Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

hợp tác kinh tế thương mại asean giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.99 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Xu hướng khu vực hóa, toàn cầu hóa đang là vấn đề nổi bật của thế giới hiện nay.
Những thành tựu mà các tổ chức, liên minh trước đó (WTO, EU, NAFTA) đã thúc đẩy
mạnh mẽ tiến trình liên minh, liên kết giữa các quốc gia trong khu vực và trên toàn thế
giới. Việc ra đời Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cũng không nằm ngoài xu
hướng tất yếu đó. Hợp tác kinh tế - thương mại là nội dung quan trọng nhất và cũng là mục
tiêu mà ngay từ khi thành lập các thành viên ASEAN hướng tới. Hợp tác kinh tế - thương
mại ASEAN trong giai đoạn hiện nay gồm những nội dung nào? Và là một thành viên
của tổ chức này Việt Nam đã tham gia hợp tác kinh tế thương mại ra sao? Bài tiểu luận
dưới đây sẽ giải đáp những nội dung trên.
NỘI DUNG
I. Tổng quan về ASEAN
1. Quá trình hình thành và phát triển.
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là một liên minh chính trị, kinh tế, văn
hóa - xã hội của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức này được thành lập trên
cơ sở Tuyên bố Băng Cốc ngày 8/8/1967 của Hội nghị ngoại trưởng năm nước thuộc khu
vực Đông Nam Á là Thái Lan, Malaysia, Singapore, Philippine và Indonesia. Từ năm nước
thành viên ban đầu, đến nay ASEAN đã có mười quốc gia thành viên, bao gồm thêm năm
thành viên mới gia nhập là Bruney (1984), Việt Nam (1995), Lào (1997), Myanma (1997)
và Campuchia (1999).
1
Trụ sở của ASEAN đặt tại Jakarta, Indonesia. ASEAN có tổng diện tích vào khoảng
4,43 triệu km
2
, dân số gần 595 triệu người và tổng thu nhập quốc dân của các nước năm
2009 đạt đạt 1.492 tỷ USD.
2. Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động.
Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của ASEAN được quy định tại Hiến chương
ASEAN, nhìn chung hoạt động của ASEAN nhằm thực hiện các mục tiêu chủ yếu sau:
- Duy trì và tăng cường hòa bình, an ninh và ổn định cũng như sự vững chắc của


khu vực, bảo đảm ASEAN là một khu vực phi vũ khí hạt nhân.
- Tạo ra thị trường chung, thống nhất có khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo hàng
hóa, dịch vụ và đầu tư tự do lưu thông.
- Tăng cường dân chủ, thiết lập cơ quan giám sát về nhân quyền.
- Tăng cường phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, tài nguyên và các di sản văn
hóa. Phát triển nguồn nhân lực qua hợp tác giáo dục…
Để đạt được các mục tiêu trên các quốc gia trong ASEAN luôn tuân theo những nguyên tắc
chính đã được nêu trong Hiệp ước thân thiện và hợp tác của Đông Nam Á (hiệp ước Bali)
kí tại hội nghị cấp cao lần thứ nhất tại Bali – Indonexia năm 1976 và Hiến chương ASEAN
2007, theo đó gồm có 2 nhóm nguyên tắc:
• Các nguyên tắc điều phối hoạt động của ASEAN:
ASEAN hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc đồng thuận.
- Nguyên tắc bình đẳng.
- Nguyên tắc ASEAN – x.
• Các nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các quốc gia thành viên với nước bên
ngoài:
Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á ký kết năm 1976 cùng nhiều văn kiện
khác của ASEAN đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản hướng đến mục tiêu thúc đẩy mối
quan hệ hòa bình và hợp tác giữa các quốc gia với nhau. Năm 2007, Hiến chương ASEAN
1
Xem: />ra đời đã hệ thống và tái khẳng định rõ hơn những nguyên tắc này tại khoản 2, Điều 2 Hiến
chương.
1
II. Nội dung hợp tác kinh tế - thương mại ASEAN trong giai đoạn hiện nay.
1. Hợp tác trong lĩnh vực thương mại.
Hợp tác trong lĩnh vực thương mại được thể hiện rõ nét qua việc thành lập, hoạt động
và phát triển của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).
Vào đầu những năm 90, khi chiến tranh lạnh kết thúc, những thay đổi trong môi trường
chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã đặt kinh tế các nước ASEAN đứng trước những

thách thức lớn không dễ vượt qua nếu không có sự liên kết chặt chẽ hơn và những nỗ lực
chung của toàn Hiệp hội. Để đối phó với tình hình đó, năm 1992, theo sáng kiến của Thái
lan, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN họp tại Xingapo đã quyết định thành lập Khu vực Mậu
dịch Tự do ASEAN ( gọi tắt là AFTA).
AFTA là bước ngoặt về mặt pháp lý khu vực trong hợp tác kinh tế ASEAN, nâng hợp
tác kinh tế ASEAN lên một tầm cao mới, vượt xa thỏa thuận về PTA. AFTA hướng tới
mục tiêu tự do hóa thương mại trong nội bộ bằng cách loại bỏ tất cả các hàng rào thuế quan
và phi thuế quan, tạo ra một thị trường thống nhất nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài
vào thị trường khu vực, thúc đẩy phân công lao động trong nội khối ASEAN và phát huy
lợi thế so sánh của từng nước.
AFTA được thi hành dựa trên Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung
(Common Effective Preferential Tariff), gọi tắt là CEPT cũng được ký kết vào năm 1992.
Đây là một thoả thuận chung giữa các nước thành viên ASEAN về giảm thuế quan trong
nội bộ ASEAN xuống còn từ 0 - 5%, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và
các hàng rào phi thuế quan. Nói đến vấn đề xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN là
nói tới việc thực hiện Hiệp định chung về thuế quan và phải hoàn thành 3 vấn đề chủ yếu,
không tách rời dưới đây:
Thứ nhất là vấn đề giảm thuế quan: Mục tiêu cuối cùng của AFTA là giảm thuế quan
xuống 0-5%, theo từng thời điểm đối với các nước cũ và các nước mới, nhưng thời hạn tối
đa là trong vòng 10 năm.
Thứ hai là vấn đề loại bỏ hàng rào phi quan thuế (NTB) : Các hàng rào phi thuế quan
bao gồm các hạn chế về số lượng (như hạn ngạch, giấy phép, ) và các hàng rào phi thuế
1
Xem: />quan khác (như các khoản phụ thu, các quy định về tiêu chuẩn chất lượng, ) Các hạn chế
về số lượng có thể được xác định một cách dễ dàng và do đó, được quy định loại bỏ ngay
đối với các mặt hàng trong Chương trình CEPT được hưởng nhượng bộ từ các nước thành
viên khác.
Thứ ba là hài hoà các thủ tục Hải quan, thể hiện qua các nội dung: Thống nhất biểu
thuế quan; thống nhất hệ thống tính giá hải quan; xây dựng Hệ thống Luồng xanh hải quan
và thống nhất thủ tục hải quan.

2. Hợp tác trong lĩnh vực đầu tư.
Để đảm bảo thực hiện hợp tác trong lĩnh vực đầu tư, Hiệp định khung về khu vực đầu
tư ASEAN (AIA) đã được ký kết tại AEM lần thứ 30 năm 1998. Theo quy định tại Điều 3,
Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN, mục tiêu cơ bản của AIA là tạo một thị
trường đầu tư thông thoáng và minh bạch hơn nhằm thúc đẩy ASEAN thành khu vực đầu
tư hấp dẫn nhất, thu hút đầu tư vào ASEAN từ các nguồn trong và ngoài nước. Từ đó, AIA
sẽ góp phần hướng tới tự do lưu chuyển đầu tư vào năm 2020.
Thông qua AIA, ASEAN đã đạt được những thành tựu đáng kể trong thu hút đầu tư.
ASEAN là khu vực chính nhận dòng vốn FDI ngay cả trong cuộc khủng hoảng kinh tế năm
1997 và bất chấp sự suy yếu kinh tế toàn cầu vào những năm 2000 – 2001. AIA cũng đồng
thời cho phép các nhà đầu tư khai thác những lợi thế của các quốc gia thành viên để tối đa
hóa hiệu quả sản xuất và kinh doanh với chi phí thấ. Với những kết quả trên, có thể cho
thấy, AIA đã có tác dụng lớn, bước đầu tạo ra một khu vực đầu tư có sức hút và khả năng
cạnh tranh, làm thông thoáng hơn môi trường đầu tư giữa các quốc gia.
3. Hợp tác trong lĩnh vực dịch vụ.
Những quy định của AFTA chủ yếu hướng tới tự do hóa lĩnh vực thương mại hàng hóa.
Vì vậy, năm 1995, Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ ra đời nhằm bổ sung tự do hóa
thương mại dịch vụ cho AFTA. AFAS dựa trên những nguyên tắc của Hiệp định chung về
thương mại dịch vụ (GATS) của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), song so với GATS,
AFAS loại bỏ nhiều hơn các hạn chế đối với thương mại dịch vụ. Mục tiêu hướng tới của
AFAS là hình thành một khu vực tự do về thương mại dịch vụ vào năm 2020 (đã được rút
ngắn vào 2015).
Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ V năm 1995 tại Thái Lan, đã quyết định chọn 6 lĩnh
vực dịch vụ quan trọng là tài chính, vô tuyến viễn thông, vận tải hàng hải, vận tải hàng
không, du lịch, dịch vụ kinh doanh và xây dựng để thực hiện bước đầu tự do hóa thương
mại dịch vụ.
4. Xây dựng cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).
Trong tuyên bố tầm nhìn ASEAN 2020 vào tháng 11 năm 1997, các nhà lãnh đạo
ASEAN đã đề ra mục tiêu đưa ASEAN thành “một nhóm hài hòa các dân tộc Đông Nam
Á, hướng ngoại, sống trong hòa bình, ổn định và thịnh vượng, gắn bó với nhau bằng quan

hệ đối tác trong phát triển năng động và trong một cộng đồng xã hội đùm bọc lẫn nhau”.
Như vậy, ý tưởng về một Cộng đồng ASEAN đã được hình thành cùng Tuyên bố tầm nhìn
ASEAN 2020. Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) là một trong 3 mục tiêu của Cộng đồng
ASEAN. AEC là mục tiêu liên kết kinh tế khu vực cuối cùng của ASEAN trong “tầm nhìn
ASEAN 2020” và theo dự kiến sẽ thành lập vào năm 2015 (Tuyên bố Cebu về việc đẩy
nhanh thành lập AEC).
Mục tiêu cụ thể của việc xây dựng AEC là:
- AEC – một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất.
- AEC – một khu vực kinh tế cạnh tranh cao.
- AEC – một khu vực phát triển kinh tế đồng đều.
- AEC – một khu vực hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế toàn cầu.
AEC được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển những nội dung cơ bản, trụ cột về
hợp tác kinh tế trong khuôn khổ ASEAN. Nội dung hợp tác chủ yếu trong khuôn khổ Cộng
đồng kinh tế ASEAN gồm:
4.1 Tự do hóa thương mại hàng hóa.
Nội dung của tự do hóa thương mại hàng hóa chính là hoàn thành Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA). Thông qua AFTA, ASEAN đã và đang đạt được tiến bộ đáng kể trong
việc xóa bỏ thuế quan. Tuy nhiên, tự do di chuyển hàng hóa cũng đòi hỏi không chỉ thuế
suất bằng 0 mà còn phải xóa bỏ những hàng rào phi thuế quan. Năm 2009. Hội nghị cấp
cao ASEAN lần thứ 14 tại Thái Lan đã thông qua Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN
(ATIGA) để thay thế CEPT và đã có hiệu lực từ 17/5/2010. Mục tiêu của Hiệp định này là
đạt được sự lưu chuyển tự do của hàng hóa trong ASEAN như một trong những công cụ
chính để xây dựng thị trường và cơ sở sản xuất chung hướng tới hội nhập kinh tế sâu sắc
hơn trong khu vực và hướng tới thực hiện Cộng đồng kinh tế ASEAN năm 2015.
4.2 Tự do hóa thương mại dịch vụ và tự do di chuyển lao động lành nghề.
Tự do lưu chuyển thương mại dịch vụ là một trong những yếu tố quan trọng để hiện
thực hóa AEC. Nội dung của tự do di chuyển một số lĩnh vực dịch vụ tiến tới hình thành
AEC là hoàn thành Hiệp định khung ASEAN về thương mại dịch vụ (AFAS). Để hỗ trợ
cho việc thực hiện AFAS, một nội dung quan trọng đã được bổ dung là tự do di chuyển lao
động có tay nghề. Nội dung này được thực hiện thông qua việc tạo thuận lợi hơn trong cấp

visa, giấy phép hành nghề; tăng cường hợp tác trong khuôn khổ mạng lưới các trường đại
học ASEAN; xây dựng các kỹ năng, tiêu chuẩn nghề nghiệp cơ bản; tằng cường năng lực
nghiên cứu của các nước, xây dựng mạng lưới thông tin về thị trường lao động khu vực.
4.3 Tự do hóa đầu tư và tự do lưu chuyển vốn.
Tự do hóa đầu tư sẽ được thực hiện bằng nỗ lực hoàn thành Khu vực đầu tư ASEAN,
thông qua việc thực hiện Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA). Tuy nhiên, tại
Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 14 tại Thái Lan, ASEAN đã ký Hiệp định đầu tư toàn
diện ASEAN (ACIA) để thay thế Hiệp định AIA và Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu
tư (IGA).
Khu vực đầu tư ASEAN bao gồm 3 nội dung chính:
- Chương trình hợp tác và tạo thuận lợi cho đầu tư.
- Chương trình xúc tiến và quảng bá đầu tư.
- Chương trình tự do hóa đầu tư.
4.4 Thu hẹp khoảng cách phát triển.
ASEAN nhận thấy rằng không thể liên kết kinh tế có hiệu quả nếu không thu hẹp
khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên trong khu vực. Thu hẹp khoảng cách phát
triển vừa là yêu cầu cấp bách, vừa là mục tiêu lâu dài, phục vụ cho sự phát triển đồng đều
của khu vực, biến ASEAN trở thành khu vực kinh tế năng động.
Nội dung của thu hẹp khoảng cách phát triển chính là thực hiện Sáng kiến liên kết
ASEAN (IAI) nhằm giúp đỡ các nước ASEAN – 4 (Việt Nam, Lào, Myanma, Campuchia)
thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước ASEAN–6 và đẩy nhanh tiến trình hội nhập
kinh tế khu vực thông qua các chương trình va dự án là Hệ thống ưu đãi hội nhập ASEAN
(AISP), kế hoạch thực hiện IAI và Lộ trình hội nhập ASEAN (RAI).
Với vai trò là một trong ba trụ cột của Cộng đồng ASEAN, AEC là một nội dung quan
trọng và là nhân tố quyết định trong thực hiện hóa AC. Việc AEC ra đời sẽ là tiền đề hội
nhập kinh tế để hình thành Cộng đồng ASEAN, tạo bước ngoặt cho sự phát triển hợp tác
sâu và rộng hơn trong nội bộ khối, để ASEAN trở thành một tổ chức khu vực với liên kết
chặt chẽ, vững mạnh và có tiếng nói trong môi trường hội nhập toàn cầu.
Ngoài ra, ASEAN còn có các chương trình hợp tác kinh tế khác như:
- Chương trình hợp tác trong lĩnh vực khoáng sản và năng lượng.

- Chương trình hợp tác trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng.
- Chương trình hợp tác trong lĩnh vực Nông, lâm, ngư nghiệp và lương thực.
- Chương trình hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp.
5. ASEAN – Hợp tác kinh tế - thương mại trong khu vực và trên thế giới.
Không chỉ hợp tác sâu và rộng trong nội khối giữa các thành viên ASEAN, mà ASEAN
còn mở rộng hợp tác kinh tế - thương mại với các đối tác khác trong khu vực và trên toàn
thế giới.
- Hợp tác kinh tế ASEAN – Trung Quốc: thông qua việc hình thành khu vực mậu
dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (ASEAN-China Free Trade Area (AC - FTA hay CA -
FTA) tại Hội nghị cấp cao ASEAN – Trung Quốc lần thứ V ngày 06/11/2001. Hiệp định
khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Trung Quốc, có hiệu lực ngày
01/07/2003…
- Hợp tác kinh tế ASEAN – Hàn Quốc: ngày 16/05/2006, ASEAN và Hàn Quốc đã
ký Hiệp định thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Hàn Quốc (AK - FTA) tại
Minila…
- Hợp tác ASEAN – Nhật Bản: ngày 05/11/2002, ASEAN và Nhật Bản ký tuyên bố
chung về quan hệ đối tác kinh tế toàn diện (CEP)…
- Hợp tác ASEAN - Ấn Độ: năm 2003, ASEAN - Ấn Độ ký Hiệp định khung về hợp
tác kinh tế toàn diện tạo cơ sở cho việc thành lập một khu vực thương mại va đầu tư
ASEAN – Ấn Độ (RTIA)…
- Hợp tác ASEAN – Hoa Kỳ: Tháng 8/2006, ASEAN và Hoa Kỳ ký kết Hiệp định về
thuận lợi hóa thương mại và đầu tư (TIFA)…
- Hợp tác ASEAN – EU: Năm 2003, đưa ra Sáng kiến Thương mại Liên khu vực
ASEAN – EU (TREATI), tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại và đầu tư giữa
hai khu vực…
- Hợp tác ASEAN + 3 (Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản)
ASEAN còn hợp tác với những đối tác khác như: Nga, Canada. Australia, Newzealand và
đang triển khai hợp tác với các đối tác khác.
III. Việt Nam trong việc thực hiện hợp tác kinh tế - thương mại ASEAN
Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN ngày 28/7/1995 tại Bru-nây; và lần đầu tiên

tham dự Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 28 và các Hội nghị liên quan (Bru-nây, 2-
3/8/1995) với tư cách thành viên chính thức.
Hơn 15 năm gia nhập ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng trên tất cả
các lĩnh vực hợp tác của Hiệp hội. Việt Nam luôn đặt mục tiêu hợp tác kinh tế thương mại
lên hàng đầu, có thể kể đến những đóng góp cũng như những thành tựu đã đạt được trong
thời gian qua như sau:
Một là, Năm 2010, Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN.
Chúng ta không chỉ tham gia với tức cách là một quốc gia thành viên mà còn tham gia dẫn
dắt tiến trình hợp tác chung của ASEAN. Đặc biệt, ta đã cùng với các thành viên ASEAN
đã thúc đẩy mạnh mẽ việc sớm khắc phục tình trạng chậm thực hiện của khả nhiều hiệp
định quan trọng liên quan đến AEC. Ngày 1 tháng 5 năm 2010, sau gần 8 tháng chậm chễ,
Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) đã chính thức có hiệu lực. Gói cam kết
thứ 7 trong khuôn khổ Hiệp định khung ASEAN về thương mại dịch vụ (AFAS) cũng đã
được ký kết tại Hội nghị cấp cao ASEAN 17. Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) ,
Hiệp định đa phương về tự do hóa hoàn toàn vận tải hàng không, Hiệp định khung ASEAN
về hàng quá cảnh… cũng đang trong quá trình rà soát trước khi chính thức có hiệu lực.
Hai là, trong lĩnh vực thương mại: Sau khi gia nhập Asean Việt Nam đã tham gia nhiều
hiệp định, cam kết thương mại như: Hiệp định về Thuế quan Ưu đãi có Hiệu lực Chung
(CEPT), cam kết AFTA, Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN (ATIGA). Và đã đạt được
thành tựu nhất định cụ thể: Đến năm 2010, nước ta đã giảm thuế nhập khẩu cho 10054
dòng thuế xuống mức 0-5% theo CEPT/AFTA, chiếm 97,8% số dòng thuế trong biểu thuế,
trong đó có 5488 dòng thuế ở mức thuế suất 0%. Nước ta cũng tham gia hợp tác một cách
toàn diện cùng các nước ASEAN khác từ các lĩnh vực truyền thống như thương mại hàng
hóa, dịch vụ, đầu tư, nông nghiệp, giao thông vận tải, viễn thông, đến các lĩnh vực mới như
bảo hộ sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng. Năm 2009, xuất khẩu
của Việt Nam sang ASEAN đạt 8,9 tỷ USD, tương đương 15% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Giá trị nhập khẩu từ ASEAN đạt 14 tỷ USD, chiếm 20% tổng kim ngạch nhập khẩu cả
nước.
Ba là, trong lĩnh vực đầu tư : sau một thời gian dài triển khai thực hiện Hiệp định AIA
Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu

tư, tính đến cuối tháng 7/2005, Việt Nam đã tiếp nhận trên 800 dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) từ các nước thành viên khác – trừ Mianma – còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư
đăng ký khoảng 11,3 tỷ USD, trong đó đã thực hiện khoảng trên 5 tỷ USD. Nhìn tổng thể,
trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư của ASEAN chiếm hơn 12% về số dự án,
hơn 23% về vốn đăng ký và gần 20% về vốn thực hiện. Hầu hết những dự án này đều phát
huy hiệu quả có lợi cho cả hai phía: nhà nước Việt Nam và nhà đầu tư.
1
Bốn là, Ngay từ khi AEC còn đang là ý tưởng đến khi được chính thức ghi nhận, Việt
Nam đã thể hiện vai trò tích cực của mình trong việc đàm phán và thông qua Tuyên bố hòa
hợp ASEAN tại Bali, In-do-ne-xia trong đó đã đề ra những định hướng chiến lược quan
trọng cho sự phát triển của ASEAN, hướng tới xây dựng cộng đồng kinh tế ASEAN. Theo
Sáng kiến của Việt Nam, các nước ASEAN sẽ lần lượt tổ chức các diễn đàn thảo luận về
hiệu quả của AEC đối với 12 lĩnh vực ưu tiên hội nhập. Với tư cách là nước điều phối thực
hiện Lộ trình hội nhập nhanh trong lĩnh vực Lô-gis-tics, Việt Nam đã tổ chức thành công
Diễn đàn doanh nghiệp về dịch vụ Lô-gis-tics tại Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN vào
tháng 8 năm 2010, Diễn đàn về hội nhập ngành điện tử trong ASEAN…
TÓM LẠI, Cộng đồng kinh tế ASEAN đang tạo ra những cơ hội và cả thách thức chưa
có tiền lệ đối với nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân nước ta. Nhưng thách thức và cơ
hội luôn vận động, biến đổi rất nhanh trong bối cảnh hội nhập của khu vực. Chỉ với sự
1
Nguồn: Theo thống kê của Bộ kế hoạch và đầu tư năm 2005.
chung sức của cộng động, sự quan tâm thỏa đáng của nhà nước, AEC mới chắc chắn mang
lại lợi ích đối với nền kinh tế Việt Nam.
KẾT LUẬN
Hợp tác kinh tế - thương mại ASEAN trong những năm qua đã đạt được những thành
tựu đáng kể. Là một thành viên của tổ chức, Việt Nam luôn luôn thực hiện tốt các cam kết
cũng như những mục tiêu mà ASEAN đã đề ra. Để thực thi tốt hơn nữa những mục tiêu của
ASEAN, thiết thấy mỗi thành viên của ASEAN cần phải làm tốt hơn nữa vai trò của mình,
mở rộng hợp tác trong nhiều lĩnh vực hơn nữa để ASEAN trở thành khu vực có nền kinh tế
thị trường đa dạng, năng động và cung cấp toàn cầu.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Khóa luận tốt nghiệp, Nguyễn Thu Trang. Cộng đồng kinh tế ASEAN
(AEC) – Từ tầm nhìn tới hành động, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội –
2011.
2. Khóa luận tốt nghiệp, Tự do hóa thương mại trong khuôn khổ các quốc gia
Đông Nam Á – ASEAN, Lại Ngọc Thanh – QT32C, chuyên ngành Luật quốc
tế, Trường Đại học Luật Hà Nội. Hà Nội – 2011.
3. Luận văn thạc sĩ, Mao Loeng, Những vấn đề pháp lý của việc hợp tác kinh tế
Campuchia – Việt Nam. Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội – 2009.
4.
5.
%C3%A1c_qu%E1%BB%91c_gia_%C4%90%C3%B4ng_Nam_%C3%81
6.
7.

×