Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

trí nhớ thị giác, thính giác ngắn hạn của học sinh trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (432.53 KB, 50 trang )

MỤC LỤC
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 3
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 4
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 4
4. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4
4. 1. Đối tượng nghiên cứu 4
4. 2. Khách thể nghiên cứu 4
4. 3. Phạm vi nghiên cứu 4
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5
5. 1. Phương pháp quan sát 5
5. 2. Phương pháp phân tích tài liệu 5
5. 3. Phương pháp trắc nghiệm 5
5. 4. Phương pháp phỏng vấn 5
5. 5. Phương pháp thống kê toán học 5
6. GIẢ THUYẾT KHOA HOC 6
NỘI DUNG 7
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN 7
1. 1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 7
1. 2. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN TRONG ĐỀ TÀI 13
1. 2. 1 Khái niệm trí nhớ 13
1. 2. 2. Cơ sở sinh lý của trí nhớ 15
1. 2. 3. Các loại trí nhớ 15
1.2.4. Các quá trình cơ bản của trí nhớ 19
1. 2. 5. Chất lượng trí nhớ 22
1. 3. ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP Ở NHÀ TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
23
1. 4. ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ VÀ TRÍ NHỚ CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
( từ 12, 13 đến 15, 16 tuổi ) 24
1. 5. ĐẶC ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC QUA PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN
HÌNH 26
CHƯƠNG 2 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 29


2. 1. Trí nhớ thị giác ngắn hạn 29
2. 1. 1. Trí nhớ thị giác ngắn hạn của học sinh lớp 6 29
2. 1. 2. Trí nhớ thị giác ngắn hạn của học sinh lớp 7 30
2. 1. 3. Trí nhớ thị giác ngắn hạn của học sinh lớp 8 32
2. 1. 4. Trí nhớ thị giác ngắn hạn của học sinh lớp 9 34
2. 2. 1. Trí nhớ thính giác ngắn hạn của học sinh lớp 6 37
2. 2. 2. Trí nhớ thính giác ngắn hạn của học sinh lớp 7 38
2. 2. 3. Trí nhớ thính giác ngắn hạn của học sinh lớp 8 39
2. 2. 4. Trí nhớ thính giác ngắn hạn của học sinh lớp 9 40
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 43
1. Kết luận 43
2. Kiến nghị 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO 45
PHỤ LỤC 46
Phụ lục 1: Trắc nghiêm trí nhớ bảng số 46
Phụ lục 2: Trắc nghiệm trí nhớ hình tượng 47
1
Phụ lục 3 : Trắc nghiệm trí nhớ từ ngữ 48
2
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trí nhớ có vai trò đặc biệt quan trong trong đời sống và hoạt động của
con người, nhờ có trí nhớ mà con người tích luỹ được vốn kinh nghiệm, nhờ
có nhận lại và nhớ lại mà con người có thể đem những kinh nghiệm đó vận
dụng vào cuộc sống. Như vậy, không có trí nhớ thì không có kinh nghiệm,
không có kinh nghiệm thì không có bất cứ một hành động nào cũng như
không thể phát triển tâm lý, nhân cách. Trí nhớ là một quá trình tâm lý có
liên quan chặt chẽ với đời sống tâm lý con người. L. M Xêtrênôp cho rằng
trí nhớ là “điều kiện cơ bản của cuộc sống tâm lý ’’, là “ cơ sở của sự phát
triển tâm lý ’’. Ông nói rằng “ nếu không có trí nhớ thì các cảm giác và tri

giác của chúng ta sẽ biến mất không để lại dấu vết gì và do đó đẩy người ta
vĩnh viễn ở vào trạng thái của trẻ sơ sinh’’. Ngày nay người ta nghiên cứu trí
nhớ không chỉ trong phạm vi biểu hiện của khả năng nhận thức mà còn là
một thành phần tạo nên cấu trúc nhân cách của mỗi người. Bởi chính nhờ có
hoạt động trí nhớ mà con người tích luỹ được vốn kinh nghiệm xã hội, tạo
nên kinh nghiệm phong phú, đa dạng ở mỗi cá nhân, làm cơ sở cho việc hình
thành và phát triển nhân cách. Nếu không có trí nhớ thì không thể có một sự
phát triển nào trong lĩnh vực trí tuệ cũng như trong hoạt động thực tiễn của
con người.
Trong lĩnh vực dạy học và giáo dục, trí nhớ là một yếu tố rất cần thiết
với mỗi học sinh. Trí nhớ giúp học sinh ghi nhớ những kiến thức trong bài
giảng, trong sách vở; giúp học sinh giữ gìn và tái hiện những thông tin đó
khi cần thiết. Nếu không có trí nhớ thì học sinh không thể tích luỹ được tri
thức; từ đó không thể tiến hành quá trình tư duy, học tập. Nhận định được
vai trò quan trọng của trí nhớ với hoạt động học tập của học sinh trung học
cơ sở, tôi đã nghiên cứu về: “ Trí nhớ thị giác, thính giác ngắn hạn của
học sinh trung học cơ sở ’’.
3
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu trí nhớ thị giác, thính giác của học sinh trung học cơ sở, từ
đó đề xuất một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả dạy học qua
phương tiện truyền hình.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài về “ Trí nhớ thị giác, thính giác
ngắn hạn của học sinh trung học cơ sở ”
- Thực hiện trắc nghiệm trí nhớ thị giác, thính giác ngắn hạn của học
sinh trung học cơ sở.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học
qua phương tiện truyền hình.
4. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU

4. 1. Đối tượng nghiên cứu
Trí nhớ thị giác, thính giác của học sinh trung học cơ sở.
4. 2. Khách thể nghiên cứu
- 160 học sinh trường trung học cở sở Quang Trung Hà Nội trong đó
bao gồm :
+ lớp 6G : 40 học sinh
+ lớp 7G : 40 học sinh
+ lớp 8G : 40 học sinh
+ lớp 9A : 40 học sinh
4. 3. Phạm vi nghiên cứu
- Sử dụng trắc nghiệm nghiên cứu trí nhớ thị giác, thính giác ngắn
hạn của học sinh trung học cơ sở.
- Do thời gian nghiên cứu ngắn ( 4 tháng ) nên tôi chỉ tiến hành
nghiên cứu tại một trường trung học cở sở Quang Trung Hà Nội
- Thời gian nghiên cứu : từ tháng 12 /2006 đến tháng 3/ 2007.
4
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5. 1. Phương pháp quan sát
Chương trình dạy học trên truyền hình không có nhiều chuyên đề cho
học sinh trung học cơ sở và chỉ phát lại một bài 2 lần nên tôi chỉ tiến hành
quan sát được 2 em học sinh lớp 6G và 2 em học sinh lớp 9A trường trung
học cơ sở Quang Trung Hà Nội.
5. 2. Phương pháp phân tích tài liệu
Tham khảo, thu thập thông tin về cơ sở lý luận thông qua sách, báo
và các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài.
5. 3. Phương pháp trắc nghiệm
Sử dụng trắc nghiệm trí nhớ từ ngữ, nhớ bảng số và trí nhớ hình
tượng (nội dung và phương pháp thực hiện trắc nghiệm in trong phần phụ
lục)
5. 4. Phương pháp phỏng vấn

Phỏng vấn 4 học sinh đã xem chương trình dạy học qua truyền hình
gồm 2 học sinh lớp 6G và 2 học sinh lớp 9A.
5. 5. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng công thức tính tỉ lệ % để xử lý, phân tích thông tin nghiên
cứu.
- Khối lượng trí nhớ được tính theo công thức:
Đ/TS × 100% trong đó Đ : số lượng thông tin nhớ lại đúng
TS : tổng số thông tin cần nhớ trong bài tập
- Độ chính xác của trí nhớ được tính theo công thức :
Đ/ Đ + S × 100% trong đó Đ : số lượng vị trí thông tin nhớ lại đúng
S : số lượng vị trí thông tin nhớ lại sai
- Kết quả đánh giá như sau:
+ dưới 10% : Trí nhớ kém
+ 10% - 30% : Trí nhớ dưới trung bình
5
+ 30% - 50% : Trí nhớ trung bình
+ 50% - 70% : Trí nhớ khá tốt
+ 70% - 90% : Trí nhớ tốt
+ 90% - 100% : Trí nhớ rất tốt
6. GIẢ THUYẾT KHOA HOC
- Phần lớn học sinh trung học cơ sở nhớ hình ảnh, từ ngữ và chữ số
khá tốt, trong đó trí nhớ hình ảnh có mức độ phát triển cao hơn trí nhớ từ
ngữ và chữ số.
- Học sinh lớp 8, 9 nhớ lại khối lượng và độ chính xác của thông tin
tốt hơn học sinh lớp 6, 7.
6
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. 1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
- Nhà triết học Hy Lạp Arixtot ( 383-322 trước công nguyên ( TCN ) )

là người đầu tiên lý giải vấn đề trí nhớ. Theo ông,những ấn tượng phác họa
mà chúng ta cảm thấy để lại trong chúng ta những dấu vết,tương tự như
chiếc nhẫn áp vào sáp ong cũng để lại dấu vết trong đó. Ông cũng đã đề cập
đến vai trò của hoạt động trí nhớ nhưng ông chưa chỉ ra được dấu vết đó
được tạo ra và giữ gìn như thế nào.
Dựa trên cơ sở xem xét dấu vết chính là quá trình thần kinh đã xảy ra
trước đây trên vỏ bán cầu đại não. I. M. Xetrenop đã mô tả sự nảy sinh và ý
nghĩa của các dấu vết đó như sau : “ Do tần số lặp lại của cảm giác hay phản
xạ thực tế nên cảm giác sẽ trở lại rõ ràng hơn và qua đó sự duy trì bởi cơ
quan thần kinh trong trạng thái ẩn tàng cũng trở nên vững chắc hơn. Dấu vết
ẩn tàng dược giữ gìn ngày càng lâu hơn và cảm giác trở nên khó quên hơn “
- Thế kỷ IV – TCN đến thế kỷ XVII, Haylốc ( người Anh ) chịu sự ảnh
hưởng từ tư tưởng vật lý của Niutơn đã giải thích trí nhớ bằng hiện tượng
giao thoa của sóng như khi ta ném hai viên gạch xuống ao.
- Paplop tìm ra quy luật hình thành có diều kiện và các dường dây liên
hệ tạm thời. Đây là lý thuyết phát triển trên cơ sở của lý thuyết liên tưởng
hoặc sự móc nối các biểu tượng.
- Arixtot nói đến ba thứ liên tượng ( gần nhau, giống nhau, trái
ngược), liên tưởng nhân quả cũng xuất phát từ liên tượng gần nhau. Lý
thuyết liên tượng giải thích được hiện tượng bên trong não nhưng chưa giải
thích được trí nhớ ngắn hạn, dài hạn, ngôn ngữ. Lý thuyết liên tưởng coi sự
liên tưởng là nguyên tắc quan trọng nhất của sự hình thành trí nhớ. Lý thuyết
này quan niệm rằng : sự xuất hiện của một hình ảnh tâm lý trong vỏ não luôn
diễn ra đồng thời hoặc kế tiếp trong thời gian với hiện tượng tâm lý khác
7
theo quy luật liên tưởng ( sự liên tưởng gần nhau về không gian - thời gian,
liên tưởng tương tự về nội dung – hình thức, sự liên tượng đối lập và logic ).
Thuyết liên tưởng mới chỉ dừng lại ở sự mô tả những điều kiện bên ngoài
của sự xuất hiện những ấn tượng đồng thời. Nói cách khác là quan điểm này
chỉ nhìn thấy sự kiện chứ chưa lý giải được một cách khoa học.

- Năm 1913 dòng lý thuyết tâm lý học Gestalt chống lại thuyết liên
tưởng. Thuyết này cho rằng : trí nhớ đi từ toàn thể đến bộ phận. Người ta
nhớ toàn bộ sự vật rồi mới nhớ bộ phận. Lý thuyết này đưa ra hiện tượng tri
giác toàn thể : khi nhìn hai cánh quạt quay nhanh có hai màu khác nhau ta
thấy có sự pha trộn màu. Hay khi nhìn ngưòi từ “ cánh đòn sương phủ ” đi
lại, ta thấy đầu tiên là bóng ngưòi xuất hiện rồi mới thấy mắt, mũi, tay, chân,

Thuyết liên tưởng đi từ bộ phận đến toàn thể còn thuyết Gestalt đi từ
toàn thể đến bộ phận. Tuy nhiên cả hai lý thuyết này chỉ giải thích đuợc trí
nhớ căn cứ vào tổ chức kích thích ở bên ngoài, không đi vào diễn biến giải
phẫu sinh lý, hoá sinh ở bên trong não, không lưu ý đến tính tích cực của
chủ thể mang quá trình trí nhớ, không lưu ý đến cách tạo nên dấu vết khác
nhau ở những người khác nhau và tính lựa chọn của trí nhớ.
- Bexong ( người Pháp ) vào đầu thế kỷ XX đã nêu ra lý thuyết tâm
vận động chia trí nhớ làm hai loại :
+ Trí nhớ hồn : là trí nhớ hoàn toàn độc lập với vật chất, là trực giác
đặc trưng cho loài người. Con người luôn có niềm tin với tôn giáo để vươn
lên mà không cần có sự tham gia của các giác quan và vật chất.
+ Trí nhớ vận động của vật chất : là trí nhớ do các giác quan đem lại
nhờ : sờ nghe nhìn Như vậy không rõ cơ sở sinh lý của các hiện tượng tâm
lý.
- Lý thuyết tâm lý học hoạt động của Vưgotxki quan điểm rằng con
người hoạt động ra sao thì trí nhớ như vậy. Mối quan hệ giữa các biểu tượng
8
không phải xuất phát từ bản thân vật chất ( không quyết định bởi bản thân
tính chất của tài liệu cần ghi nhớ ) mà trước hết là phụ thuộc vào việc chủ
thể làm gì với nó, hoạt động sau này của chủ thế và mục đích của hoạt động
ấy.
- Xmiecnop ( người Liên Xô ) và Sydow ( người Đức ) đã làm sáng tỏ
cơ chế sinh lý và sinh hoá của quá trình ghi nhớ và vạch ra một số quy luật

của trí nhớ như : sự phụ thuộc của trí nhớ vào nội dung tài liệu ( dễ hay
khó ), vào khối lượng tài liệu ( nhiều hay ít ) hoặc sự phụ thuộc của trí nhớ
vào nhiệm vụ, mục đích gợi nhớ, vào cách học để nhớ lâu. Tuy nhiên quan
điểm này vẫn chưa giải quyết được triệt để những vấn đề của trí nhớ theo
quan điểm hoạt động : quan điểm cho rằng mọi chức năng tâm lý cấp cao
trong đó có trí nhớ có chủ định đều được hình thành và phát triển trong hoạt
động.
- Leonchiep và V. P Diartenco đã đưa ra kết luận : hoạt động của con
người hướng vào đâu thì họ nhớ cái gì. Mục đích và động cơ hoạt động rất
quan trọng. Đến đây đã có một khối lượng đáng kể các công trình nghiên
cứu vấn đề tương quan giữa tâm lý và hoạt động trong quá trình ghi nhớ.
Đối tượng nghiên cứu của các công trình này vào hai vấn đề :
+ Nghiên cứu một cách rộng rãi sự phụ thuộc của hiệu quả trí nhớ và
hoạt động. Công trình nghiên cứu của Diatrenco đã xác định sự phụ thuộc
của hiệu quả ghi nhớ vào đối tượng nhất định. Trong hoạt động đó tất cả
những gì là đối tượng của hoạt động cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ
đều được ghi nhớ một cách chính xác. Còn những cái tuy được tri giác
nhưng không phải là đối tượng của hoạt động cần cho nhiệm vụ thì chủ thế
hầu như không nhớ.
+ Nghiên cứu đã chỉ ra ảnh hưởng quyết định của động cơ hành động
và đặc biệt là mức độ tích cự của chủ thể trong khi thực hiện hành động.
9
- Nhà tâm lý học George Sperling (1960) đã nghiên cứu về trí nhớ
cảm giác. Ông cho người ta xem một loạt gồm 12 mẫu tự xếp theo mẫu sau
đây :
F T Y C
K D N L
Y W B M
Khi xuất trình loại mẫu tự này trong vòng 1/12 giây thì hầu hết mọi
người đều chỉ nhớ lại được chính xác 4 hoặc 5 mẫu tự mà thôi. Dù họ biết

rằng mình đã thấy được nhiều hơn nhưng ký ức đã phai mờ vào lúc họ thuật
lại mẫu tự đầu tiên. Như vậy có thể nói rằng lúc đầu các thông tin ấy đã
được lưu trữ chính xác vào trí nhớ cảm giác nhưng trong khoảng thời gian
cần thiết để phát biểu thành 4 hay 5 mẫu tự đầu tiên thì trí nhớ về các mẫu tự
khác đã phai nhạt rồi biến mất.
Sperling tổ chức một cuộc thí nghiệm trong đó ông cho phát ra các
khẩu lệnh yêu cầu thuật lại các dòng mẫu tự theo các mức độ âm thanh cao,
vừa hay thấp ngay sau khi đối tượng thí nghiệm vừa được cho nhìn thấy toàn
bộ loạt chữ nói trên. Đối tượng được yêu cầu thuật lại các mẫu tự thuộc
dòng trên cùng theo khẩu lệnh có âm cao, các mẫu tự ở dòng giữa theo khấu
lện có âm vừa phải hoặc các mẫu tự thuộc dòng dưới cùng theo khẩu lệnh có
âm thấp. Mỗi khẩu lệnh được phát ra ngay sau khi nhìn thấy toàn bộ loạt
mẫu tự nên đối tượng phải căn cứ vào trí nhớ để thuật lại cho đúng dòng
mẫu tự được yêu cầu. Kết quả nghiên cứu cho thấy các đối tượng đã ghi nhớ
toàn bộ loạt mẫu tự nói trên. Cả ba dòng mẫu tự mà họ nhìn thấy đều được
lưu giữ vào trí nhớ cảm giác. Tuy bị mất đi nhanh chóng nhưng các thông tin
lưu giữ trong trí nhớ cảm giác là phản ánh chính xác những gì họ đã trông
thấy.
Sperling rút ra kết luận : toàn bộ hình ảnh lưu giữ trong trí nhớ cảm
giác trong khoảng thời gian không quá một giây đồng hồ.
10
- Nhà tâm lý học Nelson Cowan (1988) cho rằng cách hình dung trí
nhớ chính xác nhất xuất phát từ mô hình theo đó ký ức ngắn hạn được xem
là một bộ phận của trí nhớ dài hạn, chứ không phải là một giai đoạn riêng
biệt.
- Nhà tâm lý học người Anh là Sir Frederic Bartlett đã đề xướng quan
điểm cho rằng trí nhớ căn cứ vào các tiến trình xây dựng thông điệp. Ông
cho rằng người ta thường ghi nhớ các thông tin theo dạng lược đồ, là các chủ
đề chứa đựng tương đối ít chi tiết cụ thể. Trong một thí nghiệm chứng minh
tác dụng của các lược đồ này, các nhà khảo cứu đã sử dụng một tiến trình

gọi là hiện tượng tái tạo theo chuỗi, trong đó các thông tin từ ký ức được
chuyển đi liên tiếp từ người này sang người khác. Người đầu tiên được quan
sát một bức tranh rồi cố gắng miêu tả lại cho người khác mà không cần phải
nhìn lại bức tranh ấy. Sau đó yêu cầu người ấy miêu tả tiếp cho một người
khác rồi lặp lại tiến trình này với một người khác nữa. Nếu ta nghe lời miêu
tả của người cuối cùng về nội dung bức tranh chắc chắn ta sẽ thấy rằng miêu
tả ấy về nhiều khía cạnh quan trọng khác biệt hẳn với chính bức tranh.
- Có nhiều lý thuyết và mô hình khác nhau được đưa ra nhằm giải
thích cho các quá trình tâm lý - thần kinh liên quan với trí nhớ, trong số đó
có ba mô hình chính đặc biệt quan trọng. Đó là mô hình Atkitson – Shifrin
( 1968 ), mô hình về các mức độ xử lý và mô hình Tulving
+ Mô hình Atkinson – Shiffrin
Đây là mô hình thuộc loại cấu trúc, theo đó có ba hệ thống lưu trữ của
trí nhớ : trí nhớ cảm giác, trí nhớ ngắn hạn và trí nhớ dài hạn. Thông tin tiếp
nhận được dịch chuyển qua ba hệ thống dưới sự kiểm soát của các quá trình
nhận thức như chú ý, hồi tưởng…Sự khác nhau của ba hệ thống được căn cứ
theo bốn đặc tính : dung lượng thông tin, thời gian lưu trữ, thể thức mã hoá
và các cơ chế thoái biến thông tin. Tuy nhiên những nghiên cứu gần đây cho
thấy ranh giới giữa những hệ thống này đang bị mờ nhạt đi.
11
+ Mô hình về các mức xử lý ( Craik và Lockhart, 1972 )
Theo mô hình này trí nhớ được chia thành các giai đoạn khác nhau :
trí nhớ cảm giác, trí nhớ làm việc và trí nhớ dài hạn. Quan điểm mà mô hình
này đưa ra là kích thích thông tin đồng thời được xử lý ở các cấp độ khác
nhau tuỳ thuộc đặc tính của nó. Thông tin được xử lý kỹ càng, sâu sắc thì cơ
hội được lưu giữ sẽ lớn hơn những thông tin chỉ được xử lý hời hợt. Mức độ
kỹ càng và sâu sắc được hiểu theo mức xử lý : từ các đặc tính vật lý của
thông tin, đặc tính âm thanh ( lời nói ) đến ngữ nghĩa của thông tin. Học
thuyết này chứng minh cho thực tế là chúng ta nhớ tốt hơn những điều có ý
nghĩa và giá trị đối với bản thân.

+ Mô hình Tulving ( 1972 )
Lý thuyết này chia trí nhớ dựa trên bản chất vật liệu nhớ : trí nhớ hồi
đoạn, trí nhớ ngữ nghĩa và trí nhớ kỹ năng.
Trí nhớ hồi đoạn là diễn trình ghi nhận kinh nghiệm của mỗi cá nhân,
lưu giữ thông tin về các sự kiện xảy ra cùng các mối liên hệ giữa chúng. Tất
cả các sự kiện này được gắn với thời gian, không gian cụ thể. Đặc điểm sử
dụng bối cảnh cho phép xác định chính xác về thông tin mới, biến nó thành
riêng biệt và có thể tái hiện được tốt hơn.
Trí nhớ ngữ nghĩa được hiểu là khối kiến thức được tổ chức hoá về
vạn vật ( văn hoá chung, vốn hiểu biết về đời sống, các khái niệm trừư
tượng, các kiến thức chuyên môn Nói chung đây là vốn kiến thức đa dạng
về các sự vật, hiện tượng và không gắn với yếu tố không gian, thời gian.
Trí nhớ kỹ năng về bản chất là những mối quan hệ giữa các kích thích
và hành vi vận động, được tạo thành qua quá trình rèn tập những công việc
nào đó.
12
1. 2. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN TRONG ĐỀ TÀI
1. 2. 1 Khái niệm trí nhớ
- Trong cuốn sách “ Tâm lý học đại cương ”. Tập1. Viện Đại Mở Hà
Nội. 1995 của Phạm Tất Dong, Nguyễn Hải Khoát, Nguyễn Quang Uẩn đã
định nghĩa : “ Trí nhớ là một quá trình tâm lý phản ánh vốn kinh nghiệm của
con người dưới hình thức biểu tưởng bằng cách ghi nhớ, giữ gìn, nhận lại và
nhớ lại những điều mà con người đã trải qua ”.
Thực vậy nội dung phản ánh của trí nhớ là toàn bộ vốn kinh nghiệm
của con người, nó bao gồm những hình ảnh mà con người đã tri giác trước
đây, những ý nghĩa mà con người đã trải qua, những rung cảm mà con người
đã thể nghiệm, những việc làm mà con người đã tiến hành…. Nói khác đi,
toàn bộ vốn kinh nghiệm của con người đã để lại dấu vết trong trí nhớ. Sản
phẩm được tạo ra trong trí nhớ được gọi là biểu tượng. “ Biểu tượng là hình
ảnh của sự vật, hiện tượng nảy sinh trong óc chúng ta khi không còn sự tác

động trực tiếp của chúng vào giác quan ta ”.
- Trong cuốn “ Tâm lý học đại cương ” (2004) của Nguyễn Quang
Uẩn (chủ biên ) đã đưa ra khái niệm về trí nhớ : “ Trí nhớ được biểu hiện là
sự ghi nhớ, giữ lại và làm xuất hiện lại (tái hiện) những gì cá nhân thu được
trong hoạt động sống của mình ”.
Như vậy, nét đặc trưng nhất của trí nhớ là trung thành với tất cả
những gì cá nhân đã trải qua, tức là nó hoạt động một cách máy móc và thật
thà, trí nhớ không làm thay đổi chút gì trong các yếu tố đã được cá nhân trải
qua.
- Tác giả Phạm Minh Hạc trong cuốn “ Tâm lý học ” ( 1989) định
nghĩa trí nhớ như sau : “ Trí nhớ là sự ghi lại, giữ lại, nhận lại và làm hiện lại
những kinh nghiệm của sự vật hay hiện tượng đã được tri giác trước đây,
cũng như tất cả những kinh nghiệm trước đây của bản thân mỗi người ”.
13
Nội dung của trí nhớ có thể là hình tượng của tri giác, có thể là biểu
tượng của tưởng tượng, có thể là những điều được suy nghĩ, những việc đã
làm, những cảm xúc đã trải qua. Trí nhớ là một quá trình phản ánh nhưng trí
nhớ không phản ánh những cái đang tác động trực tiếp mà phản ánh những
cái đã qua. Như vậy, những cái đã được tri giác, suy nghĩ, đã làm, cảm xúc
trước đây không mất đi mà dấu vết của chúng còn được giữ trên vỏ bán cầu
đại não trong một thời gian nào đó. Những dấu vết này có khả năng làm
sống lại hưng phấn đã xảy ra khi kích thích gây hưng phấn đó không còn
nữa.
Cũng giống như quá trình trí giác, trí nhớ liên hệ chặt chẽ với xu
hướng cá nhân. Cá nhân nhớ cái gì, quên cái gì, phụ thuộc vào sự hứng thú
của cá nhân với cái đó. Những điều gì vừa liên quan đến nhiệm vụ cá nhân
lại vừa phù hợp với nhu cầu hứng thú của cá nhân thì những điều đó cá nhân
sẽ nhớ nhanh và nhớ lâu. Ngược lại những điều không phù hợp với nhu cầu
hứng thú cá nhân hoặc không liên quan đến nhiệm vụ thì cá nhân sẽ rất
chóng quên.

Biểu tượng là sản phẩm của quá trình trí nhớ. Biểu tượng là sự làm
hiện ra trong óc cá nhân một cách nguyên vẹn hoặc có sáng tạo những hình
tượng của sự vật hay hiện tượng mà ta đã trí giác trước kia, mặc dầu không
có những thuộc tính cụ thể của các sự vật hiện tượng đó tác động trực tiếp
vào cơ quan cảm giác.
Phần lớn định nghĩa về trí nhớ có những điểm khác nhau nhưng nhìn
chung về bản chất khái quát của trí nhớ đều có sự thống nhất. Chúng tôi dựa
trên định nghĩa về trí nhớ của tác giả Phạm Minh Hạc để làm cơ sở lý luận
triển khai đề tài này.
14
1. 2. 2. Cơ sở sinh lý của trí nhớ
Nền tảng lý luận của trí nhớ là những qui đinh hoạt động thần kinh
cấp cao được Paplop phát hiện cụ thể là lý luận về sự hình thành trí nhớ cá
nhân. Phản xạ có điều kiện là cơ sở sinh lý của sự ghi nhớ. Sự củng cố, bảo
vệ đường liên hệ thần kinh tạm thời được thành lập là cơ sở sinh lý của sự
giữ gìn và tái hiện. Tất cả những quá trình này gắn chặt và phụ thuộc vào
mục đích của hành động.
Thuộc vào lý thuyết sinh học của trí nhớ còn có quan điểm vật lý.
Quan điểm này coi những kích thích để lại những dấu vết mang tính chất vật
lý do đó sụ diễn biến có tính chất lặp lại của kích thích được thực hiện dễ
dàng trên con đường đã vạch ra.
Những cơ chế của sự giữ gìn tài liệu trong trí nhớ ngày nay
được nghiên cứu sâu hơn, trước hết trong những thay đổi phân tử ở các
nơron ( tế bào thần kinh ). Người ta thấy rằng những kích thích xuất phát từ
những nơron hoặc được dẫn vào những nhánh của nơron hoặc quay trở lại
thân nơron. Bằng cách đó những nơron này thu thêm năng lượng, một số nhà
khoa học coi đây là cơ chế sinh lý của sự tích luỹ những dấu vết và là bước
trung gian từ trí nhớ ngắn hạn sang trí nhớ dài hạn.
1. 2. 3. Các loại trí nhớ
Trí nhớ con người được hình thành trong hoạt động và do hoạt động

quyết định mà hoạt động của con người thì vô cùng phong phú. Theo đặc
điểm của hoạt động có ba tiêu chí sau để phân loại trí nhớ.
1. 2. 3. 1. Căn cứ theo tính chất của tính tích cực tâm lý nổi bật
nhất trong một hoạt động nào đó
a. Trí nhớ vận động
Trí nhớ vận động là trí nhớ những quá trình vận động ít nhiều mang
tính chất mang tính chất tổ hợp. Tuỳ thuộc vào lĩnh vực nào con người
thường xuyên hoạt động mà trí nhớ vận động này hay trí nhớ vận động khác
15
phát triển mạnh. Loại trí nhớ này có vai trò đặc biệt quan trọng để hình
thành kĩ xảo trong lao động chân tay.
Trí nhớ vận động là kiểu trí nhớ rất phổ biến. Ở những người có kiểu
trí nhớ này họ ghi nhớ tốt nhất là khi vừa nghe hoặc nhìn thì họ vừa viết, vẽ
hoặc thực nghiệm. Vì vậy khi có mặt kiểu trí nhớ này thì cần phải :
- Trong khi nghiên cứu học tập luôn dùng bút chì màu để đánh dấu
vào ý quan trọng, lập dàn bài hoặc đề cương tóm tắt.
- Trong khi nghiên cứu sâu rộng tài liệu học tập phải do chính mình
thí nghiệm lại trong phòng thí nghiệm, trong xưởng trường…
b. Trí nhớ xúc cảm
Trí nhớ xúc cảm là trí nhớ về những xúc cảm, tình cảm đã diễn ra
trong một hoạt động trước đây. Những xúc cảm, tình cảm đó trở thành một
loại tín hiệu đặc biệt : hoặc thúc đây con người hành động, hoặc nhắc nhở họ
những phương thức hành vi trước đây đã gây ra những tình cảm đó. Sự cảm
thông với người khác là những hình thức bề ngoài của trí nhớ này. Sự tái
mặt đi hay đỏ mặt lên khi nhớ đến một kỷ niệm cũ là do ảnh hưởng của trí
nhớ này. Vai trò của trí nhớ xúc cảm là để cá nhân cảm nhận được giá trị
thẩm mỹ trong hành vi, cử chỉ, lời nói và trong nghệ thuật.
c. Trí nhớ hình ảnh
Trí nhớ hình ảnh gắn liền với việc ghi nhớ và nhớ lại những hình ảnh
được ghi lại một cách đậm nét, sâu sắc thông qua hoạt động của một cơ quan

cảm giác ( mắt, mũi, tai ). Ví dụ : nhớ đến một bài hát hay, nhớ đến một
phong cảnh đẹp…Dựa vào các cơ quan cảm giác tham gia vào ghi nhớ và
nhớ lại, trí nhớ hình ảnh còn được chia thành trí nhớ nghe, trí nhớ nhìn…Vai
trò của từng loại trí nhớ hình ảnh với đối với mọi người khác nhau. Những
người bình thường rất phát triển trí nhớ nhìn, trí nhớ nghe. Trí nhớ mùi vị
thường đặc trưng cho những người có nghề nghiệp đặc biệt hoặc phát triển ở
người mù, điếc. Trí nhớ hình ảnh rất cần thiết cho người nghệ sĩ.
16
Trí nhớ bằng mắt là kiểu ghi nhớ phổ biến nhất đặc biệt là ở lứa tuổi
thiếu niên và vị thành niên. Theo sự nghiên cứu của nhà tâm lý học Liên Xô
Pôtzôrôva thì những thành phần của ghi nhớ bằng mắt chiếm chừng 80%
trong trí nhớ con người. Ghi nhớ bằng mắt liên quan chặt chẽ với trí nhớ
hình ảnh.
Những người ghi nhớ bằng mắt khi nghe tài liệu phải thấy cho được
vẻ mặt, cử chỉ, điệu bộ của người thuyết trình. Những lời nghe được phải ghi
ra giấy. Những điều quan trọng phải làm dấu hiệu riêng để chú ý. Khi nghiên
cứu giáo trình, tài liệu tự mình đọc đủ cho mình nghe, chứ không giao phó
cho người khác đọc.
Để đáp ứng kiểu ghi nhớ này, người giáo viên khi giảng dạy phải có
giáo cụ trực quan minh hoạ, phải cố gắng dùng ngôn ngữ hình ảnh để diễn
đạt những vấn đề trừu tượng.
Trí nhớ bằng tai là kiểu trí nhớ ít phổ biến hơn. Loại trí nhớ này gắn
liền với loại trí nhớ thiên về trừu tượng logic. Đối với kiểu trí nhớ này cần
lưu ý những điều sau đây để phát triển nó :
- Phải nghe nhiều và với âm lượng lớn hơn người khác.
- Khi xem tài liệu phải đọc to.
- Phải làm việc trong im lặng để tiếng ồn ào khỏi chen lấn làm phân tán chú
ý.
- Nói và biện luận to ngay cả khi chỉ có một mình mình.
d. Trí nhớ từ ngữ - logic

Trí nhớ từ ngữ - logic là loại trí nhớ về những mối quan hệ, liên hệ mà
nội dung được tạo nên bởi tư tưởng của con người. Hệ thống tín hiệu thứ hai
có tính quyết định đối với loại trí nhớ này vì vậy đây là loại trí nhớ chỉ có ở
con người. Loại trí nhớ này có vai trò chính trong việc lĩnh hội tri thức của
học sinh.
17
1.2.3.2. Căn cứ vào thời gian củng cố và giữ gìn tài liệu
a. Trí nhớ cảm giác
Trí nhớ cảm giác liên hệ và lưu giữ thông tin ban đầu, có tính chất
nhất thời, thời gian lưu giữ thông tin chỉ kéo dài trong một chốc lát. Các
thông tin này được ghi nhận bởi hệ thống giác quan của con người dưới
dạng các kích thích thô sơ và vô nghĩa. Có thể nói trí nhớ cảm giác là kho
tàng đầu tiên lưu giữ các thông tin mà thế giới bên ngoài chuyển đến chúng
ta.
Trí nhớ cảm giác chỉ có thể lưu giữ thông tin trong khoảng thời gian
rất ngắn ngủi và nếu nội dung lưu giữ không được chuyển qua một dạng trí
nhớ khác thì các thông tin ban đầu ấy sẽ mất đi vĩnh viễn. Trong trí nhớ cảm
giác ta có ghi nhớ hình tượng ( phản ánh các thông tin tiếp nhận qua cơ quan
thị giác ) chỉ kéo dài không đến 1 giây, dù kích thích ban đầu có rực rỡ đến
đâu thì hình ảnh cũng chỉ được lưu lại lâu hơn chút đỉnh mà thôi. Hay như
ghi nhớ tượng thanh ( lưu giữ thông tin tiếp nhận qua thính giác ) cũng sẽ
phải mờ đi trong vòng 3 đến 4 giây. Dù thời gian lưu giữ của trí nhớ cảm
giác rầt ngắn nhưng mức độ chính xác lại rất cao. Nó có khả năng lưu giữ
một bản sao hầu như chính xác của từng kích thích tiếp nhận được.
b. Trí nhớ ngắn hạn
Bởi vì thông tin lưu giữ rất ngắn ngủi trong trí nhớ cảm giác của
chúng ta biểu thị cho các kích thích cảm giác còn rất thô sơ, nên chúng
không nhất thiết có ý nghĩa với chúng ta. Muốn có ý nghĩa với chúng ta và
được lưu giữ lâu dài, các thông tin đó phải được chuyển vào giai đoạn kế
tiếp của quá trình trí nhớ là trí nhớ ngắn hạn. Kí ức ngắn hạn là loại ký ức

chứa đựng những thông tin ban đầu có ý nghĩa đối với chúng ta dù thời gian
lưu trữ tối đa cũng khá ngắn ngủi. Đa số các nhà tâm lý học cho rằng thông
tin ghi nhận bởi trí nhớ ngắn hạn đều sẽ mất đi sau một khoảng thời gian kéo
dài từ 15 đến 25 giây nếu như chúng không được chuyển vào trí nhớ dài hạn.
18
c. Trí nhớ dài hạn
Để chuyển thông tin từ trí nhớ ngắn hạn sang trí nhớ dài hạn ta tiến
hành phần lớn trên cơ sở nhắc lại thông tin đã được lưu giữ trong kí ức ngắn
hạn. Nhưng quan trọng hơn là hành vi nhắc lại này phải tạo điều kiện cho
thông tin ấy được chuyển thành trí nhớ lâu dài.
Việc chuyển thông tin từ trí nhớ ngắn hạn sang trí nhớ dài hạn có thể
thực hiện được hay không dường như phụ thuộc vào cách thức nhắc lại
thông tin. Nếu như thông tin chỉ đơn thuần là được nhắc đi nhắc lại nhiều lần
( ví dụ : ta vừa nhẩm số điện thoại vừa chạy ra máy để gọi thì đó chỉ là quá
trình ghi nhớ ngắn hạn, bởi ngay sau khi gọi điện chúng ta có thể quên ngay
số điện thoại đó ).
Nếu như thông tin trong trí nhớ ngắn hạn được nhắc lại nhiều lần theo
tiến trình gọi là diễn tập tỉ mỉ để ghi nhớ, thì thông tin ấy có khả năng được
chuyển vào kí ức lâu dài. Tiến trình diễn tập tỉ mỉ để ghi nhớ diễn ra khi
thông tin được tìm hiểu và sắp xếp theo một cách thức nhất định ( liên hệ với
thông tin ghi nhớ khác, chuyển hoá thành hình ảnh, đưa ra mối liên hệ giữa
các yếu tố của thông tin )
1.2.3.3. Căn cứ vào tính chất mục đích của hoạt động
a. Trí nhớ không chủ định
Trí nhớ không chủ định là loại trí nhớ không gắn liền với việc đề ra
một mục đích từ trước nhưng ngưòi ta vẫn có thể ghi nhớ, giữ gìn và tái hiện
đựoc một điều gì đó cần ghi nhớ.
b. Trí nhớ có chủ định
Trí nhớ có chủ định là loại trí nhớ gắn liền với việc để ra một mục
đích từ trước nhằm ghi nhớ, giữ gìn, và tái hiện cái gì đó.

1.2.4. Các quá trình cơ bản của trí nhớ
1.2.4.1. Quá trình ghi nhớ
19
Ghi nhớ là khâu đầu tiên của hoạt động trí nhớ. Đó là quá trình tạo
nên dấu vết của đối tượng ( tài liệu cần ghi nhớ ) trên vỏ não, đồng thời cũng
là quá trình gắn tài liệu mới vào chuỗi kinh nghịêm đã có của bản thân.
Hiệu quả của vịêc ghi nhớ phụ thuộc không chỉ vào nội dung, tính
chất của tài liệu mà còn phụ thuộc vào mục đích, phương thức hành động
của cá nhân. Có nhiều hình thức ghi nhớ. Căn cứ vào mục đích của việc ghi
nhớ ta có :
a. Ghi nhớ không chủ định
Ghi nhớ không chủ định là loại trí nhớ không cần đặt ra mục đích ghi
nhớ từ trước, không đòi hỏi phải nỗ lực ý chí hoặc không dùng một cách
thức nào để ghi nhớ, tài liệu được ghi nhớ một cách tự nhiên. Nếu nội dung
tài liệu nào có khả năng tạo ra sự tập trung chú ý cao độ hay một xúc cảm
mạnh mẽ thì sự ghi nhớ này sẽ đạt hiệu quả tối ưu.
Ghi nhớ không chủ định thường gắn với xúc cảm mạnh mẽ của cá
nhân, liên quan tới sự thoả mãn nhu cầu. Đặc biệt tài liệu ghi nhớ có quan hệ
trực tiếp tới hoạt động của cá nhân.
b. Ghi nhớ có chủ định
Ghi nhớ có chủ định là loại ghi nhớ theo một mục đích đã đinh từ
trước, đòi hỏi nỗ lực ý chí, lựa chọn các biện pháp, thủ thuật để ghi nhớ.
Hiệu quả của ghi nhớ có chủ định phụ thuộc rất nhiều vào động cơ,
mục đích của sự ghi nhớ. Đồng thời muốn ghi nhớ có chủ định có kết quả
cần lưu ý xác định nhiệm vụ ghi nhớ, thời gian ghi nhớ. Thường có hai cách
ghi nhớ có chủ định.
- Ghi nhớ máy móc là loại ghi nhớ dựa trên sự lặp đi lặp lại tài liệu
nhiều lần một cách giản đơn, tạo ra mối liên hệ bề ngoài giữa các thành phần
của tài liệu cần ghi nhớ, không cần thông hiểu nội dung tài liệu đó.
20

- Ghi nhớ ý nghĩa là loại ghi nhớ dựa trên sự thông hiểu nội dung của
tài liệu, trên sự nhận thức được những mối liên hệ logic giữa các bộ phận
của tài liệu.
Một số yêu cầu của ghi nhớ tốt :
+ Đặt nhiệm vụ ghi nhớ lâu dài và bền vững
+ Tạo điều kiện để tri giác đối tượng tốt nhất
+ Tập trung chú ý cao khi ghi nhớ, phải có tình cảm say mê, hứng thú với tài
liệu ghi nhớ. Vốn kinh nghịêm, tri thức về lĩnh vực nào đó càng phong phú
thì càng dễ ghi nhớ những sự kịên liên quan.
+ Lựa chọn và phối hợp các loại ghi nhớ một cách hợp lý.
1.2.4.2. Quá trình lưu giữ
Giữ gìn những điều đã ghi nhớ được là một khâu cần thiết của hoạt
động trí nhớ. Nếu ghi nhớ nhanh nhưng không giữ gìn được thông tin đã ghi
nhớ bằng cách củng cố những dấu vết đã hình thành trên vỏ não thì không
thể nhớ lâu bền,chính xác.
Có hai cách thức giữ gìn :
- Giữ gìn tiêu cực : là sự giữ gìn dựa trên tri giác lặp đi lặp lại nhiều lần một
cách đơn giản, thụ động tài liệu cần ghi nhớ.
- Giữ gìn tích cực : là sự giữ gìn bằng cách nhớ lại trong óc tài liệu đã ghi
nhớ, không cần tri giác lại tài liệu đó.
1.2.4.3. Quá trình tái hiện
Những hình ảnh được ghi lại và giữ gìn trong trí nhớ làm thành kho
tàng kinh nghiệm của cá nhân. Về sau này trong những điều kiện nhất định
những kinh nghiệm đó được sống lại trong trí nhớ nhờ nhận lại và nhớ lại.
Nhận lại là khả năng nhận ra đối tượng nào đó trong điều kiện tri giác
lại đối tượng đó.
21
Nhớ lại là biểu hiện cao của trí nhớ tốt. Đó là khả năng làm sống lại
những hình ảnh của sự vật, hiện tượng đã được khi nhớ trước đây khi sự vật
và hiện tượng không còn ở trước mắt.

Nhận lại và nhớ lại đều có thể không chủ định và có chủ định. Nhớ lại
không chủ định là sự nhớ lại một cách tự nhiên, chợt nhớ hay sực nhớ ra một
điều gì đó khi gặp một hoàn cảnh cụ thể, không cần xác định nhiệm vụ cần
ghi nhớ. Nhớ lại có chủ định là nhớ lại một cách tự giác, đòi hỏi phải có sự
cố gắng nhất định, chịu sự chi phối của nhiệm vụ cần nhớ lại.
1.2.4.4. Sự quên
Quên là biểu hiện của sự không nhận lại hay nhớ lại được hoặc nhận
lại và nhớ lại sai. Sự quên diễn ra theo một số quy luật nhất định :
- Người ta thường quên những cái không liên quan đến đời sống của mình,
những cái không phù hợp với hứng thú, sở thích, nhu cầu của cá nhân.
- Những cái ít được củng cố hoặc không được sử dụng thường xuyên trong
hoạt động hàng ngày của cá nhân.
- Quên khi gặp những kích thích mới lạ hoặc những kích thích mạnh.
- Sự quên diễn ra theo trình tự xác định : chi tiết quên trước, ý chính quên
sau. Trong chi tiết thí chi tiết nào phù hợp với hứng thú cá nhân, gây được
ấn tượng, cảm xúc sâu sắc thì lâu quên hơn.
- Sự quên diễn ra với tốc độ không đồng đều : ở giai đoạn đầu mới ghi
nhớ, tốc độ quên khá nhanh và tốc độ quên giảm dần về sau.
1. 2. 5. Chất lượng trí nhớ
Đặc điểm ghi nhớ và nhớ lại của cá nhân được thể hiện trong chất
lượng trí nhớ ở các mặt sau :
- Khối lượng nhớ lại : số lượng tài liệu nhớ lại ngay sau khi tri giác tài
liệu.
- Tốc độ ghi nhớ và nhớ lại : độ dài thời gian để ghi nhớ, nhớ lại tài
liệu.
22
- Mức độ chính xác : mức độ giống nhau giữa tài liệu tái hiện và tài
liệu đã tri giác.
- Thời gian lưu giữ : độ dài thời gian lưu giữ tài liệu mà không được
tri giác lại tài liệu.

1. 3. ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP Ở NHÀ TRƯỜNG
TRUNG HỌC CƠ SỞ
Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi học học sinh
nhưng đến học sinh trung học cơ sở hoạt động học tập được xây dựng lại
một cách cơ bản so với lứa tuổi học sinh tiểu học. Bắt đầu vào học trường
trung học cơ sở, các em được tiếp xúc với nhiều môn học khác nhau, mối
môn học bao gồm một hệ thống tri thức với những khái niệm trừu tượng,
khái quát, có nội dung sâu sắc, phong phú vì vậy đòi hỏi phải thay đổi cách
học. Các em không thể học thuộc từng bài, mà phải biết cách lập dàn bài,
làm tóm tắt, nắm bắt các ý chính, dựa vào các ý chính mà trình bày toàn bộ
bài học theo cách hiểu của mình. Sự phong phú về tri thức từng môn học
làm cho khối lượng tri thức các em lĩnh hội đuợc tăng lên nhiều. Tầm hiểu
biết của các em được mở rộng.
Nội dung khái niệm “ học tập ”ở lứa tuổi thiếu niên mở rộng hơn ở
tuổi học sinh. Những tri thức mang tính khái niệm, khái quát, logic của tài
liệu học tập thuộc các bộ môn đòi hỏi ở thiếu niên tính tích cực trong trí tuệ
cao, đòi hỏi sự tập trung chú ý có chủ định, sự ghi nhớ có ý nghĩa. Chẳng
hạn muốn lĩnh hội một định lý của hình học, học sinh phải có kỹ năng nhìn
hình vẽ, đọc hình vẽ, ghi nhớ và biết tái tạo nó, mặt khác phải rút ra những
mối liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của chúng. Việc học tập ở trường trung
học cơ sở đòi hỏi học sinh phải nghiên cứu và lĩnh hội các môn học khác
nhau. Các em phải nắm vững một khối lượng tri thức lớn. Tài liệu lĩnh hội
một mặt đòi hỏi hoạt động nhận thức và tư duy cao hơn, mặt khác đòi hỏi
các em phải nắm được phương thức hành động đối với từng môn khoa học.
23
Ví dụ : hệ thống công thức, kí hiệu trong toán học, vật lý học, hoá học ….
Về mặt khách quan, những môn học mới đề ra những yêu cầu mới, phương
thức lĩnh hội mới nhằm phát triển trí tuệ ở trình độ cao hơn.
Cách thức dạy và học ở trường trung học cơ sở khác căn bản với tiểu
học. Thay cho một giáo viên dạy tất cả các môn học, giờ đây là 5, 6 giáo

viên mới. Mỗi giáo viên dạy một môn học với phong cách, trình độ tri thức,
cách giao tiếp riêng của mình. Không phải học sinh nào cũng thích nghi
ngay lập tức với hình thức dạy học này.
1. 4. ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ VÀ TRÍ NHỚ CỦA HỌC SINH TRUNG
HỌC CƠ SỞ ( từ 12, 13 đến 15, 16 tuổi )
Tuổi của học sinh trung học cơ sở ( tuổi thiếu niên ) được xác định
vào khoảng 12, 13 đến 15,16 tuổi. Đây là quãng đời diễn ra những “ biến cố
” rất đặc biệt. Do sự trưởng thành và tích luỹ ở những giai đoạn trước, thiếu
niên đã có một vị trí xã hội mới : nó không hoàn toàn là trẻ con và cũng
chưa phải là người lớn, đây là giai đoạn đặc trưng với các dấu hiệu của tuổi
dậy thì ở nam và nữ. Về mặt giải phẫu sinh lý và thể chất, tuổi thiếu niên đã
có những điều kiện chín muồi cơ bản mà đặc điểm nổi bật nhất là sự phát
triển của quá trình phát dục. Tiếp đó là những cải tổ của cơ thể về mặt hình
thái các mô và các tuyến nội tiết như tuyến sinh dục, tuyến giáp trạng, tuyến
thượng thận.
Ngoài sự thay đổi quan trọng về mặt sinh lý thì tâm lý của lứa tuổi
này cũng có nhưng biến đổi đáng kể. Ở lứa tuổi thiếu niên, bên cạnh hoạt
động học tập thì hoạt động giao tiếp bạn bè cũng vô cùng quan trọng. Nhu
cầu có bạn tâm tình và thông cảm là một nhu cầu đặc trưng và nổi bật ở lứa
tuổi này. Một trong những phẩm chất nhân cách quan trọng ở lứa tuổi này là
sự phát triển của tự ý thức. Họ có ý thức về mình là một nhân cách có quyền
được tôn trọng, được độc lập và được tin cậy như mọi người lớn khác. Họ
tích cực lĩnh hội từ thế giới người lớn những giá trị, những chuẩn mực về
24
phương thức hành vi khác nhau, nhờ đó những phẩm chất mới về tự ý thức,
tự đánh giá được hình thành.
Sự thay đổi tính chất và các hình thức hoạt động học tập cùng với óc
tò mò, ham hiểu biết đòi hỏi hoạt động trí tuệ, tư duy và khả năng tri giác,
chú ý của học sinh thiếu niên phát triển hơn. Khối lượng tri giác tăng lên, tri
giác trở nên có kế hoạch, có trình tự và hoàn thiện hơn. Chú ý có chủ định

bền vững được hình thành, khối lượng chú ý tăng lên rõ rệt và khả năng di
chuyển chú ý từ hoạt động này đến hoạt động khác cũng được tăng cường rõ
rệt Bên cạnh đó hoạt động tư duy của học sinh trung học cơ sở cũng có
những biến đổi. Đặc điểm tư duy ở lứa tuổi này là tư duy khái quát, trừu
tượng và tư duy suy luận.
Đặc điểm trí nhớ của học sinh trung học cơ sở phát triển cao hơn các
lứa tuổi trước. Ở lứa tuổi này trí nhớ, đặc biệt là trí nhớ thị giác, thính giác
cũng được thay đổi về chất. Đặc tính cơ bản của lứa tuổi này là sự tăng
cường tính chất chủ định của các chức năng này. Trí nhớ dần dần mang tính
chất của những quá trình được điều khiển, điều chỉnh và có tổ chức. Học
sinh trung học cơ sở có nhiều tiến bộ trong ghi nhớ tài liệu trừu tượng, từ
ngữ. Những kỹ năng tổ chức hoạt động tư duy của học sinh trung học cơ sở
nhằm ghi nhớ tài liệu nhất định, kỹ năng nắm vững phương tiện ghi nhớ
được ghi nhớ phát triển ở mức độ cao hơn nhiều so với học sinh tiểu học.
Học sinh trung học cơ bắt đầu biết sử dụng những phương pháp đặc biệt để
ghi nhớ và nhớ lại. Khi ghi nhớ các em đã biết tiến hành các thao tác như so
sánh, phân loại, hệ thống hoá. Tốc độ ghi nhớ và khối lượng tài liệu ghi nhớ
được tăng lên. Ghi nhớ máy móc ngày càng nhường chỗ cho ghi nhớ logic,
ghi nhớ ý nghĩa. Hiệu quả của trí nhớ trở nên tốt hơn. Nếu trước đây ở bậc
tiểu học các em thường ghi nhớ từng chữ, từng bài thì bây giờ các em thích
việc được tự mình tái hiện bằng lời nói. Vì thế giáo viên phải :
25

×