Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Gợi ý đáp án môn Ngữ văn đề thi vào lớp 10 (2013-2014)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.77 KB, 5 trang )

GỢI Ý LỜI GIẢI MÔN NGỮ VĂN
Kì thi tuyển sinh vào lớp 10 tại Hà Nội năm học 2013-2014
PHẦN I ( 6 điểm)
Trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ, Thanh Hải nguyện làm một con chim,
một cành hoa và một nốt nhạc trầm để kết thành:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc
(Trích Ngữ văn 9, tập hai- NXB Giáo dục, 2012)
1. Nhan đề “Mùa xuân nho nhỏ” được cấu tạo bởi những từ loại nào? Việc
kết hợp các từ loại ấy có tác dụng gì?
Gợi ý:
1. Nhan đề “Mùa xuân nho nhỏ” được cấu tạo bởi từ loại: danh từ “ mùa
xuân” và tính từ “nho nhỏ”.
Việc kết hợp giữa các từ loại trên có tác dụng tạo nên nhan đề có cấu tạo là
một cụm danh từ. Nhan đề này mới lạ, độc đáo, gây được sự hấp dẫn, chú ý
của bạn đọc và thể hiện được tình yêu thiên nhiên, cuộc sống, khát vọng hòa
nhập, cống hiến những phần đẹp đẽ nhất, tinh túy nhất của cuộc đời mình để
góp phần làm nên mùa xuân chung cho đất nước.
2. Nốt nhạc trầm trong bài thơ có nét riêng gì? Điều đó góp phần thể hiện
ước nguyện nào của tác giả?
Gợi ý:
Nốt nhạc trầm trong bài thơ có nét riêng là: Không véo von, cao giọng mà
trầm lắng, thiếu nó bản nhạc sẽ mất đi giai điệu sâu lắng. Nốt nhạc trầm biểu
tượng cho sự cống hiến khiêm nhường nhỏ bé, khát vọng sống hòa nhập làm
nên mùa xuân chung đất nước của nhà thơ Thanh Hải nói riêng và những
con người lao động nói chung.
3. Dựa vào khổ thơ trên, hãy viết một đoạn văn nghị luận khoảng 12 câu
theo cách lập luận tổng hợp- phân tích- tổng hợp làm rõ tâm niệm của nhà
thơ, trong đó có sử dụng câu bị động và phép thế ( gạch dưới câu bị động và


những từ ngữ dùng làm phép thế)
Gợi ý:
a. Về hình thức:
- Học sinh trình bày đúng đoạn nghị luận, có đủ ba phần mở- thân- kết, chữ
đầu dòng thụt lùi vào 1 ô và viết hoa, các dòng sau viết sát mép lề, nét chữ
rõ ràng, dễ đọc, không bị lỗi chính tả.
b. Nội dung:
* Câu mở:
- Giới thiệu khổ thơ “Một mùa xuân nho nhỏ… Dù là khi tóc bạc” trích từ
bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải.
- Ý chính: Bạn đọc thấy được tâm niệm sống, khát vọng được hòa nhập và
cống hiến làm nên mùa xuân chung cho đất nước của nhà thơ.
*Thân đoạn:
- Nếu như ở khổ trước, tâm niệm của nhà thơ được thể hiện một cách chân
thành, khiêm nhường, nhỏ bé qua điệp ngữ “ ta làm” và qua những hình ảnh
thiên nhiên đẹp tự nhiên, giản dị: con chim hót, một cành hoa…thì khổ thơ
tiếp theo, nhà thơ tự nhận mình là “Một mùa xuân nho nhỏ”
+ Từ láy “nho nhỏ” làm định ngữ cho danh từ “mùa xuân” đã diễn tả
mùa xuân là mùa đẹp nhất, mùa của sức sống, sức phát triển của vạn vật và
con người.
+ Đây còn là hình ảnh ẩn dụ thể hiện sự hòa nhập, dầng hiến những gì
đẹp đẽ nhất, tinh túy nhất của con người, góp phần làm nên mùa xuân chung
cho đất nước.
+ Qua cụm từ “Một mùa xuân nho nhỏ”, bạn đọc thấy được mối quan
hệ giữa cá nhân và tập thể, thấy được cái hữu hạn của con người và cái vô
hạn của đất trời: Một con người- Một mùa xuân nho nhỏ, chưa thể tạo nên
mùa xuân chung cho đất nước nhưng có nhiều “ Mùa xuân nho nhỏ” góp
lại sẽ tạo nên được mùa xuân cho đất nước, dân tộc.
- Sự cống hiến này giống như “nốt nhạc trầm” nhỏ bé, khiêm nhường
“ Lặng lẽ dâng cho đời”, không khoa trương, ầm ĩ.

- Điệp ngữ “ Dù là” với sắc thái ý nghĩa khẳng định như một lời hứa của nhà
thơ với đất nước, với chính lòng mình sẽ cống hiến bền bỉ suốt cả cuộc đời,
bất chấp thời gian, tuổi tác:
“Dù là tuổi đôi mươi
Dù là khi tóc bạc”
- Liên hệ hoàn cảnh sáng tác bài thơ: Nhà thơ đang nằm trên giường bệnh và
chỉ ít lâu sau đã qua đời mà vẫn dâng hiến cho đời bài thơ “Một mùa xuân
nho nhỏ”. Nhà thơ đã đi vào cõi vĩnh hằng nhưng bài thơ đó bất tử với thời
gian, được phổ nhạc thành bài hát vẫn được cất lên mỗi độ xuân về làm xao
xuyến biết bao lòng người.
* Kết đoạn:
- Thể thơ 5 chữ, gần với điệu dân ca miền Trung, có âm hưởng nhẹ nhàng,
tha thiết, hình ảnh thơ đẹp một cách tự nhiên, giản dị.
- Bạn đọc thấy được lý tưởng sống cao đẹp, khao khát cống hiến hết sức
mình cho đất nước, dân tộc của nhà thơ.
- Khát vọng cống hiến của nhà thơ Thanh Hải cũng từng được nhà thơ Tố
Hữu thể hiện trong bài “Một khúc ca xuân”:
“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”…
c. Về ngữ pháp:
Học sinh gạch chân, chú thích rõ ràng những câu bị động và từ ngữ dùng
làm phép thế được sử dụng thích hợp trong đoạn văn viết của mình.
PHẦN II ( 4 điểm)
Dưới đây là một phần trong lệnh truyền của vua Quang Trung với quân lính:
“- Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện ở Thăng Long, các người đã
biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng,
phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị (…) Các ngươi đều là những
kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng hiệp lực, để dựng nên côn

lớn”
(Trích Ngữ văn 9, tập một- NXB Giáo dục 2012)
1. Đoạn văn trên trích trong tác phẩm nào? Tác giả là ai?
Gợi ý:
- Đoạn văn trên trích trong tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí”.
- Tác giả Ngô gia văn phái: Nhóm tác giả dòng họ Ngô Thì, trong đó có hai
tác giả chính là Ngô Thì Chí, và Ngô Thì Du.
2. Nhà vua nói “ đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam,
phương Bắc chia nhau mà cai trị” nhằm khẳng định điều gì? Hãy chép 2 câu
trong bài thơ “Sông núi nước Nam” có nội dung tương tự.
Gợi ý:
- Nhà vua nói “ đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam,
phương Bắc chia nhau mà cai trị” nhằm khẳng định: Chủ quyền độc lập
lãnh thổ dân tộc đã được phân định rõ từ xưa đến nay. Qua câu nói này,
Quang Trung muốn khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc cho các tướng sĩ.
- Hai câu thơ trong bài thơ “Sông núi nước Nam” có nội dung tương tự là:
Phiên âm:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”
Dịch thơ:
“ Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở”
Hoặc “ Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời”
3. Từ đoạn trích trên, với những hiểu biết xã hội, em hãy trình bày suy nghĩ
( khoảng nửa trang giấy thi) về hình ảnh những người chiến sĩ ngay đêm bảo
vệ biển đảo thiêng liêng của dân tộc.
Gợi ý:
- Đây là phần học sinh bày tỏ suy nghĩ về những vấn đề xã hội đang xảy
ra trên đất nước. Bài làm có tính chất mở song học sinh vẫn cần đảm bảo

các mạch ý sau:
- Bảo vệ lãnh thổ, chủ quyền độc lập dân tộc là trách nhiệm và bổn phận của
mỗi người dân Việt Nam. Nó là biểu hiện hùng hồn cho truyền thống yêu
nước của dân tộc khi đất nước có giặc ngoại xâm.
- Những người chiến sĩ ngày đêm bảo vệ biển đảo thiêng liêng của dân tộc là
nối tiếp, phát huy truyền thống yêu nước, bảo vệ non sông gấm vóc của Tổ
quốc.
- Những người lính đang canh giữ biển đảo của đất nước mang trong mình
những vẻ đẹp của người lính trong các cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ. Đó là:
+ Họ mang phẩm chất tốt đẹp của người lính cách mạng: Sống có lý
tưởng, có “ lương tri, lương năng”, vượt mọi khó khăn ( xa gia đình, quê
hương, sống ở nơi có khí hậu khắc nghiệt, đời sống vật chất thiếu thốn…)
nhưng vẫn cầm chắc tay súng bảo vệ biển đảo của đất nước. Họ không chỉ
có tinh thần trách nhiệm cao mà còn có lòng dũng cảm, gan dạ. Đặc biệt là
sự dũng cảm vượt lên chính mình để ngày đêm ở lại đảo xa thực hiện nhiệm
vụ của Đảng và Nhà nước giao phó. Họ là những người lính có tình đồng
đội, biết gắn bó chia sẻ “ đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn”.
+ Họ còn có tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, trẻ trung, lạc quan yêu
đời; có phong cách sống hiện đại; có tri thức khoa học và đặc biệt biết vận
dụng sáng tạo những tri thức đó từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường vào việc
bảo vệ biển đảo của đất nước.
- Đảng, Nhà nước, mọi người dân đều hướng về họ với tấm lòng mến yêu,
biết ơn, chia sẻ động viên. Nhà nước đã có chính sách đãi ngộ đối với
những người lính ở đảo xa và người thân của họ ở hậu phương. Các ban
ngành, đoàn thể trên cả nước đã tổ chức thăm hỏi, động viên họ, đặc biệt là
những ngày lễ, tết…
- Học sinh liên hệ tình cảm và việc làm của em và trường em với các chiến
sĩ đang canh giữ biển đảo cho đất nước.
Gợi ý lời giải của cô giáo Phạm Thị Tú Anh, giáo viên trường THCS

Đống Đa- Hà Nội

×