Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Phân tích chiếu dời đô của lý công uẩn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.04 KB, 12 trang )

Chiếu dời đô là tác phẩm được Lý Công Uẩn soạn ra vào tháng 7 năm
1010 để công bố quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Đại La. Chiếu dời đô có giá trị
to lớn, thể hiện tầm nhìn vượt thời đại của Lý Công Uẩn. Dù đã trải qua hơn
1000 năm, tác phẩm này vẫn có những giá trị sâu sắc, đầy tính thực tiễn.
Lý Công Uẩn (974 – 1028) lên làm vua năm 1009, niên hiệu là Thuận
Thiên. Ông là người thông minh, nhân ái, chính trực, có công lớn trong việc lập
triều Lý, mở ra một thời kì thái bình thịnh trị lâu dài cho dân tộc. Tháng 7, mùa
thu, năm 1010 Lý Thái Tổ nhận thấy đất Hoa Lư chật hẹp, ẩm thấp không tiện
cho giao thông bèn viết bài Chiếu quyết định dời đô ra Đại La (sau đổi thành
Thăng Long, tức Hà Nội ngày nay).
Theo từ điển thuật ngữ văn học, chiếu là một thể loại văn thư nhà vua
dùng để ban bố mệnh lệnh cho thần dân. Như vậy, có thể hiểu chiếu là một loại
văn cung đình, tác giả của chiếu là nhà vua, độc giả chính là nhân dân. Nội
dung của các bài chiếu thường là những chủ trương, chính sách cụ thể của vua.
Chiếu xuất phát không phải là một tác phẩm văn học mà là một văn bản chính
trị, có tính chất giáo lệnh. Chính vì thế, bài chiếu thường có tính chất trang
trọng, chặt chẽ và hơi khô khan.
Chiếu chỉ được viết bằng chữ Hán. Chiếu có thể được viết bằng văn xuôi,
văn vần hay văn biền ngẫu. Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn viết bằng văn biền
ngẫu.
Chiếu là một thể văn có ở Trung Quốc từ thời cổ đại, được truyền sang
nước ta từ lâu đời. Chiếu cùng loại với mệnh, lệnh và chế nhưng mức độ uy lực
pháp luật của chiếu cao hơn, nội dung của chiếu thường là những vấn đề quan
trọng của quốc gia.
Xuất phát từ đặc điểm thể loại của chiếu, ta có thể hiểu vì sao Lý Công
Uẩn lại chọn thể loại này để công bố quyết định dời đô. Kinh đô là trung tâm
chính trị của đất nước, việc dời đô có thể làm đất nước phát triển hơn hay thụt
lùi đi tùy thuộc vào sự đúng đắn của quyết định di dời ấy. Chính vì thế, quyết
định dời đô là một quyết định quan trọng bậc nhất của đất nước, chỉ có chiếu là
thể loại phù hợp nhất.
Nội dung bài chiếu chia làm hai phần: phần một giải thích vì sao phải dời


đô khỏi Hoa Lư, phần hai giải thích vì sao lại chọn Đại La làm nơi đóng đô
mới. Kết cấu hai phần thế này rất rõ ràng và logic, chặt chẽ.
Trong phần một lại chia là hai đoạn nhỏ: đoạn một từ đầu đến “phong tục
phú phụ” nói về lí do, bài học lịch sử và mục đích của việc dời đô; đoạn hai từ
“Nhi Đinh Lê nhị thị” đến “bất đắc bất tỉ” phê phán hai nhà Đinh Lê chọn Hoa
Lư làm kinh đô là sai lầm và bắt buộc phải dời đô.
Trong đoạn một của phần một, đầu tiên Lý Công Uẩn nêu ra những bài
học về việc dời đô trong lịch sử Trung Quốc – đất nước gần gũi, quen thuộc với
Việt Nam. Nhà Thương – một triều đại cổ của Trung Quốc – từ vua Thành
Thang đến vua Bàn Canh đã năm lần dời đô. Vua Thành Thang đóng đô ở phía
Đông Nam huyện Thương Khâu (nay thuộc Hà Nam – Trung Quốc), đời Trọng
Đinh dời đô đến huyện Thành Cao (Hà Nam), đời Hà Đản Giáp dời đô đến phủ
Chương Đức (Hà Nam), đời Tổ Ất dời đô đến phủ Thuận Đức (nay thuộc Hà
Đông), đời Bàn Canh dời đô đến huyện Yên Sư (Hà Nam). Liên tiếp bốn đời
vua nhà Thương đã đi tìm cho mình miền đất hứa để đóng đô, cho đất nước
phát triển nhưng không thành công, làm cho cả dân tộc “dã tràng xe cát” rồi
mới tìm được nơi hợp lý để đóng đô, ấy là Yên Sư.
Nhà Chu cũng là một triều đại cổ của Trung Quốc và cũng trải qua ba lần
dời đô. Chu Văn Vương dời đô đến huyện Trường Yên, đến đời vua Thành
Vương lại dời đô đến huyện Lạc Dương (nay là Hà Nam, Trung Quốc). Khác
với việc dời đô của nhà Thương, ba lần dời đô của nhà Chu là do hoàn cảnh lịch
sử bắt buộc, và việc dời đô ấy cả ba lần đều là quyết định đúng đắn.
Từ bài học về việc dời đô của hai nhà Thương Chu, vua Lý Công Uẩn đã
lấy đó làm chứng cứ để khái quát lên quy luật dời đô một cách rõ ràng, thuyết
phục. Cả ba nhà Hạ, Thương, Chu trong lịch sử Trung Quốc cổ đại không hề tự
tiện dời đô, làm theo ý thích của mình mà đều vì sự phát triển của đất nước, tìm
nơi phù hợp nhất cho sự phát triển ấy. Ông tổng kết việc dời đô theo quy luật là
để tìm nơi trung tâm, mục đích là tính kế lâu dài cho sự phát triển của dân tộc
và yêu cầu phải được ý trời, hợp lòng dân, căn cứ vào điều kiện, thế phát triển
của đất nước.

Sau khi khái quát quy luật dời đô, Lý Công Uẩn đi vào giải thích nguyên
nhân tại sao lại phải dời đô lúc này. Theo quy luật ấy, kinh đô phải là nơi làm
cho vận nước phát triển lâu dài, nhưng hai họ Đinh Lê đã chọn kinh đô là đất
nước hao tổn dần. Lý Công Uẩn phê phán họ Đinh Lê là tự tiện làm theo ý mình
, không nhìn đến mệnh trời (trái với quy luật dời đô đã khái quát ở trên), không
biết nhìn vào bài học kinh nghiệm của hai nhà Thương Chu, coi thường lịch sử
nên ở yên ở Hoa Lư. Chính vì ở yên ở Hoa Lư làm cho đất nước có những hậu
quả nghiêm trọng: hai triều Đinh Lê không kéo dài, chỉ truyền được qua hai đời,
nhân dân hao tổn dần (vì những cuộc nội chiến, phân phong, cát cứ và chống
ngoại xâm), muôn vật mất đi những điều kiện thích hợp với nó. Chính vì hai họ
Đinh Lê đã đi ngược lại với quy luật dời đô, đi ngược lại lịch sử gây hậu quả
nghiêm trọng nên Lý Công Uẩn đã rất đau lòng, không thể không dời đô.
Như vậy, trong phần một Lý Công Uẩn đã thuyết phục dời đô khỏi Hoa
Lư rất thành công. Đầu tiên là nêu những sự thực lịch sử từ đó khái quát quy
luật, bài học dời đô; sau đó ông chứng minh hai họ Đinh Lê đi ngược lại với bài
học đó, gây hậu quả nghiêm trọng nên bắt buộc dời đô.
Sang phần hai, Lý Công Uẩn thuyết phục về việc lựa chọn Đại La làm
kinh đô là hợp với quy luật dời đô. Đầu tiên Lý Công Uẩn nhắc đến Đại La với
sự kiện thành Đại La của Cao Biền – một viên quan đô hộ người Hán đã cai trị
nước ta trong thời kì Bắc thuộc. Cao Biền là người giỏi phong thủy, địa lí nên
đã nhìn ra cái thế đắc địa của Đại La và chọn nơi này làm nơi đóng đô.
Vùng đất Đại La có những ưu thế hơn hẳn Hoa Lư, xứng đáng là kinh đô
của đất nước. Đây là vùng đất chọn được ở giữa trung tâm của trời đất, bờ cõi.
Khái niệm trung tâm ở đây không phải là trung tâm về địa lý mà là trung tâm về
phong thủy, tâm linh, về chính trị, xã hội. Đại La là nơi tụ hội của bốn phương,
tiện cho sự phát triển của đất nước. Đất ấy cũng là đầu mối cả các con đường bộ
Bắc - Nam, Đông - Tây, nhất là đường thủy vì nằm bên con sông lớn nhất trăm
sông trong miền chia nước: sông Cái - sông Hồng. Sông Cái lại như con hào tự
nhiên mênh mang che chở mạn Bắc thành lũy, khi có nạn giặc ngoài. Rõ là thế
đất đế đô của thời mở mang, hưng thịnh dài lâu, khác xa kinh đô Hoa Lư thế

hiểm, nặng về lui giữ của thời mới gây nền tự chủ Đinh - Lê.
Có một khái niệm được Lý Công Uẩn nhắc đến là “long bàn hổ cứ”.
Thành ngữ này được sử dụng nhiều lần trong các tác phẩm chữ Hán của cha
ông ta, đôi khi còn thấy xuất hiện cả trong tác phẩm Nôm, đặc biệt còn thấy
tách thành long bàn và hổ cứ để dùng, chẳng hạn như trong một bài thơ của
Chúa Trịnh Căn (1872-1709) chép trong tác phẩm Thiên hòa doanh bách vịnh.
Long bàn là từ dùng để miêu tả động tác di chuyển vị trí của con rồng.
Rồng là loài động vật thuộc họ rắn, nó di chuyển thế nào hẳn hiếm người biết
được. Thế nhưng con rắn di chuyển trên mặt đất như thế nào hẳn là nhiều người
đã tận mắt nhìn thấy. Rắn thuộc loài bò sát không có chân, nó di chuyển vị trí
bằng cách uốn các đốt xương sống lại để nhích đi từng chút, giống như con sâu
đo. Quan sát cách di chuyển của loài rắn, chúng ta có thể phần nào mường
tượng thấy cách di chuyển của loài rồng. Các thầy địa lý phong thủy ngày xưa
quan sát dãy núi nhấp nhô trùng điệp, ngọn cao ngọn thấp nối nhau chạy dài
mãi, họ cho đó là hình ảnh con rồng di chuyển vị trí trong không gian nên gọi là
Sơn mạch hay Long mạch. Con rồng vận động trong vũ trụ như thế, gặp được
nơi địa lợi nó liền cuộn lại nhiều hơn, tiếng Hán gọi động tác đó là long bàn, có
thể giải nghĩa ra tiếng Việt là con rồng cuộn mình làm tổ.
Hổ cứ, là tư thế ngồi xổm chuẩn bị vồ mồi của con hổ. Trong tiếng Hán,
từ cứ có nghĩa là ngồi với tư thế hai mông không chạm đất mà đặt nhẹ lên hai
gót chân, tức là ở tư thế sẵn sàng bật dậy tấn công đánh trả kẻ địch.
Vậy thì thành ngữ long bàn hổ cứ có thể dùng để miêu tả thế đất chắc
chắn bền vững, vừa tiện lợi cho việc phòng thủ giữ gìn, vừa phù hợp với việc
phát triển phồn vinh, để lại cho con cháu muôn đời.
Về mặt địa lý, Lý Công Uẩn đã nhận ra đất Đại La rộng mà bằng phẳng.
Đây là trung tâm của đồng bằng sông Hồng, đất đai màu mỡ, phì nhiêu, nhất là
vào thời ấy khi đất đai mới được khai thác, chưa đắp đê ngăn lũ như hiện nay.
Đại La ở vào thế đất cao mà sáng sủa, khá sâu trong đất liền nên bão lũ không
thể vào đến tận vùng này. Chính vì tránh được cái họa thiên tai ấy – khi dân ta
chưa đủ trình độ để dự báo, giảm nhẹ hậu quả thiên tai – nên vùng đất này luôn

yên bình, muôn vật phát huy được tột cùng của sự phong phú.
Sau khi phân tích hai khía cạnh: phong thủy – tâm linh và địa lý – thực
tế, Lý Công Uẩn đã khẳng định rằng thế đất Đại La là nơi phù hợp nhất để đóng
đô, là nơi đất đẹp, cảnh đẹp, hội tụ của các chốn đô hội khắp bốn phương, là
kinh đô loại ưu đẳng của muôn đời đế vương. Từ đó, Lý Công Uẩn quyết định
dời đô, ông hỏi ý kiến các quan thần: các khanh thấy thế nào? Đây là sự thể
hiện tinh thần dân chủ của Lý Công Uẩn.
Với việc nhận thức sự khác nhau giữa Hoa Lư và Đại La, đưa ra quyết
định dời đô, Lý Công Uẩn là người có tầm nhìn xa và rất sáng suốt. Hoa Lư là
vùng núi hẻo lánh, chỉ hợp với chiến tranh, thủ chiến chứ không hợp với thời
hòa bình, thịnh trị. Các nghiên cứu khảo cổ đã cho thấy ở ven sông Hàm Long,
gần cố đô Hoa Lư có một khu đô thị dài khoảng 1km, với trình độ phát triển
khá cao, đời sống thịnh trị. Như vậy, có thể thấy Hoa Lư là một kinh đô mà thị
nằm ngoài đô, không tạo điều kiện để phát triển trong thời bình được. Nếu cứ
mãi đóng đô ở Hoa Lư thì đất nước không phát triển đi lên được.
Ngược lại, Đại La là vùng dân cư đông đúc, đời sống phát triển ở mức
cao. Đây là vùng nằm giữa trung tâm đồng bằng sông Hồng, phù hợp giao
thông, phát triển kinh tế, tập trung được cả nước. Không những thế, về thực tế,
thời điểm này, Đại La là một khu vực phát triển ở nước ta. Sau khi được chọn
làm trung tâm hành chính từ thời Bắc thuộc, nơi này đã trở thành khu vực có
tốc độ phát triển khá nhanh. Mặc dù dưới thời Đinh – Lê không được chọn làm
kinh đô nhưng không có nghĩa là khu vực này không phát triển. Các kết quả
khảo cổ học với những sản phẩm tinh xảo, quý hiếm cho thấy vào thời kì này,
Đại La là một khu vực khá giàu có, phát triển.
Tuy nhiên, Đại La bốn bề trống trải, không thể phù hợp cho các cuộc
chiến. Thực tế lịch sử cho thấy trong những lúc đất nước có ngoại xâm, các
triều đại luôn phải bỏ Thăng Long, lấy nơi khác làm căn cứ địa để chiến đấu.
Như vậy, có thể thấy, Hoa Lư là kinh đô của thời chiến còn Đại La là kinh đô
của thời bình.
Việc Lý Công Uẩn nhận ra sự khác nhau giữa hai vùng đất này và quyết

định định đô ở Đại La chứng tỏ ông tin tưởng vào tương lai phát triển trong hòa
bình của đất nước, mong muốn và tin tưởng đất nước bình yên, phát triển thịnh
trị. Việc Lý Công Uẩn lên ngôi và trị vì đã thực sự kết thúc thời kì phân phong,
cát cứ quân sự trong lịch sử Việt Nam, đưa đất nước thống nhất, phát triển hòa
bình, thịnh đạt. Như vậy, có thể thấy Lý Công Uẩn không chỉ chú trọn đến mặt
quân sự như các triều đại trước mà đã bắt đầu chú ý đến sự phát triển chính trị,
kinh tế, văn hóa và đặc biệt là chú ý đến việc củng cố hậu phương (vùng đồng
bằng sông Hồng là hậu phương rộng lớn và quan trọng nhất của nước ta thời kì
này). Không những thế, Lý Công Uẩn còn thể hiện cố gắng với tay tới các địa
phương rộng lớn và các vùng biên giới phía Nam cũng như phía Bắc thông qua
hệ thống giao thông thuận tiện nối với các vùng khác của Đại La, tạo điều kiện
để mở rộng chính quyền phong kiến dân tộc.
Bên cạnh đó, ta nhận thấy so với Hoa Lư, Đại La nằm ở gần Trung Quốc
hơn, nơi đây vẫn còn nhiều tàn dư của thời kì Bắc thuộc, những người ở lại có
thể sẵn sàng giúp Trung Quốc xâm chiếm lại nước ta bất kì lúc nào. Thời kì
này, Trung Quốc vẫn chưa từ bỏ ý định xâm chiếm nước ta. Việc Lý Công Uẩn
– một tài năng quân sự - vẫn quyết định định đô ở Đại La chứng tỏ ông hoàn
toàn không nể sợ phương Bắc, tin tưởng vào khả năng của đất nước.
Định đô là một quyết định trọng đại của dân tộc, một trong những vấn đề
cốt yếu nhất có ảnh hưởng mạnh đến sự phát triển hay thụt lùi của đất nước. Lý
Công Uẩn vừa lên ngôi năm 1009, sang năm 1010 đã quyết định dời đô. Đây là
việc làm quan trọng đầu tiên của Lý Công Uẩn sau khi lên ngôi. Điều này
chứng tỏ ông là một người rất tài giỏi, có khả năng lãnh đạo, có tầm nhìn chiến
lược sâu sắc, đoán định và mong muốn, tin tưởng vào tương lai phát triển hòa
bình của đất nước. Nhà sử gia Ngô Thì Sĩ đã khen ngợi Lý Công Uẩn rằng ông
vừa lên ngôi chưa nghĩ đến việc gì khác mà đầu tiên là dời đô thể hiện khả năng
thao lược, chính vì thế mà triều đại kéo dài, thịnh trị, các vua đời sau ít người
theo được.
Thực tế lịch sử đã chứng minh, quyết định của Lý Công Uẩn là hoàn toàn
đúng đắn. Trong bốn kinh đô cũ của nước ta, Hoa Lư, Thăng Long, Tây Đô,

Phú Xuân ta thấy Thăng Long vẫn xứng đáng là kinh đô hơn cả. Hoa Lư và tây
Đô chỉ phù hợp với thời chiến tranh, loạn lạc còn Phú Xuân chỉ là dải đất hẹp,
trải qua hơn hai trăm năm làm kinh đô cho nhà Nguyễn – triều đại phong kiến
hội tụ mọi điều kiện tốt nhất để phát triển - vùng đất này vẫn không thể phát
huy được vai trò kinh đô của mình.
Còn Thăng Long, từ sau khi được Lý Công Uẩn chọn làm kinh đô, vùng
đất này đã chứng tỏ nơi này là nơi phù hợp nhất để làm kinh đô cho nước ta.
Quá trình phát triển của Thăng Long sau này có thể tóm tắt như sau:
Từ năm 1010 đến năm 1397: là kinh đô của nhà Lý, nhà Trần
Từ năm 1397 đến năm 1407: là Đông Đô của nhà Hồ
Từ năm 1407 đến năm 1427: là thành Đông Quan của nhà Minh
Từ năm 1428 đến năm 1789: là Đông Kinh của nhà Lê Sơ, nhà Mạc, nahf
Trịnh
Từ năm 1789 đến năm 1801: là trấn Bắc Thành của Tây Sơn Nguyễn Huệ
Từ năm 1802 đến năm 1840: là trấn Bắc Thành của nhà Nguyễn
Từ năm 1820 đến khi Pháp chiếm Hà Nội: là tình thành Hà Nội
Từ khi Pháp chiếm Hà Nội đến năm 1945: là thủ phủ chính trị, hành
chính của Pháp ở Đông Dương
Từ năm 1945 đến nay: là thủ đô của nước Việt Nam dân chủ công hòa rồi
đến Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Như vậy, có thể thấy, từ khi Lý Công Uẩn quyết định dời đô về Thăng
Long, nơi đây đã liên tục là trung tâm chính trị đầu não của quốc gia, dân tộc.
Có hai giai đoạn từ năm 1397 – 1427 và 1789 – 1945, tuy không phải là trung
tâm đầu não nhưng vẫn là trung tâm hành chính, chính trị đại diện cho quyền
lực Nhà Nước ở nơi đây.
Từ sự phân tích trên, có thể thấy Lý Công Uẩn là một nhà chính trị thiên
tài, người có tầm nhìn xa và chiến lược, đã nhận ra sự ưu việt của mảnh đất Đại
La. Tuy ông không phải là người đầu tiên nhìn thấy tiềm năng của vùng đất này
và chọn nơi đây là trung tâm đầu não của đất nước nhưng phải đến Lý Công
Uẩn thì tiềm năng của Đại La mới được nhận thức đầy đủ, sâu sắc và phát huy

tối đa.
Tuy nhiên, bên cạnh tầm nhìn tài năng, Lý Công Uẩn cũng bộc lộ hạn
chế nhất định trong Chiếu dời đô của mình. Thứ nhất, việc ông phê phán nhà
Đinh, Lê chọn Hoa Lư làm kinh đô là tự làm theo ý mình, coi thường mệnh trời
là không đúng. Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, khi nội chiến, cát cứ phân phong
trong cả nước đang nổi lên, thì chọn Hoa Lư là một quyết định chính xác. Vùng
đất này là nơi hiểm trở, núi bao quanh, chỉ có một con đường độc đạo thông ra
bên ngoài, hợp với phòng thủ, quân sự. Nhờ chọn Hoa Lư mà Đinh Bộ Lĩnh
mới có thể dẹp loạn mười hai sứ quân, nhà Lê đánh tan được cuộc xâm lược của
nhà Tống. Còn nếu khi đấy chọn Đại La, bốn bề trống trải, chỉ hợp với thời bình
thì chắc chắn thất bại.
Không chỉ thế, việc dời chuyển kinh đô không phải là việc đơn giản,
muốn dời là dời được. Nhãn quan chính trị cũng như trình độ kinh tế phải đến
lúc chín muồi mới đạt đến mức độ dời đô chứ không phải muốn dời lúc nào là
được. Hai Đinh Lê tuy đánh giặc, dẹp loạn thì giỏi nhưng tài năng phát triển
đất nước thì tầm mắt còn hạn hẹp. Hơn nữa, hai nhà Đinh Lê không tồn tại lâu,
hoàn cảnh lịch sử vừa thoát khỏi tình trạng chiến tranh, chưa đủ điều kiện để
dời đô về nơi yên bình. Lúc ấy, thế và lực của chính quyền phong kiến tập trung
chưa đủ mạnh; nhà Tống lăm le xâm lược; tình hình châu thổ sông Hồng phức
tạp, nếu dời đô về đây là một quyết định sai lầm. Chính hai nhà Đinh Lê đã tạo
điều kiện vượt qua thời kì bất ổn, đưa đất nước vào quỹ đạo hòa bình và Lý
Công Uẩn là người hưởng thành quả ấy, với mọi điều kiện thích hợp để dời đô
về nơi phù hợp với thời bình.
Thứ hai, trong bản Thiên đô chiếu, Lý Công Uẩn đã gọi hai nhà Đinh Lê
là “thị” chứ không phải là “triều”. Chữ “thị” dịch sang tiếng Việt có nghĩa là
“họ”, không có nghĩa là “vương triều”. Như vậy, Lý Công Uẩn không công
nhận hai nhà này là hai triều đại, ngôn ngữ bộc lộ sự khinh miệt, xem thường.
Trong khi đó, nhìn lại tiểu sử của Lý Công Uẩn, ta thấy ông xuất thân là một
đứa trẻ được nuôi lớn trong chùa, dưới sự tiến cử của sư Vạn Hạnh – người
được hai nhà Đinh Lê hết sức coi trọng – và nhờ tài năng quân sự của mình, bắt

đầu con đường quan lộ từ việc làm quan cho nhà Đinh rồi đến nhà Lê. Thời
này, tư tưởng trung quân chưa chi phối mạnh mẽ đến quân thần, nhưng hai nhà
Đinh Lê chính là người nâng đỡ Lý Công Uẩn đầu tiên trên con đường đến ngai
vàng sau này. Sự khinh miệt đấy có thể gọi là hành động “qua cầu rút ván”,
đáng phê phán của một bậc đế vương ích kỉ.
Nhìn lại quá trình phát triển của vùng đất Đại La – Thăng Long – Hà
Nội trong lịch sử, ta thấy nơi này và Chiếu dời đô có mối quan hệ rất sâu sắc.
Sự phát triển trước đó của Đại La là cơ sở để Lý Công Uẩn đưa đến quyết định
dời đô nhưng chính Chiếu dời đô là bước ngoặt đưa đến sự phát triển, vai trò
quan trọng của Đại La – Thăng Long – Hà Nội sau này.
Những di chỉ khảo cổ tại Cổ Loa cho thấy con người đã xuất hiện ở khu
vực Hà Nội từ cách đây 2 vạn năm, giai đoạn của nền văn hóa Sơn Vi. Thế kỷ 3
trước Công Nguyên, trong cuộc chiến với quân Tần từ phương Bắc, Thục
Phán quyết định đóng đô ở Cổ Loa, nay là huyện Đông Anh, cách trung tâm Hà
Nội khoảng 15 km. Sự xuất hiện của thành Cổ Loa ghi dấu Hà Nội lần đầu tiên
trở thành một đô thị trung tâm về chính trị và xã hội.
Thất bại của Thục Phán đầu thế kỷ 2 trước Công Nguyên đã kết thúc giai
đoạn độc lập của Âu Lạc, bắt đầu giai đoạn một ngàn năm bị các triều đại
phong kiến Trung Hoa thống trị. Thời kỳ nhà Hán, nước Âu Lạc được chia
thành ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, Hà Nội khi đó thuộc quận
Giao Chỉ. Vắng bóng trong sử sách suốt năm thế kỷ đầu, đến khoảng năm 454–
456, Hà Nội mới được ghi lại là trung tâm của huyện Tống Bình. Năm 544, Lý
Bí nổi dậy chống lại nhà Lương, tự xưng hoàng đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân.
Người cháu của Lý Bí là Lý Phật Tử tới đóng đô ở Cổ Loa, nhưng nền độc lập
này chỉ kéo dài tới năm 602. Thời kỳ Nhà Đường, An Nam được chia thành 12
châu với 50 huyện, Tống Bình là trung tâm của An Nam đô hộ phủ. Năm 866,
viên tướng nhà Đường Cao Biền xây dựng một thành trì mới, Tống Bình được
đổi tên thành Đại La – thủ phủ của Tĩnh Hải quân. Thế kỷ 10, sau chiến thắng
của Ngô Quyền trước quân Nam Hán, Cổ Loa một lần nữa trở thành kinh đô
của nước Việt.

Như vậy, có thể thấy, trước khi Lý Công Uẩn quyết định dời đô, nơi đây
đã là một vùng đất khá phát triển, có vai trò khá quan trọng đối với chính quyền
phong kiến phương Bắc trong việc cai trị nước ta và đối với một số chính quyền
tự chủ của người Việt. Đó là cơ sở đưa đến sự phát triển của vùng đất này, đặt
tiền đề cho quyết định dời đô của Lý Công Uẩn sau này.
Khi nhà Lý dời đô về nơi đây, nhà Lý bắt đầu cho xây dựng một số cung
điện làm nơi ở và làm việc của vua, triều đình và hoàng gia. Trung tâm là điện
Càn Nguyên, nơi thiết triều của nhà vua, hai bên có điện Tập Hiền và Giảng
Võ, phía sau là điện Long An, Long Thụy làm nơi vua nghỉ. Đến cuối năm
1010, 8 điện 3 cung đã hoàn thành. Những năm sau, một số cung điện và chùa
tháp được xây dựng thêm. Một vòng thành bao quanh các cung điện cũng được
xây đắp trong năm đầu, gọi là Long Thành hay Phượng Thành. Đó chính là
Hoàng Thành theo cách gọi phổ biến về sau này. Thành đắp bằng đất, phía
ngoài có hào, mở 4 cửa: Tường Phù ở phía đông, Quảng Phúc ở phía tây, Đại
Hưng ở phía nam, Diệu Đức ở phía bắc. Tuy còn những ý kiến khác nhau,
nhưng căn cứ vào sử liệu và di tích còn lại, có thể xác định cửa Tường Phù mở
ra phía Chợ Đông và khu phố buôn bán tấp nập của phường Giang Khẩu và đền
Bạch Mã. Cửa Quảng Phúc mở ra phía chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) và chợ
Tây Nhai (chợ Ngọc Hà). Cửa Đại Hưng ở khoảng gần Cửa Nam hiện nay. Cửa
Diệu Đức nhìn ra trước sông Tô Lịch, khoảng đường Phan Đình Phùng hiện
nay. Trong Long Thành có một khu vực được đặc biệt bảo vệ gọi là Cấm Thành
là nơi ở và nghỉ ngơi của vua và hoàng gia.
Long Thành và Cấm Thành là trung tâm chính trị của Kinh Thành. Phía
ngoài, cùng với một số cung điện và chùa tháp là khu vực cư trú, buôn bán, làm
ăn của dân chúng gồm các bến chợ, phố phường và thôn trại nông nghiệp. Một
vòng thành bao bọc toàn bộ khu vực này bắt đầu được xây đắp từ năm 1014,
gọi là thành Đại La hay La Thành.
Vòng thành này vừa làm chức năng thành luỹ bảo vệ, vừa là đê ngăn lũ
lụt. Thành được đắp mới và có tận dụng, tu bổ một phần thành Đại La cũ đời
Đường. Thành Đại La phía đông chạy dọc theo hữu ngạn sông Nhị như một

đoạn đê của sông này từ Bến Nứa đến Ô Đống Mác, phía bắc dựa theo hữu
ngạn sông Tô Lịch phía nam Hồ Tây từ Bưởi đến Hàng Buồm ngày nay, phía
tây theo tả ngạn sông Tô Lịch từ Bưởi đến Ô Cầu Giấy, phía nam theo sông
Kim Ngưu qua Giảng Võ, Ô Chợ Dừa, Ô Cầu Dền, đến Ô Đống Mác. Thành
Đại La đời Lý mở các cửa: Triều Đông (dốc Hòe Nhai), Tây Dương (Cầu
Giấy), Trường Quảng (Ô Chợ Dừa), Cửa Nam (Ô Cầu Dền), Vạn Xuân (Ô
Đống Mác). Thành Đại La được bao bọc mặt ngoài bởi ba con sông: sông Nhị,
sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu và được tận dụng như những con hào tự nhiên.
Như vậy, có thể thấy Đại La dưới thời Lý Công Uẩn dường như trùng
khít với Đại La thời Cao Biền. Lý Công Uẩn đã học tập Cao Biền rất nhiều
trong xây dựng kinh đô và tận dụng tối đa những công trình xây dựng có từ thời
ấy mà vẫn còn sử dụng được. Nhà Lý đã là triều đại đầu tiên gây dựng cơ sở, để
lại cho đất nước một di sản văn hóa thế giới – Hoàng Thành Thăng Long.
Lịch sử phát triển sau này của Đại La – Thăng Long – Hà Nội như đã nói
ở trên, vùng đất này trở thành trung tâm chính trị quan trọng bậc nhất của gần
như tất cả các giai đoạn lịch sử sau này. Quyết định dời đô của Chiếu dời đô đã
đưa đến lịch sử với vai trò quan trọng thiết yếu của Thăng Long – Hà Nội sau
này, đưa vai trò của vùng đất này lên một tầm cao mới.
Như vậy, nhìn suốt lịch sử phát triển của Đại La – Thăng Long – Hà Nội
ta thấy sự kiện ra đời của Chiếu dời đô là một bước ngoặt quan trọng của vùng
đất này. Đây là lần đầu tiên tiềm năng của vùng đất này được nhận thức và phát
triển một cách sâu sắc đưa đến sự phát triển với vai trò quan trọng của nó với
đất nước sau này.
Tóm lại, Chiếu dời đô là một tác phẩm văn học - chính trị có giá trị sâu
sắc thể hiện tài năng, tầm nhìn vượt trội của Lý Công Uẩn. Tuy còn một số hạn
chế nhưng không thể phủ nhận đây là một tác phẩm có giá trị to lớn. Sự ra đời
của Chiếu dời đô đã đưa đến bước ngoặt trong lịch sử phát triển của Hà Nội.

×