Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

phân tích mối quan hệ giữa công ước paris và hiệp định trips về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.56 KB, 8 trang )

Đề bài: Phân tích mối quan hệ giữa công ước Paris và hiệp định TRIPs về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp.
I. Tổng quan về Công ước Paris và Hiệp định TRIPs
Nhu cầu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp lần đầu tiên xuất hiện vào
năm 1873 tại hội chợ sáng chế quốc tế ở Viennie. Sau đó, ngày 20/3/1883 Công ước Paris
đã được ký kết với sự tham gia của 14 nước thành viên. Đây là Công ước quốc tế đa phương
quan trọng đầu tiên về bảo hộ SHCN. Từ khi ký kết đến nay, Công ước đã qua 7 lần sửa đổi.
Mục đích của Công ước Paris là nhằm xây dựng điều khoản có lợi cho việc đăng ký bảo hộ
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá… của công dân các nước thành viên
Công ước, đồng thời xây dựng 1 số nguyên tắc chung đối với hệ thống bảo hộ quyền SHCN
tại các nước thành viên trên cơ sở tôn trọng luật SHCN của các nước thành viên. Công ước
được sửa đổi lần cuối cùng vào năm 1979 với 30 điều khoản.
Hiệp định TRIPs được ký kết 15 năm sau lần sửa đổi cuối cùng của Công ước Paris
(15/4/1994), trong khuôn khổ Hiệp định Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới. Hiệp
định TRIPs đã tổng hợp và xây dựng trên cơ sở các hiệp định quan trọng về sở hữu trí tuệ
do Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) thực thi với Công ước Paris về Bảo hộ quyền
SHCN và Công ước Berne về Bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật. 1 trong những
điều khoản để các nước chưa là thành viên của WTO gia nhập thành công tổ chức này là
đáp ứng đủ các yêu cầu của TRIPs. Hiệp định TRIPs gồm 73 điều được chia thành 7 phần.
Mục đích của TRIPs là quy định những tiêu chuẩn, những biện pháp và những thủ tục tối
thiểu mà các nước thành viên của hiệp định có ngvụ phải tuân theo, thành lập 1 khung pháp
lý trách nhiệm, có hiệu quả trong việc bảo hộ toàn diện quyền SHTT trong đó có quyền
SHCN. Tuy nhiên việc tập trung chủ yếu vào khía cạnh KT - thương mại quyền sở hữu trí
tuệ cũng như các biện pháp khác để thực thi có hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ là sự khác biệt
cơ bản của TRIPs so với các công ước, hiệp định trước đó.
II. Mối quan hệ giữa Công ước Paris và Hiệp định TRIPs về bảo hộ quyền SHCN.
Khoản 1 Điều 2 Hiệp định TRIPs ghi nhận “đối với các phần II, III, và IV của Hiệp
định này, các Thành viên phải tuân theo các Điều từ Điều 1 đến Điều 12 và Điều 19 của
Công ước Paris (1967).” Theo đó, các phần quy định về bảo hộ SHCN được quy định trong
Hiệp định TRIPs phải tuân thủ các quy định từ Điều 1 đến Điều 12 và Điều 19 Công ước
Paris.


Như vậy, có thể khẳng định rằng Hiệp định TRIPs có mối quan hệ không thể tách rời
với Công ước Paris. Các quy định của công ước Paris là cơ sở pháp lý quan trọng đầu tiên
đặt nền tảng cho việc bảo hộ quốc tế quyền SHCN. Từ đó các nước thành viên WTO đã đi
đến những thỏa thuận xây dựng 1 khung pháp lý hoàn thiện việc bảo hộ quyền SHCN với
mục đích các quyền này được thực thi phù hợp, hiệu quả trong thực tế hiện nay, đặc biệt là
về khía cạnh thương mại. Điều này thực chất chúng ta cũng cũng có thể thấy rõ ngay trong
chính tên gọi của Hiệp định TRIPs (The Agreement on Trade Related Aspects của
Intellectual Property Rights) - Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của
quyền sở hữu trí tuệ.
Từ đây, chúng ta thấy rằng mối quan hệ giữa Hiệp định TRIPs và Công ước Paris về
bảo hộ quyền SHCN là sự kế thừa và phát triển. Sự kế thừa và phát triển này được thể hiện
rất rõ trong các quy định của Hiệp định TRIPs.
1
1. Các nguyên tắc cơ bản, phạm vi bảo hộ SHCN của Công ước Paris và Hiệp
định TRIPs
Như đã nêu ở trên, khoản 1 Điều 2 Hiệp định TRIPs đã khẳng định rằng toàn bộ các
nguyên tắc cơ bản về bảo hộ sở hữu công nghiệp theo Công ước Paris được thừa nhận trong
Hiệp định TRIPs. Đó là các nguyên tắc đối xử quốc gia đối với công dân các nước thành
viên của Liên minh, nguyên tắc được đối xử tương đương công dân các nước thành viên của
Liên minh. Thêm vào đó, Khoản 3 Điều 1 Hiệp định TRIPs khẳng định các thành viên của
WTO đều là thành viên của Công ước Paris (1967)
(1)
. Như vậy, các nguyên tắc đãi ngộ quốc
gia và chế độ đãi ngộ tối huệ quốc được ghi nhận tại Hiệp định TRIPs cũng chính là sự phát
triển từ hai nguyên tắc trên, đồng thời các ngoại lệ được quy định trong Công ước Paris
cũng phải được các thành viên WTO lưu ý tới: “Mỗi Thành viên phải chấp nhận cho các
công dân của các Thành viên khác sự đối xử không kém thiện chí hơn so với sự đối xử của
Thành viên đó đối với công dân của mình trong việc bảo hộ sở hữu trí tuệ
[3]
, trong đó có lưu

ý tới các ngoại lệ đã được quy định tương ứng trong Công ước Paris (1967)…”(khoản 1
Điều 3 Hiệp định TRIPs).
Về đối tượng bảo hộ SHCN, theo Công ước Paris thì đối tượng bảo hộ SHCN bao gồm
patent, mẫu hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, tên
thương mại, chỉ dẫn nguồn gốc hoặc tên gọi xuất xứ, và chống cạnh tranh không lành mạnh
(Điều 1(2) Công ước Paris). Thừa nhận những đối tượng bảo hộ này, đồng thời TRIPs mở
rộng thêm 1 đối tượng được bảo hộ nữa đó là thiết kế bố trí mạch tích hợp. Thêm vào đó, để
đbảo chống cạnh tranh không lành mạnh, TRIPs đưa ra những quy định bảo hộ đối với bí
mật kinh doanh.
Quyền ưu tiên: đây là quy tắc hết sức quan trọng bảo hộ quyền SHCN mà Hiệp định
TRIPs được kế thừa từ Công ước Paris. Theo đó, chủ thể nộp đơn được hưởng quyền ưu
tiên trên cơ sở 1 đơn chính thức xin bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đã được nộp ở 1 nước
thành viên của công ước trong thời hạn nhất định sau ngày nộp đơn đầu tiên (12 tháng đối
với sáng chế, 6 tháng đối với nhãn hiệu hàng hoá và kiểu dáng công nghiệp). Người đó có
thể nộp đơn yêu cầu bảo hộ ở bất kỳ nước thành viên nào và những đơn nộp sau được coi
như có ngày nộp đơn cùng với ngày nộp đơn của đơn đầu tiên.
(2)
Từ mối quan hệ các giữa nguyên tắc cơ bản và phạm vi bảo hộ quyền SHCN mà trong
từng chế định cụ thể với từng đối tượng bảo hộ chúng ta cũng có thể thấy rõ ràng hơn mối
quan hệ kế thừa và phát triển giữa Hiệp định TRIPs và Công ước Paris:
2. Những quy định cụ thể về bảo hộ quyền SHCN của Công ước Paris và Hiệp
định TRIPs.
a. Nhãn hiệu
+ Phạm vi được bảo hộ:
Cả hiệp định TRIPs và Công ước Paris đều quy định việc bảo hộ đối với nhãn hiệu
hàng hoá và nhãn hiệu dịch vụ. Theo Điều 6sexies Công ước Paris thì: “Các nước thành
viên của Liên minh có trách nhiệm bảo hộ nhãn hiệu dịch vụ. Các nước này không bị bắt
buộc phải định ra việc đăng ký các nhãn hiệu đó.” Như vậy, các nước thành viên công ước
(1)
Đối với từng loại quyền sở hữu trí tuệ tương ứng, các công dân of các Thviên khác đc hiểu là những thể nhân và fáp

nhân nào đáp ứng các đk để nhận đc sự bảo hộ qđịnh trong Công ước Paris (1967), Công ước Berne (1971), Công ước
Rome, Hiệp ước về sở hữu trí tuệ đối với mạch tích hợp, như thể tất cả các Thviên of WTO đều là Thviên of các Công
ước, Hiệp ước đó.
(2)
Xem Điều 4, Công ước Paris.
2
không phải quy định việc đăng ký các nhãn hiệu dịch vụ nhưng có ngvụ bảo hộ những nhãn
hiệu đó. Theo Điều 15.1, 15.4, 16.2 Hiệp định TRIPs thì ta có thể thấy nhãn hiệu dịch vụ
phải được bảo hộ tương tự như nhãn hiệu hàng hoá.
+Sử dụng nhãn hiệu hàng hoá:
- Theo Điều 5C(1) Công ước Paris thì “nếu tại bất kỳ nước nào mà việc sử dụng
nhãn hiệu hàng hoá đã đăng ký là bắt buộc, thì việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá chỉ bị huỷ
bỏ sau 1 thời gian hợp lí, và chỉ khi mà người có liên quan không biện hộ được việc không
sử dụng của mình.” Điều khoản trên quy định rằng khi có yêu cầu về việc bắt buộc sử dụng,
đăng ký nhãn hiệu có thể bị huỷ bỏ do việc không sử dụng nhãn hiệu chỉ sau 1 thời hạn hợp
lý và nếu chủ sở hữu không thể biện minh được cho việc không sử dụng đó. Tuy nhiên,
Công ước Paris đã không đưa ra quy định cụ thể về “thời hạn hợp lý” cũng như việc
biện hộ như thế nào; mà khái niệm này được dành cho PHÁP LUậT quốc gia của các nước
có liên quan quy định, hoặc nếu không thì dành cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết
những trường hợp như vậy.
- Hiệp định TRIPs đã cụ thể hoá quy định này tại Điều 17. Theo đó, nếu việc sử
dụng là điều khoản để duy trì hiệu lực đăng ký thì đăng ký chỉ có thể bị đình chỉ hiệu lực
sau 1 thời gian liên tục, ít nhất là 3 năm, không sử dụng, và chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá
không nêu được những lý do chính đáng cản trở việc sử dụng. Thời hạn này được đặt ra
nhằm tạo cho chủ sở hữu nhãn hiệu thời gian và cơ hội đủ để chuẩn bị cho việc sử dụng
thích hợp, có tính đến thực tế là trong nhiều trường hợp chủ sở hữu nhãn hiệu phải sử dụng
nhãn hiệu của mình ở nhiều nước. Và Hiệp định cũng quy định: “những điều khoản khách
quan gây trở ngại cho việc sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, như việc hạn chế nhập khẩu hoặc
các yêu cầu khác của Chính fủ đối với hàng hóa hoặc dịch vụ được bảo hộ thông qua nhãn
hiệu hàng hoá đó, phải được coi là lý do chính đáng đối với vệc không sử dụng.”. Như vậy,

biện minh của chủ sở hữu nhãn hiệu về việc không sử dụng có thể được chấp nhận nếu điều
đó là do các hoàn cảnh kinh tế hoặc pháp lý vượt ra khỏi tầm kiểm soát của chủ sở hữu nhãn
hiệu, ví dụ nếu Chính fủ có các quy định cấm hoặc trì hoãn nhập khẩu các hàng hoá gắn
nhãn hiệu. Mặt khác để đbảo việc thực thi các quy định này, Điều 20 Hiệp định TRIPs đã
quy định các nước thành viên “Không được đưa ra các yêu cầu đặc biệt gây cản trở 1 cách
bất hợp lý đến việc sử dụng nhãn hiệu hàng hoá trong hoạt động thương mại, chẳng hạn
như yêu cầu sử dụng kết hợp với 1 nhãn hiệu hàng hoá khác, sử dụng dưới hình thức đặc
biệt hoặc sử dụng theo 1 cách nào đó làm hại đến khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch
vụ của 1 doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác…”
+Nhãn hiệu nổi tiếng:
- Điều 6bis Công ước Paris quy định buộc các quốc gia thành viên phải từ chối hoặc
huỷ bỏ đăng ký hoặc cấm sử dụng 1 nhãn hiệu có khả năng gây nhầm lẫn với 1 nhãn hiệu
khác đã nổi tiếng tại quốc gia thành viên đó.
Kế thừa quy định này của Công ước Paris, Hiệp định TRIPs đã ghi nhận việc bảo
hộ theo Điều 6bis của Công ước Paris. Tuy nhiên, Hiệp định TRIPs đã phát triển quy định
này của Công ước Paris như sau:
+ Điều 6bis Công ước Paris chỉ bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Nhưng tại Điều
16.2 Hiệp định TRIPs thì: “Điều 6bis Công ước Paris (1967) phải được áp dụng đối với
các dịch vụ.”
+ Điều 16.2 Hiệp định TRIPs còn quy định cụ thể về việc xác định 1 nhãn hiệu
3
hàng hoá có nổi tiếng hay không. Theo đó, để xác định nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng “phải
xem xét danh tiếng của nhãn hiệu hàng hoá đó trong bộ fận công chúng có liên quan, kể cả
danh tiếng tại nước Thành viên tương ứng đạt được nhờ hoạt động quảng cáo nhãn hiệu
hàng hoá đó.”
+ Theo Điều 6 bis công ước Paris thì các nước thành viên chỉ có trách nhiệm từ chối
hoặc huỷ bỏ đăng ký, ngăn cấm việc sử dụng nhãn hiệu đã nổi tiếng trên các loại hàng hoá
giống hoặc tương tự. Trong hiệp định TRIPs sự bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng đã đăng ký được
mở rộng cho những hàng hoá và dịch vụ không tương tự với hàng hoá và dịch vụ đã đăng
ký cho nhãn hiệu đó chống việc gây liên tưởng sai lệch giữa những hàng hoá hoặc dịch vụ

đó với chủ sở hữu nhãn hiệu đã đăng ký và gây thiệt hại chủ sở hữu (Điều 16.3).
Ví dụ: Tuân thủ theo quy định của Công ước, VN đã từng giải quyết những vụ việc
liên quan tới Nhãn hiệu để bảo hộ những nhãn hiệu nổi tiếng:
Năm 1992, Cục SHCN đã bác bỏ đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá “McDonald’s” của
1 công ty Australia cho các sản phẩm đồ ăn nhanh, dịch vụ ăn uống và các nhóm sản phẩm
khác. Cục SHCN có đủ thông tin để khẳng định nhãn hiệu “McDonald’s” là nhãn hiệu nổi
tiếng trên thế giới cho đồ ăn nhanh và dịch vụ ăn nhanh của Công ty McDonald’s
Corporation (Hoa Kỳ) mặc dù Công ty này chưa từng đăng ký và sử dụng nhãn hiệu trên tại
VN.
Năm 1993, Cục SHCN đã xem xét và quyết định huỷ bỏ Giấy chứng nhận đăng ký
nhãn hiệu hàng hoá số 4854 cấp cho OFIX GROUP (Australia) đối với nhãn hiệu “Pizza
Hut” trên cơ sở đơn khiếu nại của Công ty Pizza Hut International, LLC (Hoa Kỳ). Công ty
Hoa Kỳ đã chứng minh được sự nổi tiếng của các nhãn hiệu của mình, mặc dù chưa được
đăng ký bảo hộ cũng như chưa từng sử dụng ở VN.
Năm 1998, Cục SHCN đã từ chối đơn đăng ký nhãn hiệu “MILIKET” của 1 cơ sở
thuộc thành fố Hồ Chí Minh cho sản phẩm vở học sinh vì dễ dàng gây nhầm lẫn với nhãn
hiệu mì “MILIKET” của Công ty thực phẩm quận 5.
+Chuyển giao nhãn hiệu:
Theo Điều 6quater Công ước thì hiệu lực của việc chuyển nhượng nhãn hiệu ở 1 quốc
gia thành viên chỉ được thừa nhận nếu phần hoạt động kinh doanh hoặc uy tín đã có ở quốc
gia đó cũng được chuyển nhượng cho bên chuyển nhượng, cùng với độc quyền sx ở quốc
gia đó hoặc bán ở đó, hàng hoá mang nhãn hiệu được chuyển nhượng. Do đó 1 quốc gia
thành viên được tự do yêu cầu, đối với hiệu lực của việc chuyển nhượng nhãn hiệu, phải
đồng thời chuyển giao doanh nghiệp sở hữu nhãn hiệu đó, song những yêu cầu như vậy
không được phép mở rộng tới những phần của doanh nghiệp đặt tại các nước khác.
- Mở rộng hơn so với Công ước Paris, Điều 21 Hiệp định TRIPs đã quy định: “Các
Thành viên có thể quy định các điều khoản cấp li-xăng (chuyển giao quyền sử dụng) và
chuyển nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá, trong đó không được quy định việc cấp
li-xăng không tự nguyện đối với nhãn hiệu hàng hoá và chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá đã
đăng ký phải có quyền chuyển nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá có hoặc không

kèm theo việc chuyển nhượng cơ sở kinh doanh có nhãn hiệu hàng hoá đó.” Như vậy, các
chủ thể có quyền tự do chuyển nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá và việc chuyển
nhượng đó có thể có hoặc không kèm theo việc chuyển nhượng cơ sở kinh doanh. Có thể
nói quy định này là 1 bước tiến rất lớn. Nếu theo quy định tại Công ước Paris thì các bên
chỉ được chuyển giao quyền sở hữu kèm theo với bộ fận sx, điều này khiến cho việc chuyển
4
nhượng các nhãn hiệu hàng hoá gặp nhiều khó khăn.
+Đối tượng bảo hộ:
- Điều 15 Hiệp định TRIPs đã quy định 1 cách cụ thể đối tượng được bảo hộ đối với
nhãn hiệu hàng hoá. Theo đó, đối tượng bảo hộ bao gồm bất kỳ 1 dấu hiệu hoặc tổ hợp các
dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hoá và dịch vụ của 1 doanh nghiệp với hàng hoá
và dịch vụ của doanh nghiệp khác, ví dụ: từ, bao gồm cả tên cá nhân, chữ, số, các yếu tố
hình và sự kết hợp các mầu sắc cũng như bất kỳ sự kết hợp nào của các yếu tố đó (Điều 15).
+1 số quy định mới
* Thời hạn bảo hộ:
- Trong khi các quy định của Công ước Paris không quy định cụ thể thời gian 1 nhãn
hiệu hàng hoá được bảo hộ, thì tại Điều 18 Hiệp định TRIPs đã có quy định rất cụ thể về
thời hạn bảo hộ. Theo đó, đăng ký lần đầu và mỗi lần gia hạn đăng ký 1 nhãn hiệu hàng hoá
phải có thời hạn hiệu lực không dưới 7 năm. Hiệu lực đăng ký 1 nhãn hiệu hàng hoá phải có
khả năng được gia hạn không giới hạn số lần gia hạn.
* Quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu
- Đối với nhãn hiệu đã đăng ký, chủ sở hữu có độc quyền ngăn cấm những người
không được sự đồng ý của mình sử dụng trong hoạt động thương mại các dấu hiệu trùng
hoặc tương tự với nhãn hiệu đó cho hàng hoá hoặc dịch vụ trùng hoặc tương tự với hàng
hoá hoặc dịch vụ đã đăng ký cho nhãn hiệu đó nếu việc sử dụng như vậy có khả năng gây
nhầm lẫn. (Điều 16.1).
- Các ngoại lệ hạn chế đối với các quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu có thể gồm việc sử
dụng 1 cách trung thực các thuật ngữ mang tính mô tả, với điều khoản bđảm lợi ích hợp
pháp của chủ sở hữu nhãn hiệu và của các bên thứ ba (Điều 17).
b. Patent

Hiệp định TRIPs thừa nhận tất cả những quy định về patent trong Công ước Paris như
quyền ưu tiên, sự độc lập của các patent trong cùng 1 sáng chế tại các nước khác nhau, nêu
tên nhà sáng chế trong patent, tách đơn, fục hồi patent trong trường hợp mất hiệu lực vì
không nộp lệ phí…,đồng thời hoàn thiện và bổ sung nhiều quy định mới về vấn đề này. Cụ
thể:
Về đối tượng có khả năng được cấp patent: Điều 1(4) Công ước Paris không đề cập
đến những đối tượng được cấp patent mà liệt kê 1 số loại patent công nghiệp khác nhau và
phải được pháp luật của các nước Thành viên Liên minh thừa nhận như patent nhập khẩu,
patent hoàn thiện Điều 27 Hiệp định TRIPs quy định cụ thể patent được cấp cho những
sáng chế trong mọi lĩnh vực công nghệ, bất kể dưới dạng sản phẩm hay quy trình. Đồng thời
sáng chế được hiểu là phải có tính mới, có trình độ sáng tạo và khả năng ứng dụng công
nghiệp. Tuy nhiên, tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 27, Hiệp định đưa ra những trường hợp
ngoại lệ mà các quốc gia thành viên có thể loại trừ không cấp patent cho 1 số sáng chế
(3)
.
(3)
Các Thviên có thể loại trừ ko cấp patent cho những sáng chế cần fải bị cấm khai thác nhằm mđích thương mại
trong lãnh thổ of mình để bảo vệ trật tự công cộng or đạo đức xã hội, kể cả để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ of con
người và động vật or thực vật or để tránh gây nguy hại nghiêm trọng cho môi trường, với đk những ngoại lệ đó đc qđịnh
ko chỉ vì lý do duy nhất là vc khai thác các sáng chế tương ứng bị PL of nc đó ngăn cấm.
Các Thviên cũng có thể loại trừ ko cấp patent cho:
a) các fương fáp chẩn đoán bệnh, các fương fáp nội và ngoại khoa để chữa bệnh cho người và động vật;
b) thực vật và động vật ko fải là các chủng vi sinh, và các quy trình sản xuất thực vật và động vật, chủ yếu mang tính
chất sinh học và ko fải là các quy trình fi sinh học or vi sinh. Tuy nhiên, các Thviên fải bảo hộ giống cây bằng hệ thống
patent or bằng 1 hệ thống riêng hữu hiệu, or bằng sự kết hợp giữa hai hệ thống đó dưới bất kỳ hình thức nào. Các qđịnh
of điểm này fải đc xem xét lại sau 4 năm kể từ khi Hiệp định WTO bắt đầu có hiệu lực.
5
Việc quy định ngoại lệ này chính là xuất phát từ quy định các patent được cấp phải được
pháp luật các nước thành viên liên minh thừa nhận.”, nhưng lý do các nước thành viên
không cấp patent không chỉ vì pháp luật của họ không thừa nhận mà phải có những giới hạn

nhất định.
Cấp li-xăng không tự nguyện: các Thành viên WTO có thể quy định việc cấp li-xăng
không tự nguyện nếu sáng chế không được sử dụng trong 1 khoảng thời gian nhất định hoặc
vì lợi ích công cộng. Bổ sung các điều khoản về việc cấp li-xăng cưỡng bức tại điều 5A(3),
(4) trong Công ước Paris, Điều 31 của Hiệp định TRIPs quy định cụ thể các điều khoản các
thành viên cần tuân thủ về các hình thức sử dụng khác không được phép của người nắm giữ
quyền. Các hình thức sử dụng khác được hiểu là là hình thức sử dụng không thuộc trường
hợp cho phép tại Điều 30
(4)
.
Thời hạn bảo hộ: cũng giống như các đối tượng bảo hộ khác công ước paris cũng
không đưa ra thời hạn bảo hộ patent. Theo Hiệp định TRIPs thời hạn bảo hộ patent không
được kết thúc trước khi hết 20 năm tính từ ngày nộp đơn (Điều 33).
c. Kiểu dáng công nghiệp
Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình
khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này.
Công ước Paris quy định kiểu dáng công nghiệp phải được bảo hộ tại tất cả các nước
thành viên của Liên minh. Còn theo Hiệp định TRIPs thì các thành viên có thể quy định 1 số
ngoại lệ nhất định đối với việc bảo hộ kiểu dáng công nghiệp với điều khoản là các ngoại lệ
này không mâu thuẫn với việc khai thác bình thường các kiểu dáng công nghiệp đã được
bảo hộ và không làm tổn hại 1 cách bất hợp lý tới lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu kiểu
dáng công nghiệp được bảo hộ và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba.
Hiệp định TRIPs có quy định bổ sung thêm về thời hạn bảo hộ kiểu dáng công nghiệp
tối thiểu là 10 năm.
d. Tên thương mại
Điều 8 công ước Paris quy định: Tên thương mại được bảo hộ ở tất cả các nước thành
viên của liên minh mà không bị bắt buộc phải nộp đơn hoặc đăng ký, bất kể tên thương mại
đó có hay không là 1 phần của 1 nhãn hiệu hàng hóa. Bên cạnh đó, điều 9 của công ước
cũng quy định các biện pháp pháp lý ngăn ngừa vi phạm. Cụ thể : Tất cả các hàng hóa hoặc
tên thương mại 1 cách bất hợp pháp đều bị thu giữ khi nhập khẩu vào những nước thành

viên của Liên minh nơi nhãn hiệu hàng hóa hoặc tên thương mại đó được bảo hộ pháp lý.
Các biện pháp này được hệ thống pháp luật các quốc gia quy định (Điều 9 (3) Công ước
Paris).
Tại phần II của hiệp định TRIPs không có quy định về tên thương mại, như vậy có thể
cho rằng toàn bộ các quy định về bảo hộ tên thương mại trong Công ước Paris được thừa
nhận như là các quy định đầy đủ về tên thương mại trong Hiệp định TRIPs.
e. Chỉ dẫn địa lý
Ngược lại với tên thương mại, chỉ dẫn địa lý lại được quy định với nhiều bổ sung so
với Công ước Paris tại mục 3 của Hiệp định TRIPs. Theo đó, đối tượng được bảo hộ được
nêu rõ tại khoản 1 của điều 22 hiệp định TRIPs:“…chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về hàng
(4)
Các Thviên có thể qđịnh 1 số ngoại lệ nhất định đối với các độc quyền đc cấp trên cơ sở patent với đk là các ngoại lệ
đó ko mâu thuẫn với vc khai thác bình thường patent đó và ko làm tổn hại 1 cách bất hợp lý tới lợi ích hợp fáp of chủ sở
hữu patent, và lợi ích hợp fáp of bên thứ ba.
6
hóa bắt nguồn từ lãnh thổ của 1 nước thành viên hoặc từ khu vực hay địa phương thuộc
lãnh thổ nước đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lý
quyết định”.
Theo Điều 22 của hiệp định TRIPs, các quốc gia thành viên phải quy định các biện
pháp pháp lý để ngăn ngừa vi phạm. Trong đó có các hành vi sử dụng phương tiện nào để
gọi tên hoặc giới thiệu hàng hóa nhằm chỉ dẫn hoặc gợi ý hàng hóa đó bắt nguồn từ 1 khu
vực địa lý khác với xuất xứ thực, với cách thức lừa dối công chúng về xuất xứ địa lý hàng
hóa. Đồng thời các quốc gia còn cần quy định các biện pháp ngăn ngừa với bất kỳ hành vi
sử dụng nào cấu thành hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo điều 10 bis Công ước
Paris. (điểm b khoản 2 Điều 22, mục 3 Hiệp định TRIPs). Bên cạnh đó Hiệp định TRIPs còn
bổ sung các quy định đối với các chỉ dẫn địa lý dùng cho rượu vang và rượu mạnh.
f. Thiết kế bố trí mạch tích hợp
Đây là 1 đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp theo Hiệp định TRIPs- 1
đối tượng hoàn toàn mới không được ghi nhận trong Công ước Paris.
Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn là cấu trúc không gian của các phần tử mạch và

mối liên kết các phần tử đó trong mạch tích hợp bán dẫn.
Mạch tích hợp bán dẫn là sản phẩm dưới dạng thành phẩm hoặc bán thành phẩm, trong
đó các phần tử với ít nhất 1 phần tử tích cực và 1 số hoặc tất cả các mối liên kết được gắn
liền bên trong hoặc bên trên tấm vật liệu bán dẫn nhằm thực hiện chức năng điện tử.
Phạm vi bảo hộ: phải có sự đồng ý của người nắm giữ quyền khi thực hiện những
hành vi: nhập khẩu, bán hoặc phân fối dưới hình thức khác nhằm mục đích thương mại thiết
kế bố trí đang được bảo hộ, mạch tích hợp thể hiện thiết kế bố trí đang được bảo hộ hoặc
sản phẩm chứa mạch tích hợp như vậy chừng nào sản phẩm đó vẫn còn chứa thiết kế bố trí
bị sao chép bất hợp pháp.
Thời hạn bảo hộ: Tại những nước thành viên quy định đăng ký là điều khoản bảo hộ,
thời hạn bảo hộ thiết kế bố trí sẽ không được kết thúc trước khi kết thúc 10 năm tính từ ngày
nộp đơn đăng ký hoặc từ ngày việc khai thác nhằm mục đích thương mại xảy ra lần đầu tại
bất kỳ nơi nào trên thế giới.
- Tại những nước thành viên không quy định đăng ký là điều khoản để bảo hộ, các
thiết kế bố trí phải được bảo hộ trong thời hạn không dưới 10 năm tính từ ngày việc khai
thác nhằm mục đích thương mại xảy ra lần đầu tiên tại bất kỳ nơi nào trên thế giới.
- Thành viên có thể quy định rằng thời hạn bảo hộ chấm dứt khi hết 15 năm kể từ khi
tạo ra thiết kế bố trí.
g. Vấn đề Cạnh tranh không lành mạnh
Công ước Paris 1967 yêu cầu các nước thành viên phải thực hiện bảo hộ cho công dân
của các nước thành viên đó chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh (tất cả các
hành động trái với tập quán trung thực trong công nghiệp và thương mại) và liệt kê ra các
hành động bị cấm tại Điều 10 bis(3): Hành động có khả năng gây nhầm lẫn, đưa những
thông tin sai lệch gây mất uy tín đối với đối thủ cạnh tranh hay gây nhầm lẫn cho công
chúng về các thông tin liên quan đến hàng hóa cung cấp cho họ.
Khoản 1 Điều 39 của Hiệp định TRIPs là sự mở rộng Điều 10bis của Công ước Paris.
TRIPs là công ước quốc tế lần đầu tiên đưa hành vi vi phạm nguyên tắc bí mật vào dạng
hành vi cạnh tranh không lành mạnh, cần ngăn chặn.
Quy định của Điều 10bis (2) được đưa vào khoản 2 Điều 39 của Hiệp định TRIPs
7

thông qua việc cho phép thể nhân và pháp nhân được quyền ngăn chặn việc tiết lộ thông tin
bí mật do họ kiểm soát 1 cách hợp pháp mà không được sự đồng ý của họ hoặc sử dụng các
thông tin bí mật đó theo cách “trái với tập quán thương mại trung thực”. Hiệp định TRIPs đã
giải thích cụm từ “hành vi trái với tập quán thương mại trung thực” có nghĩa: “ít nhất là
các hành vi như vi phạm hợp đồng, vi phạm bí mật và xúi giục vi phạm, và bao gồm việc
thu thập thông tin không được tiết lộ từ các bên thứ ba vốn đã biết hoặc do quá cẩu thả
không biết rằng các hành vi đó đó liên quan đến việc thu thập thông tin trên”. Như vậy
ngvụ bảo mật không chỉ ràng buộc người trực tiếp nhận thông tin bí mật, mà còn ràng buộc
các bên thứ ba tiếp nhận thông tin đó và họ biết hoặc buộc phải biết rằng việc tiết lộ thông
tin đó là vi phạm nguyên tắc bảo mật. Đây chính là điểm đặc biệt của Hiệp định TRIPs so
với Công ước Paris.
8

×