cần thiết để kết thúc thanh lý dự án. Do đó, cần thực hiện tốt công tác nghiên
cứu, phân tích thị trường trong suốt quá trình thi công cũng như vận hành dự án, đảm bảo sự
nhạy bén với thay đổi của thị trường.
Nhà quản lý muốn nắm bắt tốt được thời điểm của thị trường, thúc đẩy hoạt động sản
xuất kinh doanh phù hợp thì đòi hỏi phải quản lý quá trình vận hành theo một trình tự và một
phương pháp khoa học. Đồng thời cũng đòi hỏi một khả năng nhạy bén sắc sảo của đội ngũ
bộ máy quản lý. Cách thức quản lí có đem lại hiệu quả hay không phụ thuộc khá nhiều vào
bộ máy tổ chức quản trị. Việc tổ chức bộ máy quản trị phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
• Thực hiện được các mục tiêu, chương trình đề ra
• Thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo quản lí
• Tổ chức bộ máy gọn nhẹ, hiệu quả
• Phân định rõ ràng quan hệ giữa các bộ phận
• Quy định quyền hạn đi đôi với trách nhiệm
• Hợp tác cùng thực hiện mục tiêu chung
+ Thứ ba, phải chú ý đúng mức đến độ trễ thời gian trong đầu tư. Đầu tư trong năm nay
nhưng thành quả đầu tư có thể phát huy tác dụng chỉ từ những năm sau và kéo dài trong
nhiều năm. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý hoạt động đầu tư. Điều chỉnh để
giảm thiểu độ trễ của hoạt động đầu tư hoặc dự báo trước sự chậm trễ đó để đưa ra cách khắc
phục là một yêu cầu khá quan trọng trong công tác quản lý. Muốn vậy nhà đầu tư cần thực
hiện quản lí đầu tư một cách hiệu quả, giảm bớt những khâu không cần thiết, chuẩn bị đủ
nguồn vốn cũng như nhân lực, nguyên nhiên liệu trong suốt quá trình thi công cũng như vận
hành dự án.
1.3.4.Các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở
ngay tại nơi nó được tạo dựng
Do đó yêu cầu đầu tiên là cần có chủ trương và quyết định đầu tư đúng, công tác quản lý
cần làm tốt công việc liên quan lựa chọn địa điểm thực hiện, cách thức tận dụng lợi thế của

vùng.
Các thành quả hoạt động tại địa điểm nó được xây dựng do đó theo thời gian sẽ chịu tác
động bởi các yếu tố môi trường, văn hóa, yếu tố địa chất, địa lý ở đó. Do vậy để hoạt động
đầu tư có hiệu quả lâu dài và tận dụng được lợi thế của địa điểm, công tác đầu tư quán triệt
nghiên cứu và phân tích các yếu tố liên quan lựa chọn địa điểm. Cụ thể:
+ Nghiên cứu chi phí: giá thành xây dựng công trình, chi phí bồi thường giải phóng mặt
bằng, chi phí thuê- mua đất, khoản phí bổ sung cơ sở hạ tầng… Chi phí là một yếu tố rất
quan trọng đối với hoạt động đầu tư phát triển, quyết định đến thành công của dự án. Nghiên
cứu kĩ chi phí của từng địa điểm từ đó lựa chọn địa điểm có chi phí thấp hơn sẽ tiết kiệm
đáng kể nguồn chi của dự án cũng như góp phần tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
+ Nghiên cứu các quy hoạch, kế hoạch của nhà nước. Cần có tầm nhìn chiến lược để dự án
đi đúng hướng chung của đất nước cũng như tận dụng những chính sách ưu đãi của nhà nước
cũng như địa phương.
+ Nghiên cứu khía cạnh môi trường. Điều kiện địa chất ( địa hình, địa mạo, cấu trúc địa
chất …) ảnh hưởng không nhỏ tới công trình thi công. Bên cạnh đó, do dự án là lâu dài, cần
tính đến khả năng mở rộng hay thu hẹp quy mô trong tương lai xa, từ đó mới tạo khả năng
duy trì dự án.
+ Nghiên cứu khía cạnh tài nguyên thiên nhiên. Nguồn nguyên vật liệu là yếu tố không thể
thiếu khi dự án vào hoạt động. Đảm bảo nguồn nguyên vật liệu cung ứng liên tục, đảm bảo
chất lượng là yếu tố sống còn cho hoạt động của dự án.
+ Nghiên cứu khía cạnh văn hóa- xã hội
Cần khai thác tối đa các yếu tố trên, tạo điều kiện thuận lợi cho công trình từ khi xây
dựng đến khi đi vào hoạt động.
Bên cạnh đó, cần xem xét trên góc độ vĩ mô việc lựa chọn địa điểm cần có tầm nhìn
chiến lược để phát triển ổn định, bền vững, đảm bảo dự án đạt được mục tiêu cuối cùng là
hướng tới người dân, nâng cao đời sống nhân dân.
1.3.5.Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao đòi hỏi công tác quản lý rủi ro trong hoạt
động đầu tư:
Hoạt động đầu tư đòi hỏi quy mô vốn lớn, có tính chất lâu dài thể hiện qua thời gian thực
hiện và vận hành kết quả đầu tư do đó mức rủi ro thường cao. Đặc biệt trong hoạt động tài

chính của doanh nghiệp thông qua các biến động khách quan như chính sách nhà nước về tỉ
giá hối đoái, tiền tệ,…hay yếu tố lạm phát tác động đến thu chi, đến đầu vòa và đầu ra ảnh
hưởng đến tính hiệu quả của dự án do đó cần quản trị rủi ro qua các bước sau:
Thứ nhất, nhận diện rủi ro đầu tư. Có nhiều nguyên nhân rủi ro, do vậy xác định được
đúng nguyên nhân rủi ro sẽ là khâu quan trọng đầu tiên để tìm ra được giải pháp khắc phục.
Thứ hai, đánh giá mức độ rủi ro đầu tư. Rủi ro xảy ra có khi rất nghiêm trọng nhưng có khi
chưa đến mức gây ra thiệt hại về kinh tế. Đánh giá đúng sẽ cho ta cái nhìn chính xác hơn để
đưa ra biện pháp phù hợp.
Thứ ba, xây dựng các biện pháp phòng và chống rủi ro. Mỗi loại rủi ro với đặc điểm và
mức độ riêng biệt sẽ có biện pháp phòng chống tương ứng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất
các thiệt hại có thể rủi ro gây ra.
Thứ tư, cần chú trọng công tác dự báo, phân tích tinh hình kinh tế- xã hội trong nước cũng
như quốc tế từ đó nhận định chính xác rủi ro. Công việc dự báo này khá phức tạp, đòi hỏi
chuyên môn, kinh nghiệm cũng như việc xem xét trên nhiều khía cạnh, lĩnh vực khác nhau.
Dự báo và đưa ra các giải pháp phòng tránh cũng như hạn chế tác động của rủi ro đến quá
trình thi công cũng như vận hành dự án, đảm bảo dự án đạt hiệu quả như mục tiêu đề ra.
Chương 2: Thực trạng về đầu tư phát triển và đánh giá sự quán triệt những đặc điểm
của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2000-2010
2.1.Thực trạng chung về đầu tư phát triển ở Việt Nam
Về cơ bản, nước ta luôn giữ được mức độ tăng trưởng GDP cao trong hơn mười lăm năm
qua. Trong đó hoạt động đầu tư phát triển đóng góp lớn vào sự tăng trưởng đó. Đặc biệt yếu
tố vốn đầu tư ngày càng có đóng góp quan trọng. Đầu tư phát triển trong thời gian qua tăng
cả về quy mô và tốc độ, tạo nguồn lực quan trọng cho phát triển sản xuất, điều đó thể hiện
rất rõ qua số liệu về tổng vốn đầu tư phát triển qua các năm.
Từ năm 2008, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng từ 616,7 nghìn tỷ đồng lên 708,8
nghìn tỷ đồng vào năm 2009, đạt 800 nghìn tỷ đồng năm 2010.Khả năng huy động nguồn
vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2010 vào khoảng 800 nghìn tỷ đồng, bằng 41,5% GDP
và tăng 12% so với ước thực hiện năm 2009. So với GDP theo giá thực tế VND, vốn đầu tư
phát triển toàn xã hội dao động quanh mức 40% - 42,7% GDP. Chỉ tiêu kế hoạch năm 2011,
vốn đầu tư phát triển cho toàn xã hội là 905 nghìn tỷ đồng, chiếm 40% GDP. GDP kế hoạch

2011 theo giá thực tế VND là 2255,2 – 2275,2 nghìn tỷ đồng tương đương 112,8 – 113,8 tỷ.

100
200
300
400
500
600
700
800
900
1000
2008 2009 2010 2011
Nghìn tỷ VNĐ
Biểu đồ : quy mô vốn đầu tư phát triển theo các năm 2008- 2011

Có thể cụ thể hóa nguồn vốn đầu tư như sau:
Nguồn vốn Quy mô (nghìn tỷ VNĐ) Tỷ lệ (%)
Nguồn vốn trong nước 594 74,2
1. Vốn NSNN 125,5 15,7
2. Vốn trái phiếu CP 66 8,25
2. Vốn TDĐT nhà nước 55 6,9
3. Vốn DN nhà nước 66 8,25
4. Vốn dân doanh 281,5 35,1
Nguồn vốn nước ngoài 207 25,8
1.Vốn đầu tư trực tiếp NN 182 22,7
2. Vốn khác 25 3,1
Bảng : Cơ cấu các nguồn vốn trong tổng nguồn vốn đầu tư phát triển cho toàn xã
hội năm 2010
Thực hiện năm 2010 tăng 1,1% so với kế hoạch, tăng 12,9% so với thực hiện 2009. Trong

đó, vốn đầu tư của dân cư và tư nhân dẫn đầu chiếm tỷ trọng 31,2%; tiếp theo là vốn đầu tư
thuộc ngân sách nhà nước chiếm 22,5%; vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài 21,5%. So với
kế hoạch, vốn đầu tư của khu vực dân cư và tư nhân cùng vốn trực tiếp nước ngoài giảm lần
lượt 4,4% và 1,5% số tuyệt đối; trong khi đó vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước tăng 6,6%
số tuyệt đối.
dân cư và tư nhân
NSNN
ODA
khác
Năm 2010, trong bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều biến động phức tạp, khu vực
kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được kết
quả tốt cả về vốn đầu tư đăng ký, vốn thực hiện và sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp,
tiếp tục có những đóng góp quan trọng vào kết quả chung của nền kinh tế Việt Nam trong
năm 2010. Trong năm 2010, Việt Nam đã thu hút được 18,59 tỷ USD vốn ĐTNN đăng ký
(gồm cả cấp mới và tăng vốn), bằng 82,2% so với cùng kỳ 2009 và gần đạt mục tiêu cho
năm 2010. So với tổng vốn đầu tư toàn xã hội, vốn FDI năm 2010 cao hơn năm 2009, giá trị
sản xuất công nghiệp tăng 17,2% so với năm 2009 và cao hơn so với mức tăng trưởng giá trị
sản xuất công nghiệp của cả nước (năm 2010 tăng 14,7%) tổng giá trị xuất khẩu của khối
doanh nghiệp FDI đạt 38,8 tỷ USD, tăng 27,8% so với năm 2009 và chiếm 53,1% so với
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 36,4 tỷ USD, tăng
39% so với năm 2009 và chiếm 42,8% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Nhờ đó, xuất siêu
của FDI năm 2010 đạt 2,35 tỷ USD. Đây là điểm nổi bật của hoạt động đầu tư nước ngoài
năm 2010, là đóng góp quan trọng vào thành tích cải thiện cán cân thương mại của Việt
Nam, giảm mức nhập siêu cho nền kinh tế.

Năm 2010 tổng mức ODA dành cho Việt Nam đạt khoảng 8,063.85 tỷ USD. Ngân hàng
Thế giới (WB) trở thành nhà tài trợ lớn nhất với mức 2,498 tỷ USD. Nhật Bản công bố mức
viện trợ 1,64 tỷ USD trong khi Liên minh châu Âu (EU) công bố mức hơn 1 tỷ USD, trong
đó Pháp tiếp tục là nhà tài trợ lớn nhất trong khối này với 378,26 triệu USD. Trong khi đó,
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dành 1,479 tỷ USD cho Việt Nam.

Sang năm 2011 Việt Nam tập trung đầu tư phát triển, đẩy mạnh nâng cấp và xây dựng các
khu kinh tế, đồng thời dành nhiều ưu đãi nhằm thu hút các nhà đầu tư trong mục tiêu biến
các khu kinh tế trở thành đầu máy kinh tế trong tương lai gần.
Theo bộ Kế hoạch & Đầu tư, năm 2011 dự kiến vốn đầu tư phát triển cho toàn xã hội là
905 nghìn tỷ đồng, chiếm 40% GDP, vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách nhà nước
do các Bộ, ngành ở Trung ương quản lý là 41.879 tỷ đồng , tăng 11,5% so với kế hoạch năm
2010.
Tổng ODA cho
Việt Nam khoảng
8,063.85 tỷ USD
Ngân hàng thế
giới WB 2,498 tỷ
USD
Nhật Bản1,64 tỷ
USD
Liên minh châu
Âu hơn 1 tỷ USD
Vốn trong nước 34.379
tỷ đồng
Ngoài nước 7.500 tỷ
đồng
Bộ cơ quan ngang bộ
trực thuộc chính phủ
36.045,5 tỷ đồng
(tăng 12,8 %)
Xây dựng kết cấu hạ
tầng giao cho các tập
đoàn, tổng công ty
5.180 tỷ đồng
(tăng 2,8%)

Các tổ chức chính trị,
xã hội, nghề nghiệp
223.5 tỷ đồng
Cơ cấu vốn đầu tư chính phủ năm 2009 được thể hiện như sau:
Cơ cấu đầu tư công trong năm 2009 ngoài nguồn ngân sách nhà nước chiếm phần lớn, một
lượng vốn không nhỏ được dành cho bảo lãnh cho vay, bảo lãnh tín dụng, tiếp đến là các gói
kích cầu, miễn thuế cho doanh nghiệp nhằm thúc đầy nền kinh tế phát triển .
Nhìn chung mức vốn đầu tư kế hoạch năm 2011 của hầu hết các Bộ, ngành có mức tăng
khoảng 8 – 10% so với kế hoạch năm 2010. Tuy nhiên, mức vốn bố trí này mới đáp ứng nhu
cầu tối thiểu cho các công trình, dự án quan trọng chuyển tiếp và một số nhiệm vụ cấp bách
mới phát sinh. Như vậy theo thời gian, nguồn vốn huy động cho hoạt động đầu tư phát triển
ở Việt Nam có gia tăng đáng kể, đòi hỏi việc quản lí và sử dụng nguồn vốn hợp lí để phát
huy hiệu quả, góp phần vào nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống cho nhân dân.
2.2. Thực trạng chung về công tác quản lý hoạt động đầu tư phát triển ở Việt Nam
Đầu tư là hoạt động nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên không phải cứ đầu tư
nhiều thì nền kinh tế sẽ có tốc độ tăng trưởng cao, vì điều này còn phụ thuộc vào hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư. Thực tế đã chứng minh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư giảm dần: năm 1995
đầu tư 3 đồng tăng trưởng 1 đồng, năm 2003 đầu tư 5 đồng tăng trưởng 1 dồng, năm 2005
đầu tư 7 đồng mới tăng trưởng 1 đồng.
Hiệu quả sử dụng vốn qua các năm

Hệ số Icor tăng nhanh từ năm 2008, với tốc độ chóng mặt cho thấy sự đầu tư kém hiệu
quả của nguồn vốn nhà nước trong những năm gần đây.
Dàn trải, lãng phí, không hiệu quả là những tính từ quen thuộc gắn liền với nguồn vốn đầu tư
từ ngân sách Nhà nước trong nhiều năm nay. Nguyên nhân đầu tiên kể đến chính là năng lực
quản lý yếu kém sự thoái hóa về đạo đức của một số không ít các chủ dự án và ban quản lý
dự án. Mặc dù cải cách công tác quản lý đầu tư từ ngân sách Nhà nước đã diễn ra trên mọi
góc độ trong hơn 20 năm đổi mới nền kinh tế từ phân cấp quản lý, đến phân bổ, quản lý giá
và vấn đề cấp phát, thanh toán vốn đầu tư


Một vấn đề khác trong cơ chế quản lý là những năm qua, rất nhiều quy định được sửa
đổi, bổ sung. Nhiều điểm sửa đổi giúp cho việc hoàn thiện và chặt chẽ quy chế hơn nhưng lại
gây khó cho cơ sở. Nhiều nội dung không còn phù hợp với thực tế, thiếu cụ thể, không đồng
bộ, hay thay đổi và thiếu chế tài nghiêm minh. Ví dụ, một chủ dự án vừa thực hiện xong một
bộ hồ sơ lại phải tiếp tục thay bộ hồ sơ khác vì có một văn bản khác ra đời. Điều này đã làm
chậm quá trình thực hiện, chậm quá trình giải ngân. Nếu là cơ chế phải có tính dài hơi, vì
vậy, cần có sự chuẩn bị thấu đáo trong quá trình xây dựng cơ chế.

Một vấn đề gây ra tình trạng quản lý đầu tư kém hiệu quả là chất lượng quy hoạch và
thiếu công khai minh bạch thông tin. Việc quản lý đầu tư theo quy hoạch hiện nay là rất khó.
Quy hoạch của Chính phủ cho phép các bộ ngành, địa phương tự phê duyệt. Như vậy, người
có đủ thẩm quyền phê duyệt cũng có đủ thẩm quyền quy hoạch, gây ra những vấn đề bất
ổn…
Bên cạnh đó, trách nhiệm của chủ đầu tư, từ chủ đầu tư cao nhất là Nhà nước đến các bộ
ngành và chính quyền các cấp, chưa được thực thi đúng mức thể hiện qua công tác thanh tra,
kiểm tra, giám sát thực hiện không đầy đủ và chưa nghiêm túc, lề lối làm việc trong nhiều dự
án rất thiếu khoa học. Cơ chế phân công, phân cấp, phối hợp nhiều chồng chéo, không qui rõ
trách nhiệm, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát sinh tình trạng cục bộ, bản vị và khép
kín…
Chúng ta sẽ nhìn qua công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản để thấy rõ thực trạng quản
lý hoạt động đầu tư nói chung ở Việt Nam:
Sơ đồ dưới đây thể hiện mối quan hệ và nguyên nhân của dàn trải, kéo dài, kém hiệu quả,
thất thoát, lãng phí và tổn thất vốn nhà nước đầu tư cho xây dựng cơ bản. Bên dưới mỗi hiện
tượng là các nguyên nhân trực tiếp. Như vậy, đối với mỗi hiện tượng có rất nhiều nguyên
nhân, trực tiếp và gián tiếp.

Chúng ta sẽ xem xét về các văn bản pháp luật về quản lý hoạt động đầu tư và sự thực
hiện các quy định đó trong thực tế để có cái nhìn chính xác và khách quan về hiện trạng công
tác quản lí hoạt động đầu tư giai đoạn hiện nay.
Hệ thống văn bản quy định về tổ chức quản lý dự án đầu tư còn thiếu tính thống nhất.

Các quy định về phân loại dự án đầu tư còn có sự khác nhau giữa Luật xây dựng và Luật đầu
tư. Theo Luật xây dựng, việc phân loại dự án căn cứ vào yếu tố quy mô vốn và theo ngành
kinh tế kỹ thuật. Luật đầu tư chỉ căn cứ vào quy mô vốn, không phân biệt dự án thuộc ngành
nào. Thẩm quyền xem xét và quyết định được quy định trong các luật này cũng khác nhau.
Một số quy định về cơ cấu tổ chức, bộ máy nhân sự của Ban quản lý dự án chưa rõ
ràng; sự phân định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa chủ đầu tư và các Ban quản lý
dự án chưa có sự thống nhất, còn nhiều chồng chéo.
Một số các quy định về chi phí quản lý dự án không phù hợp với thực tế của hoạt
động đầu tư xây dựng, gây khó khăn cho việc thi hành .
Cơ chế quản lý đầu trong giai đoạn hiện nay :

- Tiến hành tái cơ cấu hoạt động đầu tư và tập trung vốn cho các dự án quan
trọng
Thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
đảm bảo an sinh xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với
các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các địa phương triển khai việc cắt giảm đầu tư công, rà soát và
loại bỏ các dự án kém hiệu quả, tái cơ cấu hoạt động đầu tư năm 2011. Tái cơ cấu đầu tư bao
gồm các nội dung: Tái cơ cấu nguồn vốn đầu tư, tái cơ cấu ngành, lĩnh vực, địa bàn đầu tư
và nâng cao hiệu quả đầu tư.
Về phần đầu tư từ ngân sách và đầu tư từ trái phiếu Chính phủ, tổng đầu tư ngân sách
trong năm nay của chúng ta vào khoảng 152.000 tỷ đồng và trái phiếu Chính phủ là 45.000
tỷ. Tổng cộng hai nguồn này 197.000 tỷ đồng. Vấn đề lớn nhất không phải là cắt giảm nguồn
này.
Trong Nghị quyết của Chính phủ đã nêu rất rõ là đối với nguồn đầu tư từ ngân sách
chưa đặt vấn đề cắt giảm mà chỉ bố trí, sắp xếp để đầu tư hiệu quả hơn bởi nguồn vốn này
chủ yếu phục vụ các mục tiêu: xóa đói, giảm nghèo, Chương trình 135, đầu tư cho các vùng
sâu, vùng xa, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cũng như đầu tư cho các lĩnh vực giáo dục, y tế.
Đây chính là những lĩnh vực đang là ưu tiên của Chính phủ, vì vậy, chúng ta chỉ xem
xét bố trí hợp lý hơn. Như vậy, sẽ tập trung đầu tư vào các công trình có hiệu quả, những
công trình có thể hoàn thành ngay trong năm 2011 hoặc đầu năm 2012 để sớm đưa vào sử

dụng, đóng góp cho sự phát triển kinh tế.
Hiện nay, vấn đề lớn nhất trong lạm phát thời kỳ này là tăng trưởng tín dụng quá cao.
Biểu đồ: tăng trưởng tín dụng qua các năm
Tổng tăng trưởng tín dụng của năm 2010 là 31%, trong khi tăng trưởng tín dụng ở
mức an toàn chỉ khoảng 23% đến 25% hàng năm. Mục tiêu đặt ra là tăng trưởng tín dụng
vào khoảng dưới 20%. Như vậy, sẽ phải cắt giảm khoảng 11% so với con số tăng trưởng tín
dụng của năm 2010 và các khoản này tập trung chủ yếu từ nguồn tín dụng đầu tư cho doanh
nghiệp nhà nước.
Ngoài ra, khi xem xét vốn đầu tư sẽ tính đến các nguồn vốn đem ra đầu tư ở nước
ngoài, bởi chuyển nguồn vốn ra nước ngoài trong giai đoạn hiện nay sẽ gây ảnh hưởng xấu
cho nền kinh tế. Trong việc điều chuyển cắt giảm vốn sẽ khuyến khích các địa phương tăng
cường giải ngân các nguồn vốn ODA bởi đây là nguồn bổ sung ngoại tệ cho đất nước, giúp
cân bằng nguồn ngoại tệ chung.
Chính phủ đang đẩy mạnh huy động nguồn lực của các thành phần kinh tế cho đầu tư
phát triển. Thông qua việc hoàn thiện thể chế, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh
bình đẳng và cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Đẩy mạnh việc thực hiện xã hội hoá để thu hút thêm
nguồn lực của các thành phần kinh tế vào việc phát triển kinh tế, phát triển xã hội, bảo vệ và
cải thiện môi trường.
Khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, các
ngành công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ sạch. Hạn chế đầu tư vào các ngành khai thác
tài nguyên, sử dụng nhiều đất, tiêu hao nhiều năng lượng; không chấp nhận những dự án đầu
tư công nghệ thấp, gây ô nhiễm môi trường.
Về địa bàn đầu tư, một mặt khuyến khích đầu tư vào các vùng trọng điểm, vùng động
lực, tạo điều kiện cho các vùng này phát triển, có tác động “kéo” toàn bộ nền kinh tế; đầu tư
vào các vùng sâu, vùng xa, các huyện nghèo để chuyển đổi cơ cấu kinh tế và có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao hơn tốc độ chung.
Như vậy, tái cơ cấu nguồn vốn, tái cơ cấu ngành, lĩnh vực, địa bàn đầu tư đã bao hàm
nội dung nâng cao hiệu quả đầu tư. Ngoài các nội dung có tính chất tạo tiền đề như trên, việc
nâng cao hiệu quả đầu tư còn bao gồm những nội dung có tính chất trực tiếp khác. Trước hết

cần làm tốt hơn nữa công tác quy hoạch có tầm nhìn dài hạn, đồng bộ, toàn diện giữa ngành
và cấp, tránh dàn trải, phân tán. Một điều quan trọng là về cơ chế cần tạo cho vốn đầu tư, tài
sản phải có chủ cụ thể, tránh vô chủ, nhiều chủ, nhầm chủ.
Đẩy nhanh tiến độ thi công, đưa nhanh công trình vào sử dụng, thu hồi vốn nhanh,
tránh lãng phí, thất thoát. Tập trung cho ngành sản xuất chính; tránh chạy lòng vòng trên các
kênh gây nên sự “nóng, lạnh”, rủi ro trên các kênh này.
- Tăng cường công tác giám sát hoạt động đầu tư.
Hiện nay, do không có những quy định rõ ràng và tổ chức thực hiện công tác thanh tra
một cách có hệ thống nên hoạt động thanh tra dự án đầu tư không tránh khỏi sự chồng chéo,
trùng lặp, thiếu cơ sở pháp lý cho sự phối hợp chặt chẽ, không phát huy được sức mạnh tổng
hợp của toàn ngành Thanh tra và hậu quả chung là vừa lãng phí nguồn lực công, vừa gây khó
khăn cho các chủ đầu tư và doanh nghiệp, nhưng cũng dễ bỏ sót đối tượng, bỏ sót sai phạm.
Nhà nước đang thực hiện việc tăng cường kiểm tra, giám sát, thực hiện tất cả các
khâu trong quá trình đầu tư; kiên quyết điều chuyển vốn từ các công trình không có khả
năng, hoặc khối lượng thực hiện thấp sang dự án cần đẩy nhanh tiến độ hoàn thành trong
năm 2011
Các Đoàn thanh tra liên ngành do Thanh tra Chính phủ chủ trì cùng các Bộ Kế hoạch
Đầu tư, Tài chính, Xây dựng thành lập ngay các Đoàn thanh tra liên ngành của Chính phủ để
tiến hành thanh tra một số công trình, dự án trọng điểm của các Bộ, ngành, địa phương, đơn
vị có sử dụng nguồn vốn lớn của Nhà nước, vốn vay, tài trợ của nước ngoài, trong đó tập
trung vào các công trình, dự án thuộc lĩnh vực giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục.
2.3Đánh giá thực trạng sự quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong
công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam
2.3.1. Đánh giá sự quán triệt đặc điểm thứ nhất
“Quy mô tiền vốn, vật tư lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất
lớn”
2.3.1.1. Thực trạng chuẩn bị và sử dụng tiền vốn đầu tư
2.3.1.1.1 Khả năng tạo lập huy động vốn đầu tư phát triển ngày càng tăng
Hiện nay khả năng thu hút và tạo lập vốn của nền kinh tế nước ta đã được nâng lên rất
nhiều.Trước đây, nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp các doanh nghiệp nhà

nước chiếm hầu hết các ngành chủ chốt của nền kinh tế nhưng lại làm ăn không hiệu quả,
luôn xảy ra tình trạng thua lỗ. Chính vì vậy mà nền kinh tế luôn trong tình trạng trì trệ,
không có khả năng tích luỹ, đó là chưa kể đến đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn và
chính sách cấm tư nhân hóa do đó người dân không có tiền để đầu tư hoặc có tiền nhưng lại
là những đồng tiền nhàn rỗi.
Tuy nhiên khả năng tạo lập vốn của nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay có những dấu
hiệu tốt. Từ năm 1986 khi đường lối cơ chế được thay đổi, toàn bộ nền kinh tế đã chuyển
sang một giai đoạn mới. Trước tiên là luật doanh nghiệp cho phép thành lập các công ty tư
nhân, cho phép phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và do đó nâng cao tính cạnh tranh
của các đơn vị trong nền kinh tế. Nhà nước không can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp nhà nước và do đó các doanh nghiệp này tự chủ về sản xuất làm ăn
hiệu quả hơn, từ đó nguồn vốn dùng để tích luỹ mở rộng sản xuất tăng sản lượng ngày càng
tăng. Đó là chưa kể đến khi cho phép các thành phần kinh tế tư nhân phát triển đã tạo lập
một nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Nhà nước luôn có chủ trương khuyến khích xã hội hoá
huy động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi. Với sự gia tăng không ngừng của các ngân hàng
thương mại, nguồn vốn tiết kiệm của nhân dân ngày càng nhiều góp phần quan trọng vào sự
tăng trưởng kinh tế.
Bước ngoặt nữa đó là sự ra đời của Luật đầu tư nước ngoài vào năm 1987 đã thúc đẩy
các nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam. Khi luật đầu tư nứơc ngoài ra đời, chúng ta đã có
những cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp nước ngoài yên tâm đầu tư vào Việt Nam và chúng
ta đã tạo lập được một kênh nguồn vốn thực sự quan trọng đó là nguồn vốn FDI. Bên cạnh
đó, nhờ chính sách bình đẳng, Việt Nam luôn muốn quan hệ với tất cả các nước trên thế giới
với quan điểm bình đẳng đôi bên cùng có lợi. Cùng với sự tham gia của Việt Nam vào các tổ
chức, các diễn đàn trên thế giới đã nâng cao vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế. Chính
vì vậy mà chúng ta đã giành được sự quan tâm gíup đỡ của nhiều nước, đặc biệt là nguồn
vốn ODA, các nguồn vốn vay hỗ trợ từ các tổ chức tài chính như IMF,WB…
2.3.1.1.2 Tình hình các nguồn vốn cho đầu tư phát triển
Vốn viện trợ phát triển chính thức ODA
Sau hơn 10 năm nối lại quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, đến nay Việt
Nam đã nhận được tổng số gần 35 tỷ USD vốn viện trợ phát triển ODA. Con số vốn đầu tư

và vốn giải ngân trong thời gian từ năm 2000 đến 2010 như sau:
Năm Vốn cam kết ( tỷ
USD)
Vốn giải ngân ( tỷ
USD)
Tỉ lệ giải ngân (%)
2000 2,4 1,65 68,75
2001 2,4 1,5 62,5
2002 2,5 1,528 61,12
2003 2,83 1,421 50,21
2004 3,44 1,65 45,97
2005 3,747 2,1 56,04
2006 3,9 1,78 45,64
2007 5,43 2 37,04
2008 6,4 2,35 36,79
2009 6,131 4,105 66,95
2010 4,093 3,5 85,51
2011 7,88 - -
Lượng vốn ODA cam kết tăng không ngừng trong những năm vừa qua. Đây là nguồn vốn rất
lớn, nếu được giải ngân hiệu quả sẽ tạo nên sự thay đổi lớn cho nền kinh tế, xã hội nước nhà.
Đây là cơ hội cho Việt Nam đầu tư nâng cao cơ sở hạ tầng cũng như cải thiện máy móc,
công nghệ cũng như trình độ sản xuất trong nước. Tuy nhiên, có sự chênh lệch khá lớn giữa
lượng vốn cam kết và lượng vốn giải ngân. Xét riêng trong thời kì 1993-2007 có thể thấy
như sau:

×