Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật chăm sóc giống lan đai châu (rhynchostylis gigantea) tại thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 104 trang )




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM





DƢƠNG THỊ THÙY DƢƠNG


NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP
KỸ THUẬT CHĂM SÓC GIỐNG LAN ĐAI CHÂU
(RHYNCHOSTYLIS GIGANTEA) TẠI THÁI NGUYÊN



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CÂY TRỒNG






Thái Nguyên - 2014


i
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




DƢƠNG THỊ THÙY DƢƠNG

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP
KỸ THUẬT CHĂM SÓC GIỐNG LAN ĐAI CHÂU
(RHYNCHOSTYLIS GIGANTEA) TẠI THÁI NGUYÊN

Ngành: Khoa học cây trồng
Mã số: 60.62.01.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CÂY TRỒNG


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Xuân Bình



Thái Nguyên - 2014




ii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung
thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.

10 năm 2014
Tác giả luận văn



Dƣơng Thị Thùy Dƣơng



iii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


LỜI CẢM ƠN
Đợt thực tập này thực sự bổ ích đối với tôi vì qua đây tôi không chỉ củng cố
được lý thuyết, tiếp thu kinh nghiệm thực tiễn về các môn học trên giảng đường mà
còn tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm sống, giao tiếp trong các mối quan hệ xã
hội. Những điều này có ý nghĩa rất thiết thực và sẽ trở thành nền tảng cho bước đi
của tôi sau này được vững chắc. Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận
tình chỉ bảo của thầy giáo PGS.TS Ngô Xuân Bình, và các thầy cô giáo trong khoa,

các anh chị thuộc Khu công nghệ tế bào, các anh chị em bạn bè và người thân đã
giúp tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Tuy nhiên, bài luận văn của tôi không tránh khỏi những sai sót do thời gian
còn hạn chế và vốn kinh nghiệm chưa nhiều. Kính mong được sự chỉ bảo,đóng góp
ý kiến của các thầy, các cô và các bạn để bài luận văn của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2014
Học viên



Dương Thị Thùy Dương



iv
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ i
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
Mục lục iv
Danh mục chữ viết tắt v
Danh mục bảng biểu vi
Danh mục các biểu đồ vii
MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1

1.2. Mục đích nghiên cứu 2
1.3. Yêu cầu 2
1.4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 2
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Giới thiệu chung về cây hoa lan 3
1.1.1. Nguồn gốc và phân loại hoa lan 3
1.1.2. Giới thiệu chung về lan rừng Việt Nam 8
1.1.3. Vai trò của hoa lan trong đời sống kinh tế 9
1.1.4. Đặc điểm hình thái và sinh học của hoa lan 10
1.1.5. Các yêu cầu kỹ thuật cơ bản để nuôi trồng Lan Đai Châu
(Rhynchostylis Gigantea) 14
1.1.6. Các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của hoa Lan Đai Châu 19
1.1.7. Các biện pháp kỹ thuật chăm sóc hoa Lan Đai châu 19
1.2. Tình hình nghiên cứu sản xuất kinh doanh, nuôi trồng hoa lan trong nước
và trên thế giới 23
1.2.1. Trên thế giới 23
1.2.2. Tại Việt Nam 26
1.3. Tình hình nghiên cứu Lan Đai Châu ở trong nước và ngoài nước 28
1.3.1. Ngoài nước 28
1.3.2. Trong nước 28




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 30
2.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu 30
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 30

2.1.2. Vật liệu nghiên cứu và sử dụng 30
2.2. Địa điểm và thời gian tiến hành nghiên cứu 32
2.3. Nội dung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu 32
2.3.1. Nội dung nghiên cứu 32
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu 33
2.3.3. Các chỉ tiêu theo dõi 37
2.3.4. Phương pháp theo dõi 38
2.3.5. Phương pháp xử lý số liệu 40
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 41
3.1. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các loại phân bón lá đến khả năng sinh
trưởng của lan Đai Châu 41
3.1.1. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các loại phân bón lá đến tăng trưởng
bộ lá của lan Đai châu. 41
3.1.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các loại phân bón lá đến sinh trưởng
bộ rễ của lan Đai châu. 50
3.1.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các loại phân bón lá đến khả năng ra
hoa ở lan Đai Châu 51
3.1.4. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các loại phân bón lá đến phát sinh
bệnh hại ở lan Đai Châu 52
3.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng phân bón lá N3M đến khả
năng sinh trưởng của lan Đai Châu. 54
3.2.1. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng phân bón lá N3M đến
tăng trưởng bộ lá của lan Đai Châu 54
3.2.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng phân bón lá N3M đến
sinh trưởng bộ rễ của lan Đai Châu 62
3.2.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng phân bón lá N3M đến khả
năng ra hoa của lan Đai Châu 64





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


3.2.4. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng phân bón lá N3M đến
phát sinh bệnh hại của lan Đai Châu 65
3.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ che sáng đến khả năng sinh
trưởng của lan Đai châu 65
3.3.1. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ che sáng đến tăng trưởng bộ
lá của lan Đai châu 65
3.3.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ che sáng đến sinh trưởng bộ
rễ của lan Đai Châu 71
3.3.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ che sáng đến khả năng ra hoa
ở lan Đai Châu 73
3.3.4. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ che sáng đến phát sinh, bệnh
hại ở lan Đai Châu 74
3.4. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các loại giá thể đến sinh trưởng của
lan Đai Châu 75
3.4.1. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của giá thể đến tỷ lệ sống của lan Đai Châu 75
3.4.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của giá thể đến tăng trưởng bộ lá của lan
Đai Châu 77
3.5. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ Giberline đến sinh trưởng của
lan Đai Châu 82
3.5.1. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ Giberline đến tăng trưởng
bộ lá của lan Đai Châu 82
3.5.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ Giberline đến bộ rễ của lan
Đai Châu 86
3.5.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ Giberline đến khả năng ra
hoa của lan Đai Châu 87
Chƣơng 4: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 90

4.1. Kết luận 90
4.2. Đề nghị 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO 91



v
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CT : Công thức
ĐC : Đối chứng
CV : Hệ số biến động
LSD
05
: Giá trị sai khác nhỏ nhất ở mức độ tin cậy 95%
LSD
01
: Giá trị sai khác nhỏ nhất ở mức độ tin cậy 99%
TCN : Trước công nguyên
Nxb : Nhà xuất bản
% : Phần trăm
VTM : Vitamin



vi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu



DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 3.1. Ảnh hưởng của các loại phân bón lá đến số lá của lan Đai châu (Từ
tháng 8/2013 đến tháng 7/2014) 42
Bảng 3.2. Ảnh hưởng của các loại phân bón lá đến tăng trưởng chiều dài lá lan
Đai châu 45
Bảng 3.3. Ảnh hưởng của các loại phân bón lá đến tăng trưởng chiều rộng lá lan
Đai Châu 47
Bảng 3.4. Ảnh hưởng của các loại phân bón lá đến bộ rễ của lan Đai Châu (sau
12 tháng thí nghiệm) 50
Bảng 3.5. Ảnh hưởng các loại phân bón lá đến thời gian ra hoa, số hoa, chiều dài
chùm hoa, tỷ lệ nở hoa và độ bền hoa lan Đai Châu 51
Bảng 3.6. Ảnh hưởng của các loại phân bón lá đến phát sinh bệnh hại ở lan Đai Châu 53
Bảng 3.7. Ảnh hưởng của liều lượng phân bón lá N3M đến số lá của lan Đai
Châu (từ tháng 11/2013 đến tháng 7/2014) 55
Bảng 3.8. Ảnh hưởng của liều lượng phân bón lá N3M đến tăng trưởng chiều dài
lá của lan Đai Châu (từ tháng 11/2013 đến tháng 7/2014) 57
Bảng 3.9. Ảnh hưởng của liều lượng phân bón lá N3M đến tăng trưởng chiều
rộng lá của lan Đai Châu (từ tháng 11/2013 đến tháng 7/2014) 60
Bảng 3.10. Ảnh hưởng của liều lượng phân bón lá N3M đến thời gian ra rễ, số
rễ, màu sắc rễ của lan Đai Châu (từ tháng 11/2013 đến tháng 7/2014) . 62
Bảng 3.11. Ảnh hưởng của liều lượng phân bón lá N3M đến thời gian ra hoa, số
hoa, chiều dài chùm hoa và độ bền hoa lan Đai Châu (từ tháng
11/2013 đến tháng7/2014) 64
Bảng 3.12. Ảnh hưởng của liều lượng phân bón lá N3M đến phát sinh bệnh hại
của lan Đai Châu (từ tháng 11/2013 đến tháng 7/2014) 65
Bảng 3.13. Ảnh hưởng của chế độ che sáng đến số lá của lan Đai Châu (từ
tháng 8/2013 đến tháng 7/2014) 66





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


Bảng 3.14. Ảnh hưởng của chế độ che sáng đến tăng trưởng chiều dài lá lan Đai
Châu (Từ tháng 8/2013 –tháng 7/2014) 68
Bảng 3.15. Ảnh hưởng của chế độ che sáng đến tăng trưởng chiều rộng lá lan
Đai Châu (Từ tháng 8/2013– tháng7/2014) 70
Bảng 3.16. Ảnh hưởng của chế độ che sáng đến thời gian ra rễ, số rễ và mầu sắc
rễ của lan Đai Châu (Sau 12 tháng thí nghiệm) 71
Bảng 3.17. Ảnh hưởng của chế độ che sáng đến thời gian ra hoa, số hoa, chiều
dài chùm hoa, và độ bền hoa ở lan Đai Châu 73
Bảng 3.18. Ảnh hưởng của chế độ che sáng đến phát sinh bệnh hại ở lan Đai Châu 74
Bảng 3.19. Ảnh hưởng của các loại giá thể đến tỷ lệ sống của lan Đai Châu 75
Bảng 3.20. Ảnh hưởng của các loại giá thể đến số lá và số rễ của lan Đai Châu 75
Bảng 3.21. Ảnh hưởng của các loại giá thể đến tăng trưởng kích thước lá lan
Đai Châu 79
Bảng 3.22. Ảnh hưởng của giá thể đến số hoa của lan Đai Châu 80
Bảng 3.23. Ảnh hưởng của giá thể đến phát sinh bệnh hại lan Đai Châu 81
Bảng 3.24. Ảnh hưởng của nồng độ Gibberline đến số lá lan Đai Châu 82
Bảng 3.25. Ảnh hưởng của chế phẩm Giberline đến chiều dài lá lan Đai Châu 83
Bảng 3.26. Ảnh hưởng của chế phẩm Giberline đến chiều rộng lá lan Đai Châu 85
Bảng 3.27. Ảnh hưởng của chế phẩm Giberline đến thời gian ra rễ, số rễ, và mầu
sắc rễ lan Đai Châu 86
Bảng 3.28. Ảnh hưởng của nồng độ Gibberline đến số hoa, thời gian ra hoa, số
cây ra hoa, chiều dài chùm hoa,và độ bền hoa lan Đai Châu 87
Bảng 3.29. Ảnh hưởng của nồng độ Gibberline đến phát sinh bệnh hại lan Đai Châu 88




vii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Trang
Hình 2.1: Doanh thu từ một số chủng loại hoa chính tại Mỹ năm 2006 25
Hình 2.2: Biến động doanh thu một số loại hoa chính năm 1996 so với năm
2006 tại Mỹ 25
Hình 3.1: Biểu đồ tốc độ tăng trưởng số lá lan Đai Châu 44
Hình 3.2: Biểu đồ tốc độ tăng trưởng chiều dài lá lan Đai Châu 46
Hình 3.3: Biểu đồ tốc độ tăng trưởng chiều rộng lá lan Đai Châu 49
Hình 3.4: Biểu đồ tốc độ tăng trưởng số lá lan Đai Châu 55
Hình 3.5: Biểu đồ tốc độ tăng trưởng chiều dài lá lan Đai Châu 58
Hình 3.6: Biểu đồ tốc độ tăng trưởng chiều rộng lá lan Đai Châu 60
Hình 3.7: Biểu đồ tốc độ tăng trưởng số lá lan Đai Châu 67
Hình 3.8: Biểu đồ tốc độ tăng trưởng chiều dài lá lan Đai Châu 69
Hình 3.9: Biểu đồ tốc độ tăng trưởng chiều rộng lá lan Đai Châu 71
Hình 3.10: Biểu đồ tốc độ tăng trưởng số lá và số rễ 77
Hình 3.11: Biểu đồ tốc độ tăng trưởng kích thước lá lan Đai Châu 80
Hình 3.12: Biểu đồ tôc độ tăng trưởng số lá lan Đai Châu 83
Hình 3.13: Biểu đồ tốc độ tăng trưởng chiều dài lá 84
Hình 3.14: Biểu đồ tốc độ tăng trưởng chiều rộng lá 86


1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu



MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta được thiên nhiên ưu đãi về địa lý khí hậu cũng như nhiệt độ, độ
ẩm và ánh sáng rất thích hợp với việc trồng Phong lan. Rừng của chúng ta là một
trung tâm với nhiều Phong lan quý như: Đai châu (Tai Châu), Ngọc điểm, Kim
điệp, Thủy tiên, Ý thảo, Long tu… thật là sinh đẹp mầu sắc sặc sỡ, đa dạng. Có thể
nói khắp nước ta từ thành thị đến nông thôn, bất cứ ở đâu, bất cứ người nào cũng có
thể trồng phong lan được. Lan không chỉ có giá trị thẩm mỹ cao mà còn đem lại giá
trị kinh tế cho người sử dụng.
Đai Châu là một trong những giống lan đẹp, lại nở vào dịp tết nguyên đán
nên loài hoa này được biểu tượng cho dân tộc Việt Nam. Vì vậy cần có những biện
pháp chăm sóc hợp lí, đúng cách như phân bón, chế độ ánh sáng, giá thể để nhằm
mục đích cung cấp sản phẩm cho thị trường đồng thời bảo tồn nguồn lan rừng nói
chung và Lan Đai Châu nói riêng.
Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi nhưng địa hình lại không phức
tạp lắm so với các tỉnh trung du, miền núi khác, đây là một thuận lợi của Thái
Nguyên cho canh tác nông lâm nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội nói chung so
với các tỉnh trung du miền núi khác.
Thái Nguyên cũng là một trong những tỉnh có điều kiện tự nhiên để phát
triển ngành trồng lan. Trong quá trình điều tra và nuôi trồng thử nghiệm các loại lan
tại tỉnh Thái Nguyên, chúng tôi nhận thấy lan Đai Châu có khả năng phát triển
thuận lợi về điều kiện tự nhiên việc phát triển lan tại tỉnh Thái Nguyên còn nhiều
khó khăn: chưa có đơn vị chuyên sâu nghiên cứu về lan, chưa cung cấp được nguồn
lan tại chỗ, kỹ thuật chăm sóc còn yếu kém, đặc biệt chưa quan tâm nhiều đến điều
kiện nhiệt độ, ánh sáng, giá thể làm cho chất lượng của hoa lan Đai Châu chưa cao.
Tình trạng trên đặt ra vấn đề cần giải quyết trước mắt và lâu dài là tìm hiểu
kỹ thuật tác động đến quá trình sinh trưởng và phát triển để tạo cho cây hoa lan Đai
Châu có màu sắc đẹp, có độ bền cao.



2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


Cần điều tra, phân loại và đánh giá những biện pháp kỹ thuật phù hợp cho
cây hoa, giống hoa thích hợp với điều kiện sản xuất tại địa phương. Trên cơ sở đó
có thể tìm ra những biện pháp kỹ thuật phù hợp với điều kiện sản xuất, nhằm nâng
cao giá trị kinh tế và tăng thu nhập cho người trồng hoa.
Với điều kiện thuận lợi của Thái nguyên mà từ đó tôi đã tiến hành nghiên
cứu đề tài với chuyên đề: “Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật chăm sóc giống
lan Đai Châu (Rhynchostylis gigantea) tại Thái Nguyên”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Xác định ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật chăm sóc đến khả năng
sinh trưởng giống lan Đai Châu (Rhynchostylis gigantea) tại Thái Nguyên. Kết quả
làm cơ sở để xây dựng biện pháp kỹ thuật chăm sóc loài lan rừng Đai Châu.
1.3. Yêu cầu
- Xác định được ảnh hưởng của phân bón đến sự sinh trưởng của lan Đai châu.
- Xác định được ảnh hưởng của chế độ che ánh sáng đến sự sinh trưởng lan Đai châu.
- Xác định được ảnh hưởng của giá thể đến khả năng sinh trưởng của lan Đai Châu.
- Xác định được ảnh hưởng của nồng độ Gibberline đến khả năng sinh
trưởng của lan Đai Châu.
1.4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Giúp cho sinh viên biết cách triển khai nghiên cứu một đề tài bắt đầu từ
bước lập đề cương nghiên cứu cho đến khi kết thúc báo cáo kết quả trước hội đồng.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả đề tài góp phần giải quyết yêu cầu thực tế sản xuất của các hộ nông
dân, các doanh nghiệp trồng hoa lan để lựa chọn các biện pháp kỹ thuật tốt nhất
trong việc nuôi trồng lan Đai Châu.

Tạo tiền đề thúc đẩy nghề trồng hoa lan ở Thái Nguyên, góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.


3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giới thiệu chung về cây hoa lan
1.1.1. Nguồn gốc và phân loại hoa lan
1.1.1.1. Nguồn gốc của hoa lan
Hoa lan (Orchidaceae) là một trong đỉnh cao của sự tiến hóa các loài cây có
hoa. Hoa lan được con người biết đến rất sớm. Ở châu Á, danh từ Lan là tên có từ
xa xưa trong tứ thư, ngũ kinh và cả trong kinh dịch của Bách Gia Chi Tử (Trung
Quốc 551 - 479 trước Công Nguyên). Hoa lan được tượng trưng cho người quân tử.
Khổng Tử đã hết lời ca ngợi hoa lan và có lẽ là người đầu tiên coi hoa lan là vua của
các loài hoa (Nguyễn Tiến Bân, 1997) [2].
Người ta cứ tưởng rằng cây lan được biết đến trước tiên ở châu Âu qua bản
viết tay bằng chữ Hy Lạp “Xem xét cây cỏ” (Enquiry into Plants) của Theophrastus
(khoảng năm 370 - 479 trước Công nguyên).
Chữ Lan như vậy đã xuất hiện rất lâu đời tại Trung Hoa. Cây lan được biết
đến đầu tiên ở Trung Hoa là Kiến lan (được tìm thấy đầu tiên ở tỉnh Phúc Kiến),
mà tên khoa học sau này được đặt là Cymbidium Ensifolium. Lan với người
phương Đông được tượng trưng cho tình yêu và vẻ đẹp, Lan còn tượng trưng cho
sự đông đủ con cái (phúc). Vì Khổng Tử ví lan với đức cao quý cho nên theo thời
gian lan cũng đồng nghĩa với người quân tử. Hương thơm của lan biểu tượng cho
tình bạn. (Đào Thanh Vân, Đặng Thị Tố Nga, 2007)[22].
Ở phương Tây, tuy cây Lan được biết đến sau nhưng lại được chú ý đến bởi

công dụng về dược liệu của nó sau đó mới đến vẻ đẹp của hoa. Phrastus - được coi
là ông tổ của thực vật học và cũng có thể nói là cha đẻ của ngành học về lan đã
dùng chữ Hy Lạp(Orkis) để chỉ những cây lan được tìm thấy ở vùng Địa Trung Hải.
Đến thế kỷ thứ nhất sau công nguyên, Dioscorides đã dùng chữ Orchis để mô tả hai
loài địa lan trong quyển sách về dược liệu của ông và sau này được Linnaeus ghi lại
trong quyển “Các loài cây cỏ” (Species Plantarum) vào năm 1753. Sau đó được


4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


John Lindley sử dụng đầu tiên để đặt cho họ lan là: Orchidaceae từ năm 1836 và tên
phân loại đó được tồn tại cho đến ngày nay (Phạm Hoàng Hộ, 1972)[8].
Ở Việt Nam, dấu tích của những nghiên cứu về Lan ở buổi ban đầu không rõ
rệt lắm. Những khảo sát ban đầu về lan ở Việt Nam là của Joanis Loureiro, một nhà
truyền giáo người Bồ Đào Nha, ông đã mô tả cây lan lần đầu tiên vào năm 1789 trong
cuốn “Flora Cochinchinesis” trong một cuộc hành trình đến Nam phần Việt Nam và
đã được Bentham và Hoocker ghi lại trong “Enera Plantarum” (1862 - 1883) (Nguyễn
Quang Thạch và Cộng Sự, 2008)[20]. Chỉ sau khi người Pháp đến Việt Nam mới có
những công trình được công bố, đáng kể là của: F. Gagnepain và A. Guillaumin mô
tả 101 giống gồm 750 loài lan cho cả ba nước Đông Dương trong bộ “Thực vật chí
Đông Dương” do H. Lecomte chủ biên ở quyển 6 xuất bản từ năm 1932 – 1934
(Phạm Hoàng Hộ, 1972)[8]. Một số tác giả khác cũng đề cập đến lan Việt Nam như.
Bên cạnh đó một số người Việt Nam cũng bước đầu nghiên cứu về lan như ông
Trương Đấu đáng kể nhất là quyển II “Cây cỏ miền Nam Việt Nam” của giáo sư
Phạm Hoàng Hộ với 289 loài lan được mô tả và vẽ hình. Mới đây ông cũng đã bổ
sung thêm 364 loài lan trong quyển III tập 2 của bộ sách “Cây cỏ Việt Nam” xuất bản
năm 1993 nâng tổng số lan có ở Việt Nam là 653 loài (Phạm Hoàng Hộ, 1993)[23].
Lan được người chơi chia làm hai dòng chính là Địa lan và Phong lan. Trong

đó, phong lan lại có hai nhánh là lan bản địa (lan Việt Nam) và Catlan (phiên âm
qua tiếng Hán của lan Cattleya) được du nhập vào Việt Nam. Catlan có nguồn gốc
từ những cánh rừng Nhiệt đới vùng Amazon Nam Mỹ, được những nhà thám hiểm
châu Âu đưa về cựu lục địa. Sau này, nó theo chân những người Pháp đến Việt Nam
cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Catlan tuy hơn hẳn lan bản địa vì nhiều màu sắc
nhưng thực sự không thể so sánh được về mùi hương. Bởi lan bản địa là lan vừa có
hương vừa có sắc, hương thì ngọt ngào quyến rũ, sắc thanh tao ấn tượng.
Cho đến nay, thế giới đã biết được trên 750 giống với 25.000 loài tự nhiên và
75.000 loài do kết quả chọn lọc và lai tạo. Trên khắp thế giới, hầu như nơi nào có
thực vật là có lan. Nhưng số lượng nhiều ít khác nhau rất lớn liên quan mật thiết đến
nhiệt độ cao. Mỗi loài có một cách phân bố và phát triển rất riêng biệt cho kiểu dáng


5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


và kích cỡ của cây lan, sự khác biệt đó không chỉ vì xuất xứ từ các lục địa khác
nhau mà còn có khi ở ngay trong một vùng địa lý vài kilomet vuông.
1.1.1.2. Vị trí phân bố cây hoa lan
Họ lan là một họ có tính chất toàn cầu, chúng xuất hiện và có mặt mọi nơi
trên trái đất nhưng có khoảng 4/5 tập trung ở các vùng nhiệt đới. Những vùng khí
hậu khắc nghiệt như khu vực gần các địa cực thuộc Bắc Cực và Nam Cực người ta
vẫn thấy sự xuất hiện của hoa lan.Tuy nhiên số lượng địa lan ở đây rất ít ỏi chỉ có
một vài loài địa lan với sức sống vô cùng mạnh mẽ. Ở các vùng Ôn Đới hoa lan bắt
đầu phong phú hơn, phân bố nhiều loài địa lan sống sát mặt đất. (Việt Chương,
Nguyễn Việt Thái, 2002)[3]
Cây hoa lan (orchidaceae) thuộc họ phong lan (orchidaceae), bộ lan
(orchidales), lớp một lá mầm (monocotyledoneae).
Họ phong lan phân bố từ 68

0
vĩ Bắc đến 56
0
vĩ Nam, nghĩa là từ gần cực Bắc
như Thuỵ Điển, Aleska, xuống tận cuối cùng ở cực nam của Ostralia. Tuy nhiên tập
trung phân bố của họ này là ở trên các vĩ độ nhiệt đới, đặc biệt châu Mỹ và Đông
nam á. Ngay ở các vùng nhiệt đới họ phong lan cũng phân bố rộng khắp từ vùng
đầm lầy sát Biển Hồ qua các đồi núi thấp lên các vùng núi cao. Mặc dù đa số các
loài lan chỉ mọc ở độ cao dưới 2000 m so với mặt nước biển, song có một số ít loài
sống cả ở độ cao 5000m so với mặt nước biển (ở Colômbia có một số loài phong lan
sống ở núi quanh năm tuyết phủ). (Việt Chương, Nguyễn Việt Thái, 2002)[3]
Ở Châu Á, các nước Thái Lan, Lào Campuchia, Việt Nam có Hoàng thảo
(Dendrobium), Hồ điệp (Phalaenopsis), Phượng vĩ (Renanthera). Các nước Châu
Mỹ như Venezuela, Colombia có các chi Cattleya, Miltonia
Theo presley (1951) thì vùng Châu Á nhiệt đới có 250 chi và 6.800 loài, trong đó
có Dendrobium có 1.400 loài, chi phalaenopsis có 35 loài, chi Vanda có 60 loài (Nguyễn
Tiến Bân)[2]
Theo Briger (1971), ở vùng khí hậu ôn hoà số lượng loài giảm đi nhanh chóng
và rõ rệt. Bắc bán cầu có khoảng 75 chi và 900 loài. Nam bán cầu có khoảng 40 chi
và 500 loài, toàn Châu Âu có khoảng 120 loài và Bắc Mỹ khoảng 170 loài (Nguyễn
Tiến Bân)[2]


6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


Theo R.L. Dresler (1981) ở Châu Mỹ nhiệt đới có 306 chi và 8.266 loài, Trên
thế giới có một số nước tập trung nhiều loài như Colombia có 1.300 loài và Tân
Ghinê có 1.450 loài (Phan Thúc Huân, 1987)[5]

Vào năm 1981 Presley cho rằng: Châu Á nhiệt đới đặc biệt Đông Nam Ấ có
khoảng 250 chi và 6.800 loài chủ yếu là Dendrobium và Vanda Châu Mỹ nhiệt
đới có khoảng 306 chi và 8.266 loài thuộc các loại như Catleya, Epidendron Châu
phi có rất ít lan do khí hậu không thích hợp. Châu Đại Dương có các loài lan phân
bố rộng rãi như Dendrobium, Cymbidium Các vùng Ôn Đới thuộc Châu Âu,
Mỹ,Á, có số lượng loài cũng không nhiều do khí hậu khắc nghiệt (Hoàng Ngọc
Thuận, 2003)[17]
Theo Trần Hợp (1990) hệ thực vật họ phong lan nước ta vô cùng phong phú,
chúng phân bố từ bắc vào nam. Một số loài chỉ xuất hiện ở các tỉnh phía bắc, một số
khác chỉ phân bố ở các tỉnh phía nam, số ít phân bố rộng từ bắc vào nam làm cho sự
phân chia về phân bố khá phức tạp [6]. Tuy nhiên có thể sơ bộ chia sự phân bố đó
làm 6 khu vực sau:
- Khu Đông Bắc Bộ: đây là nơi có vĩ độ cao và khí hậu lạnh nhất nước ta, tập
trung một số loài lan Á Nhiệt Đới, Nhiệt Đới như Cymbidium, Phalaenopsis,
Vanda, Paphiopedium, Dendrobium
- Khu Tây Bắc Bộ: nằm ở vị trí có vĩ độ cao, tuy nhiên có nhiều dãy núi che
chắn và có gió lào vào mùa hè nên các loài lan ở đây chịu nóng tốt hơn như: Eria,
Bulbophylum, Rhynchostylis, Dendrobium
- Khu Trường Sơn Bắc: đây là vùng chuyển tiếp của khu hệ phong lan
miền Bắc và miền Nam. Một số loài chủ yếu: Habenaria, Phaius,
Flickingeria, Dendrobium
- Khu Trường Sơn Nam: do địa hình chia cắt nhiều nên các loài lan phân bố
ở đây rất phức tạp, có những loài Nhiệt Đới và Á Nhiệt Đới, đặc biệt có loài chịu
khô nóng kéo dài như: Eria, Cleisostoma, Liparis , loại chịu ẩm như
Bromheadia, Calanthe


7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu



- Khu Đồng Bằng Miền Nam: khí hậu ở đây nhiệt đới với 2 mùa mưa và khô
rõ rệt. số lượng loài phong lan, tập trung chủ yếu các loài: Bulbophyllum, Acampe,
Dendrobium, Eria
- Khu Đảo: các loài chủ yếu: Bulbophylium, Apostasia, Liparis, Eria
1.1.1.3. Phân loại hoa lan
Theo hệ thống phân loại của viện sĩ hàn lâm Liên Xô Taktajan cùng Võ Văn
Chi và Dương Đức Tiến (1978), cây hoa lan được phân loại như sau:
Giới: Plantae
Ngành mộc lan: (hạt kín-Magnoliophyta)
Lớp hành: (1 lá mầm – Liliopsida), phân lớp hành (Lilidae),
Bộ lan: (Orchidales)
Phân họ lan: (Orchidaceae).
Họ lan là 1 một họ lớn đứng thứ hai trong ngành Mộc lan, vô cùng phong
phú, phức tạp và được phân bố trên những vùng địa lý khác nhau.
Vào năm 1753, Linnê đã dùng luôn danh từ Orchid để chỉ các loài lan. Đến
năm 1836, John Lindley (1779 – 1865) dùng danh từ Orchid để chỉ chung cho các
loài lan và từ đó các loài lan được xếp thành một họ trong hệ thống phân loại gọi là
Orchidaceae. Ông công bố, sắp xếp các tông thuộc họ lan và tên của họ lan được
dùng cho đến ngày nay (Trần Văn Bảo, 2002)[1]. Theo Taktajan (1980) họ lan
được chia thành 3 họ phụ, tuy nhiên theo phân tích dầy đủ và chuyên sâu đặc tính di
truyền của các nhà khoa học đã chia họ lan thành 6 họ phụ (Trần Hợp, 1990)[6]
- Apostasicideae - Orchidadeae- Epidendroideae
- Cypridicideae- Vandoideae- Neottioideae
Theo Leonid V. Averyanov & Anna L. Averyanova (2003)[28] Việt Nam hiện
nay người ta đã biết được 897 loài thuộc 152 chi. Chúng chiếm khoảng 75 - 80% trong
tổng số loài lan ước tính có ở nước ta. Trong đó một số chi có giá trị kinh tế lớn như
Aerides (có 7 loài); Cymbidium (24 loài); Dendrobium (có 107 loài); chi
Paphiopedilum (có 18 loài) và Rhychotilis (có 3 loài)



8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


1.1.2. Giới thiệu chung về lan rừng Việt Nam
Việt Nam là một nước Đông Nam Á nằm trong khu vực châu Á nhiệt đới, là
một trong hai khu vực tập trung nhiều loài Lan
Rừng đẹp nhất thế giới Châu Á và Châu Mỹ, Mỗi loài Lan rừng đều yêu cầu
một điều kiện sinh thái nhất định trừ một vài loài Lan có khả năng thích nghi biên
độ khí hậu rộng (Phạm Hoàng Hộ, 1972)[8].
Các nhà khai thác Lan nhận thấy rằng các vùng ven suối, vùng trũng trong
rừng sâu có mật độ cao hơn, tuy nhiên ở mức độ giới hạn nào đó càng vào sâu trong
rừng mật độ Lan càng giảm dần.
Chỉ tính riêng các tỉnh miền nam nước ta số lượng loài Lan đã lên tới 500
loài, chưa kể một số loài chúng ta chưa tìm kiếm được thì Việt Nam là một trong
những nước có số loài Lan rừng nhiều nhất thế giới.
Lan rừng Việt Nam có mầu sắc rất đa dạng và phong phú, các mầu sắc được
pha trộn một cách hài hòa, cân đối từ nhạt sang đậm như mầu trắng tuyền của loài
hoa Tuyết Ngọc (coelogyne mooreana), màu vàng của Kim Điệp (D. chrysotoxum),
mầu đỏ của Huyết Nhung (Renathera coccinea), mầu tím của Phi Điệp (D.
anosmum) Với một số lượng mầu đa dạng như vậy, nếu được lai tạo Lan rừng Việt
Nam sẽ có một tổ hợp về mầu sắc rất phong phú. Chưa kể một số loài Lan khảm có
sẵn trong thiên nhiên như loài Đuôi Cáo (Aeridesmultiflora), Bò Cạp (Arachnis
annamensis). v,v
Về độ bền của Lan, Việt Nam có nhiều giống Lan rừng nở trên 2 tháng như
Mỹ Dung Dạ Hương, Huyết Nhung, Hoàng Lan, Hồng Lan có loại trung bình 1- 2
tuần như: Long Tu (Dendrobium primulinum), Kim Điệp, Đuôi Cáo, Ngọc
Điểm Thậm chí có loài chỉ nở một ngày như loài Thạch Hộc.
Về kích thước, Lan rừng Việt Nam có nhiều loài hoa bé như các loài của

giống Eria, các loài khác có kích thước trung bình. Một vài loài có kích thước lớn
hơn 10cm như Hạc đỉnh, Huyết Nhung, Mỹ Dung Dạ Hương.
Về hương thơm, Đây là ưu điểm chính của các loài Lan Việt Nam. So với
các loài Lan lai lan rừng Việt Nam Có kích thước bé hơn nhưng nhờ đa số có mùi


9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


thơm nên vẫn hấp dẫn các người ái mộ như Mỹ Dung Dạ Hương, Hạc Đỉnh, Đuôi
Cáo, Ngọc Điểm, Thạch Hộc, Thanh Ngọc, Nhất Điểm Hồng, Giả Hạc (Nguyễn
Công Nghiệp, 2000) [13].
1.1.3. Vai trò của hoa lan trong đời sống kinh tế
Hoa được mệnh danh là món trang sức đẹp nhất mà thiên nhiên ban tặng
cho con người. Con người chưa hề ngừng chiêm ngưỡng các tác phẩm tuyệt mỹ
ấy. Trong thế giới của các loài hoa, hoa lan là một trong những loài hoa đẹp nhất.
Hoa lan được coi là loài hoa tinh khiết, Hoa vương giả cao sang, vua của các loài
hoa. Hoa lan được nhiều người ưa thích, nhất là bộ phận môi làm nhiều nhà điêu
khắc phải thán phục. Hoa lan bao gồm nhiều mầu sắc được pha trộn một cách hài
hòa, cân đối lắm khi lại hiện lên những nét tương phản rõ rệt, hay chìm lắng và
mất hút. Cây lan lại mang những nét đặc thù thú vị như một dạng trồng cây không
đất. Khác với các loài kí sinh thông thường xem cây chủ là giá thể. Vì vậy không
phải ngẫu nhiên mà ông cha ta đã dùng cây lan biểu tượng cho người quân tử:
“Mai, Lan, Cúc, Trúc” một đạo đức cao quý của dân tộc việt nam (Nguyễn Công
Nghiệp, 2000) [13].
Hoa lan đẹp rực rỡ kiêu kỳ, lan được coi là “Nữ hoàng của các loài hoa”.
Hơn thế nữa hoa lan lại rất lâu tàn và một số loài có hương thơm thoang thoảng.
Bên cạnh đó các nhà khoa học cũng đã lao vào công cuộc sưu tầm, nuôi trồng và
nhân cấy, lai tạo ra nhiều giống mới khiến chúng kì diệu lại kì diệu hơn (Trần Văn

Bảo, 1999)[1].
Ngoài vẻ đẹp kiêu kì, quyến rũ, hương thơm đặc biệt phục vụ cho nhu cầu
thưởng ngoạn, giải trí thì phong lan còn tạo ra một nguồn lợi kinh tế quan trọng.
Theo khảo sát của sở nông nghiệp và phát triển nông thôn diện tích trồng lan
ở Thành Phố Hồ Chí Minh hiện khoảng 50 ha tăng gấp 2 lần so với cách đây 2 năm.
Đô thị hóa nông thôn, diện tích đất sản xuất ngày mỗi thu hẹp khiến ngành trồng
hoa lan càng lộ rõ ưu thế của nó: chỉ cần diện tích nhỏ nhưng thu được lợi nhuận cao.
Trên một ha đất trồng hoa lan cắt cành, có thể thu về trên một tỉ đồng mỗi năm (Nguyễn
Thiện Tịch và Đoàn Thị Hoa, 2004)[14].


10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


Trong những năm gần đây xuất khẩu hoa lan tăng mạnh chín tháng đầu năm
2008, kim ngạch xuất khẩu hoa phong lan lại tăng 218% so với tháng 8 /2008, đạt
61,0 nghìn USD. Nhật Bản là thị trường xuất khẩu hoa lan tiềm năng của chúng ta
(Phát huy tiềm năng xuất khẩu phong lan Việt Nam, 2009).
1.1.4. Đặc điểm hình thái và sinh học của hoa lan
1.1.4.1. Đặc điểm chung của hoa lan
Họ lan (orchidacea) thuộc lớp một lá mầm, thân thác sống trên đất (địa
lan), trên kẽ đá (thạch lan) hoặc sống trên những cây gỗ lớn với bộ rễ khí sinh
(phong lan).
- Thân
+ Thân của lan biến động từ 0,1-0,2m đến 3-4m.
+ Thân lan có ở các loài đơn thân và một số loài vừa có thân vừa có giả hành
(thân giả) – các loài lan có thân thường không có bộ phận dự trữ nước và các chất
dinh dưỡng.
+ Thân mang rễ và lá, như các loài lan thuộc nhóm đơn thân, rễ và lá mọc

theo hai chiều thẳng góc, phát hoa mọc trên thân ở các nách lá và song song với lá
và thẳng góc với rễ.
- Thân giả
+ Thân giả của lan có ở các loài lan thuộc nhóm đơn thân, thân giả của các
loài lan khác giống cũng như cùng một giống, hình dạng rất khác nhau. Thân giả rất
cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của cây. Thân giả có chứa diệp lục, dự trữ
nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho cây trong quá trình sinh trưởng, phát triển và cả
khi cây lan ra hoa vào thời kỳ nghỉ. Thân giả còn có chức năng giữ nước duy trì cho
sự sống của cây trong điều kiện khô hạn.
+ Thân giả có thể hình thoi hoặc hình trụ hoặc hình dẹt hoặc hình tháp. Có
những loài lan thân giả bị thu bé lại, rất khó nhận biết. Cũng có loài vừa có thân thật
vừa có thân giả.(Phan Thúc Huân, 1987)[5]
+ Thân giả của cây lan có kích thước khác nhau, có loại thân giả chỉ bằng
đinh ghim nhưng cũng có loại than giả đến 7.8 m.


11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


- Căn hành (thân - rễ)
Căn hành chỉ gặp ở lan đa thân, trừ một số ít bị thu nhỏ rất nhiều ở lan trung
gian (Pseudomonopodial). Căn hành thật sự là thân cấp một và từ đó hình thành
thân cấp hai, chúng có thể dài ra và mang lá gọi là thân hoặc thu ngắn và dày lên tạo
thành giả hành có nhiều hình dạng và kích thước khác nhau.(Nguyễn Công Nghiệp,
2000)[13]
- Rễ
Ở lan đa thân rễ thường được hình thành từ căn hành. Rễ ở đa số các loài lan
có hình trụ, có nhánh bậc một, bậc hai, có thể có bậc ba và thường rất dài. Ở đa số
thành viên của loài Cypripedilinae và nhiều loài lan đất khác rễ còn mang lông rễ. Ở

loài đơn thân thì rễ mọc thẳng từ thân và thường xen kẽ với lá.
Rễ trên không của loài phụ sinh có một trục chính bao quanh bởi mô không
chặt giống bọt biển bao quanh gọi là mạc(valamen), mà các tế bào khi khô chỉ chứa
không khí. Mạc này có thể hấp thụ hơi nước của không khí, cũng như tích lũy nước
mưa và sương đọng. Do che phủ nhẹ nhàng với biểu bì mỏng của nó, làm cho rễ hút
ẩm nhanh và giữ ẩm trong một thời gian đáng kể. Rễ lan thuộc loại rễ thịt, dạng thô,
mập, màu trắng ngả vàng nhạt hơi trong, chính giữa là một lõi dạng sợi gỗ. Rễ lan
có trực khuẩn sống cộng sinh, tức nấm rễ. Chính vì lẽ đó mà có người cho rằng
trồng lan phải hết sức giữ gìn bộ rễ, không được rửa quá sạch để tránh ảnh hưởng
đến gốc và sự hồi phục của mầm non. Rễ có tác dụng bám vào giá thể giúp cây lan
phát triển vững chắc và đặc biệt rễ có chức năng hút nước và dinh dưỡng.(Nguyễn
Công Nghiệp, 2000)[13]
- Lá: Lá lan là cơ quan dinh dưỡng của hoa lan. Phiến lá thường có hình lưỡi
kiếm dài, số lượng lá khác nhau tùy từng chủng loại lan. Những chủng loại lan khác
nhau, hình dáng của lá cũng có sự khác biệt, như phiến lá dài hay ngắn, rộng hay hẹp;
đầu lá nhọn hay tròn hay chẻ ra dạng đuôi chim én; mặt lá bằng phẳng hay có đường
gân; lá mỏng hay dày, có bóng hay không; mép lá có răng cưa không; khớp cuống lá
có hiện rõ không. Đây là những điểm đặc trưng để phân biệt các chủng loại lan khác
nhau. Hình dáng của lá lan là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá giá trị thưởng


12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


thức của giống hoa lan. Thường có thể phân lá lan thành ba loại: lá đứng, lá nửa
đứng, lá cong rũ. Ngoài ra cũng có một vị giáo sư phân lá lan thành bốn loại: dạng
đứng, dạng gập, dạng lưỡi liềm và dạng vòng cung. Mỗi loại dáng lá đều mang nét
đẹp riêng của mình. .(Nguyễn Tiến Bân, 1997)[2]
- Hoa: Metchnikov (1903) đã coi sự thụ phấn của hoa phong lan là một trong

những mẫu mực kỳ lạ trong những hiện tượng hài hòa của tự nhiên. Do đó, cấu tạo
của hoa phong lan cực kỳ phong phú và hấp dẫn (Trần Hợp, 1990)[6].
Hoa tập trung thành cụm, cụm hoa của lan xuất hiện sau hoặc trước hoặc
đồng thời với sự hình thành của lá và củ giả. Các loài lan đa thân, cụm hoa thường
sinh ra từ vách lá. Kiểu chính của cụm hoa đặc trưng cho lan là chùm với hoa ở
nách các lá bắc. Cụm hoa chùm biến đổi nhiều hình dạng. Ví dụ như dạng tán giả
do trụ bị rút ngắn, dạng bông khi thu ngắn cuống hoa mà không rút ngắn trụ
Về cấu tạo hoa:
+ Cánh đài: có nhiều mầu sắc và hình dạng khác nhau, dạng tròn như Vanda,
dạng nhọn như Cattleya cả 3 cánh đài có thể giống nhau hoặc cánh đài lưng hơi
khác với 2 cánh đài bên như các loài thuộc chi lan Hài, đôi khi cả 3 cánh đài đều
dính lại với nhau như loài Hoàng Thảo Báo Hỉ.
+ Cánh hoa: Là bộ phận quan trọng nhất để tạo nên vẻ đẹp quyến rũ của hoa
lan. Hai cánh hoa bên rất giống về mầu sắc, kích thước với cánh đài rời hay dính
với cánh đài bên.
Cánh hoa phía dưới (cánh môi) đây là bộ phận quyết định phần lớn giá trị
thẩm mỹ của hoa lan. Cánh môi rất đa dạng, xếp đối diện với cánh đài lưng và có
kích thước thường lớn hơn cả. cánh môi có thể nguyên chia thùy, khía răng, có tua
viền, hay chia cắt thành các sợi mảnh. Bề mặt cánh môi hoặc nhẵn, có nhiều gân
hay nôi lên các phần phụ đa dạng. Gốc cánh môi thường mang tuyến mật.
+ Trụ hoa: Nằm giữa bông hoa có chứa cả nhị và nhụy. Đầu trụ là nắp chứa
hạt phấn. Ở hoa lan, hạt phấn được kết với nhau bằng một chất sáp tạo thành những
khối phấn, số lượng khối có thể là 2,4,6,8 tùy loài. Khi hạt phấn rơi vào đầu nhụy
tạo nên sự thụ phấn, hoa héo đi nhanh chóng, bầu hoa phình to thành quả lan. Nhụy


13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu



gồm có một bầu hạ không có ranh giới rõ rệt với cuống hoa và khi hoa nở bầu có 3
lá noãn dính với nhau thành 1 ô. Vòi nhụy dính liền với nhị đực và có ba bầu nhụy
trong đó có hai đầu bên làm nhiệm vụ sinh sản (Trần Hợp, 1990)[6].
- Quả và hạt
Quả lan thuộc loại quả nang nở ra theo 3 - 6 đường nứt, có dạng từ quả dài
đến hình trụ ngắn phình ở giữa. Khi chín, quả nở ra và mảnh vỏ còn dính lại với
nhau ở phía đỉnh và gốc.Ở một số loài khi quả chín vỏ quả không nứt ra, hạt chỉ ra
khỏi vỏ khi vỏ này bị mục nát (Hoàng Ngọc Thuận, 2003)[17].
Hạt lan nhiều và nhỏ li ti. Trọng lượng toàn bộ hạt trong một quả nang chỉ
bằng 1/10 - 1/1000 mg và hầu như không có trọng lượng (Việt Chương, Nguyễn
Việt Thái, 2002)[3].
1.1.4.2. Đặc điểm hình thái và sinh học của Lan Đai Châu
Đai châu (Rhynchostylis Gigantea) thuộc họ phụ Vandoideae, tông Vanda là
loài Lan rừng phân bố rộng rãi từ Bắc vào Nam, mọc chủ yếu ở các thảm rừng
thuộc tiểu vùng hệ thực vật Trung và Nam Trường Sơn và tiểu vùng hệ thực vật
Nam Đông Dương. Ngoài ra, Lan Đai Châu còn phân bố ở Lào, Campuchia, Thái
Lan, Trung Quốc
Lan Đai Châu là loại Lan đơn thân, sống bám trên vỏ cây, có khi trên vách
đá, chủ yếu từ vùng đất được phong hóa từ đá mẹ silicat. Độ cao thường gặp các
loài Lan này là 0 -1500 mét so với mặt biển. Lan Đai Châu được xếp là loài Lan
hiếm và đang trong nguy cơ bị đe dọa bị tiêu diệt (Nguyễn Huy Trí, Đoàn Văn Lư,
1994)[15].
Lan Đai Châu được người Việt Nam ưa thích vì hương thơm, dáng đẹp và nở
hoa vào đúng các ngày đầu xuân.
- Thân: Thân cây Lan mập, cây lâu năm có thể cao 80 -100 cm, ở độ cao này
cây có thể đẻ nhánh con
- Lá: Lá dày hình dải rộng dài 13- 40 cm, rộng 3-7cm, Lá có mầu xanh đậm
nổi các vạch trắng dọc, đỉnh chia hai thùy tròn, gốc có bẹ, Lá dày và rất bền.



14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


- Rễ: Rễ Đai Châu khá to, đường kính 0,5 - 0,8 cm, dài có thể tới 1 mét, rất ít
khi phân nhánh, và chỉ có nhánh bậc 2.
- Hoa: Cụm hoa Đai Châu bông lớn, cong xuống,dài 20 -30 cm, Hoa màu
trắng nhiều đốm tím, cánh môi có vạch tím, đỉnh chia 3 thùy nhỏ, cựa ngắn màu
trắng (Phan Thị Kim Hạnh và Cộng Sự, 2008)[7].
1.1.5. Các yêu cầu kỹ thuật cơ bản để nuôi trồng Lan Đai Châu
(Rhynchostylis Gigantea)
1.1.5.1. Thiết kế vườn
Vườn thiết kế chắc chắn với bộ khung giàn có thể làm bằng sắt hay hợp kim.
Trên mái dàn dùng lưới đen che 50% ánh sáng để làm giảm cường độ ánh sáng
chiếu vào cây. Xung quanh phải làm hàng rào bảo vệ có thể dùng các tấm lưới làm
bằng thép để che xung quanh. Vườn thường được làm theo hướng Bắc – Nam (Trần
Văn Bảo, 1999)[1]
1.1.5.2. Cây giống
Cần tuyển chọn những giống, loài Lan khỏe mạnh, không sâu bệnh, Hiện nay
có một số loài, chỉ đang có giá trị thương mại cao như chi Aerides, Rhynchostylis,
Dendrobium, Cymbidium, Vanda, Cattleya
1.1.5.3. Cấu tạo giá thể
Mỗi một loài Lan khác nhau có đặc tính khác nhau và chúng cũng đều thích
hợp với các giá thể khác nhau, Đối với Lan Đai Châu là một loài lan có thể nói
mang vẻ đẹp cho người việt Nam, Hoa thường nở đúng vào các dịp tết. Vì vậy khi
trồng cần chú ý đến giá thể trồng cho lan, không giống bất kỳ một loại cây trồng
nào không cần diện tích lớn, không cần đất nhưng vẫn sống và vươn dài trong
không khí.
Giá thể trồng thường dùng: Vỏ thông, Than hoa, Xơ dừa, Mùn cưa, Dớn,
(không nên dùng vỏ cây của các loại có nhựa đắng như gỗ lim, xà cừ, xoan, vì sẽ

làm cho bộ rễ tổn thương)
Đối với Lan Đai Châu không quá khắt khe như Lan Hồ Điệp nên có thể trồng
ở tất cả các loại giá thể. Tuy nhiên trước khi cấy lan các loại giá thể cần được xử lý

×