Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Tìm hiểu về tang ma ( xã hội học văn hóa - nghiên cứu ở hiệp hòa bắc giang )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (557.45 KB, 33 trang )

1. Đặt vấn đề
Thời kỳ tiền sử và sơ sử, người Việt cổ đã quan niệm về linh hồn và có niềm tin về
thế giới bên kia, con người đã nhận thức về cái chết, từ đó đặt nhiều tục lệ, nghi lễ khi
một người nào đó qua đời. Ví dụ, từ xa xưa, người Việt cổ đã biết chôn người chết
trong hang hoặc gần bếp lửa cùng với đồ tuỳ tang (điều này thể hiện được một phần
địa vị xã hội của người chết). Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng đã phát hiện ra
nhiều mộ táng với nhiều cách chôn khác nhau ở các di tích văn hoá cổ như nền văn
hoá Hoà Bình ở tỉnh Hoà Bình, nền văn hoá Bắc Sơn ở tỉnh Lạng Sơn…
Qua tiến trình lịch sử dân tộc và lịch sử văn hoá lâu dài, đến xuyên suốt những thời
kỳ sau, thời kỳ văn hoá Việt Nam tiếp xúc và giao lưu với văn hoá khu vực, thì trong
quan điểm tư duy của người Việt đã phần nào bị ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ bởi
các nền văn hoá bên ngoài, đặc biệt là nền văn hóa Trung Hoa. Điều này không những
không làm mất đi những giá trị văn hoá truyền thống mà còn bồi đắp thêm để văn hoá
truyền thống phong phú đặc sắc hơn. Nó ảnh hưỏng rộng khắp đến các lĩnh vực văn
hoá của người Việt như: tín ngưỡng, phong tục, nghệ thuật… Tang ma là một trong
những yếu tố của tín ngưỡng, phong tục người Việt, do đó, nó cũng chịu ảnh hưởng
phần nào của việc giao lưu, tiếp biến văn hoá nhưng vẫn mang đậm truyền thống dân
tộc. Nghiên cứu về nghi thức tang ma không phải là một đề tài mới, vì tang ma là một
trong những nghi lễ vòng đời quan trọng của con người, ở mọi nơi hàng ngày con
người vẫn phải chết đi, vì thế các phong tục tang ma không xa lạ với chúng ta. Hơn
nữa, phong tục tang ma cũng đóng vai trò quan trọng trong nền văn hoá ở nước ta.
Trong phong trào nếp sống mới, đặc biệt là ở đô thị, việc tang ngày nay được
đơn giản hóa rất nhiều. Những tục lệ, nghi thức cổ rưởm rà được lược đi nhiều, chỉ tổ
chức khâm liệm rồi chuyển cữu ra phòng nghi thức để mọi người tới viếng trong
khoảng hai, ba giờ, rồi tiếp đó làm lễ vĩnh biệt người quá cố, sau bài điếu văn là linh
cữu được chuyển lên xe tang hướng về nghĩa trang.
Tuy nhiên, với đặc trưng của văn hoá nông thôn, kế thừa những tín ngưỡng từ xa xưa,
việc tang ma tại các vùng quê vẫn mang đậm nét cổ truyền, chỉ tuỳ hoàn cảnh kinh tế
mà gia giảm, thêm bớt. Để nhằm hiểu rõ và sâu sắc hơn những ý nghĩa xung quanh
vấn đề tang ma ở nông thôn Việt Nam, bài viết này tìm hiểu về phong tục tang ma tại
vùng quê Thái Sơn- một vùng nông thôn của huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang qua


những nghi lễ truyền thống đến các quan điểm tư tưởng được tiếp nhận bên ngoài, tất
cả cùng cộng hưởng để tạo nên những nghi lễ, quan niệm rất đặc sắc trong tang ma
mà vẫn giữ gìn, tiếp nhận đến tận ngày nay.
Hiệp Hoà là một huyện trung du thuộc tỉnh Bắc Giang, là vùng chuyển tiếp
giữa đồi núi và đồng bằng. Theo nhiều chứng tích còn ghi lại, con người đã có mặt
trên vùng đất Hiệp Hoà ngay từ thời kỳ đồ đá, những xóm làng đầu tiền hình thành
dọc hai bên sông Cầu. Năm 2006, dân số của huyện là 300.000 người, số người trong
độ tuổi lao động chiếm 44,8% dân số, tuy nhiên chủ yếu là lao động nông nghiệp. Lao
động chưa có chuyên môn kỹ thuật chiếm 95%.
Làng Quế Sơn là một làng cổ của xã Thái Sơn thuộc huyện Hiệp Hoà có truyền
thống từ rất lâu đời. Tại đây có di tích Lăng họ Ngọ là nơi lưu giữ thi hài Phương
Quận công Ngọ Công Quế được xây dựng từ năm 1697. Như vậy có thể thấy, cùng
với tiến trình phát triển của lịch sử, văn hoá làng xã vẫn lưu giữ, bảo tồn và phát triển
những giá trị truyền thống. Những đặc trưng đó được thể hiện trong mỗi gia đình với
gia phong đã được chuẩn mực hoá từ lâu. Trong quá trình đổi mới kinh tế, làng xã có
nhiều biến động nhưng dường như vẫn cố gắng gìn giữ những phong tục, tập quán,
truyền thống của làng như: ma chay, cưới hỏi, lễ hội…
Dựa vào phương pháp thu thập thông tin phỏng vấn sâu ( 5 đối tượng là các thành
viên của làng Quế Sơn được lựa chọn có tính tới yếu tố lứa tuổi, giới, uy tín, xã hội,
vai trò trong làng xã) và phương pháp quan sát ( 2 đám tang tại làng), tác giả đi vào
tìm hiểu tính cố kết trong đời sống văn hoá- tín ngưỡng mà cụ thể là hoạt động thực
thao phong tục tang ma, một hoạt động chứa nhiều giá trị tín ngưỡng, niềm tin, ảnh
hưởng trực tiếp tới lối sống nông thôn, việc thực hành tín ngưỡng, hình thành văn hoá
làng xã nơi đây. Đồng thời nghiên cứu những yếu tố tác động qua lại giữa niềm tin về
cái chết trong việc thực hành nghi lễ tang ma, nghi lễ thực thao và lối sống trong cộng
đồng làng xã.
2. Khái niệm tang ma
Theo Vinh Hồ, tác giả cuốn “Tang ma theo tục lệ cổ truyền”: Tang là sự đau buồn
khi có người thân mới chết, là lễ chôn cất người chết (an táng, mai táng), là dấu hiệu
(áo, mũ, khăn…) để tỏ lòng thương tiếc người chết.

Tang chế là phép tắc quy định việc đưa đám và để tang.
Tang lễ ( lễ tang) là nghi lễ chôn cất người chết.
Từ đó có những từ: tang phục, tang sự, tang gia, tang chủ, đám tang, để tang, bịt khăn
tang, đeo băng tang, mãn tang, xả tang, tống tang, hộ tang…
Ma ( ma chay) là lễ chôn cất và cúng người chết theo tục lệ cổ truyền. Đám ma còn
gọi là đám tang.
Như vậy: tang ma có nghĩa là lễ chôn cất cúng kính cùng những quy định về việc để
tang và đưa đám người thân mới chết.
Khi có tang ma, người ta thường đem tiền hay đồ lễ đến việc để tỏ lòng thương tiếc
người chết và thăm hỏi, chia buồn cùng tang quyến, gọi là phúng viếng hay phúng
điếu. Điếu ca là bài thơ tỏ lòng thương tiếc người đã chết. Điếu văn là bài văn tỏ lòng
thương tiếc người chết (đọc khi làm lễ tang).
Con người sinh ra, lớn lên, học hành, thi cử, dựng vợ gả chồng, sinh con đẻ cái, tạo
lập công danh sự nghiệp, dù có hiển hách đến đâu cuối cùng cũng theo quy luật sinh
lão bệnh tử trở về cát bụi, để lại bao niềm tiếc thương vô hạn cho người ở lại.
Trong việc tang ma, người Việt Nam bị giằng kéo giữa hai thái cực: Một bên quan
niệm coi cái chết là bước vào cuộc sống mới ở thế giới bên khác, nên việc tang ma
được coi là việc đưa tiễn người chết sang một thế giới khác, một kiếp đầu thai khác.
Một bên quan niệm trần tục coi chết là hết nên việc tang ma thể hiện niềm tiếc thương
đau xót của những người còn sống với người đã chết.
Khác với Vinh Hồ, Nguyễn Đăng Duy trong cuốn “ Văn hoá tâm linh” thì cho rằng:
Tang là cây dâu, nương dâu, ta thường nói cuộc bể dâu để chỉ về sự biến đổi tang
thương, đó là sự tiêu biến, tiêu đi, mất đi. Tang ma chỉ sự mất đi, biến đổi của đời
người. Người Việt xưa thường quan niệm cái chết theo Nho giáo, “ Tử tất quy thổ,
cốt nhục tê ư hạ âm vi giả thổ, kỳ khí phát dương ư thượng vi chiêu minh”.( Tức là
chết tất trở về với đất, xương thịt xuống thấp tan biến vào trong đất, còn khí dương
bay lên cao trong sáng rực rỡ).
Theo tác giả Nguyệt Hạ trong cuốn “Phong tục hôn lễ- tang lễ- tế lễ Việt Nam” thì
Tang là nghi lễ chôn cất người chết để bày tỏ lòng thương tiếc đối với người qua đời.
Khi loài người còn ở thời sơ khai, lạc hậu, việc chôn cất không được đặt ra và thường

mang vất ở rừng sâu hoặc vực thẳm. Trải qua các thời đại, nền văn hoá mỗi ngày
được nâng cao và có lẽ trước tiên việc tang lễ được áp dụng cho các bậc cha mẹ, tức
là người gần gũi nhất và có công ơn dưỡng dục nhiều nhất, sau đó mới phổ biến dần
dần đến họ hàng thân thuộc và trở thành một nghi lễ không thể thiếu trong cuộc sống
của con người.
Tang lễ cũng thể hiện rất rõ tính cộng đồng: nhà có tang, việc thì nhiều mà người nhà
không còn đủ tỉnh táo, minh mẫn nữa, nên bà con làng xóm bao giờ cũng chạy tới
giúp rập, lo toan chỉ bảo mọi việc. Người Việt Nam quan niệm “ bán anh em xa mua
láng giềng gần” nên khi nhà có người mất, hàng xóm láng giềng không những trợ
giúp nhau mà còn để tang nhau: Họ dương ba tháng/ Láng giềng ba ngày; hay Láng
giềng còn để ba ngày/ Chồng cô, vợ cậu một ngày cũng không.
Lễ thức trong tang ma được coi là lễ thức quan trọng bậc nhất để đưa ông bà, cha mẹ
vừa mất về gặp tổ tiên và gia nhập vào hàng các vị tổ tiên. Nghi lễ này chính là biểu
hiện của đạo hiếu, “uống nước nhớ nguồn”, tinh thần cộng đồng của người dân nông
thôn nói riêng và người dân Việt Nam nói chung.
3. Mô tả lễ tang tại Hiệp Hoà- Bắc Giang
Với ý thức lấy tâm thành thương tiếc người quá cố làm trọng, giảm thiểu những nghi
lễ thiên về hình thức- mặc dù các hình thức ấy được đặt để với chủ ý muốn giáo dục
con cháu không quên ơn nghĩa của người đã sinh thành- dần dần sau này tang lễ ( của
bất kỳ người nào) cũng đã giảm thiểu nhiều, phù hợp với xã hội.
Sách Thọ Mai gia lễ gồm trên 40 nghi thức nhưng trong những gì quan sát được của
đám ma tại Hiệp Hoà, Bắc Giang, thì những nghi thức này đã được giản lược đi
nhiều, cụ thể, tác giả bài viết mô tả một số nghi lễ chính như sau:
3.1. Lễ mộc dục

Đây là một trong các nghi lễ quan trọng để đưa tiễn người quá cố sang thế giới
bên kia. Qua ảnh có thể mọi người chăm sóc di hài người chết một cách cẩn thận và tỉ
mỉ. Trước khi mặc quần áo là lễ tắm gội. Thông thường, lúc tắm gội cho người chết
thường vừa để sẵn một con dao nhỏ, một vuông vải (khăn), một cái lược, một cái thìa,
một ít đất ở đồ ông rau, một nồi nước ngũ vị hương và một nồi nước nóng khác. Cha

chết thì con trai vào tắm rửa, mẹ chết thì con gái vào tắm rửa. Lấy vuông vải dấp vào
nước thơm rồi lau ngũ vị, lau mặt, lau mình cho sạch rồi lấy lược chải tóc lấy sợi vải
buộc tóc, lấy khăn khác lau hai tay hai chân, lại lấy dao cắt móng tay, móng chân,
mặc quần áo cho chỉnh, đeo găng tay và tất chân. Móng tay và móng chân gói lại, trên
để trên, dưới để dưới, để vào trong quan tài. Dao, lược, thìa và nước đem đi chôn;
rước thi thể đặt lên giường.
Trong bức ảnh trên, người chết là một người phụ nữ cao niên, được thọ nên mặc y
phục màu đỏ
“ Khi chồng tôi mất thì các con tôi đi làm ăn xa chưa về được, tôi phải tự tay tắm
rửa, thay quần áo cho ông ấy. Tội lắm! Có các dì mua quần áo mới cho ông ấy chứ
tôi có tâm trí nào mà nghĩ đến nữa. Theo các đám khác thì tôi tắm cho ông ấy bằng
nước thơm, lần đó là tôi lấy nước ấm có bỏ lá mùi vào. Lá chanh cũng được. Vừa lau
người mà tôi không dám khóc, người ta bảo trước lúc phát tang không được khóc, sợ
người chết lưu luyến mà không siêu thoát được.” (Bà X, phiếu số 15).
Có thể thấy, nghi lễ đặt ra là một chuyện và việc thực hành nghi lễ lại cũng khác bởi
tuỳ vào từng hoàn cảnh, điều kiện mà việc thực hành nghi lễ đó có thống nhất và hệ
thống hay không.
3.2. Lễ phạn hàm hay lễ ngậm hàn

Nghi lễ này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Theo tục xưa, bỏ gạo và tiền vào
miệng để tránh tà ma, ác quỷ đến cướp đoạt, để tiễn vong hồn đi đường xa được siêu
thoát. Theo “ Thọ mai gia lễ”, lễ này được tiến hành như sau: lấy ít gạo nếp xát cho
sạch, ba đồng tiền mài cho sáng ( nhà giàu có thể dùng vàng hoặc ngọc trai). Tang
chủ vào quỳ khóc, người chấp sự cũng quỳ, cáo từ rằng : “nay xin phạn hàm, phục
duy hâm nạp”. Người chấp sự lần lượt xướng : “Sơ phạn hàm, tái phạn hàm, tam phạn
hàm”. Tang chủ ba lần, mỗi lần xúc ít gạo và một đồng tiền tra vào mồm bên phải rồi
bên trái, cuối cùng vào giữa. Xong, bóp mồm lại, phủ mặt như cũ.
Nghi thức này tiến hành trong đám tang đã phản ánh quan niệm của người dân về sự
tồn tại của linh hồn và cuộc sống của linh hồn sau khi chết. Có nhiều quan niệm của
người dân xung quanh việc cho tiền và gạo vào miệng người chết:

“Tôi cho rằng cho tiền và gạo vào miệng người chết là để người đó luôn no đủ ở thế
giới bên kia, không bị trở thành ma đói mà đi quấy nhiễu người sống”. (Chị P, phiếu
số 7 ).
“ Cô thì có hai ý kiến cho cái việc mà bỏ gạo và tiền vào miệng người chết, một là
làm lương thực và lộ phí đi sang thế giới bên kia; hai là cho người chết có vốn để bắt
đầu cuộc sống bên kia”. (Bà Q, phiếu số 2).
Có thể thấy, trong tâm tưởng của người dân nơi đây, họ đều coi linh hồn của
con người vẫn tồn tại sau khi chết và những linh hồn này cũng có đời sống sinh hoạt
như người sống. Điều đó được thể hiện qua hành vi cho gạo và tiền vào miệng người
chết trước khi khâm liệm, bởi vì, linh hồn người chết cũng cần phải ăn, mặc, chi tiêu.
Thế giới bên kia đó được mô phỏng theo đời sống thực vì các linh hồn cũng có đời
sống và sinh hoạt như dương gian, nên người thân còn chôn theo thi hài người chết
các đồ dùng sinh hoạt hàng ngày mà lúc sống họ đã sử dụng để cho các linh hồn còn
sử dụng ở thế giới bên kia.
“ Khi anh trai tôi mất, tôi có bỏ vào trong quan tài của anh ấy bộ bài tam cúc mà anh
ấy vẫn hay chơi. Cho anh ấy xuống đó đỡ buồn”. ( Anh L, phiếu số 4).
3.3. Lễ khâm liệm nhập quan
Theo nghi lễ truyền thống, lễ khâm liệm nhập quan chia thành hai mảng: khâm
liệm và nhập quan. Tuy nhiên, để giản tiện bớt các nghi lễ rườm rà, không cần thiết,
việc khâm liệm và nhập quan được cho vào làm một nghi thức chung.
Khi đưa người chết vào áo quan, theo những điều kiêng kỵ, người đang mang bầu,
người cùng tuổi ( với người chết), người yếu bóng vía phải tránh mặt, có thể phải sang
nhà khác, chờ lúc nhập quan xong thì về.
Theo dân gian, khi nhập quan phải chọn giờ, tránh chạm tuổi người chết. Người ta
thường nhờ thầy xem giờ để không bị trùng. Các con theo thứ bậc quỳ hai bên, trai
bên trái, gái bên phải, người chấp sự hô: “Được ngày giờ, xin làm lễ nhập quan”.
Người ta trải tạ quan sát đáy hòm, khiêng thây đã liệm từ từ đặt vào, gói lại lần chót.
Xung quanh việc nhập quan này, có nhiều quan niệm và kiêng kỵ khác nhau.
“ Nếu ai chết vào giờ xấu thì ngoài những thứ đã dán trên áo quan, người ta còn hay
bỏ vào trong quan tài một quyển lịch có dấu đỏ. Chủ yếu là để trấn áp ma quỷ”.

( Anh Th, phiếu số 11).
“ Phải kiêngkhông để cho nước mắt rơi vào thi hài, sợ không mát, sau này con cháu
trong nhà sẽ khó làm ăn”. ( Bác M, phiếu số 12).
“Những người hợp vía người chết, không cẩn thận đến là dễ bị hồn người chết nhập
vào lắm. Tôi từng chứng kiến mấy người đi đám về là lăn ra ốm, có người như mất
hồn. Nói chung, đi đám là phải cẩn thận”. ( Cô B, phiếu số 14).
“ Tôi thì thấy bao giờ người ta cũng để bát cơm, quả trứng ở trước quan tài, chắc là
để người chết khi nào đói thì về ăn”. ( Chị C, phiếu số 6).
Khi nhập quan, thông thường có bát cơm lồng chặt với quả trứng luộc, đặt giữa
hai chiếc đũa bông cắm thẳng. Theo Nguyễn Đăng Duy, quả trứng với ý nghĩa trong
đó có đủ cả âm dương, đủ điều kiện cho sự phát triển. Cũng là để ghi nhớ khởi thuỷ tổ
tiên từ trong trứng do bà Âu Cơ sinh ra. Bát cơm nhắc nhớ tố chất hình thành, nuôi
sống con người là hạt gạo, bát cơm. Hình ảnh bát cơm, quả trứng (đất- âm) cắm giữa
đũa bông là mây ( trời- dương) thể hiện trời đất, âm dương hoà hợp, nhắc lại sự biến
hoá âm dương sinh ra con người. Cũng là để sau sự chết mất đi, sự sống sinh sôi, nảy
nở.
Theo Phạm Minh Thảo, bát cơm thể hiện sự đầy đặn, lòng hiếu thảo. Quả trứng
( sau này sẽ là con gà) là dấu tích của việc thờ thần Mặt Trời.
Mỗi nhà nghiên cứu lý giải theo một hướng khác nhau, từ những cách tiếp cận, quan
niệm khác nhau. Tuy nhiên, có thể hiểu những điều kiêng kỵ đó theo một khía cạnh
khoa học cũng rất hợp lý như sau:
Lý giải việc nước mắt rơi vào thi hài theo khoa học thì hoàn toàn khác, nhỏ
nước mắt vào thi hài cũng giống như việc kiêng không cho mèo nhảy qua xác chết,
có bát cơm và quả trứng phía trước quan tài, việc dỡ ngói hoặc lá tranh ở nhà chật
hẹp, thai phụ, sản phụ không nên ở gần linh cữu khi nhập quan, đốt đèn hương xung
quanh linh cữu… tất cả những điều kiêng kỵ này đều xuất phát từ kinh nghiệm dân
gian, tuy chưa có chứng thực khoa học nhưng rất hợp về việc cân bằng âm dương.
Trên nắp quan tài thường có khúc chuối để cắm hương, hoặc khi rước tang, bao
giờ cũng có bốn cây chuối làm bàn khiêng di ảnh. Đó là do cây chuối là đại hàn chi
phẩm, chuối rất lạnh, đầy yếu tố âm, người chết cũng rất lạnh, đầy âm khí, nên phải

dùng âm đẩy âm, tống tiễn âm đi. Cũng như ở trên chùa thường cúng chuối và oản, cả
hai đều thuộc âm bởi vì cúng lễ ở trên chùa không cầu sinh. Hoặc khăn áo tang màu
trắng ( gần đây có màu đen) đều thuộc âm, âm tống tiễn âm đi.
Theo quan niệm xưa, người chết thường có âm khí, mang hơi lạnh. Việc kiêng
kỵ nêu trên nhằm điều hoà khí âm dương, thu hút tà khí để chống hơi lạnh và đề xa
hiện tượng “quỷ nhập tràng” ( hiện tượng người chết đột nhiên ngồi dậy). Xuất phát
từ kinh nghiệm, dần dần trở thành phong tục, tập quán.
Dùng khói lửa ( hương, đèn, nến…) để triệt tiêu hơi lạnh. Dùng bát cơm, quả
trứng để thu hút hơi lạnh ( có thể thấy điều này khi bổ đôi quả trứng, thấy nhiều quả
trứng có lòng đỏ xanh thẫm giống như những quả trứng dùng để đánh gió). Nhốt mèo,
không cho mèo nhảy qua xác chết, kiêng khóc nhỏ nước mắt vào người chết…nhằm
đề phòng, triệt tiêu việc âm dương hút nhau xảy ra hiện tượng quỷ nhập tràng.
Dân gian công nhận hiện tượng hơi lạnh ở nhà người chết là hiện tượng có
thực, hiện tượng vướng phải hơi lạnh ốm cũng là hiện tượng phổ biến, đặc biệt là
những người mắc bệnh kinh niên như phong thấp, huyết áp cao, tâm thần…còn những
thanh niên khoẻ mạnh thì không mấy ai bị ảnh hưởng.
Những người đến dự lễ tang, nhất là dự khâm liệm nhập áo quan có những thuật để
phòng hơi lạnh như ngậm gừng sống, uống nước lá nhót, ăn trầu và xông khói vỏ
bưởi, bồ kết trước và sau khi đến lễ tang.
3.4. Lễ thành phục (phát tang)
Sau khi tiến hành khâm liệm nhập quan là lễ thành phục ( phát tang), con cháu
xoã tóc mặc đồ tang tuỳ ý theo thứ bậc, sắp hàng trước hương án để lạy khóc người
quá cố.
3.5. Lễ đưa tang
Còn gọi là lễ phát dẫn. Thông thường dân gian thường xem ngày giờ để chôn cất,
nhiều khi để chậm lại một hai ngày. Trước đó, người thân, xóm giềng có mặt đông đủ
làm lễ tưởng niệm. Một người thân đại diện đọc điếu văn tỏ lòng thương tiếc và lời
hậu tạ tới những người đã đến đưa tiễn người chết. Sau khi người thân lạy khóc,
người chấp sự hô: “Được ngày giờ, xin rước linh cữu lên đường”.
Đi đầu là người rải tiền vàng với dụng ý đó là tiền mãi lộ, dẫn đường cho người

chết qua sông, qua suối một cách dễ dàng. Đồng thời, tiền đó cũng là tiền hối lộ cho
ma quỷ ko quấy nhiễu người chết trên đường siêu thoát.
Tiếp theo là hương án bày giá gương, bát hương, mâm hoa quả… Trướng đối của con
cháu thân thuộc và bạn hữu phúng đều căng lên trục và đem đi rước. Ở thôn quê
trướng đối thường là vải trắng chữ viết mực đen; những năm gần đây, người ta
thường dùng tơ lụa nhung màu sắc rực rỡ thêu vẽ.
Con trai trưởng hoặc cháu trưởng cầm di ảnh đi trước xe tang. Đi sau xe sẽ là con
cháu khóc than, níu giữ không cho những người đẩy xe mang người thân của mình đi.
4. Một vài nét về lễ tang tại Hiệp Hoà- Bắc Giang trong
những năm gần đây
4.1. Quan niệm về cái chết
Các cụ Nho học xưa truyền lại câu “Vị tri sinh, yên tri tử”, việc sống còn chưa biết
hết, biết làm sao được sự chết. Cửa miệng dân gian ta cũng có câu “Khi sống thì
chẳng thấy đâu, lúc chết bày cỗ giết trâu tế ruồi”. Như vậy, sự sống, khi sống là cái
quý giá thiêng liêng nhất. Không lo cho cái sống chu đáo, tốt đẹp thì đến khi lo cho
cái chết dù thế nào đi nữa cũng là mỉa mai. Xã Thái Sơn, Hiệp Hoà, Bắc Giang là một
vùng quê có điều kiện xã hội nông nghiệp từ lâu đời, dân số còn thưa, đất đai còn
rộng, người dân quan niệm rằng, tang lễ là tổng hợp những hoạt động của người sống
dành cho người chết, qua đó thể hiện quan niệm sinh tử của con người. Qua kết quả
nghiên cứu PVS 15 người dân tại thôn Quế Sơn, xã Thái Sơn có thể nhận định một số
quan niệm xung quanh vấn đề sinh tử như sau:
Qua tiến hành quan sát và PVS cho thấy trong nhận thức của người dân nông thôn
nơi đây cho rằng, chết không có nghĩa là chấm dứt tất cả mà họ cho rằng có linh hồn
người chết và có thế giới bên kia.
Ngày bố tôi mới mất, mẹ tôi bảo thường thấy ông trở về, lúc thì đi lại trong phòng,
lúc thì ngồi uống trà ngoài gian nhà giống y hệt như lúc ông còn sống. ( Chị H, phiếu
số 1).
Lúc sống thế nào thì chết đi vẫn mang hình dạng đó thôi, chỉ khác là con người có thể
xác vật chất còn linh hồn thì giống như cái bong, có thể nhập vào người khác, bóng
ma lúc ẩn lúc hiện nên có lúc nhìn thấy, có lúc thì không nhìn thấy, có người có thể

nhìn thấy ma nhưng có người thì không bao giờ nhìn thấy được. Những người làm
nghề bói, lên đồng nhìn thấy được người chết. ( Anh L, phiếu số 4).
Người chết đi thì hồn của họ cũng vẫn như khi còn sống, chỉ khác là hồn vô hình nên
chúng ta không nhìn thấy được, nhưng linh hồn người chết nhìn thấy được chúng ta,
đọc được tất cả những gì chúng ta đang nghĩ. ( Bà Q, phiếu số 2).
Chẳng hạn, có thể thấy, khi một người vừa chết thì họ hú gọi hồn trở về với thể xác
hoặc hú gọi hồn nhập quan các vị thầy cúng…Thủ tục này cho thấy quan niệm linh
hồn là một thực thể vô hình, độc lập với thể xác, trú ngụ trong thể xác. Vì vậy, để
chuẩn bị cho người chết về với tổ tiên, thì người ta chuẩn bị cho người chết những thứ
cần thiết, thiết yếu nhất ( mang tính tượng trưng) cho một cuộc sống, đó là: tiền gạo,
quần áo và một số vận dụng đồ dùng sinh hoạt khác…Nghi thức này được tiến hành
trong đám tang đã phản ánh quan niệm của người dân về sự tồn tại của linh hồn con
người sau khi chết.
Trong tâm tưởng người dân nơi đây, họ đều coi linh hồn của con người vẫn tồn tại sau
khi chết và những linh hồn này cũng có đời sống sinh hoạt như người sống. Nhìn
chung, mọi người đều quan niệm rằng có thế giới thứ hai cho các linh hồn và thế giới
đó như một cõi vô hình là nơi trú ngụ của thánh thần và của con người sau khi chết.
Nhưng thế giới đó không hề xa lạ với con người mà nó lại rất gần gũi trên quan niệm
“trần sao âm vậy”. Cụ thể như sau:
- 7/15 người cho rằng thế giới bên kia rất giống với thế giới hiện tại mà con
người đang sống (trong đó 4/7 người cho rằng cõi âm giống hệt cõi dương, 3/7
người cho rằng cõi âm giống cõi dương nhưng cõi âm có cuộc sống tốt đẹp
hơn, hạnh phúc hơn, công bằng hơn).
- 5/15 người cho rằng thế giới bên kia khác hoàn toàn thế giới hiện tại. Nó lung
linh, huyền ảo, vĩnh hằng. Linh hồn con người sống trong thế giới ấy tự do,
nhàn hạ, không có chiến tranh, không cướp bóc, không ốm đau bệnh tật và
không có cái chết.
- 3/15 người cho rằng không có thế giới bên kia, có chăng chỉ tồn tại trong đầu
óc con người mà thôi.
Nhưng thế giới bên kia cũng không phải hết sức xa lạ với đời sống của họ mà nó hết

sức gần gũi và cảm nhận được một cách trực quan. Bởi lẽ, họ quan niệm rằng, linh
hồn người chết không phải cư ngụ trên trời hay dưới đất, cũng chẳng phải ở nơi nào
đó quá xa xôi. Linh hồn người chết ở trong ngôi mộ, bàn thờ là nơi cư ngụ khi linh
hồn trở về với những người thân thiết của mình.
Với logic như vậy, người dân tin là họ và linh hồn người chết có thể liên hệ, giao tiếp
được với nhau ( 9/15 người tuyệt đối tin tưởng, 6/15 người bán tín bán nghi), nghĩa là
có tồn tại mối quan hệ giữa thế giới hiện thực họ đang sống với thế giới bên kia. Cụ
thể, khi thờ cúng người chết, người dân thường cúng những món ăn, đồ uống ngon
nhất và gửi cả đồ dùng sinh hoạt cho tổ tiên.
“ Khi bố tôi mới mất, tôi thường xuyên nằm mơ thấy bố tôi trở về nói rằng ở dưới ấy
(cõi âm) ông đói lắm, rét lắm và bảo chúng tôi gửi cho ít áo quần, tiền bạc. Thực ra
thì chúng tôi vẫn gửi lễ và cúng tế thường xuyên nhưng có lẽ bị thất lạc hoặc ma quỷ
cướp hết rồi”. ( Chị H
1
, phiếu số 3).
4.2. Hình thức tổ chức lễ tang
Tang lễ, nói theo ngôn ngữ thông thường là việc hiếu, là một công việc quan trọng,
thiêng liêng của gia đình đối với người qua đời, đặc biệt là đối với người bậc trên như
ông bà, cha mẹ. Nhưng quan trọng thiêng liêng không phải ở chỗ làm tang to, bày cỗ
lớn; cái chính là lòng thành kính, xót thương chứ không phải làm phô trương xa xỉ để
làm oai với xóm làng. Hơn nữa, việc tang chỉ có ý nghĩa thiêng liêng khi sinh thời của
ông bà, cha mẹ thì con cháu ăn ở, đối đãi có tình, có hiếu; khi ông bà, cha mẹ qua đời
thì con cháu đồng thuận chung lo việc tang lễ cho trang nghiêm chu đáo. Cùng với sự
phát triển của xã hội, việc tang lễ tại thôn Quế Sơn cũng ngày một được lược giản cho
phù hợp với nếp sống mới. Một nhận định chung là hình thức tang lễ đã thay đổi theo
chiều hướng đơn giản hơn cả về nghi lễ lẫn đồ phúng viếng trong lễ tang.
4.2.1. Thay đổi về nghi lễ
Theo phong tục cổ truyền của người Việt, việc tang ma phải được tiến hành với đầy
đủ các nghi thức, nghi lễ trang trọng. Sách Thọ mai gia lễ gồm trên 40 nghi thức
nhưng có thể đưa ra những nghi lễ truyền thống theo 5 tiểu mục sau:

- Khi đang hấp hối: Trong lúc người xấu số đang hấp hối, chưa tắt thở hẳn thì có
những lễ tiết sau:
+ Thiên chính tẩm: tất cả mọi người đứng xung quanh, im lặng để tỏ lòng tôn
kính, thương tiếc và lắng nghe lời dặn dò của người hấp hối.
+ Di ngôn: người thân thiết nhất như vợ, chồng, con, cháu… cẩn thận nghe
từng lời di ngôn để không bị sai lạc.
+ Thuỵ hiệu: tức đặt tên thuỵ.
+ Gia tân y: tức mặc áo mới cho người sắp chết.
+ Khiết xỉ: lấy một chiếc đũa đặt ngang miệng người sắp chết để tiện cho việc
phạn hàm.
+ Hạ tịch: nếu chưa thật tắt thở hoặc không nói được nữa thì nhẹ nhàng đặt
người hấp hối xuống đất để hấp thụ sinh khí.
+ Phục hồn: lấy cái áo mới người hấp hối vừa mặc hoặc cái áo người đó thường
hay mặc, tay trái cầm cổ áo, tay phải cầm lưng áo, đứng vào chỗ cao nhất để
gọi hồn.
+ Thiết hồn bạch: khi biết chắc người thân sắp tắt thở, lấy 7 thước lụa trắng đặt
lên ngực để lấy chút hơi nóng còn sót lại, sau khi tắt hơi mới đem kết thành
hình nhân có đủ đầu mình và tứ chi đặt lên ngực người ấy, bao giờ nhập quan
mới lấy ra đặt lên linh sang để thờ cúng.
Trong quá trình quan sát và PVS cho thấy, những nghi lễ trước khi đang hấp hối theo
người dân là những tục lệ cổ hủ và mang tính mê tín dị đoan nên đã mất dần và một
số tục đã mất hẳn như thuỵ hiệu, phục hồn hay thiết hồn bạch…và thay vào đó là
những nghi thức đơn giản hơn.
- Trước khi nhập quan:
+ Lập tang chủ, chủ phụ: tức đặt một người làm chủ lễ tang.
+ Cáo phó: loan báo việc tang chế, ngày giờ mất…
+ Trị quan: là việc sửa sang lại quan tài cho mới.
+ Mộc dục: tắm rửa cho người quá cố.
+ Phạn hàm: bỏ tiền và gạo vào miệng người đã chết.
+ Y phục thức: mặc quần áo cho người chết

+ Khâm liệm: bọc thây người chết bằng vải trắng trước khi bỏ vào quan tài.
+ Nhập quan: là đặt thi thể người chết vào quan tài.
Hầu hết những nghi thức trên vẫn tồn tại, ngoại trừ nghi lễ trị quan do quan niệm nghi
lễ này là không cần thiết vì áo quan bây giờ đều là “áo mới” được sơn son thiếp vàng.
- Tang lễ trước khi di cữu:
+ Thiết linh toạ, linh sàng: tức đặt bàn thờ và giường thờ. Hiện nay người ta
không lập linh sang vì chiếm nhiều chỗ trống.
+ Lễ an vị: mọi người đứng trước linh cữu và tiến hành cử ai.
+ Thiết minh tinh: tục lệ này khá phức tạp và đã mất hẳn. Tục lệ này ghi lại sơ
lược chức vụ, tên họ, số năm hưởng thọ bằng phấn trắng trên vải hay lụa đỏ
theo quy tắc nhất định.
+ Lễ thành phục: lễ phát tang và mặc đồ tang.
+ Triêu tịch điện: nghĩa là sớm hôm lo lắng trước điện thờ giống như người
chết vẫn còn sống vậy. Người thân đứng hai bên linh cữu theo thứ tự nhất định.
+ Điếu tang: là phần thân thuộc, xóm làng, bằng hữu đến phúng viếng.
- Nghi tiết tống tang:
+ Chuyển cữu: tức là di chuyển quan tài khi sang một ngày mới, ngày đưa tang.
+ Cáo thần đạo lộ: làm ở ngã ba đường gần nhất theo nghi lễ tế thần.
+ Cáo thần thổ địa: trước khi khai huyệt chọn một người đi làm lễ khấn thổ địa.
+ Phát dẫn: lễ chuyển cữu đưa đi an táng.
- Nghi lễ lúc đi đường
+ Nghi trượng trên đường đưa tang: lần lượt là người rải vàng mã, người cầm
trướng, đối, đội khiêng ban thờ, cầm di ảnh, rồi đến xe tang.
+ Trú điện (nhà trạm giữa đường): thường ở nông thôn, đưa người chết đến nơi
an nghỉ thường là một quãng đường xa, nên người ta làm nhà trạm giữa đường.
- Nghi lễ lúc hạ huyệt
+ Lễ thắp hương cho các mộ phần xung quanh
+ Nghi thức bỏ đất khi hạ huyệt
Hầu hết trong các tang lễ, do quy định nếp sống văn hoá mới của thôn, làng nên
các thủ tục, hủ tục đã được lược giản.

“ Bây giờ, con trai trưởng không phải chống gậy đi giật lùi, con gái không phải
lăn đường như trước nữa. Nhưng con cháu vẫn phải quỳ lạy làm một hàng dài để
khiêng quan tài đi qua đầu. Tôi cũng không biết làm thế để làm gì…”. ( Chú S,
phiếu số 13).
“ Một số nghi thức vẫn phải kiêng kỵ, đấy là việc phụ nữ mang thai hoặc người
trùng tuổi phải tránh đi khi nhập áo quan, vì sợ hợp với hồn người chết, bị hồn
nhập”. ( Cô B, phiếu số 11).
“ Lúc nhà có tang, tôi phải nhờ đến họ hàng, chứ lúc ấy, còn biết gì nữa mà nghi
với lễ. Người ta bảo tang gia bối rồi mà. Thấy người ta bảo phải làm gì thì tôi làm
cái đấy. Thậm chí lúc mọi việc xong xuôi, cũng chẳng nhớ là mình đã làm những
gì nữa”. ( Chị H, phiếu số 3).
“ Người ta bảo có kiêng có lành, có những nghi lễ gì thì mình cứ làm đủ cả, không
sau này có chuyện gì xảy ra, lại không nói trước được”. ( Chị C, phiếu số 6).
4.2.2. Thay đổi về đồ phúng viếng trong tang lễ
Xưa, lễ cúng viếng thường là trầu cau trà rượu, nhưng cũng có người cúng viếng
những câu đối, những bức trướng trong đó có nhắc lại cách ăn ở hay tính tốt của
người vừa qua đời. Trong đám tang từ xưa, phổ biến tại Thái Sơn đó là gạo và
trứng gà.
“ Ngày xưa, cách đây khoảng chục năm thôi, người ta vẫn mang một đấu gạo
hoặc chục trứng gà đến phúng. Tuỳ nơi thôi, như ở dưới làng dưới, một đấu chỉ có
cân hai, nhưng trên này thì một đấu là cân rưỡi. Tang chủ để hai cái mâm đựng
gạo hai bên, khi nào đầy thì lại đổ vào thúng”. ( Anh T, phiếu số 5).
“Đám hiếu nhà tôi, người ta đến thì mang theo cân gạo với nén nhang, chỉ cần
tấm lòng thương tiếc của làng xóm thôi, người chết thì đã chết rồi, cần gì hơn
đâu”. ( Chị P, phiếu số 7).
Cùng với những đổi thay của làng quê, giờ người dân không đi phúng viếng bằng
hiện vật nữa mà thay vào đó là “lễ đen” ( tiền), nhang đèn, giấy tiền vàng bạc,
vòng hoa giấy hay hoa tươi.
Ở thôn quê, người trong cùng thôn xóm khi phúng viếng một số tiền để trực tiếp
giúp đỡ tang gia lúc cần thiết. Đây là một việc rất thực tiễn. Mọi món tiền hoặc đồ

phúng viếng đều được ghi rõ ràng và ghi vào quyển sổ, để về sau tang chủ coi theo
mà cảm ơn, trả ơn, hoặc khi có người nào lâm vào cảnh tang chế như mình thì
phúng viếng giúp đỡ lại. Đây là một đặc điểm của tương quan giao tế xã hội mà
người Việt đã có ý thức từ lâu trong cuộc sống cộng đồng tập thể.
“ Bây giờ đời sống khá hơn rồi, không còn ai đi phúng bằng gạo nữa, người ta chỉ
đi phúng bằng tiền cho tiện. Nói thật chứ, đám ma bây giờ lãi lắm, vì chi thì ít mà
người ta đi phúng thì nhiều”. ( Anh H, phiếu số 8).
“ Phúng tiền thì vẫn hơn vì như thế linh hoạt hơn. Sau đám tang còn là đám giỗ,
thường người ta lấy tiền đó để làm đám bốn chín ngày hoặc trăm ngày”. ( Bác M,
phiếu số 12).
Hình thức lễ tang đã đơn giản hơn cả về nghi lễ lẫn đồ phúng viếng chính là những
chuyển biến tích cực của một nét văn hoá truyền thống, ở đó, những nghi lễ tích
cực, phù hợp với đạo hiếu, với truyền thống của người Việt Nam. Những nghi lễ
tuy rằng có mang nội dung, ý nghĩa trong đó, nhưng ẩn chứa nhiều tư tưởng mê tín
dị đoan thì dần dần bị loại bỏ. Đây là chiếu hướng chuyển biến tích cực của đời
sống, văn hoá nông thôn theo nếp sống văn hoá mới.
4.3. Việc xem tử vi hoặc xem bói trước lễ tang
Trong ý niệm của người Việt thì “ nghĩa tử là nghĩa tận”, “sống gửi, thác về” đồng
thời người chết vẫn luôn quanh quẩn phù hộ độ trì cho cháu con. Do vậy dân ta
luôn xem trọng việc ngày giờ chết có phạm gì không hoặc cố tìm được ngày giờ
đưa ma hạ huyệt để tránh hậu hoạ cho con cháu. Ở đây có thể nhắc đến những khái
niệm như “trùng tang”, “nhập mộ”…
“Trùng tang tức là người chết vào giờ mà hồn người chết bị con quỷ sứ bắt rồi nó
tra khảo bắt linh hồn dẫn về nhà để nó bắt thêm người nhà còn sống đi. Cách giải
là vào chùa nhờ nhà chùa nhốt vong hồn đó lại không cho con quỷ kia tra khảo
bắt ép đi tìm người nhà”. ( Bà X, phiếu số 15).
“ Theo tôi biết thì trùng tang là chết vào giờ tuổi hoặc ngày tuổi hoặc năm tuổi,
như thế thì rất độc, phải bắt người sống đi theo mình. Lúc bố tôi mất, mẹ tôi được
thầy bói dặn là đêm ngủ, nếu thấy ai gọi phải trên ba câu thì mới được thưa, nếu
không, sẽ bị bắt đi”. ( Anh T, phiếu số 5).

Những ý kiến đưa ra ít nhiều có vẻ mê tín, nhưng hầu hết những mẫu PVS đều
khẳng định mình đã được trải nghiệm hoặc có nghe về những việc xung quanh
trùng tang hoặc bắt hồn người sống. Họ cho rằng việc xem bói là cần thiết và
không thể thiếu, thậm chí nhiều gia đình cán bộ, Đảng viên nhưng vẫn thực hiện
hành vi này như một truyền thống, thủ tục cần phải có.
“ Phải xem bói chứ, không xem là chết đấy! Vướng vào điểm gở là nhiều lúc trở
tay không kịp đâu. Xem cho người chết được thanh thản, cả người sống cũng thấy
an tâm”. ( Chị P, phiếu số 7).
Khi biết được người chết “trùng tang”, nhiều gia đình tìm cách hoá giải bằng nhiều
hình thức khác nhau dựa trên lời phán của thầy cúng, của người cao tuổi có kinh
nghiệm. Đây là vấn đề thuộc về tâm linh, nên 15/15 người trả lời PVS đều cho
rằng, họ tin tưởng tuyệt đối vào việc xem bói hoặc xem tử vi trước khi cử hành
tang lễ. Ngoài ra, người dân cũng ủng hộ việc coi bói sau tang lễ vào các thời điểm
như bốn chín ngày, trăm ngày…nhằm xem xem người chết có mong muốn gì, có
điều gì nhắn gửi với người sống, có gì thiếu thốn cần phải cúng tế không? Việc đi
xem bói, tử vi là nhu cầu tâm lý, thói quen chưa được thay đổi trong suy nghĩ của
người dân Thái Sơn. Đây là điểm cần chú ý trong việc tuyên truyền chống mê tín
dị đoan trong nếp sống của người dân. Đôi khi việc xem bói dẫn đến những lo
lắng, hoảng sợ không cần thiết bởi thực chất, đây là những vấn đề mà nhiều nhà
khoa học cũng chưa lý giải được hết.
Ngày nay, nhiều nghi lễ đã được giản tiện, phù hợp với hoàn cảnh sống trong thực
tế xã hội. Tuy nhiên một số lễ chính có ý nghĩa quan trọng vẫn còn được áp dụng.
Vì tinh thần báo hiếu vẫn luôn là vấn đề thiết yếu trong đời sống con người Việt
Nam, được đặt lên hàng đầu, nên khi cha mẹ chết, ai ai cũng muốn lo cho đủ lễ và
toàn vẹn. Không những là cha mẹ, những người thân trưởng thượng hay là bất cứ
người nào trong quyến thuộc khi từ trần cũng được thân nhân lo lắng chu toàn mọi
việc. Sinh hoạt xã hội Á Đông nặng tình cảm, coi trọng huyết thống gia đình thân
tộc hơn, nên từ hàng ngàn năm trước, vấn đề tang lễ đã đươc đặt ra một cách có
qui củ. Rất nhiều sách vở, tư tưởng của các triết gia Á Đông đã nói đến bổn phận
của người ta trong việc tang ma một cách cẩn thận chu đáo. "Sinh", "lão", "bệnh",

"tử" là bốn điều phải có trong một đời người, không ai tránh khỏi. Cái chết còn có
ý nghĩa chấm dứt sự sống một cuộc đời. Từ xưa, tang lễ rất nghiêm trọng. Ngay từ
giờ hấp hối của một người sẽ phải vĩnh viễn ra đi, không khí trong gia đình trở nên
trầm lắng xuống với vẻ thiêng liêng. Con cháu ở xa gần được báo tin vội vã quay
về, tuy đông vầy, đều im lặng với nỗi buồn da diết. Với tinh thần có, đám tang của
người dân Thái Sơn vẫn mang nhiều nét cổ truyền, đậm chất dân tộc.
4.4. Quy mô tổ chức lễ tang
Cùng với những quy định của nếp sống văn hoá mới, quy mô tổ chức lễ tang cũng
được thu hẹp hơn.
“ Trước đây làm đám ma to lắm. Đám ma nhà ông X cạnh nhà tôi này, to nhất
làng, thịt mấy tạ lợn, cả làng ăn uống 3,4 ngày. Tôi thì tôi cho đấy là không hay,
nhưng quy định ngày trước của làng nó là thế”. ( Anh Th, phiếu số 14).
“ Họ cứ cho rằng, làm đám ma càng to thì càng chứng tỏ lòng hiếu thảo với cha
mẹ. Ôi giới, lúc sống thì chẳng hiếu thuận, giờ chết rồi, có hiếu cũng có biết đâu.
Chủ yếu giải quyết khâu oai thôi”. ( Chú S, phiếu số 13).
Như vậy có thể thấy, ngày trước, cùng với quan niệm báo hiếu, chứng hiếu với
người quá cố là khi tổ chức đám ma phải thật linh đình. Tuy nhiên, cũng có một lý
do khá thú vị khác được đưa ra:
“ Họ nhà tôi đông nhất làng, lại ở phân táng nữa. Khi nhà có tang, họ hàng thân
thích đều phải về, giọt máu đào hơn ao nước lã, mọi người đến mà không ăn uống
thì đói và mệt lắm. Họ hàng đông, tính ra đã được hơn 30 mâm rồi, tính cả người
đến hộ tang nữa cũng phải 40 mâm”. ( Chị Q, phiếu số 7).
Qua điều tra, hầu hết người dân đều ủng hộ việc thu hẹp quy mô tổ chức đám tang
bởi việc đám tang linh đình vừa khiến người nhà lo âu, mệt mỏi lại ảnh hưởng đến
hàng xóm, láng giếng. Đó là việc làm không cần thiết.
5.Kết luận
Qua kết quả khảo sát tại xã Thái Sơn huyện Hiệp Hoà, Bắc Giang có thể thấy đôi
nét về sự biến đổi phong tục tang ma ở nông thôn trung du miền Bắc Việt Nam nói
chung và của người dân nơi đây nói riêng.
Nếu như trước đây, trước thời kỳ đổi mới, hình thức tổ chức đám tang đòi hỏi

nhiều nghi lễ rườm rà, phức tạp và phải tuân thủ theo từng bước chặt chẽ thì từ sau
đổi mới, với nhiều quy định của Chính phủ về nếp sống văn hoá mới, các nghi lễ
này đã được giản lược. Các nghi lễ có nội dung, tư tưởng lạc hậu, mê tín dị đoan bị
xoá bỏ dần dần. Việc các nghi lễ này được xoá bỏ bớt bên cạnh việc những nghi lễ
được giữ lại được thực hiện một cách quy củ hơn, sâu sắc hơn.
Đồ phúng viếng cũng theo đó cũng được thay thế bởi hình thức đi phúng bằng
“tiền đen” đơn giản và nhẹ nhàng hơn nhiều. Đây là một việc làm rất thực tiễn vì
số tiền đó có thể giúp tang chủ trong lúc đau buồn được giúp đỡ không chỉ về mặt
tinh thần mà có cả vật chất.
Quy mô tổ chức lễ tang đã được thu hẹp lại, chỉ trong phạm vi nội tộc, không cỗ
bàn ăn uống linh đình như trước. Một phần do quy định của nếp sống văn hoá mới,
một phần do quan niệm của người dân cũng đã thay đổi rất nhiều, hướng về người
chết với tấm lòng thành kính là chủ yếu. Đây là một nét tiến bộ rất đáng phát huy.
Tuy nhiên, việc xem bói, cúng bái khi có người thân qua đời vẫn còn tồn tại ở tất
cả các đám tang. Đây được coi như một tập tục lâu đời của người dân Thái Sơn.
Nó là vấn đề thuộc về tâm lý, thuộc về thế giới tâm linh và xung quanh việc cúng
bái, phục hồn…còn nhiều điều chưa thể lý giải được. Do đó, tục lệ này (có phần
mê tín dị đoan) chưa thể mất đi trong nay mai, những người làm công tác tư tưởng,
công tác văn hoá cần dựa vào những yếu tố đó để tuyên truyền, bài trừ tệ nạn mê
tín dị đoan trong đời sống văn hoá ở nông thôn hiện nay.

×