Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

những thành tựu và hạn chế về văn hoá xã hội ở việt nam từ năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.46 MB, 43 trang )

Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo
Trường ĐHSP.TPHCM
Khoa: Lòch Sử
BÀI TIỂU LUẬN
Môn: Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
Đề tài:
Những thành tựu và hạn chế về văn hoá xã
hội ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
GVHD: Nguyễn Cảnh Huệ
SVTH:Tổ 1 lớp Sử 2A
Năm học: 2007- 2008
TP.HCM, ngày 25 tháng 12 năm 2007
2
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
Nhóm sinh viên thực hiện
Tổ 1 lớp Sử 2A
1. Hà Xuân Hoàng
2. Điểu Thò Kim Hằng
3. Nguyễn Thò Lê nh
4. Đỗ Văn Chính
5. Phan Nguyễn Phương Châu
6. Huỳnh Thò Kim Dung
7. Vi Thò Bích
8. Lê Thò Hậu
9. Trần Mai Huyền
10. Bùi Thu Hằng
3
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
Mục lục
A. Lời mở đầu 5


B. Nội dung 6
Tài liệu tham khảo 43
4
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
A.
Lời mở đầu
Lời mở đầu
Đã 33 năm trôi qua kể từ đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước hoàn thành
công cuộc thống nhất, bước vào tời kỳ xây dựng và phát triển. Từ năm 1975 đến
năm 1985 nền kinh tế đất nước lâm vào tình trạng trì trệ , yếu kém do những hệ quả
của cơ chế quan liêu, bao cấp. Những tư tưởng quan liêu dường như đã in sâu, bám
rễ vào suy nghó của đại bộ phận cán bộ, công chức nhà nước, cũng như cung cách
làm ăn của mỗi người dân. Mô hình kinh tế cũ với đặc trưng là cơ chế kế hoạch hoá
tập trung quan liêu bao cấp, những nhược điểm đó đã trở thành sức cản lớn đối với
sự phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến khủng hoảng kinh tế- xã hội sâu sắc. Đời sống
nhân dân cực khổ với chế độ tem phiếu. Vì vậy tình hình văn hoá xã hội cũng phần
nào bò xuống cấp.
Trước tình hình đất nước phải đứng trước những khó khăn ngày càng ngay
ngắt, phức tạp, đã đặt ra một yêu cầu khách quan có ý nghóa sống còn đối với sự
nghiệp cách mạng. Đó là phải tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ, phải đổi mới tư duy
mà trước hết là trong lónh vực kinh tế, từ đó tạo ra bước phát triển trong lónh vực văn
hoá xã hội. Vì văn hoá- xã hội cũng là một trong những mặt không thể tách rời của
đời sống người dân, của sự phát triển của đất nước. Song song với sự phát triển kinh
tế trình độ văn hoá xã hội phát triển sẽ phản ánh trình độ phát triển chung của một
quốc gia.
Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam (12/1986) đã mở đầu cho công
cuộc đổi mới đất nước ở Việt Nam. Với sự chuyển đổi cơ chế quản lí đất nước từ cơ
chế tập chung quan liêu bao cấp sang cơ chế thò trường theo đònh hướng xã hội chủ
nghóa có sự quản lí của nhà nước. Đường lối đổi mới của đại hội Đảng lần VI đã
mang đến cho đất nước ta một nguồn sức mạnh to lớn để tiến lên theo đònh hướng

xã hội chủ nghóa.
Công cuộc đổi mới đã đưa nước ta thoát khỏi tình trạng trì trệ khủng hoảng,
thu hẹp khoảng cách so với các nước khác trên thế giới. Bên cạnh những thành tựu
mà chúng ta đã đạt được thi vẫn còn tồn tại một số hạn chế.
Trong phạm vi của bài viết này nhóm chúng tôi xin đề cập đến những thành
tựu và hạn chế trong lónh vực văn hoá- xã hội của Việt Nam kể từ sau công cuộc đổi
mới đát nước (1986) với mong muốn rằng sau khi nhìn lại một chặng đường mà
Đảng và nhân dân ta đã trải qua, chúng ta sẽ thấy được những thành quả để tự hào
với bạn bè năm châu, đồng thời cũng để khắc phục những hạn chế, thiếu xót từ đó
đúc kết lại những kinh nghiệm cho công cuộc phát triển kinh tế, văn hoá- xã hội của
đất nước trong tương lai.
5
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
B.
Nội dung
Nội dung
I.
I.
về đời sống vật chất:
về đời sống vật chất:
1. Thành tựu
Từ cuối năm 1988 trở đi, vấn đề lương thực xét cân đối chung trên phạm vi
cả nước đã được giả quyết tốt hơn. Thò trường thực phẩm dồi dào, nhiều món ăn mới
lạ được chế biến, các loại thực phẩm ngon ăn liền được chế biến ngày càng phong
phú, đa dạng đáp ứng nhu cầu của người dân…. Nhu cầu mặc được đáp ứng khá hơn.
Hiện nay có nhiều kiểu dáng, chất liệu đáp ứng được thò hiếu người tiêu dùng. Nhà
ở của bộ phận cư dân ở thành thò và nông thôn được cải thiện. Nhiều ngôi nhà mới
khang trang với nhiều kiểu dáng được xây lên ngày một nhiều. Tiện nghi sinh hoạt
trong nhiều gia đình được sắm sửa ngày càng nhiều. Việc đi lại của nhân dân dễ
dàng hơn. Nhiều tuyến đường được xây dựng, đường liên thôn được mở rộng. Hệ

thống điện được kéo về tới nhiều thôn ấp ở vùng sâu, vùng xa. Thông tin liên lạc,
bưu chính viễn thông ngày càng phát triển , nhiều loại hình dòch vụ xuất hiện ngày
càng rầm rộ hơn (dòch vụ thẻ tín dụng, mua sắm qua mạng Internet v.v…). Nhiều
công trình văn hóa, nhiều tuyến đường được xây dựng (ủy ban nhân dân thành phố
Hà Nội đã phê duyệt “chỉ giới đỏ” xây dựng tuyến đường với tổng chiều dàøi khoảng
2700m, chạy qua đòa bàn các xã Ngọc Hồi, Vónh Quỳnh, Đại ng thuộc Thanh Trì
(Hà Nội). Tỉnh Hải Dương đang triển khai thực hiện lộ trình từ năm 2007 đến năm
2025, đầu tư trên 1.270 tỉ đồng nhằm tu bổ, tôn tạo, khảo cổ và khôi phục di sản;
xây các công trình tiện ích, hạ tầng thiết yếu cho khu di tích Côn Sơn- Kiếp Bạc.
Quần thể di tích lòch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh Côn Sơn-Kiếp Bạc là đại
bản doanh và phòng tuyến quan trọng của nhà Trần gắn liền với chiến thắng Vạn
Kiếp và chiến thắng Bạch Đằng trong kháng chiến chống quân Nguyên Mông; là
nơi đòa linh nhân kiệt, hội tụ các danh nhân của nhiều thời đại như Hưng Đạo Vương
Trần Quốc Tuấn, Trần Nguyên Đáng- tể tướng, nhà thơ nhà lòch pháp thời nhà Trần;
Nguyễn Trãi- anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới).
2. Hạn chế:
Tuy đã đạt được những thành tựu nhất đònh nhưng nhìn chung trong lónh vực
này chúng ta vẫn còn có những mặt hạn chế nhất đònh.
Kết cấu hạ tầng còn yếu kém, xã hội vẫn còn lạc hậu. Hệ thống đường bộ
chưa hoàn chỉnh, chất lượng thấp, nhiều nơi còn bò tắt nghẽn; chưa đảm bảo giao
thông thông suốt. các thành phố lớn vào giờ cao điểm thường xuyên xảy ra nạn
kẹt xe gây đau đầu đối với ngươiø lãnh đạo cũng như chính quyền đòa phương. Hệ
thống đường bộ chật hẹp cộng với ý thức kém của người dân trong việc lưu thông,
6
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
đó là một nguyên nhân vẫn chưa có biện pháp khắc phục triệt để. Tại nạn giao
thông xảy ra nhiều. Nước ta thiệt hại khoảng 850 triệu đô la vì tai nạn giao thông
mỗi năm, 40% tai nạn nghiêm trọng do thanh niên từ 14 đến 24 tuổi gây ra, số thanh
niên này chiếm 20% dân số của Việt Nam, 85% tai nạn giao thông liên quan đến
điều khiển xe máy. Việt Nam có tỉ lệ tử vong cao vì tai nạn giao thông, với 33

trường hợp tử vong mỗi ngày trung bình trong cả nước.
Nhiều tuyến đường trong mùa mưa ở các khu vực thường bò ngập lụt, nhất là
vùng ngoại ô thành phố HCM. Hệ thống cảng biển, đường sắt, hàng không còn bất
cập về năng lực vận chuyển, khả năng kho bãi, về thông tin quản lí, phí dòch vụ còn
cao.
Hệ thống thủy lợi chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nông nghiệp và nông
thôn, các hồ chứa nước ở khu vực miền trung, tây nguyên và miền núi chưa được
đầu tư hoàn chỉnh, chất lượng một số công trình thấp, hiệu quả sử dụng kém. Các
công trình thủy lợi tập trung nhiều cho sản xuất lúa, chưa phục vụ tốt cho phát triẻn
cây công nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Hệ thống thủy lợi ở đồng bằng sông cửu
long đầu tư thiếu đồng bộ, còn nhiều yếu kém, bất cập. Quản lí nguồn nước còn bò
buông lỏng.
Hệ thống điện vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về nguồn điện, lưới điện, chất
lượng, tỉ lệ tổn thất còn cao. Một số công trình điện không hoàn thành đúng kế
hoạch, gây thiếu điện trong thời gian cao điểm và khi có hạn hán nghiêm trọng.
Hạ tầng bưu chính viễn thông thiếu đồng bộ, chất lượng dòch vụ còn thấp; giá
dòch vụ còn cao, hoạt động dòch vụ-viễn thông ở vùng sâu vùng xa chưa đáp ứng
yêu cầu. Kết cấu hạ tầng đô thò phát triển chậm, chất lượng quy hoạch đô thò thấp.
Hệ thống cấp nước kém phát triển. Thiết bò xử lí nước lạc hậu, chất lượng nước kém,
quản lí đô thò kém. Hệ thống phân phối nước và nguồn nước nhiều nơi chưa được
đầu tư đồng bộ. Hệ thống xử lí chất thải sinh hoạt và chất thải công nghiệp vừa
thiếu vừa kém chất lượng, chưa ngăn chặn được tình trạng ô nhiễm môi trường ngày
càng trần trọng. Nhiều công trình trường học, cầu cống xây dựng xong vẫn chưa
được đưa vào sử dụng đã xảy ra tình trạng sụp, lún, sập (như vụ sập cầu Cần Thơ
vào ngày 25-9-2007). Nhiều hạn chế trên gây ra những tổn thất và hậu quả nghiêm
trọng về người và của.
II.
II.
về văn hóa tinh
về văn hóa tinh

thần.
thần.
1. Thành tựu
Ngày 16.8.1988 BCH TW Đảng ban hành nghò quyết Hội Nghò lần 5 khóa
VIII về xây dựng và phát triển “Văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc”, nghò quyết nêu ra năm quan điểm chỉ đạo, 10 nhiệm vụ và 4 gi pháp thực
hiện trong đó có biện pháp “phát động phong trào xây dựng đời sống văn hóa”, bao
gồm các phong trào hiện có như: người tốt việc tốt, uốn nước nhớ nguồn, đền ơn đáp
7
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
nghóa, xóa đói giảm nghèo, xây dựng gia đình văn hóa, toàn dân xây dựng đòi sống
mới ở khu dân cư…. Phong trào thể hiện sự kế tục của các phong trào yêu nước trước
đây của cha ông ta.
Từ khi đất nước đổi mới, các lónh vực đời sống xã hội có những chuyển biến
sâu sắc, tích cực. Đời sống kinh tế của nhân dân được nâng lên một bước đáng kể.
Đời sống văn hóa tinh thần cũng có điều kiện mở rộng và đựơc đáp ứng một ngày
tốt hơn. Đặc biệt sự xuất hiện các phương tiện thông tin thì văn hóa tinh thần ngày
càng đa dạng phong phú làm cho người dân được tiếp xúc nhiều với các loại hình,
nhiều loại hình văn hóa.
Công tác xây dựng gia đình văn hóa được xúc tiến từ năm 1960, nhưng có
bước phát triển rõ rệt kể từ năm 1986. thời kì đổi mới, Ban chỉ đạo nếp sống văn
minh Trung ương đã họp chỉ đạo phong trào với tên gọi “Phong trào xây dựng gia
đình Văn hóa”. Tiêu cuẩn một gia đình văn hóa được đưa ra như sau: xây dựng no
ấm, hòa thuận, tiến bộ, hạnh phúc.Thực hiện tốt kế hoạch hóa gia đình.Đoàn kết
xây dựng, thực hiện tốt nghóa vụ công dân.
Thực hiện tốt nghóa vụ xây dựng gia đình văn hóa là góp phần thực hiện
cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa trong lónh vực gia đình, nhằm xóa bỏ những hủ tục
lạc hậu, xây dựng gia đình có nếp sống văn hóa để gia đình thực sự trở thành nguồn
lực cho sự phát triển của đất nước.
Là một chương trình hoạt động của Phong trào “Đền ơn, đáp nghóa, sau 10

năm, cuộc vận động xã, phường làm tốt công tác thương binh liệt só đã mang lại
hiệu quả thiết thực và rất thành công( 1996-2006). Tính đến thời điểm này, cả nước
đã có 9.708 xã, phường (tỷ lệ 89.1%) được UBND cấp tỉnh , thành phố công nhận là
tốt công tác thương binh, liệt só, thể hiện ở các mặt sau: các gia đình chính sách đều
đạt mức sống trung bình và khá, có nhà ở ổn đònh, được tặng nhà, sổ tiết kiệm tình
nghóa, con gia đình chính sách được học hành, được hocï nghề, tạo việc làm, các đối
tượng chính sách đều được thăm, khám bệnh và điều trò thường kì… Nhờ có chương
trình tình nghóa này, hơn 90% số gia đình chính sách trong cả nước có cuộc sống ổn
đònh, một số gia đình có mức sống khá và được cải thiện. Một số tỉnh, thành phố đã
đạt 100% số xã, phường được công nhận là Hà Tây, Bình Dương, Hải Phòng, Tiền
Giang, Trà Vinh…
Các chính sách giúp đỡ người khó khăn, các bà mẹ Việt Nam anh hùng cũng
được quan tâm một cách thoả đáng. Về việc phát động toàn dân xây dựng đời sống
văn hoá ở khu dân cư được triển khai rộng rãi đến tận làng xã, thôn xóm. Nhiều
khu phố văn hoá được công nhận, gia đình văn hoá ngày càng nhiều, mọi người dân
hăng hái hưởng ứng tham gia theo chủ trương chung của Đảng và chính sách nhất
quán chung của Nhà nước.
Về các mặt như lễ cưới, lễ tang, lễ hội: khi đất nước bước vào công cuộc đổi
mới, do chuyển sang nền kinh tế thò trường và mở rộng giao lưu quốc tế, bên cạnh
8
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
hình thức truyền thống của nước nhà, nhiều hình thức cuả phương Tây được tiếp thu
và biến cách phù hợp với điều kiện của đất nước ngày càng nhiều. (cưới hỏi được tổ
chức ở nhà hàng ngày càng nhiều, các lễ hội như Hallowen, Lễ giáng sinh được tổ
chức ngày càng sinh động hơn )
Về các lọai hình nghệ thuật văn hóa ngày càng phổ biến ở nhiều nơi, nhiều
đòa phương bao gồm các loại hình sau: hoạt động ca múa nhạc, sân khấu, thơ văn,
mỹ thuật, nhiếp ảnh, khai thác bảo tồn văn hóa cổ truyền, hoạt động lễ hội các trò
chơi dân gian truyền thống và hiện đại. Bên cạnh đó, nhiều loại hình nghệ thuật của
Phương tây cũng được du nhập vào Việt Nam. Làm cho văn hóa Việt Nam thêm

phong phú và đa dạng (thể loại nhạc Jazz, nhạc Hiphop, hình thức DJ… làm cho đòi
sống tinh thần của lớp trẻ được nâng lên một bước), các hình thức truyền thống và
hiện đại được kết hợp với nhau ngày càng sinh động.
Trong những năm gần đời sống văn hóa đã chuyển biến tích cực, biểu hiện ở
mặt bằng kinh tế và văn hóa của mỗi vùng, miền đã được nâng lên rõ rệt, cơ chế thò
trường tràn tới mọi nơi từ thành phố đến nông thôn, đồng bằng lên miền núi. Nó len
lỏi vào tất cả các lónh vực, mọi quan hệ xã hội, kể cả những mối quan hệ, những
lónh vực của đời sống tinh thần. Nhờ có cơ chế kinh tế mới, kinh tế xã hội phát triển,
nhiều gia đình có “của ăn của để” nên xuất hiện các nhu cầu mua sắm các phương
tiện thông tin, các sản phẩm văn hóa (từ chiếc xe gắn máy đơn giản nhất lên đến xe
hơi, từ chiếc Radio đến ti vi màn hình phẳng, sách báo, nhạc cụ băng đóa…), nhu cầu
về văn hóa tinh thần của người dân đang đi theo dòng chảy của thời công nghệ số.
Nhìn chung các hoạt động văn hóa xã hội phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu
(người dân vùng sâu vùng xa ít nhiều tiếp cận với những chiếc điện thoại di động
tiện ích, biết đến kênh truyền hình Cáp, phương tiện thông tin kỉ thuật số…). Khi
kinh tế phát triển, với sự xuất hiện ngày càng nhiều loại hình văn hóa, nhân dân
hưởng ứng những mặt tiến bộ một cách tích cực. Bộ mặt làng quê phố xá được ngày
càng được khởi sắc, các công trình kiến trúc được xây dựng đẹp đẽ khang trang.
Trong đó có các công trình văn hóa, Việt Nam chúng ta hiện nay đang có một nền
văn hóa có vò trí khá nổi bật so với thế giới và khu vực. Hiện nay một số di tích
danh lam thắng cảnh, loại hình văn hoá ở Việt nam đã được UNESCO công nhận là
di sản thiên nhiên thế giới, bao gồm: Kinh đô Huế, Vònh Hạ Long, khu di tích Mỹ
Sơn, Phố cổ Hội an, động Phong Nha- Kẻ Bàng, Nhã nhạc cung đình Huế, không
gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
Do kinh tế phát triển, làm thúc đẩy hoạt động văn hóa xã hội, nên tổ chức
hoạt động văn hóa nghệ thuật có nhiều thuận lợi. Đa số quần chúng đồng tình ủng
hộ và hăng hái đóng góp cả tinh thần và vật chất để xây dựng phong trào. Nhiều di
sản văn hóa nghệ thuật cổ truyền có dòp được phát huy đi vào đời sống thường nhật
của người dân. Rừng hoa văn hóa nghệ thuật dân gian mở rộng muôn màu. Văn hóa
9

SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
nghệ thuật dân tộc và hiện đại hòa nhòp thúc đẩy nhau phát triển ( tuồng, chèo, ca
trù, cải lương, múa rối nước…) ngày càng được đề cao và quan tâm phát triển.
Nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa: liên hoan, hội diễn, kỉ niệm, hội hè, gặp
mặt, du lòch, thăm viếng… liên tục và rầm rộ mở ra (các lễ tổ chức trao giải thưởng,
tôn vinh nghệ só, các nhà doanh nghiệp trẻ. Ví dụ: giải Trần Hữu Trang, giải bông
lúa vàng, cánh diều vàng, các buổi triển lãm tranh ảnh gây quỹ cho trẻ em nghèo,
người gặp hoàn cảnh khó khăn trong xã hội…). Lễ hội truyền thống được mở rộng
nhanh chóng. Nhiều công trình và vật phẩm văn hóa do dân ở cơ sở tự đóng góp
công sức làm ra cho mình, giảm bớt phần đầu tư của chính quyền đòa phương.
Nhìn lại xuyên suốt chiều dài lòch sử, nếu trước kia, “đề cưong văn hóa”
(1943), với phương trâm “dân tộc- khoa học- đại chúng”, xác hợp với yêu cầu giai
đoạn đất nước luc bấy giờ (chống lại sự thoái mạ dân tộc, phi nhân bản, phi khoa
học, không quan tâm đến nhu cầu văn hóa của quần chúng và giật lùi bước tiến hóa
của lòch sử…). Thì ở giai đoạn lòch sử hôm nay Đảng ta đề cao một nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc với mục tiêu chung : “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh”. Đó là cơ sở cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ và
các giá trò tinh thần trong thời kì mới.
Khi đất nước bắt đầu thoát khỏi tình trạng đói nghèo, lạc hậu và bước vào
hàng ngũ các quốc gia đang phát triển. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của một quốc giaphấn đấu theo lí tưởng xã hội chủ nghóa đó là một nền văn hóa
tự đổi mới, tự hòan thiện và không ngừng vươn lên, vừa nhòp nhàng với đònh hướng
xã hội chủ nghóa vừa phù hợp với bước đi của thời đại đang tiến vào ngưỡng cửa của
văn minh trí tuệ. Khẳng đònh giá trò văn hóa tinh thần dân tộc là vấn đề vừa lâu dài
vừa mang tính thời sự khi ta đặt nó trong bối cảnh thời đại va đất nước hiện nay. Đó
cũng là những mặt cần quan tâm trước tiên trong việc bảo tồn văn hóa dân tộc trước
xu thế toàn cầu hóa.
Việt nam đã chuẩn bò đối mặt với tòan cầu hóa bằng sự tăng cường nội lực và
có những bước đi thích hợp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Việt nam đã tham gia hiệp hội các nước Đông nam Á ( Asean), tham gia diễn đàn

hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (Apec)để liên kết các giá trò khu vực,tham
gia nhiều tổ chức quốc tế nhằm mở rộng cánh cửa hội nhập và giao lưu trên nhiều
lónh vực, đồng thời có một chiến lược giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
các giá trò văn hóa tinh thần và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Bảo vệ môi
trường văn hóa xã hội.
Tôn giáo là một lónh vực đời sống tinh thần quan trọng của người dân.Ngày
24-5-2005, Đại diện Phái đoàn Việt Nam tại LHQ Phạm Hải Anh phát biểu diễn
đàm lần thứ tư tại LHQ về ngừơi bản đòa đã khẳng đònh: Việt Nam luôn theo đuổi
chính sách công bằng, đoàn kết và trương tợ lẫn nhau giữa các dân tộc nhằm từng
bước cải thiện đời sống vật chất cũng như tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.
10
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
Chính sách nhất quán này ngăn cấm bất cứ hành vi nào phân biệt đối xử hay chia rẽ
giữa các dân tộc; đồng thời, bảo tồn bản sắc văn hóa và truyền thống của tất cả các
dân tộc… Ông Phạm Hải Anh đã khẳng đònh : quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở
Việt Nam được bảo đảm bằng Hiến pháp và đã được thể hiện rõ trong Pháp lệnh tín
ngưỡng tôn giáo của nước cộng hòa xã hội chủ nghiã Việt nam công bố ngày
29.6.2004. ông cũng khẵng đònh: quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không thể bò lợi
dụng để xâm phạm tới các quyền và sự tụ do của người khác hoặc kích đông bạo lực
và gây chia rẽ giữa càc dân tộc và tôn giáo. Nhờ có chính sách đúng đắn, minh bạch
của Đảng và Nhà nước đối với tín ngưỡng, tôn giáo nên các tổ chức tôn giáo, các
chức sắc, tín đồ trong cả nước yên tâm hành đạo, sinh hoạt tôn giáo bình thường
theo Hiến chương, đường hướng hành đạo của các giào hội và theo quy đònh của
Pháp luật. Đội ngũ chức sắc, nhà tu hành được tăng cường; các cơ sở thờ tự được xây
dựng và tu bổ ngày càng khang trang, đẹp đẽ hơn, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn
giáo của tín đồ. Trong 2 năm 2003, 2004 , cả nước có 590 cơ sở thờ tự được xây
mới, xây dựng lại và gần 1.000 cơ sở thờ tự được tu bổ, sửa chữa. Giáo hội Phật giáo
Việt Nam đang xây dựng Học viện Phật giáo trên diện tích hơn 10.000m
2
tại xã

Phù Ninh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Tháng 3 năm 2007, Thiền viện Vạn Hạnh ở Đà
Lạt( Lâm Đồng) đã khánh thành tượng Phật thích Ca được xem là lớn nhất Việt
Nam với chiều cao 24 m, đường kính đài sen rộng 20m, sau 3 năm xây dựng.
Cũng trong 2 năm 2003 và năm
2004, cả nước có 2.821 chức sắc tôn giáo
được phong chức, bổ nhiệm; 889 trường
hợp thuyên chuyển, 9.883 người đang học
ở các trường đào tạo của các tôn giáo và
có 5.417 người tốt nghiệp. Từ năm 2003
đến quý I- 2005 , Nhà xuất bản tôn giáo
đã xuất bản 913 đầu sách, 4.413.000 cuốn
kinh sách, trong đó Phật giáo có 659 đầu
sách với 1.831 ngàn bản; công giáo :165
đầu sách với 1.237 ngàn bản; Phật giáo
Hòa hảo có 25 đầu sách với 333 ngàn bản; Cao Đài: có 5 đầu sách với 18 ngàn bản…
những hoạt động tín ngưỡng tôn giáo, sống động và phong phú khắp nơi trong cả
nước.
2. Hạn chế:
Bên cạnh những mặt tích cực, hoạt động văn hoá tinh thần của nước ta cũng
có những mặt hạn chế và tiêu cực
Việc chỉ đạo, quản lí trên một số lónh vực văn hoá, xã hội còn buông lỏng.
Nhiều nơi còn phát sinh lối sống thực dụng, trục lợi, sùng bái nước ngoài, coi thường
11
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
những giá trò đạo lý và giá trò văn hoá của dân tộc, tình nghóa cộng đồng mà biểu
hiện rất rõ trong tiệc cứơi, lễ tang, lễ hội. Nhiều bộ phận quan chức có quyền tổ
chức đám cưới, đám tang linh đình. Nhiều hủ tục đã được phục hồi và hình thành
thêm nhiều hủ tục mới, cái lạ thiếu sự phê phán, chọn lọc. Những hiện tượng đó đã
ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần
của người dân, là thách thức mới trong việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong xu

thế toàn cầu hoá.
Bên cạnh những thông tin tích cực cũng có những thông tin xấu, các ấn phẩm
ngoài luồng thực dụng, đồi tr không phù hợp với truyền thống văn hoá, thuần
phong mỹ tục, quan điểm thẩm mỹ, đạo đức dân tộc. Kinh tế ngày một phát triển đã
tác động đến các mối quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ gia đình, quan hệ giữa ông
bà cha mẹ và con cái bò phá vỡ, nhiều người xem đồng tiền hơn tình nghóa chân
thành. Đạo đức nhân phẩm con người bò suy đồi, băng hoại, đặc biệt là lớp công
chức, các bạn trẻ. Lối sống buông thả ngày càng tràn lan gây ảnh hưởng xấu và
nghiệm trọng. Đặc biệt trong năm 2007, xcandan về nữ diễn viên trẻ tuổi của Nhật
kí Vàng anh phần nào thất tỉnh các bạn trẻ về tình bạn, tình yêu lối sống theo công
nghệ số, kỉ thuật số đã làm cho tính nhân văn bò xói mòn phần nào. Các bậc cha mẹ
ngày càng khó khăn hơn trong việc quản lý giáo dục con cái. Hoàng Thuỳ linh chắc
có lẽ đã không phải khốn khổ chỉ vì một “bằng chứng” tình yêu làm chấn động cả
dư luận nếu không mắc phải sai lầm. Phạm văn Quyến từ một đứa trẻ chăn trâu trở
thành một ngôi sao với thu nhập lớn, lại thiếu sự quản lý chăm sóc đúng cách từ
người thân đã khiến cho Quyến trượt dài trong vinh quang và tiền bạc. Nổi tiếng
sớm, bước vào guồng máy kiếm tiền đặt những người trẻ tuổi vào một con đường
đua khốc liệt, có gièm pha, có chào mời, có thủ đoạn. Họ chưa kòp có những kinh
nghiệm sống mà phải bước ra đời đầy áp lực từ dư luận.
Do bò quy luật lợi nhuận chi phối nên sản phẩm văn hoá chòu sự ràng buộc
của khuôn khổ hàng hoá làm tăng nhanh khoảng cách đời sống văn hoá ở nông
thôn, miền núi với đô thò, thò xam đặc biệt là thành phố. Một số loại hình văn hoá
không thích ứng đựơc quan hệ thò trừơng, bò đình đốn, xuống cấp ( Hãng phim nhà
nước ). lợi nhuận cũng khuyến khích những thò hiếu thấp kém, độc hại cho sự hình
thành và phát triển nhân cách.
Thò trường văn hoá phát triển ồ ạt vì sự chi phối của lợi nhuận. Tình trạng lộn
xộn trong văn hoá xã hội (phim ảnh, băng đóa lậu )
Một số loại hình nghệ thuật bò biến dạng, trình trạng ca só mọc lên như nấm,
mâu thuẫn với bầu sô, tình trạng hát nhép của các ca só, nghệ só gây nên chên dở
khóc, dở cười, gây mất lòng tin nơi khán thính giả….

Ngoài ra, sự cạnh tranh trong kinh tế đã nảy sinh những tiêu cực trong đời
sống văn hoá tinh thần của toàn xã hội làm ảnh hưởng đến sự phát triển của văn
hóa. Sự phân hoá giàu nghèo trong mọi giai tầng xã hội và trong bản thân quần
12
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
chúng tới việc hình thành những lối sống không lành mạnh (hưởng thụ, vương giả,
xa hoa, ích kỉ, vụ lợi, bon chen, lừa đảo…). Cũng như làm sống lại những hủ tục, tư
tưởng cục bộ, đòa phương, công thần, trọng phú, khinh bần, phú quý sinh lễ nghóa và
nhiều hành vi phạm pháp (móc nối tham nhũng, hối lộ, lợi dụng chức quyền )
Về tôn giáo còn có nhiều phần tử, chức sắc lợi dụng niềm tin tôn giáo của
nhân dân nhằm bôi xấu Đảng, gây mất đoàn kết trong nhân dân, niềm tin của Đảng
đối với nhân dân bò lệch lạc, những phần tử phản cách mạng luôn dựa vào tôn giáo
nhằm công kích Đảng ta , phá rối nhà nước XHCH, đòi thành lập nàh nước riêng
Như vậy cùng với những thành tựu về văn hoá tinh thần, Việt Nam ta đang
đứng trước những thách thức, lớp trẻ rất ưa chuộng phong cách Phương Tây và thờ ơ
với những loại hình văn hoá truyền thống của dân tộc. Ngày ngày trên các phương
tiện truyền thông luôn luôn truyền tải các tin tức , hình ảnh, ấn phẩm không phù hợp
với tryuền thống văn hoá dân tộc, lối sống thực dụng, tư tưởng tiêu xài, sự hưởng thụ
tình dục theo kiểu Phương Tây tạo ra nhiều cái phản văn hoá trên hệ thống giá trò
của chúng ta. Tuy nhiên không phải trong quá khứ đều trở thành truyền thống. Bản
sắc dân tộc trong đó có văn hoá tinh thần lá cái chắt lọc từ tinh hoa truyền thống và
nó cũng vận đông như bất kì một hiện tượng văn hoá nào. Văn hoá tinh thần là cái
cô động nhất, tinh tuý nhất trong mọi cái tinh tuý nhất của dân tộc, lá cái không thể
lẫn lộn được với cái khác trong toàn bộ giá trò văn hoá.
3. Thành tựu về hoạt động thể dục thể thao:
việc chuẩn bò và tổ chức thành công Đại hội thể thao Đông Nam lần thứ
22( SEA Games 22) và Đại hội thể thao người khuyết tật Đông Nam Á (Sea games
Pasa Games 22), lần đầu tiên được tổ chức ở nước ta là một thành tựu có ý nghóa
nhiều mặt. Đây là một chương trình hoạt động lớn, không những là nổ lực của ngành
thể dục, thể thao mà còn thu hút các ngành các đòa phương tham gia. Chương trình

này được xúc tiến khẩn trương và bảo đảm chất lượng về mọi mặt, cả về xây dựng
cơ sở vật chất, về công tác tổ chức và về chuẩn bò đội ngũ vận động viên tham gia
thi đấu.
Thành công rực rỡ của hai đại hội thể thao này, chứng tỏ đất nước ta, nhân
dân ta có một tiềm năng thể thao hùng hậu, xứng đáng là một trong những cường
quốc thể thao khu vực, đủ sức mạnh tham gia các cuộc đấu thể thao lớn của châu á
và thế giới. Thành công này cũng chứng tỏ trình độ tổ chức, quản lý và điều hành
của nhà nước ta, của các ngành, các cấp đối với một đại hội lớn của khu vực. Cũng
qua hai đại hội này, nhân dân ta lại bày tỏ lòng thiện chí, mến khách, và hữu nghò
với bè bạn, góp phần tích cực mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt với nhân dân các
nước trong khu vực và thế giới. Nhiều nhà phân tích cho rằng chúng ta có khả năng
tổ chức, điều hành tốt một giải thể thao lớn, như giải châu Á chẳng hạn.
13
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
Phong trào rèn luyện sức koẻ trong nhân dân cùng với việc đào tạo, bồi
dưỡng vận động viên thành tích cao, hình thành tổ chức thể thao chuyên nghiệp
trong một số bộ môn, nâng cao thành tích thi đấu đều có những tiến bộ mới.
Tuy vậy, trên lónh vực này, chúng ta còn nhiều vần đề cần tiếp tục giải
quyết, tiếp tục chuẩn bò tích cực cho các vận động viên tham gia các giải lớn ở khu
vực, châu Á và thế giới trong những năm tới.
Ngoài ra hoạt động thể dục- thể thao trong nhân dân cũng đựơc nâng lên một
cách rõ rệt. Nhiều người dân, đặc biệt là dân thành phố ý thức được ý nghóa quan
trọng của việc tập thể dục, nhiều loại hình tập thể dục được ra đời như: tập dưỡng
sinh, tập Yoga, … các loại hình như bơi lội, chạy điền kinh, cầu lông, bóng chuyền,
Karate, Yudo ngày càng được chú trọng phát triển, nhiều vận động viên đã đem về
cho quê nhà nhiều phần thưởng có giá trò cả về vật chất và tinh thần.
III.
III.
Vấn đề dân số và việc làm
Vấn đề dân số và việc làm

1. Số dân và sự gia tăng dân số
Nếu xét về diện tích nước ta đúng thứ 58 trên thế giới nhưng về dân số nước
ta lại đứng thứ 14. theo tổng điều tra số dân và nhà ở năm1999 dân số nước ta đã
lên đến 76,3 triệu người, theo tình hình diễn biến như hiện nay thì một số chuyên
gia đã dự báo rằng đến năm 2010 dân số nước ta sẽ là 86,3 triệu người, và dến năm
2020 sẽ tăng lên đến 95,8 triệu người.
Cũng như một số nước trên thế giới,
hiện tượng bùng nổ dân số ở nước ta diễn ra từ
những năm 50 của thế kỷ XX. Từ năm 1990
đến nay tỷ lệ gia tăng dân số có giảm đi và
dần di vào thế ổn đònh, tỉ lệ sinh tương đối
thấp và đang giảm chậm. Tỉ lệ sinh cũng ổn
đònh ở mức tuong đối thấp. Hiện nay sự gia
tăng dân số ở nước ta đã thấp hơn hơn mức
trung bình của thế giới, khẳng đònh được
những thành tựu lớn lao của công tác dân số kế hoạch hoá gia đình.
Chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình được thực hiện ở nước ta từ năm
1961 được chia ra làm bốn giai đoạn khác nhau:
Giai đoạn 1: từ 1961 kết quả của chương trình này dường như không để lại
dấu ấn gì đáng kể.
Giai đoạn 2: từ năm 1971 với các giải pháp cơ bản là cung cấp các dòch vụ kế
hoạch hoá gia đình, tuyên truyền vận động và có chế độ khuyến khích phụ nữ đặt
vòng.
Giai đoạn 3: từ năm 1984 với quyết đònh thành lập uỷ ban quốc gia dân số và
sinh đẻ có kế hoạch.
14
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
Giai đoạn 4: bắt đầu từ năm 1989 khi uỷ ban dân số kế hoạch hoá gia đình
tách khỏi cơ quan bộ y tế và hoạt động như một cơ quan ngang bộ thẩm quyền, độc
lập trong việc xây dựng những chính sách.

Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình là một bộ phận quan trọng của chiến
lược phát triển kinh tế của đất nước, là một trong những vấn đề hàng đầu của nước
ta, là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình
và của toàn xã hội.
Chiến lược dân số- kế hoạch hoá gia đình tính đến năm 2000 đã được thực
hiện với những đặc điểm sau:
Đòa bàn trọng điểm là vùng nông thôn, nhất là khu vực dân cư có mật độ dân
cư và mức sống cao, chủ yếu tập chung hoạt động ở những xóm làng.
Đối tượng chủ yếu là những cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, nhất là
những cặp vợ chồng có từ hai con trở lên.
Lực lượng nòng cốt thực hiện mục tiêu chiến lược là mạng lưới tổ chức hoạt
động dân số kế hoạch hoá gia đình.
Chiến lược dân số kế hoạch hoá gia đình tính đến năm 2000 được triển khai
trên cơ sở thực hiện đồng bộ những giải pháp và cụ thể hoá bằng chương trình mục
tiêu của từng thời kỳ, tổ chức thực hiện giám sát và đánh giá theo phương thức hợp
đồng trách nhiệm.
Ở tất cả 64 tỉnh thành đều thành lập các uỷ ban dân số kế hoạch hoá gia
đình.
Sau gần bốn mươi năm thực hiện công tác dân số kế hoạch hoá gia đình
(1961- 2007), chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng mừng, được xã hội thừa
nhận và các tổ chức quốc tế đánh giá là chương trình được thực hiện có hiểu quả: số
con trung bình của một phụ nữ giảm từ 6 con trong những năm 60 của thế kỷ XIX
xuống còn 3,73 con vào năm 1992 và 2,69 con năm 1996. tỷ suất gia tăng dân số từ
3,93% năm 1960 xuống còn 2,4% năm 1992 và 1,88% năm 1996. mặc dù hàng năm
dân số nước ta vẫn tăng nhưng tốc độ gia tăng dân số đã giảm đi rõ rệt.
Trong khi ở nông thôn tổng tỷ suất sinh là 2,6 thì ở thành thò là 1,7 mức sinh
khá thấp ở Đồng Bằng Sông Hồng và Đồng bằng Sông Cửu Long. Công tác dân số
kế hoạch hoá thực hiện đạt được kết quả tốt, làm cho tổng tỷ suất sinh ở Đồng bằng
Sông Cửu Long, Đông Nam Bộ tương đối thấp.
Tuy nhiên những thành quả đã đạt được ở các đòa phương và những khu vực

khác nhau luôn có sự chênh lệch nhất đinh. Chúng ta sẽ thấy rõ điều nay qua bảng
thống kê sau:
15
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
Tỷ suất
sinh thô
0
/
00
Tổng tỷ
suất
sinh
Tỷ suất
chết sơ
sinh
0
/
00
Tỷ suất
chết thô
0
/
00
Gia tăng
tự nhiên
%
Cả nước 19,9 2,3 36,7 5,6 1,43
Thành thò 15,9 1,7 18,3 4,2 1,12
Nông thôn 21,2 2,6 41,0 6,0
ĐB Sông Hồng 16,2 2,0 26,5 5,1 1,11

Miền núi, TD phía Bắc
Đông Bắc 19,3 2,3 40,8 6,4 1,29
Tây Bắc 28,9 3,6 58,3 7,0 2,19
Bắc Trung Bộ 21,4 2,8 37,0 6,7 1,47
DH Nam Trung Bộ 21,0 2,5 4,06 6,4 1,46
Tây Nguyên 29,8 3,9 64,4 8,7 2,11
Đông Nam Bộ 18,2 1,9 23,6 4,5 1,37
ĐB Sông Cửu Long 18,9 2,1 38,0 5,0 1,39
Tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/1999 (kết quả điều tra theo mẫu)
2. Nguồn lao động và việc sử dụng lao động, công
tác xoá đói giảm nghèo
Dân số nước ta có kết cấu trẻ số người trong độ tuổi lao dộng chiếm tỷ lệ cao
nên có một nguồn lao động rất dồi dào. Theo số liệu thống kê năm 1990 nước ta có
32,9 triệu lao động hoạt động ttrong tất cả các nghành kinh tế, và đến năm 1999 con
số này đã lên đến 37,7 triệu người, và hàng năm số lao động được bổ sung rất lớn,
ước tính hàng năm nước ta có thêm 1,1 triệu người bước vào độ tuổi lao động và tốc
độ gia tăng lao động hàng năm là 2,5%. Phần lớn lực lượng lao động ở nước ta hoạt
động kinh tế ở nông thôn, trong số 37,7 triệu lao động năm 1999 thi có tới 77,7%
hoạt động ở nông thôn, và chỉ có 22,3% ở thành thò.
Trình độ học vấn của lực lượng lao động ngày càng được nâng cao, hiên nay
có 31,9% lao đông đã tốt nghiệp THCS, 17,1% tốt nghiệp THPT, nhưng số lao đông
chưa tốt nghiệp tiểu học và không biết chữ vẫn còn chiếm tới 22,1%.
Theo kêt quả điều tra thực trạng lao động năm 1996 cả nước có 32,6% lực
lượng lao động đã tốt nghiệp cấp II, 13,44% tốt nghiệp cấp III, bên cạnh đó vẫn còn
khoảng 26,7% chưa tốt nghiệp cấp I, trong đó có tới 5,7% chưa biết chữ.
Có tới 87,7% số người thuộc lực lượng lao động không có chuyên môn kỹ
thuật, chỉ có 9,7% có trình độ công nhân kỹ thuật và trung học chuyên nghiệp, mới
chỉ có 2,4% có trình độ đại học và cao đẳng. Trong đó trình độ có trình độ chuyên
16
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học

môn kỹ thuật ở thành thò là 31,68% gấp tới 4 lần so với nông thôn; trình độ lao động
đại học cao đẳng và trên đại học là 8,32% gấp 9,2 lần so với nông thôn.
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và kó thuật, đời sống của
người dân từng bước được nâng cao.
Thu nhập bình quân đầu người từ 5,7 triệu đồng (năm 2000) lên 10 triệu
đồng (2007), tăng 12,1% năm và chỉ số phát triển con người được nâng lên. Thu
nhập bình quan đầu người của nước ta là 562 USD/người/năm.
Trong những năm từ 2001- 2005 đã tạo được việc làm cho 7,5 triệu lao động,
các thành phần kinh tế ngoài nhà nước thu hút gần 90% lực lượng lao động và tạo
được 90%việc làm mới. Xuất lao động và chuyên gia bằng 2,3 lần so với năm
trước. Năm 2005, thất nghiệp ở thành thò giảm xuống còn 5,3% và ở nông thôn thời
gian sử dụng lao động đạt 80,65%.
Ngoài ra khi đất nước có sự ổn đònh về chính trò, đặc biệt là từ giai đoạn 1995
đến nay, thanh niên Việt Nam tham gia xuất khẩu lao động ngày càng nhiều, điều
đó góp phần làm tăng thu nhập cho người dân.
Trong bài viết “kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội”
của Nguyễn Quốc Phẩm.
Đã hơn 20 năm, Việt Nam tiến hành đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn được đúc kết, đánh giá thành tựu, đúc kết kinh
nghiệm nhằm tiếp tục đẩy mạnh công tác đổi mới.
Một trong những vấn đề có ý nghóa quan trọng là kết hợp tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ và công bằng xã hội trong quá trình phát triển kinh tế theo đònh hướng
xã hội chủ nghóa ở nước ta.
Tại đại hội Đảng lần thứ XI lần đầu tiên Đảng đưa ra thuật ngữ “chính sách
xã hội”, đặt đúng vai trò của chính sách xã hội, “chính sách xã hội” bao gồm mọi
mặt của đời sống con người, điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục, văn hoá, các
quan hệ gia đình, giai cấp, dân tộc…
Hiểu theo nghóa rộng, quan niệm về chính sách xã hội của Đảng ta là một hệ
thống chính sách tác động đến con người, “nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố
con người và vì con người”. Cũng từ đấy chính sách xã hội được xác đònh trên nhiều

lónh vực cụ thể là: những chính sách bảo đảm việc làm đầy đủ hợp lí cho người lao
động và cải thiện việc làm cho người lao động: từ kết quả của phát triển kinh tế mà
nâng cao sinh hoạt về văn hoá vất và tinh thần cho nhân dân (các chính sách liên
quan đến nhu cầu đảm bảo, ăn ở, đi lại, khám và chữa bệnh, phát triển thể dục thể
thao, nâng cao mức hưởng thụ văn hoá cho người lao động…); giải quyết phù hợp với
tiền lương và thu nhập đối với người lao động; tổ chức bảo trợ xã hội bao gồm bảo
hiểm xã hội đối với người lao động trong và sau quá trình lao động, đối với người có
công với cách mạng, cứu trợ xã hội đối với gia đình có hoàn cảnh đặc biệt kho khăn,
trẻ mồ côi, người già cô đơn, tàn tật, những người mắc phải những căn bệnh hiểm
17
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
nghèo… thực hiện chính sách dân số, nâng cao trình độ dân trí, xoá mù chữ, phổ cập
tiểu học đang tiến tới phổ cập trung học cơ sở, phát triển giáo dục và đào tạo theo
hướng toàn diện, điều tiết các quan hệ xã hội giữa các giai cấp tầng lớp nhân dân,
các dân tộc, đòa phương và tôn giáo…
Từ quan niệm cơ bản “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển” thể hiện được
tính ưu việt của chế độ Xã hội chủ nghóa ở nước ta. Trong suốt hơn 20 năm qua,
Đảng và nhà nước ta đã vạch ra hàng loạt các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm
giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc (dạy nghề, đào tạo việc làm, xuất khẩu lao
động, phổ cập tiểu học, xoá đói giảm nghèo (chương trình 133), hỗ trợ các xã đặc
biệt khó khăn (chương trình 135), chính sách hỗ trợ giúp đỡ với những gia đình
chính sách có công với cách mạng… hàng loạt các văn bản luật và luật được thể chế
hoá để giaiû quyết các vấn đề xã hội; xây dựng luật lao động, luật giáo dục, pháp
lệnh nghóa vụ công ích, luật phòng chống ma tuý, luật di sản văn hoá , pháp lệnh về
các lónh vực y tế, thể dục thể thao, nghò đònh về việc đưa làm việc ở nước ngoài, cải
thiện tiền lương, thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế… nhờ vậy mà nước ta đã
đạt được những thành tựu quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội.
Trước hết là đời sống nhân dân được cải thiện một cách rõ rệt: thu nhập bình
quân đầu người của nước ta tăng từ 220 USD/người/năm trong đầu thập kỉ 90 thế kỷ

XX đã tăng lên 400 USD (năm 2000) tăng 1,8 lần, 483 USD/người/năm (2003) và
đã lên đến 580 USD/người/năm (2004), năm 2007 thu nhập bình quân đầu người đã
lên đến 10 triệu đồng/người/năm.
Theo đánh giá của WB Thì tỉ lệ hộ đói nghèo của Việt Nam giữa những năm
80 là 51% giảm xuống 3,7% cuối những năm 90 của thế kỷ XX, được xếp vào một
trong những nước có tỉ lệ hộ đói nghèo giảm mạnh. Còn theo chuẩn cua Việt Nam
thì tỉ lệ hộ đói nghèo của nước ta từ 30,1% năm 1992 xuống 11% năm 2000 và theo
tiêu chuẩn mới thì năm 2002 còn 17,2% đến năm 2004 giảm xuống còn 8,3%.
Về phía tổng ngân sách nhà nước, việc chi tiêu cho ngân sách quốc gia liên
quan đến mục tiêu xoá đói giảm nghèo đã lên đến 21 tỷ đồng. Nguồn quỹ tín dụng
giúp cho người hộ nghèo vay vốn lãi suất thấp được mở rộng. Ngân hàng phục vụ
người nghèo đến cuối năm 1999 đã huy động được 4.078 tỷ đồng, tổng dư nợ đạt
8.503 tỷ đồng, đã cho 2.170.000 hộ vay vốn, bình quân mỗi hộ vay 1,56 triệu đồng.
Có hàng trăm chương trình dự án hơn 40 tỷ đồng giúp các hộ nghèo, xã nghèo,
huyện nghèo… Các chính sách trên đã giúp cho đời sống nhân dân và đồng bào vùng
sâu, vùng xa được cải thiện rất nhiều.
Theo đánh giá của Liên Hiệp Quốc thì Việt Nam đã giảm được ½ tỉ lệ đói
nghèo trong thập niên vừa qua. Nước ta đã xậy dựng được quỹ trợ cấp thường xuyên
và trở cấp đột xuất hàng năm có từ 1- 1,5 triệu người (gồm người già neo đơn, trẻ
mồ côi, người tàn tật, trẻ lang thang hoặc các gia đình bò thiên tai…) được cứu tế;
18
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
riêng năm 1999 và năm 2000 nhờ ngân quỹ cứu trợ đột xuất, hàng triệu hộ được cứu
trợ ở các tỉnh miền Trung và Nam Bộ.
Mức tiêu dùng bình quân tăng từ 2,6 triệu đồng/người/năm (1995) lên 4,3
triệu đồng/người/năm (2001). Việt Nam được coi là nước đạt chuẩn xoá mù chữ.
Đầu tư cho giáo dục trong tổng đầu tư ngân sách năm 2000 là 15% và năm
2003 là 16%. Tính đến hết năm 2003, có tới 19 tỉnh thành phố đạt tiêu chuẩn phổ
cập trung học cơ sở. Về y tế có tới 97,5% số xã có trạm y tế, trên 40% số trạm y tế
có bác só, có 80% số thôn bản có nhân viên y tế cộng đồng, có 95% số trẻ em dưới 5

tuổi được tiêm chủng mở rộng. Giảm nhanh tỉ lệ trẻ dưới 5 tuổi bò suy dinh dưỡng
(đến nay còn 34%). Năm 2006, tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh và trẻ dưới 5 tuổi ngang với
Thái Lan là nước có GDP cao hơn nước ta nhiều lần. Tuổi thọ trung bình tăng từ 66
tuổi năm 1989 lên 68 tuổi (1999), và 69 tuổi (2003). Tỉ lệ sinh giảm 0,8% trong khi
kế hoạch đặt ra là 0,6%. Tỷ lệ tăng dân số từ 2% đầu thập niên 90 xuống còn 1,32%
và năm 2002.
Từ năm 1996 đến nay, có hàng nghìn tỷ đồng của nhà nước và nhân dân
tham gia nhằm giải quyết việc làm. Tỉ lệ thất nghiệp giảm từ 9- 10% (1990) xuống
còn 6,5% (2000). Trong ba băm từ 2001 đến 2003, đã giải quyết việc làm cho 4,3
triệu người, trong đó nông nghiệp 2,6 triệu lao động, công nghiệp 90 vạn lao động
và dòch vụ khoảng 76 vạn lao động.
Năm 2004 đã tạo việc làm mới cho 1,5 triệu lao động đạt 103% kế hoạch đề
ra (riêng quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm đã giải quyết cho 3,5 vạn lao động. Chỉ số
phát triển con người (HDI) của Việt Nam tăng khá so với các nươcù nghèo và đang
phát triển. Theo báo các về phát triển của Liên Hiệp Quốc: năm 1997 HDI của Việt
Nam là 0,557 xếp thứ 121/174 nước điều tra, năm 1999 là 0,662 xếp thứ 110 năm
2000 xếp thứ 108/174 và năm 2001 xếp thứ 109 trong tổng số 175 nước điều tra,
năm 2003 xếp thứ 101/174 nước điều tra.
Với mức tăng trưởng kinh tế của năm tăng 6,9%, năm 2002 tăng 7,04% và
năm 2003 tăng 7,24%, năm 2004 tăng 7,6% và hầu hết các chỉ tiêu xã hội đều đạt
và vượt kế hoạch, cũng còn dễ nhận thấy một điều nữa là Việt Nam luôn kết hợp
tang trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay từ đầu và trong suốt quá
trình phát triển mọi mặt của đất nước.
Nguồn lao động có xu hướng chuyển sang hoạt động trong các nghành công
nghiệp và dòch vụ; và từ khu vực kinh tế nhà nước sang khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh.
Việc làm đang là một vấn đề kinh tế xã hội ở nước ta đặc biệt là khu vực
thành phố. Năm 1989 gần 1,8 triệu lao động không có việc làm, tỷ lệ không có việc
làm của cả nước là 5,8%, khu vực thành thò là 13,2%, nông thôn là 4,0%. Theo điều
tra mức sống ở các khu dân cư năm 1992- 1993 tỷ lệ chưa có việc làm trung bình

của cả nước là 7,4%, và có sự chênh lệch giữa các vùng. Tỷ lệ thiếu việc làm (hoạt
19
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
động kinh tế không thường xuyên) ở nông thôn là 46,4%, còn ở thành thò là
6,7%.Vấn đề nổi cộm lên là việc sử dụng lao động nữ và lao động không có chuyên
môn kó thuật
Như vậy ta thấy rằng bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong lónh vực
dân số và việc làm vẫn tồn tại những khó khăn và thách thức rất lớn trong đó nổi
cộm lên là vấn đề phân bố lại dân cư và lao động giữa các vùng để sử dụng hợp lí
hơn nguồn lực phát triển kinh tế xã hội của từng vùng, cũng như từng đòa phương
trong cả nước
Trước tình hình đó nhà nước ta một mặt có chính sách đầu tư để tạo thêm
việc làm, mặt khác khuyến khích nhân dân tự tạo thêm việc làm. Nhà nước có
‘chương trình xúc tiến việc làm quốc gia” cho các đòa phương các tổ chức quần
chúng vay vốn để mở các dự án nhỏ đồng thời có các hình thức đào tạo nghề cho
người lao động.
thành thò việc mở rộng nghành nghề với các thành phần kinh tế khác nhau,
đang mở ra phương hướng tạo thêm việc làm cho người lao động. Nhờ có được sự
thu hút của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ có thêm những khả năng tạo việc làm ở
các thành phố và những việc làm có thu nhập cao và ổn đònh.
3. Hạn chế:
Mặc dù mức phát triển dân số 15 năm trở lại đây đã giảm đi đáng kể nhưng
mỗi năm dân số vẫn tăng lên khoảng 1,2 triệu người. kết quả đạt được vẫn thấp hơn
so với yêu cầu. Năm 1996 dân số nước ta là 76,2 triệu người, nếu cứ theo tốc độ gia
tăng như hiện nay là 25%/năm và bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 3,7
con thì khoảng 35 năm nữa dân số sẽ tăng lên gấp đôi.
Tốc độ gia tăng dân số quá nhanh còn là nhân tố quan trọng cản trở tốc độ
phát triển kinh tế xã hội, gây khó khăn cho việc cải thiện đời sống, hạn chế cho việc
phát triển về các mặt trí tuệ, văn hoá và thể lực của giống nòi.
Việc giảm tỷ suất sinh ở nông thôn cũng chưa vững chắc. nông thôn vẫn

tồn tại một khoảng cách đáng kể giữa nhận thức về sức ép dân số và hành vi sinh đẻ
trên thực tế, và dường như nó còn có giằng co giữa các yếu tố truyền thống trước
các yếu tố về kinh tế và tác động của hoạt động dân số.
Tây nguyên và Tây Bắc có mức sinh cao nhất nước, tổng tỷ suất sinh cũng
khá cao ở duyên hải Nam Trung Bộ và Bắc Trung Bộ, những vùng này thường có
mức sống thấp; cái vòng luẩn quẩn của quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế xã
hội càng làm nhấn mạnh thêm tính cấp bách của việc thực hiện công tác dân số kế
hoạch hoá gia đình ở đây.
Dân số nước ta là dân số trẻ đặt ra những yêu cầu cấp bách về văn hoá, giáo
dục, y tế, giải quyết việc làm cho số công dân tương lai này. Hiện nay vấn đề nguồn
20
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
nhân lực đang rất gay gắt ở các tỉnh miền núi và trung du và vùng các dân tộc ít
người, nhất là nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Việt Nam là một nước đang phát triển, năng suất lao động xã hội còn thấp
nhưng tỉ lệ dân số sống phụ thuộc quá cao khoảng 64,7% (trong đó trẻ em khoảng
55,2%, người già khoảng 9,5% theo số liệu thống kê năm 1999) đã đè nặng lên vai
người lao động mặt khác làm cho phần lớn trẻ em sớm bước vào tuổi lao động, ảnh
hưởng lâu dài đến việc phát triển nguồn nhân lực.
Mặt khác dân số nước ta phân bố không đều gây kho khăn cho công tác dân
số kế hoạch hoá gia đình, cũng như là đào tạo giải quyết việc làm cho người lao
động và hàng loạt các vấn đề xã hôi khác như: nhà cửa, y tế, điện, đường, trường,
trạm, an ninh quốc phòng…
IV.
IV.
về giáo dục
về giáo dục
1975-1985 nền kinh tế nước ta theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Những nhược điểm của cơ chế này đã trở thành sức cản lớn đối với nền kinh tế, xã
hôi sâu sắc. Đời sống kinh tế của nhân dân chật vật với chế độ tem phiếu, bao cấp…

chính vì thế mà sự đầu tư cho giáo dục thời kì này bò hạn chế, hệ thống nhà trường
được xây dựng trước đó giờ đây đã xuống cấp. Bên cạnh đó kỉ cương nề nếp trong
trường học không được củng cố, chất lượng giáo dục vì thế cũng không đạt kết quả
như mong muốn.
Đại hội VI của ĐCSVN tháng 12 -1986 đã mở dầu cho công cuộc đổi
mới ở Việt Nam. Công cuộc đổi mới toàn diên đất nước cũng đã mở ra cho ngành
giáo duc Việt Nam một giai đoạn phát triển mới hứa hẹn những thay đổi, tạo nên
một bước tiến dài với những thành tựu lớn của ngành.
1. Giai Đoạn 1986-1995
a. Những Thành Tựu Đã Đạt Được:
♦ Về ngành học:
Giáo dục mầm non:
Mẫu giáo và nhà trẻ đã trở thành một khối thống nhất, có tác dụng hỗ trợ
nhau về mặt chăm sóc, nuôi dạy trẻ. Chất lượng chăm sóc nuôi dạy trẻ có những
chuyển biến tích cực nhất là về nội dung và phương pháp.
Về công tác nuôi dưỡng: tính từ 1993-1994 công tác phòng chống suy dinh
dưỡng đã được chỉ đạo thực hiện có hiệu quả. Các đòa phương đã có nhiều biện pháp
tích cực nhằm nâng cao chất lượng bữa ăn. Bên cạnh đó thực hiện công tác vận
động phụ huynh tăng mức dóng góp, triển khai rộng rãi hệ thống VAC trong nhà
trẻ, mẫu giáo. Có chế độ chăm sóc riêng cho trẻ suy dinh duõng. Tại các trường
điểm, các nhà trẻ tham gia chương trình lồng ghép có tiến hành kiểm tra sức khỏe
21
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
đònh kì, theo dõi cân đo, ghi biểu đồ phát triển, phân loại sức khỏe trẻ em,theo dõi
và xử lí kòp thời những cháu bò suy dinh dưỡng nặng.
Tính đến năm học 1990-1991, tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở những nơi đã làm
tốt chương trình chỉ còn 15-20%
Về công tác giáo dục: hầu hết giáo viên ở bậc mầm non đều nắm bắt
dược nôi dung chương trình và phương pháp giáo dục, cách tổ chức hoạt động
phương pháp giảng dạy đã khắc phục được tình trạng máy móc,chất lượng một số

môn học như âm nhạc,tạo hình,làm quen chữ cái đã tiến bộ hơn trước.
Giáo dục phổ thông:
Hoàn thành chương trình phát triển giáo dục 3 năm (1987-1990). Đến hết
năm học 1988-1989, bậc phổ thông đã hoàn thành bộ chương trình các môn học và
mục tiêu giáo dục cấp III .
Đã khắc phục được tình trạng
học sinh đến trường không đúng tuổi, nâng
cao tỉ lệ học sinh đến trường ở mức cao
hơn so với các giai đoạn trước.
Chú trọng đùng mức dến việc
bồi dưỡng học sinh khá, giỏi, nhờ vậy số
lương học sinh khá giỏi trên toàn quốc
tăng lên theo hàng năm. Số lượng học sinh
đạt chuẩn ở nhiều đòa phương được nâng
lên từ 30-40% đến 50-60%, số học sinh yếu kém được nhà trường quan tâm cử giáo
viên kèm cặp ,phụ đạo để các em tiến bộ hơn. Hàng năm việc đánh giá chất lượng
dạy và học, các kỳ thi được tổ chức nghiêm túc. Nhiều trường học trên toàn quốc đã
thực hiện tốt việc học tập với lao động, hướng nghiệp dạy nghề cho học sinh, duy trì
luyện tập thể dục thể thao, luyện tập quân sự… nhằm giáo dục cho học sinh một
cách toàn diện.
Trong giai đoạn 1991-1995
Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng giai đoạn này ngành giáo dục nước ta đã
có những chuyển biến tích cực hình thành những nhân tố mới trong tất cả các ngành
học, bậc học. Trong đó quy mô phát triển cùng vói tỷ lệ học sinh bỏ học cũng giảm
đáng kể chính là dấu hiệu chấm dứt sự suy thoái và chuyển sang một trạng thái phát
triển mới. đồng thời các trường cấp I được tách ra khỏi các trường PTCS để trở
thành bậc tiểu học. Việc chia cắt này tạo điều kiện thuận lợi cho chiến lược phổ
cập bậc tiểu học của toàn ngành được thực hiện một cách dễ dàng hơn, hiệu quả
hơn.
Đã thực hiện tốt chương trình xóa mù chữ

Giai đoạn này hệ thống các trường dạy nghề nhất là dạy nghề ngắn hạn phát
triển mạnh, do nhu cầu học nghề của học sinh tăng lên. Các hìmh thức giáo dục bổ
22
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
túc và tại chức đã được đa dạng bằng các hình thức giáo dục thường xuyên. Ngoài ra
các trường dân tộc nội trú được củng cố và phát triển nhanh.
Số lượng giáo viên học sinh tăng nhanh: 1994-1995 có 20122 trường,467453
giáo viên, 14203154 học sinh.
Quy mô giáo dục phát triển: hiện số học sinh THCS bỏ học giảm từ 16,1%
(1991-1992) xuống còn 2,52% (1993-1994). bậc THPT tỉ lệ này cũng đã giảm từ
14,4% xuống còn 4,41% .đó là kết quả đáng tự hào của toàn ngành giáo dục nói
chung và giáo dục phổ thông nói riêng.
Sự nghiệp giáo dục ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số có sự cố gắng vươn lên
và dạt những thành tựu to lớn góp phần đào tạo một đội ngũ đông đảo cán bộ người
dân tộc phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của đất nước cũng như trong các vùng dân
tộc. Tuy nhiên thực trạng giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số nhìn chung còn nhiều bất
cập.
Giáo dục chuyên nghiệp
Giáo dục trung học chuyên nghiệp:
Đã dào tạo củng cố một đội ngũ đông đảo cán bộ kinh tế- văn hoá- xã hội
hoạt động ở mọi lónh vực trên mọi miền đất nước. Họ đã đóng góp xứng đáng vào sự
nghiệp bảo vệ tổ quốc và phát triển kinh tế xã hội.
Đào tạo nghề
Trong giai đoạn này đào tạo nghề đã tiến một bước quan trọng:một mặt cùng
với trung học chuyên nghiệp tạo thành hệ thống giáo dục chuyên nghiệp, mặt khác
đã cùng với trung học chuyên ban, trung học cơ sở, trung học chuyên ngành tạo
thành bậc trung học mới. Ngoài ra ở một số đòa phương đã hình thành các trung tâm
dạy nghề được coi như là loại hình đào tạo nghề ngắn hạn trong bộ phận giáo dục
thường xuyên.
Nhằm xây dựng bậc trung học mới, đào tạo nghề đã và đang tổ chức biên

soạn những bộ môn kó năng hành nghề để vừa có thể dạy nghề cho học sinh phổ
thông, vừa có thể đào tạo ban đầu cho học sinh học nghề hay bồi dưỡng nâng cao.
Việc xây dựng những bộ môn kó năng hành nghề cũng như nghiên cứu bước đầu về
đào tạo năng lực thực hiện sẽ mở ra cho đào tạo nghề thích ứng với thò trường, tạo ra
nhiều hình thức đào tạo nghề linh hoạt và hiệu quả.
Giáo dục đại học
Thành tựu đạt được giai đoạn 1987-1990
Hàng năm số trường đại học cao đẳng trên toàn quốc đều tăng lên, đáp ứng
nhu cầu họ ngày càng cao của người học. Đào tạo đại học cao đẳng được đa dạng
hóa các loại hình như dài hạn, ngắn hạn, tập trung tại chức, chính quy, không chính
quy, đào tạo và bồi dưỡng, các hình thức đào tạo từ xa, tự học có hướng dẫn cũng
được đưa vào thí điểm và từng bước mở rộng.
Giai đoạn 1991-1995
23
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
Quy mô đào tạo trong giai đoạn này đã có bước phát triển mới so với những
giai đoạn trước đó, được thể hiện qua bảng số liệu thống kê
Năm học
Số
trường
Số cán
bộ GD
Số sinh
viên
Hệ dài
hạn tập
trung
Hệ
chuyên
tu

Hệ tại
chức
Hệ
khác
1975-1976 59 9642 92097 78637 3493 9967
1979-1980 79 16386 152327 124971 5831 51525
1984-1985 93 18717 124120 88921 7940 27259
1989-1990 102 20890 138566 93248 2479 38842 3997
1990-1991 105 20871 121570 94447 2945 14942 9236
1991-1992 105 20637 160196 95989 15800 12803
1992-1993 105 20456 204638 108323
1993-1994 104 20648 225274 118589 7320 68235 31120
1994-1995 96 21484 356316 136940 5940 96285 117145
Mạng lùi các trường cao đẳng, đại học rộng lớn
Hệ thống giáo duc, giai đoạn này bao gôm các trường đại học đa ngành, đa
lónh vực, đại học đa ngành và đại học chuyên ngành. Chính phủ quy đònh cụ thể cho
việc thành lập các trường dân lập
Giáo dục thường xuyên
Bổ túc văn hóa:
Chúng ta đã xây dựng đïc 172 trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện,
xã và 48 trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh, thành phố. Các trung tâm này
hoạt động hiệu quả và đóng góp tích cực trong việc phát triển nguồn nhân lực cho
đất nước
Công tác đào tạo và bồi dưỡng tại chức
Số lượng sinh viên tại chức tăng lên nhanh chóng
Trong giai đoạn 1985-1990 hàng năm có khoảng 30.000 sinh viên tại chức.
Tiếp đến 1990-1991 số tại chức khoảng 33.000 sinh viên. Đến năm 1993-1994 số
sinh viên tại chức tăng gần gấp 3 lần với tổng số sinh viên trên toàn quốc là 89.000.
Đại học mở và giáo dục từ xa có khoảng 55.000 người. Đào tạo tại chức có khoảng
50.000 người theo học. Ngoài ra các trung tâm ngoại ngữ, tin học ứng dụng hàng

năm còn đào tạo và cấp chứng chỉ cho khoảng 50.000 người.
Những con số trên đã chứng minh cho một phương thức học tập rèn luyện để
nâng cao trình độ trong nhân dân ngày càng phát triển nhanh. Sự phát triển về số
lượng và nâng cao chất lượng đào tào sẽ tạo nên trình độ dân trí cao, đồng thời xây
24
SVTH: Tổ 1 lớp Sử 2A 07- 08 Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
dựng một đội ngũ lao động giỏi, góp phần không nhỏ vào công cuộc công ngiệp hóa
hiện đại hóa đất nước.
♦ Xây dựng cơ sở vật chất kó thuật trường học.
Cả nước đã xây dựng dược hàng ngàn phòng học kiên cố và bán kiên cố,
hàng ngàn mét vuông công trình phục vụ giáo dục đào tạo như thư viện, phòng thí
nghiệm… với số vốn huy động lên tới hàng ngàn tỉ đồng. Trong những năm này các
tỉnh phía Bắc đã thanh toán được tình trạng học 3 ca. hầu hết các đòa phương có đủ
phòng học để học 2 ca. số trường xây dựng kiên cố cao tầng theo hình thức “nhà
nước và nhân dân cùng làm” ngày càng nhiều. Trường sở ngày càng xây dựng đúng
quy cách hơn do sự hướng dẫn của ban xây dựng cơ bản của bộ giáo dục và đào tạo.
Cùng với việc xây dựng trường sở, vật dụng trang thiết bò cho phòng học như
bàn ghế, bảng…cũng được chú ý tăng cường. Các trường học và các đòa phương cũng
đã đóng bàn ghế cho học sinh thao đúng hình thức và tiêu chuẩn của bộ.
Thiết bò dạy học cho trường phổ thông đã được chú ý hơn. Từ bộ đến các đòa
phương đã có cơ quan chuyên lo việc sản xuất, cung ứng, hướng dẫn tổ chức quản
lý, sử dụng thiết bò dạy học cho các trường phổ thông. Trong những năm từ 1987-
1992 tổng công ty cơ sở vật chất thiết bò trường học, bộ giáo dục và đào tạo đã cung
cấp cho các trường hàng năm từ 100 dến 150 loạ thiết bò lẻ, trên 6000 phòng thiết bò
đồng bộ cho các trường tiểu học, 1230 phòng thiết bò đồng bộ lý, hóa, sinh cho các
trường cấp II, và 23 phòng thiết bò vật lý cho trường PTTH
Với sự giúp đõ của tổ chức UNICEF và một số nước bạn như cộng hòa dân
chủ Đức, Thụy Điển, bộ giáo dục và đào tạo đã trang bò khá hoàn chỉnh cho hầu hết
các trường cao đẳng sư phạm, trung học sư phạm, thực hành sư phạm cấp I, sư phạm
mẫu giáo TW và các trung tâm lao động kỹ thuật tổng hợp_hướng nghiệp_dạy

nghề. Đồng thời bộ còn phát động nhiều phong trào tự làm đồ dùng dạy học ở từng
miền và trên toàn quốc, đã thu hút hàng loạt giáo viên và học sinh tham gia. Chính
nhờ những cuộc thi này, hàng nghìn mẫu thiết bò dạy học và phục vụ công tác giảng
dạy ở các trường từ mẫu giáo đến PTTH đã được sử dụng.
Giai đoạn này đã có hơn 100 trường đại học và cao đẳng được xây dựng kiên
cố. Hơn 300 trường TH chuyên nghiệp, dạy nghề và trung tâm giáo dục kỉ thuật
tổng hợp có cơ ngơi khang trang. Tuy so với tiêu chuẩn quy đònh trong nước còn
chưa cao và thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực, nhưng so với các giai
đoạn trước thì có thể nói tằng chưa bao giờ hệ thống các trường đại học cao đẳng lại
có được hệ thống trường sở khang trang như giai đoạn này. Đó chính là kết quả của
sự cố gắng lớn của nhà nước và nhân dân, của toàn ngành giáo dục trong nhiều
năm.
Năm 1993, bộ giáo dục đào tạo đã dành 10 tỉ đồng để đưa tin học vào giảng
dạy ở nhà trường phổ thông, bước đầu trang bò 1000 máy vi tính cho 200 trường
PTTH (chiếm gần 20% số trường PTTH). Các phương tiện nghe nhìn cũng được
25

×