Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

nghiên cứu về thái độ của trẻ lang thang trên địa bàn hà nội đối với việc sử dụng ma tuý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (874.89 KB, 37 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TÂM LÝ HỌC

BÁO CÁO THỰC TẬP
NGHIÊN CỨU VỀ THÁI ĐỘ CỦA TRẺ LANG THANG TRÊN ĐỊA
BÀN HÀ NỘI ĐỐI VỚI VIỆC SỬ DỤNG MA TUÝ
Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Hữu Thụ
Sinh viên : Lê Thị Bích Phượng
Lớp : K47-Tâm lý học
1
Hà Nội – 2005

PHẦN I. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Quá trình đô thị hoá nhanh chóng kèm theo sự thay đổi các thành
phần kinh tế đã khiến một số người rơi vào tình trạng thất nghiệp. Hiện
tượng này đã khiến cho trẻ em buộc phải lao động kiếm sống phụ giúp
gia đình. Vấn đề trẻ bỏ đi lang thang là một vấn đề bức xúc, là mối quan
tâm của toàn xã hội. Hiện tượng trẻ em lang thang từ các vùng nông thôn
ra thành phố kiếm sống ngày càng tăng. Trẻ sống lang thang xa gia đình,
thiếu sự kiểm soát của cha mẹ. Lại trong môi trường thường xuyên tiếp
xúc với các tệ nạn xã hội, cùng với đặc điểm tâm lý dễ bị kích động,
thích tỏ ra là người lớn, các em rất dễ dàng bị lôi kéo vào việc tham gia
các tệ nạn xã hội.
Trước tình hình trên, Chính phủ đã có chương trình hành động
Quốc gia vì trẻ em, chương trình bảo vệ trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn, trong đó có đề án 3 là đề án phòng chống tệ nạn sử dụng ma
tuý giao cho Uỷ ban quốc gia phòng chống ma tuý chủ trì, kết hợp với
Uỷ ban Bảo vệ chăm sóc trẻ em thực hiện.
Mặc dù tình trạng trẻ em lang thang sử dụng ma tuý ngày càng


tăng song đề tài “Nghiên cứu thái độ của trẻ em ” nhằm tìm hiểu nhận
thức, xúc cảm tình cảm, hành động của trẻ lang thang đối với việc sử
dụng ma tuý, xác định các yếu tố tác động nhằm thay đổi thái độ.
II. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu thái độ của trẻ em lang thang đối với việc sử dụng ma
tuý nhằm tìm hiểu nhận thức, cảm xúc, hành động của trẻ lang thang đối
với việc sử dụng ma tuý, xác định các yếu tố tác động dẫn tới sự thay đổi
thái độ và trên cơ sở đó đề ra các kiến nghị và giải pháp, góp phần cung
cấp cơ sở lý luận và những số liệu thực tiễn cho người làm công tác
chăm sóc và bảo vệ trẻ em (đặc biệt là trẻ em lang thang có sử dụng ma
tuý trên địa bàn).
III. Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu thái độ - một hiện tượng tâm lý quan trọng của con
người. Nghiên cứu 196 trẻ lang thang trên địa bàn Hà Nội để tìm hiểu
những yếu tố xã hội - Tâm lý tác động tới thái độ của trẻ lang thang.
IV. Phương pháp nghiên cứu .
Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp quan sát
Phương pháp điều tra bảng hỏi
Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng những tri thức về toán
học thống kê để xử lý số liệu điều tra.
Phần II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Các nghiên cứu liên quan đến thái độ
Thái đô là một hiện tượng tâm lý khá phức tạp trong đời sống tâm
lý của con người và của các nhóm người, và đã được các nhà Tâm lý học
phương Tây quan tâm nghiên cứu từ rất sớm. Từ đầu thế kỷ XX gắn với
tên tuổi của hai nhà tâm lý Mỹ là Thomas W.I và Zna niecki. F một công
trình nghiên cứu về người nông dân Ba Lan sống ở Châu Âu di cư sang

Mỹ. Hai ông đặc biệt chú ý đến sự thích ứng cũng như thái độ của người
nông dân trước những thay đổi về giá trị của cuộc sống và đưa đến nhận
định: Thái độ là trạng thái tinh thần của cá nhân đối với một giá trị nào
đó.
Về sau, các công trình nghiên cứu về thái độ ngày càng nhiều gắn
với tên tuổi của nhiều nhà Tâm lý học nổi tiếng như La piere,
G.W.Auport, Lcon Festinger, Daryl Bem, W.Mc.Guire. Bởi lẽ hiện tượng
này đã đụng chạm đến nhiều hiện tượng khác của cuộc sống xã hội, đụng
chạm đến các quan hệ xã hội như dư luận xã hội, tâm trạng xã hội truyền
thông đại chúng
Nghiên cứu của trường phái tâm thế. Người mở đầu là D.N.U
dơnate đã đưa vào những thực nghiệm để đề ra thuyết tâm thế nhằm khắc
phục tính đơn giản, cơ học và quan điểm tính trực tiếp của hành vi. Theo
ông tâm thế là cơ sở của tính tích cực có chọn lọc, có định hướng của
chủ thể là trạng thái trọn vẹn của chủ thể, sẵn sàng tri giác các sự kiện.
Tâm thế là trạng thái vô thức xuất hiện khi có sự gặp gỡ của nhu cầu và
tình huống thoả mãn nhu cầu. Sau này, thuyết tâm thế đã được các đồng
nghiệp khác của ông phát triển, ứng dụng trong Tâm lý học tuyên truyền.
Nghiên cứu về thái độ ở Liên Xô trước đây chủ yếu trên nền tảng
Tâm lý học hoạt động và trường phái tâm lý, hoặc trong Tâm lý học nhân
cách. Khái niệm thái độ chủ quan của cá nhân lần đầu tiên được đặt ra
trong Tâm lý học A.F. Laguski đề xuất khi nghiên cứu tính cách. Theo
ông khi phân tích nhân cách không chỉ dừng lại ở góc độ Tâm lý, tâm
sinh lý mà còn phải lưu ý cả ở góc độ Tâm lý - xã hội. ÔNg cho rằng thái
độ là khía cạnh quan trọng của nhân cách. Ông đặc biệt quan tâm tới thái
độ của cá nhân đối với nghề nghiệp và sở hữu và với người khác với xã
hội. Sau này dựa trên tư tưởng của ông và xuất phát từ lập trường Macxit
nhà Tâm lý học Việt Nam Miasisex đã đề ra học thuyết “Thái độ nhân
cách”.
Ngoài ra trường phái tâm thế, thái độ còn được nghiên cứu trong

tâm lý học nhân cách và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Nhà Tâm lý
học Mỹ V.N. Miasiev đã đưa ra thuyết thái độ nhân cách coi nhân cách
là một hệ thống thái độ. Ông là một trong những người đặt nền móng cho
Tâm lý thái độ theo quan điểm Macxit. Ông quy nhu cầu, hứng thú, tình
cảm, tính cách, sự đánh giá đều là thái độ. Vậy điểm hạn chế của
thuyết này chính là chỗ xếp ngang hàng quan hệ xã hội với thái độ
người nhận thức, xúc cảm ý chí, thị hiếu, nét tính cách.
* Ở Việt Nam cũng có các công trình nghiên cứu về thái độ: Thái
độ là khái niệm tâm lý khó xác định và gây nhiều tranh cãi, do đó cũng
là khái niệm được quan tâm nghiên cứu nhiều. Các tác giả nghiên cứu
theo nhiều quan điểm và hứơng đi khác nhau nhằm chỉ ra cấu trúc tâm lý
của thái độ, mối quan hệ giữa thái độ và hành vi, những yếu tố tác động
đến thái độ. Tuy nhiên phần lớn lại tập trung nghiên cứu thái độ học tập
của học sinh, sinh viên, đồng thời cũng đã khẳng định thái độ học tập là
bộ phận cấu thành, cũng là thuộc tính cơ bản của ý thức học tập, lại yếu
tố qui định tính tự giác học tập và biểu hiện bằng cảm xúc và hành động
tương ứng.
Tóm lại

: Một số nghiên cứu về thái độ ở Việt Nam của một số tác
giả, nhưng phần lớn chỉ tập trung nghiên cứu thái độ học tập của học
sinh, sinh viên. Điều đáng lưu ý ở đây là chưa có nghiên cứu nào đề cập
tới thái độ đối với hiện tượng sử dụng ma tuý nói chung và của trẻ em
lang thang nói riêng. Vì vậy việc chọn đề tài nghiên cứu thái độ đối với
việc dùng ma tuý ở trẻ lang thang là cần thiết và có ý nghĩa thực thực
tiễn đặc biệt trong điều kiện hiện nay.
1.2. Nghiên cứu về vấn đề trẻ lang thang
Thực tế đã có rất nhiều nghiên cứu, khảo sát về vấn đề trẻ lang
thang của các tổ chức phi chính phủ như Unicef, Plan của các cơ quan
làm công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em của các viện nghiên cứu như viện

nghiên cứu thanh niên nghiên cứu về đặc điểm của trẻ lao động sớm tại
thành phố Hồ Chí Minh trong đó đã đề cập tới nguyên nhân, hoàn cảnh,
kinh tế xã hội và điều kiện lao động của trẻ lang thang lao động sớm.
Nghiên cứu về hành vi giao tiếp của trẻ lang tháng do nhóm tác giả
Viện Khoa học Giáo dục kết hợp với Uỷ ban chăm sóc bảo vệ trẻ em Hà
Nội tiến hành. Nghiên cứu này đã chỉ ra những đặc điểm trong quan hệ
giao tiếp của trẻ lang thang. Trên cơ sở đó đề ra những nội dung và biện
pháp giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ lang thang.
Khảo sát về thực trạng trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội do
Unicef tài trợ kinh tế năm 1998. Khảo sát này đã được tổng kết: số trẻ,
độ tuổi, trình độ văn hoá, quê quán, giới tính, nghề nghiệp của trẻ lang
thang tại địa bàn Hà Nội.
Tuy nhiên, các nghiên cứu này chủ yếu chỉ tập trung tìm hiểu
nguyên nhân để trẻ đi lang thang, đặc điểm tâm lý của trẻ em lang thang
và tình trạng trẻ lang thang phải lao động sớm hoặc có nguy cơ vướng
vào các tệ nạn xã hội chứ chưa đề cập tới thái độ của trẻ lang thang đối
với vấn đề sử dụng ma tuý.
II. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN
2.1. Khái niệm về trẻ lang thang
Trẻ lang thang thường được coi là những trẻ em phải kiếm tiến bằng các
hoạt động thường xuyên trên đường phố như đánh giầy, bán báo, nhặt
rác trẻ lang thang là hậu qủa của sự phân hoá giàu nghèo và quá trình
đô thị hoá nhanh chóng. Thực trạng trẻ lang thang ở nước ta ngày càng
tăng với tốc độ chóng mặt. Năm 1996 cả nước có 14.596 trẻ lang thang,
tới năm 19975 đã có 16.263 em và tới năm 2000 đã có khoảng 50.000 trẻ
lang thang. Theo số liệu khảo sát của Bộ Lao động Thươngbinh và Xã
hội của Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em thành phố Hà Nội thì số trẻ
lang thang tại Hà Nội ngày càng tăng theo cấp số nhân, các trẻ em lang
thang chủ yếu sống và làm việc trong những môi trường có nguy cơ cao
tham gia vào các tệ nạn xã hội.

Tình hình trẻ lang thang (Thanh thiếu niên) sử dụng ma tuý ngày
càng gia tăng và đã có một số trẻ lang thang tham gia vào việc sử dụng,
mua bán ma tuý.
2.2. Khái niệm về ma tuý và các chất gây nghiện
Ma tuý là mọt chất độc gây nghiện tác hại tới hệ thần kinh, tạm
thời gây kích thích tạo cảm giác sảng khoái, kích thích tình dục, nhưng
sau đó suy kiệt, khép kín cảm giác, tri giác, cản trở học tập và phát triển
trí tuệ. Cuối cùng thường là dẫn chủ thể tới tai nạn, phạm tội.
Các chất ma tuý thường gặp là

: Hêroin (hay bạch phiến) chất bột
trắng kết tinh gây nghiện, chiết xuất từ cây thuốc phiện (morphin) đầu
tiên được dùng để giảm đau và an thần.
Cocain:chất kết tinh có vị đắng lấy từ lá cây Coca có tác dụng gây
tê cục bộ và gây kích thích.
Cần sa: lá và hoa cây cần sa được quấn hút như thuốc lá, có tác
dụng gây ảo giác.
Bụi thiên thần: Tiếng lóng của Phecyclidine, một loại an thần dùng
cho gia súc, và cũng dùng cho người để gây ảo giác.
Vì vậy các chất ma tuý đều có tác dụng gây nghiện rất mạnh, chỉ
dùng một vài lần đã có thể mắc nghiện và rất khó cai. Một số thuốc an
thần, giảm đau, gây ngủ, xoa dịu lo lắng căng thẳng thần kinh, tâm thần
được sử dụng một cách phổ biến lâu dài hoặc lạm dụng đều có thể mắc
nghiện và gây hại không kém gì ma tuý. Có một số loại còn được dùng
chung với ma tuý để tăng cảm giác mạnh, có thể kể như: Valicum,
Diazepam, Libeum, Binoctal…
2.3. Khái niệm về sử dụng ma tuý
Khi nói về việc sử dụng ma tuý người ta thường nói tới 3 cấp độ
sau:
- Sử dụng ma tuý với mục đích chữa bệnh theo sự chỉ dẫn kê đơn

của bác sỹ, lạm dụng ma tuý, nghiện ma tuý.
- Sử dụng ma tuý là việc dùng ma tuý với mục đích chữa bệnh,
dùng liều lượng, đúng theo sự chỉ định chặt chẽ của bác sỹ. Việc sử dụng
như vậy có lợi cho sức khoẻ người dùng.
- Lạm dụng ma tuý là sự sử dụng ma tuý một cách quá liều vào
mục đích tiêu khiển.
- Nghiện ma tuý là hiện tượng phụ thuộc cả về thể xác và tinh thần
vào ma tuý do sử dụng thường xuyên với liều lượng ngày càng tăng dẫn
đến mất khả năng kiểm soát bản thân ở người nghiện, gây hại cho cá
nhân và xã hội.
III. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÂN CÁCH VÀ SỰ HÌNH THÀNH
THAY ĐỔI THÁI ĐỘ
Thái độ được hình thành hay thay đổi phụ thuộc rất nhiều vào các
yếu tố, trong đó có những điểm về nhân cách.
3.1. Nhân cách là tổ hợp
Những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân, thể hiện
bản sắc và giá trị xã hội của con người. Như vậy mỗi cá nhân đều có
những đặc điểm tâm lý riêng mang đậm bản sắc riêng của mình. Do đó
sự nhận thức xúc cảm tình cảm và phong cách biểu hiện hành vi ra bên
ngoài trước cùng một sự vật hiện tượng cũng rất khác nhau. Hơn nữa thái
độ không chỉ phụ thuộc vào sự nhận thức, xúc cảm tình cảm mà còn phụ
thuộc vào các yếu tố khác như: đặc điểm thể chất, kiểu hình thần kinh,
năng lực, ý chí, nhu cầu động cơ hoạt động, xu hướng nhân cách. Do đó
có ảnh hưởng tới sự hình thành cũng như thay đổi thái độ.
3.2. Năng lực của mỗi người cũng ảnh hưởng nhiều tới sự hình thành
cũng như thay đổi thái độ
Năng lực là tổ hợp các thuộc tính tâm lý độc đáo của cá nhân, phù
hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định đảm bảo cho hoạt
động đó nhanh chóng thành thạo và đạt kết quả cao. Năng lực không chỉ
là năng lực chuyên biệt, chuyên môn trong một lĩnh vực mà còn là năng

lực chung cần thiết cho nhiều lĩnh vực khác nhau như trí nhớ, tư duy, tư
tưởng. Tất cả những khía cạnh này đều có ảnh hưởng tới quá trình nhận
thứ - một cơ sở cho sự hình thành thái độ.
3.3. Ý chí cũng ảnh hưởng rất nhiều tới sự hình thành cũng như
thay đổi thái độ. Đặc biệtnó ảnh hưởng rất lớn tới sự biểu hiện của thái
độ ra hành động bên ngoài, nhất là trong trường hợp có sự bất đồng giữa
nhận thức và nhu cầu của cá nhân. Ý chí vững vàng là một yếu tố cản trở
rất nhiều sự thay đổi thái độ.
3.4. Xu hướng của nhân cách cũng ảnh hưởng rất nhiều tới sự hình
thành và thay đổi thái độ. Xu hướng của nhân cách là thuộc tính tâm lý
điển hình của cá nhân bao hàm trong nó một hệ thống những động lực
quy định sự lựa chọn các thái độ của cá nhân. Xu hướng của nhân cách
thể hiện ở một số mặt chủ yếu như nhu cầu, lí tưởng, thế giới quan, niềm
tin.
3.5. Tính cách của cá nhân cũng có quan hệ chặt chẽ với thái độ
của cá nhân. Tính cách là một thuộc tính tâm lý phức tạp của cá nhân
bao gồm một hệ thống thái độ đối với việc thực hiện, thể hiện trong hệ
thống hành vi cử chi lời nói, cách ứng xử. Tính cách của cá nhân có tính
chất phức tạp. Thái độ là một phần trong cấu trúc phức tạp đó. Một thái
độ ổn định bền vững chính là một thể hiện cụ thể của tính cách.
3.6. Thái độ còn phụ thuộc vào rất nhiều những giá trị, chuẩn mực
của nhóm giao tiếp. Tuy nhiên các nghiên cứu cho thấy các cá nhân tiếp
nhận các thái độ của nhóm có chọn lựa bằng những cách thứ và mức độ
khác nhau. Điều này là do sự khác nhau về đặc điểm nhân cách của cá
nhân. Các cá nhân có xu hướng tiếp cận những thái độ phù hợp với nhân
cách của mình và thoả mãn những nhu cầu của mình. Với mọi người
thường có xu hướng hình thành thái độ tích cực với các khách thể có lợi
và thái độ tiêu cực đối với các khách thể có hại cho việc thoả mãn nhu
cầu của mình.
IV. CÁC TÁC ĐỘNG XÃ HỘI - TÂM LÝ VÀ VẤN ĐỀ THAY ĐỔI

THÁI ĐỘ
4.1. Môi trường tự nhiên, xã hội và sự thay đổi thái độ
Môi trường là yếu tố tác động lớn tới đời sống của con người. Môi
trường được hiểu theo hai nghĩa: môi trường tự nhiên và môi trường xã
hội.
Môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố tự nhiên như địa lý, khí
hậu, độ ẩm, ánh sáng… Những yếu tố này không chỉ ảnh hưởng tới sức
khoẻ, sinh lý tự nhiên của con người mà còn ảnh hưởng tới thói quen
trong sinh hoạt cũng như các yếu tố tâm lý của con người. Đối với thái
độ môi trường tự nhiên cũng có những tác động nhất định tới sự hình
thành cũng như thay đổi thái độ.
Môi trường xã hội được hiểu là hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội,
văn hoá và những yếu tố nhân tạo khác tồn tại song song với môi trường
tự nhiên. Môi trường xã hội có thể xem xét trong phạm vi một nhóm nhỏ
như trường lớp, khu phố một nhóm ngành nghề, một quận huyện, hay
xem xét trong một phạm vi rộng hơn là cả một vùng miền, một nước.
Hoàn cảnh kinh tế xã hội có ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành
cũng như thay đổi thái độ. Các phương tiện thông tin đại chúng đã tạo
nên những dư luận xã hội trong quần chúng nhân dân và thông qua đó
định hướng thái độ của mọi người đối với mộtvấn đề nào đó.
Những yếu tố văn hoá, kinh tế, chính trị cũng có tác động rất lớn
tới sự hình thành cũng như thay đổi thái độ. Trước kia, khi chưa có nền
kinh tế thị trường, hiện tượng trẻ em lang thang ra các thành phố kiếm
sống hầu như không có. Nhưng từ khi bước sang nền kinh tế thị trường
thì hiện tượng trẻ em lang thang ra các thành phố kiếm sống ngày càng
tăng. Đó không chỉ là hậu quả của nền kinh tế mở mà còn có nguyên
nhân là do sự thay đổi thái độ đối với vấn đề quản lý và giáo dục con
cái.
4.2. Tác động của giáo dục và sự thay đổi của thái độ
Giáo dục là một hiện tượng chuyên môn được định hướng của xã

hội nhằm hoan thành và phát triển nhân cách con người theo những yêu
ầu xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong sự hình thành và phát triển nhân ách thì giáo dục có ý nghĩa
quan trọng. Giáo dục vạch ra phương hướng cho sự phát triển nhân cách
hình thành những mẫu người cụ thể theo những yêu cầu của xã hội. Đồng
thời giáo dục mà nền văn hoá xã hội lịch sử được truyền từ thế hệ này
qua thế hệ khác. Nhưng năng lực phẩm chất tốt đẹp của con người được
phát huy tối đa nhờ giáo dục, đồng thời những sai lệch cũng được uốn
nắn.
Vì vậy đối với sự hình thànhvà thay đổi thái độ, giáo dục cũng có
ảnh hưởng rất nhiều. Giáo dục định hướng cho sự hình thành thái độ.
Những tác động sư phạm tới cá nhân sẽ tạo nên sự nhận thức đúng đắn
về đối tượng. Do đó sẽ hình thành thái độ đúng đắn đối với đối tượng đó.
Giáo dục có thể phát huy tối đa các mặt mạnh, phát triển nhận thứ
xúc cảm, tình cảm tư duy… bù đắp những thiếu hụt của cá nhân. Mà
những yếu tố này có ảnhhưởng tới sự hình thành cũng như thay đổi thái
độ. Vì vậy khi muốn hình thành hay thay đổi thái độ cần lưu ý đến yếu tố
giáo dục.
4.3. Tác động tích cực của nhóm xã hội và vấn đề thay dổi thái độ
Thái độ được hình thành trong quá trình giao tiếp nhưng đồng thời
quá trình giao tiếp cũng làm thay đổi thái độ của con người. Trong quá
trình giáo tiếp chúng ta thường xuyên chịu ảnh hưởng của người khác và
cũng gây ảnh hưởng tới người khác. Tất cả những quan điểm, lòng tin,
giá trị củachúng ta đều đạt được thông qua quá trình giao tiếp thường
xuyên với các nhóm xã hội như gia đình, bạn bè, đồng nghiệp… Những
thái độ của chúng ta cũng bắt nguồn từ đấy.
Trong quá trình iao tiếp các thành viên trong nhóm thường xuyên
tác động tới chúng ta, làm thay đổi thái độ của chúng ta một cách cố ý
hay vô ý. Ngoài giao tiếp càng được tin cậy, càng có uy tín thì càng dễ
gây ảnh hưởng tới người khác và tạo nên sự thay đổi thái độ cũng như sự

hình thành thái độ của chúng ta.
Nhóm gia đình, người thân và sự thay đổi thái độc gia đìnhlà môi
trường xã hội hoá đầu tiên của mỗi con người. Đây là nhóm nhỏ đầu tiên
ảnh hưởng tới nhân cách, tới thái độ cá nhân, gia đình, người thân là
nhóm xã hội mà cá nhângiao tiếp nhiều nhất, thái độ được hình thành
trong quá trình giao tiếp. Trong quá trình giao tiếp người ta học hỏi được
những tri thứ, cung cách ứng xử, và phương thức hành động trước một
tình huống. Điều này giải thích vì sao thái độ về chúa trời của những
người sống trong những gia đình theo đạo thiên chúa và thái độ của
những người không theo đạo lại rất khác nhau.
Đối với trẻ lang thang thì ảnh hưởng của nhóm gia đình và người
thân không mạnh mẽ và rõ rệt bằng nhóm không lang thang. Trẻ đi lang
thang, dù lang thang cùng gia đình thì sự phụ thuộc và gắn kết với gia
đình cũng đã lỏng lẻo hơn so với các nhóm trẻ khác. Ngươcu lại sự độc
lập tự chủ trong suy nghĩ và hành động lại cao hơn. Dù đó là trẻ đi lang
thang kiếm sống giúp đỡ gia đình, thường xuyên có liên hệ với gia đình,
hay là trẻ lang thang do mâu thuẫn với gia đình. Đây là một đặc điểm
tâm lý đặc trưng của nhóm trẻ lang thang.
Sự độc lập tự chủ và ít gắn kết với gia đình là hậu quả của cuộc
sống lang thang. Điều này dẫn tới việc ảnh hưởng của bố mẹ tới con cái
bắt đầu giảm đi. Đây còn là do lứa tuổi trẻ lúc này đã bắt đầu trưởng
thành, thích khẳng định mình.
*Nhóm bạn bè và sự thay đổi thái độ

.
Bạn bè là nhóm xã hội có ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển
nhân cách cá nhân. Nó cũng ảnh hưởng rất nhiều tới sự hình thành cũng
như sự thay đổi thái độ, nhất là ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Ở lứa tuổi
này sự giao tiếp của trẻ chủ yếu thông qua các nhóm bạn. Nhiều khi
chúng tin bạn hơn bố mẹ và có thể tâm sự với kbạn những điều thầm kín,

những băn khoăn thắc mắc của mình. Khi một đứa trẻ tham gia vào một
nhóm nào đó, nó đều trong muốn được thoả mãn một nhu cầu nào đó, có
thể là sự tôn trọng, được lắng nghe, cảm thấy mình quan trọng. Vì vậy
trong quá trình tương tác các cá nhân trong nhóm thường xuyên có ảnh
hưởng và học hỏi lẫn nhau để tạo nên sự thống nhất trong nhóm. Đối
với trẻ lang thang, nhóm bạn bè có ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành
cũng như thay đổi, thái độ. Do cuộc sống xa gia đình, trẻ kết lại thành
từng hóm, tuy có sự độc lập, tự chủ nhưng sự đoàn kết, gắn bó trong
nhóm bạn cũng rất cao. Để tồn tại và thích nghi với cuộc sống khi một
người trong nhómgặp khó khăn, cả nhóm sẵn sàng cưu mang giúp đỡ. Vì
vậy, những thành viên trong nhóm có cùng một suy nghĩ, một thái độ.
*Nhóm nghề nghiệp và sự thay đổi thái độ

.
Nhóm nghề nghiệp là nhóm có ảnh hưởng nhiều tới sự hình thành
nhân cách, thói quen thái độ của cá nhân. Trong nhóm nghề nghiệp
thường bao gồm những cá nhân có trình độ về nhiều mặt tương đương
với nhau, cùng làm việc trong một môi trường. Nghề nghiệp ảnh hưởng
rất nhiều đến cách suy nghĩ, thói quen, thái độ của cá nhân nhóm. Nghề
nghiệp là nhóm cá nhân tiếp xúc nhiều sau nhóm gia đình, bạn bè. Vì
vậy nhóm nghề nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thái độ
của cá nhân.
Tuy nhiên đối với nhóm trẻ lang thang thì giữa các nhóm nghề
nghiệp ít có sự khác nhau về thói quen, cách suy nghĩ. Đó là do các em
thường xuyên có sự thay đổi trong công việc. Khi một em bé làm nghề
đánh giầy nhận thấy công việ của mình gặp khó khăn em có thể chuyển
sang bán báo, hoặc làm phụ việc, dắt xe cho các quán cà phê. Hơn nữa
dù làm những nghề khakcs nhau nhưng các em đều có các đặc điểm
chung về môi trường lao động và đặc điểm công việc. Đó là các em đều
lao động kiếm sống chủ yếu trên đường phố và công việ của các em chủ

yếu là dịch vụ phụ vụ các nhu cầu của con người.
* Nhóm người gần gũi cùng sống và hd

.
Đó là có thể là những người hàng xóm xung quanh hoặc những
người thường xuyên tiếp xúc, giao tiếp hàng ngày. Do đó nhóm người
gần gũi này có ảnh hưởng lớn tới sự hình thành cũng như thay đổi thái
độ đối với nhóm trẻ lang thang thì nhóm người gần gũi cùng chung sống
là những người ở cùng nhò trọ, là những người lớn mà trẻ thường tiếp
xúc như chủ quán những người này có ảnh hưởng nhiều tới cách nghĩ,
thái độ của trẻ lang thang. Bởi vì đây là những người mà trẻ thường
xuyên tiếp xúc. Ở lứa tuổi chưa đủ độ lớn để phân biệt điều hay lẽ phải
nhưng cũng không phải còn bé để ngoan ngoãn nghe theo lời khuyên bảo
của cha mẹ.
Như vậy ta thấy qua giao tiếp nhóm, cá nhân không chỉ trao đổi
thông tin, tri thức mà còn trao đổi cảm xúc tình cảm với nhau. Những
xúc cảm, tình cảm, sự đánh giá cua đối tượng giao tiếp về một vấn đề
nào đó cũng ảnh hưởng tới thái độ của chúng ta về vấn đề đó. Mỗi cá
nhân là thành viên của nhiều nhóm khác nhau. Giá trị chuẩn mực mà cả
nhóm theo đuổi sẽ ảnh hưởng tới sự hình thành thái độ của mỗi cá nhân.
Thực tiễn cũng đã xác nhận áp lực nhóm ảnh hưởng nhiều tới hành
vi và thái độ của cá nhân. Nhóm gia đình, bạn bè và nhóm nghề nghiệp
là những nhóm có ảnh hưởng nhiều nhất. Khi cá nhân làm theo các chuẩn
mực và những ý kiến của nhóm thì cá nhân sẽ cảm thấy yên tâm hơn vì
cho là đã được người khác thừa nhận. Có thể mô tả các nhân tố ảnh
hưởng đến hình thành thay đổi thái độ như sau :
Các hoạt
động nhân
cách
Xu hướng

Tính cách
Năng lực
Khi chất
Môi trường tự
nhiên - xã hội
Tác động của giáo
dục
Tác động tích cực
của nhóm xã hội
Nhóm gia đình
người thân
Nhóm Bạn bè Nhóm nghề
nghiệp
Nhóm những
người gần gũi
cùng chung sống
Các hoạt
động xã
hội tâm lý
Hình thành
và thay đổi
thái độ
Các nhân tố
ảnh hưởng
đến hình
thành và thay
đổi thái độ
CHƯƠNG 2

. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP,

KIẾN NGHỊ
I. PHÂN TÍCH NHỮNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ HÁI ĐỘ CỦA
TRẺ LANG THANG ĐỐI VỚI VIỆC SỬ DỤNG MA TUÝ
1.1. Nhân thức của trẻ lang thang đối với việc sử dụng ma tuý
Nhận thức là quá trình lĩnh hội tri thức, sự lĩnh hội không chỉ là
quá trình nhận biết mà còn là quá trình điều tra, khám phá ra bản chất
của đối tượng. Nhận thứ có thể coi là quá trình thong qua đó cá nhân
tuyển chọn, giải thích thông tin đầu vào để có một bức tranh có ý nghĩa
về thế giới xung quanh.
Để có sự quan tâm, có hứng thú và có sự tìm kiếm thông tin về đối
tượng đó. Tìm hiểu về nhận thức của trẻ lang thang đối với hành vi sử
dụng ma tuý thì chúng ta không thể không quan tâm tới vấn đề trẻ lang
thang đã sửdụng những nguồn thông tin nào để có nhận thứ về hành vi sử
dụng ma tuý. Nhưng nguồn thông tin này có ảnh hưởng tới sự hình thành
cũng như thay đổi thái độ của trẻ lang thang. Trẻ lang thang sẽ không có
thái độ đúng đắn về hành vi sử dụng ma tuý khi không có thông tin hay
có quá ít thông tin hoặc thông tin sai lệch. Qua tìm hiểu thì được biết trẻ
lang thang sử dụng tìm kiếm thông tin về việc sử dụng ma tuý qua:
- Các phương tiện thông tin đại chúng nhưbáo, đài, ti vi. Đây là
nguồn thông tin đáng tin cậy, cung cấp thông tin chính xác với mục đích
tuyên tuyền về tác hại cua ma tuý.
- Cá bảng thông tin tuyên truyền. Đây là nguồn thông tin chính
thức, cung cấp những thông tin chính xá với mục đích tuyên truyền về
tác hại của ma tuý. Tuy nhiên hình thức này không sống động như báo,
đài, ti vi…
- Nguồn thông tin cá nhân qua bạn bè, người thân. Đât là nguồn
thông tin mà cá nhân chịu ảnh hưởng nhiều nhất. Vì đây là nhóm mà cá
nhân tiếp xúc nhiều nhất và chịu tác động khá nhiều.
- Nguồn thông tin qua các buổi sinh hoạt tuyên truyền. Đây là một
hình thức cung cấp thông tin một cách bổ ích và hấp dẫn.

* Nguồn thông tin trẻ thường sử dụng để tìm kiếm về ma tuý.
Tìm hiểu về các nguồn thong tin mà trẻ lang thang thường sử dụng
để có những hiểu biết về ma tuý thì câu hỏi đặt ra là:
Em hiểu về ma tuý và hành vi sử dụng ma tuý qua các nguồn tin
nào?
*Nguồn thông tin trẻ thường sử dụng để tìm kiếm ma tuý
Nguồn thông tin
Nhóm lang thang (n = 196)
Tần số Tần xuất Thứ hạng
Báo đài, ti vi 126 64,28 1
Bảng tuyên truyền 100 51,02 2
Qua bạn bè 81 41,32 3
Qua các buổi sinh hoạt 23 11,73 4
Nhóm trẻ lang thang thu nhận được những thông tin về ma tuý và
hành vi sử dụng ma tuý chủ yếu thông qua những phương tiện thông tin
đại chúng như báo, đài, ti vi 64,28% và qua các bảng tuyên truyền. Đây
là những nguồn thông tin chính xác và có mục đích. Nguồn thông tin từ
gia đình và bạn bè được dùng để tìm kiếm thông tin sau hai nguồn thông
tin trên.
* Mức độ tìm kiếm thông tin của trẻ
Mức độ tìm kiếm
thông tin
Trẻ lang thang
Tần số Tần suất
Rất thường xuyên 34 17,5
Thường xuyên 49 25
Thỉnh thoảng 68 34,7
Hiếm khi 25 12,7
Không bao giờ 20 10,2
Vì nhu cầu của các em là kiếm tiền để duy trì cuộc sốngvà nhu cầu

được tự do làm những gì mình thích. việc tìm kiếm những nguồn thông
tin về ma tuý và tác hại của ma tuý không thu hút sự quan tâm của các
em bằng vấnđề làm thế nào để sống, để tồn tại trên đường phố.
Vì vậy cần có những hoạt động giúp các em hứng thú hơn và có ý
thức hơn đối với việc tìm kiếm thông tin về ma tuý và tác hại của ma
tuý.
* Nhận thức về hành vi dung mà tuý

.
Nhận thức về hành vi dùng ma tuý là yếu tố quan trọng quyết định
tới thái độ của các em. Câu hỏi đặt ra :
Hỏi: Theo em hành vi sử dụng ma tuý là hành vi như thế nào? Kết
quả thu được là:
*Nhận thức về hành vi sử dụng ma tuý
Nhận thức về hành vi dùng ma tuý
NHóm trẻ lang thang
Tần số Tần suất
Là quyền của mọi người 48 24,5
là hành vi bình thường 26 13
Là hành vi vi phạm pháp luật 123 61,7
Vì vậy số trẻ lang thang đa số trình độ văn hoá còn thấp, lại không
tham gia vào các hoạt động của trường lớp, công việc và mối quan tâm
chủ yếu của các em là kiếm tiền. Do đó các em cũng ít quan tâm tìm
kiếm những thông tin về ma tuý và hành vi dung ma tuý, điều này cũng
hoàn toàn phù hợp với mức độ chưa thường xuyên trong việc tìm kiếm
thông tin về ma tuý của các em.
*Nhận thức về người sử dụng Ma tuý

.
Để tìm hiểu thái độ của các em đối với người sử dụng ma tuý thì

câu hỏi đặt ra là:
Hỏi:Em nghĩ thế nào về những người sử dụng ma tuý? và thu được
kết quả phản ánh bằng bảng sau:
Nhận thức về người sử dụng ma tuý
Nhóm trẻ lang thang (n=196)
Tần số Tần suất
Đó là những người xấu 67 34,18
Đó là những người bình thường 96 48,97
Không có ý kiến gì 33 16,83
Trẻ lang thang coi những người sử dụng ma tuý là những người
xấu (có thái độ xa lánh ghét bỏ). Trẻ lang thang có nhận thức về hành vi
sử dụng ma tuý là hành vi không bị cấm, lại xa lánh với những người sử
dụng ma tuý. Trẻ lang thang chưa nhận thức đúng đắn về hành vi dùng
ma tuý, nhưng các em lại thường xuyên được chứng kiến những hình
ảnh của những người nghiện vật vã, bệ rạc, hay gây gổ, ăn cắp để thoả
mãn cơn nghiện.
*Nhận thức và tác hại của ma tuý

.
Để có thái độ đúng đắn về hành vi dùng ma tuý thì phải có nhận
thức đúng đắn về ma tuý. Trẻ lang thang không thể có thái độ đúng đắn
như không có đầy đủ và đúng đắn về ma tuý và tác hại của ma tuý tới
sức khoẻ và đạo dức của con người. Để tìm hiểu vấn đề này câu hỏi đặt
ra là:
Hỏi: Theo em ma tuý có ảnh hưởng như thế nào tới sức khoẻ và
đặc điểm của bản thân người dùng cũng như đối với người khác? Và đã
thu được kết quả như sau:
Ảnh hưởng của ma tuý đối với NHóm trẻ lang thang
Tần số Tần suất
Sức khoẻ bản thân

Ảnh hưởng tốt 5 2,55
Ảnh hưởng xấu 170 86,75
Không ảnh hưởng 21 10,71
Đạo đức nhân cách
bản thân
Ảnh hưởng tốt 14 7,14
Ảnh hưởng xấu 115 58,67
Không ảnh hưởng 67 34,18
Sức khoẻ người khác
Ảnh hưởng tốt 4 2,04
Ảnh hưởng xấu 110 56,12
Không ảnh hưởng 27 13,78
Đạo đức nhân cách
người khác
Ảnh hưởng tốt 27 13,78
Ảnh hưởng xấu 139 70,92
Không ảnh hưởng 30 15,31
Ở nhóm trẻ lang thang thì do các em được chứng kiến hình ảnh
những người nghiện ma tuý sa xút bệ rạc, khi xem xét sự hiểu biết về tác
hại của ma tuý thì trong nhóm trẻ lang thang ta cũng thấy sự khác nhau
giữa các nhóm, nhóm nghề các em có trình độ văn hoá thấp, có nhận
thức sai lệch về tác hại của ma tuý hơn so với trình độ văn hoá cấp II.
Như vậy trình độ văn háo có ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức của các em
về tác hại của ma tuý.
* Nguyên nhân dùng ma tuý

.
Về nguyên dùng ma tuý, các em đều cho rằng nguyên nhân quan
trọng nhất là đua đòi. Tiếp đó mới là do thiếu sự quan tâm của gia đình,
yếu tố do bị lôi kéo ép buộc được xếp thứ 3, tiếp đó là sự thiếu hiểu biết

về tác hại của ma tuý.
Nguyên nhân dùng ma tuý
Nhóm lang thang (n = 196)
Tổng số Tần xuất (%) Thứ tự
Do đua đòi 142 72,4% 1
Do bị lôi kéo, épbuộc 109 55,6 3
Do thiếu hiểu biết 105 53,57 4
Do thiếu sự quan tâm củagia
đình
130 66,32 2
Do chán nản thất vọng 92 46,93 5
Do nhà nước chưa có hình phạt
với người sử dụng ma tuý
37 18,87 6
Nhóm trẻ lang thang cho rằng, chủ yếu là do đua đòi do đó yếu tố
gia đình rất quan trọng trong việc quản lý giúp đỡ các em không bị lôi
kéo vào tệ nạn xã hội. Vì vậy nguyên nhân chủ yếu nhất vẫn là do tự bản
thân không có ý thức đấu tranh phòng trãnh.
Trẻ lang thang đã có nhận thức tương đối đúng đắn về ma tuý và
tấchị của ma tuý. Đa số các em đều biết rằng ma tuý là có hại và những
người sử dụng ma tuý là những người xấu. Tuy nhiên nhận thức về hành
vi sử dụng ma tuý của các em lại chưa chính xác, đúng đắn. Phần lớn các
em đều cho rằng sử dụng ma tuý là quyền của mọi người chứ không phải
hành vi vi phạm pháp luật. Điều này cũng do hứng thú đối với việc tìm
hiểu về pháp luật phòng chống ma tuý cũng như tìm hiểu về ma tuý của
các em chưa cao.
I.2. Những đặc rưng về xúc cảm, tình cảm của trẻ lang thang đối với
việc sử dụng ma tuý
Xúc cảm, tình cảm là nhữn rung cảm của con người đối với những
sự vật, hiện tượng có liên quan tới việc thoả mãn hay không thoả mãn

nhu cầu, động cơ của cá nhân. Xúc cảm có tính chất tạm thời nảy sinh
trong hoàn ảnh cụ thể và là cơ sở để hình thành tình cảm. Tình cảm là
thuộc tính của tâm lý sâu sắc có tính ổn định, lâu bền, hiện thực và được
thể hiện qua xúc cảm. Xúc cảm là sự biểu thị thái độ của cá nhân đối với
các sự vật hiện tượng, vừa là mộtbộ phận cấu thành nên thái độ.
Tình cảm và thái độ đều được hình thành tư việc thoả mãn hay
không thoả mãn nhu cầu và đều giúp cho cá nhân thích nghi với môi
trường và điều chỉnh hoạt động. Tình cảm và thái độ có tính ý thức, tính
ổn định, tính xã hội. Do đó trong mốtố nghiên cứu về tâm thế xã hội, một
số tác giả đã có xu hướng vận dụng các quy luật của cuộc sống tình cảm
để tìm ra các quy luật ảnh hưởng qua lại giữa thái độ của người tuyên
truyền và người bị tuyên truyền.
Trong cấu trúc của thái độ xúc cảm, tình cảm là một thành phần
quan trọng có ảnh hưởng tới nhận thức và hd. Khi tìm hiểu về những xúc
cảm, tình cảm của trẻ lang thang đối với hành vi sử dụng ma tuý thì có
hai tình huống giả định được đặt ra là :
Hỏi: Nếu có người thân dùng ma tuý em sẽ cảm thấy như thế nào,
em sẽ làm gì?
Hỏi: Nếu tệ nạn ma tuý được bài trừ, em sẽ cảm thấy như thế nào?
Đây là hai tình huống giả định có thể đo chính xác tình cảm của
các em đối với hành vi sử dụng ma tuý.
*Xúc cảm đối với việc người thân dùng ma tuý.
Xúc cảm, tình cảm đối với dùng ma tuý ở trẻ lang thang thang bao
gồm xúc cảm, tình cảm đối với hành vi dùng ma tuý và trước sự việc tệ
nạn ma tuý được bài trừ. Để tìm hiểu xúc cảm của trẻ lang thang đối với
hành vi sử dụng ma tuý của người thân thì câu hỏi đẩt là:
Hỏi: Em sẽ tỏ thái độ như thế nào khi biết người thân sử dụng ma
tuý? và đã thu được kết quả nhs sau:
Xúc cảm đối với người thân sử dụng
ma tuý

NHóm trẻ lang thang (n=196)
Tần số Tần suất
Xa lánh, ghét bỏ 110 57
Khuyên can không dùng nữa 55 28,1
Nói với người khác 26 13,8
Không tỏ thái độ gì 1 0,5
Cùng sử dụng 4 2.0
Trẻ lang thang do phải lao động kiếm sống nên tính độc lập tự chủ
đoàn kết theo nhóm là rất cao, hơn nữa do điều kiện sống và làm việc
của các em có sự tiếp xúc thường xuyên với người dùng ma tuý. Đây
không phải là thái độ phản đối tích cực, nếu anh thờ ơ không cảm thấy gì
khi biết người thân sử dụng ma tuý thì có hai khả năng, hoặc là không có
tình cảm gắn bó với người thân, hoặc không có thái độ gì với việc dùng
ma tuý. Kết quả được phản ánh trong bảng sau:
TT khi có người thân dùng ma tuý
Trẻ lang thang (n=196)
Tần số Tần suất
Buồn khó chịu khi không đồng tình 150 76,5
Bình thường không cảm thấy gì 40 20,4
Đồng tình 6 3,1
*Xúc cảm trước việc buôn bán sử dụng ma tuý
Để tìm hiểu xúc cảm của trẻ lang thang trước các tác động bị lôi
cuốn do ma tuý thì câu hỏi đặt ra là:
Hỏi: Theo em, thì xúc cảm của trẻ lang thang trước các tác động bị
lôi cuốn của các loại ma tuý được bộc lộ như thế nào?
Trước tác động của các loại ma tuý
NHóm trẻ lang thang (n=196)
Tần số Tần suất
Đôi khi muốn dùng thử trước sự lôi
kéo của bạn bè

30 15,3
Không có gì tai hại hơn là dính tới ma
tuý và sử dụng ma tuý
106 54,1
Căm ghét những người sản xuất ma
tuý
37 18,87
Căn ghét người vận chuyển buôn bán
và lôi kéo người sử dụng ma tuý
23 11,73
Đa số các em đều có cảm xúc căm ghét những người sản xuất và
buôn bán, vận chuyển chất ma tuý. Các em đều nhận thức được sự tác
hại khi dính dáng tới ma tuý. Điều này cũng phù hợp với đặc điểm tâm lý
thích tự do, tò mò, muốn khẳng định mình của các em.

×