Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.9 KB, 32 trang )

Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
A. phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Người Việt Nam dù đi đâu nhưng tâm hồn vẫn hướng về
cội nguồn “Cây đa, giếng nước, sân đình’’ là nơi người ta
được cởi tấm lòng, vì lẽ đình làng là công trình kiến trúc
cổ truyền mang những đặc điểm của nghệ thuật kiến
trúc, điêu khắc trong sáng độc đáo, tính dân tộc phong
phú đậm đà sắc thái dân gian ít chịu ảnh hưởng của
ngoại lai hơn tất các loại hình nghệ thuật ở Việt Nam
được xây dựng trong x• hội phong kiến xưa.
Hầu như ở mỗi làng quê Việt Nam đều có một ngôi đình,
nhất là vùng đồng bằng Bắc bộ, nó là sản phẩm chung
của cộng đồng, do tất cả các thành viên góp công tạo
dựng nên. Bởi vậy đình làng là mối quan tâm, là niềm tự
hào của mọi người trong làng. Vì thế, ngôi đình làng
càng to càng đẹp bao nhiêu càng chứng tỏ làng đó giầu
có và phúc đức.Do đó, dù nghèo đói, dù phải ở nhà tranh
vách đất, nhưng mọi người dân đều cố gắng góp tiền của,
công sức, để cùng nhau xây dựng cho được một ngôi
đình khang trang đẹp đẽ, ngôi đình trở thành bộ mặt cho
cả làng, nó gắn chặt với đời sống tinh thần của cả cộng
đồng. Cũng vì vậy, ngôi đình trở thành bộ phận dường
như không thể thiếu trong cấu trúc tổng thể của bất cứ
một làng quê lâu đời nào ở Việt Nam.
Đình làng là nơi sinh hoạt, hội họp, vui chơi của cả cộng
đồng làng…Những sinh hoạt của tình làng nghĩa xóm,
tạo nên mối giao cảm gắn bó chung giữa những thành
viên trong một cộng đồng. Đặc biệt, Đình cũng là một
công trình, nơi biểu đạt tư tưởng tình cảm, những rung
động của người thợ, những nghệ sĩ dân gian thể hiện


cuộc sỗng muôn vẻ của làng quê thông qua nghệ thuật
chạm khắc.
1
1
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
Mặc dù đình xuất hiện từ sớm trong lịch sử nhưng chạm
khắc dân gian ở trong các ngôi đình chỉ thực sự rực rỡ
trong giai đoạn cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII
với không chỉ hành loạt tác phẩm đắc sắc và phong phú
về đề tài mà còn thể hiện về ngôn ngữ, phong cách nghệ
thuật độc đáo và hấp dẫn. ở đó người nghệ sĩ dân gian đ•
gửi gắm những tâm tư tình cảm của mình, ngoài những
mảng hoa văn như một sự kế tiếp truyền thống trước
đó, những đề tài như loài vật, thảo mộc…đặc biệt là hình
tượng con người với những sinh hoạt đời thường đ• thực
sự trở thành những tác phẩm chạm khắc có giá trị, đóng
góp to lớn vào kho tàng nghệ thuật truyền thống đặc sắc
của dân tộ. Nó là sự kết tinh, thăng hoa của người nghệ
sĩ dân gian trong khả năng biểu cảm thẩm mỹ một cách
có ý thức trong cách xây dựng những đề tài sinh động
của cuộc sống. Dù trau chuốt trong nét chạm hay sự mộc
mặc khoẻ khoắn …tất cả chỉ nhằm nắm bắt hiện thực
một cách sống động nhất, gần gũi nhất và nói lên nhiều
nhất cái ý, cái tình của mình được thể hiện trong các bức
chạm khắc.
Bản thân tôi hiện đang là sinh viên Sư phạm Mỹ thuật,
khi nghiên cứu về lịch sử mỹ thuật dân tộc tôi nhận thấy
mảng chạm khắc đình làng có những giá trị văn hoá, lịch
sử vô cùng to lớn, với phong cách nghệ thuật độc đáo rất
cần được gìn giữ và phát triển. Với việc sáng tác mỹ

thuật thì sự học hỏi phong cách tạo hình, sắp xếp bố cục,
cách tạo không gian, tả hình khối rất bổ ích cho sinh viên
trong việc tìm hiểu tiếp thu nghệ thuật của cha ông. Đối
với công tác giảng dạy mỹ thuật, đem những kiến thức
của mình giúp cho học sinh say mê, tìm hiểu, học hỏi mỹ
thuật dân tộc nói chung và nghệ thuật chạm khắc đình
làng nói riêng là rất cần thiết, nó sẽ giúp các em không
quên cái hồn của cha ông, cái tinh tuý của dân tộc.
2
2
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
Xuất phát từ những suy nghi trên, tôi mạnh dạn lấy tên
đề tài là “tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc
đình làng”.
2. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
- Giúp bản thân cảm nhận, nhìn nhận một cách đúng
đắn về tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình
làng.
- Hiểu biết, tiếp nhận giá trị hồn nhiên trong chạm khắc
đình làng nhằm nâng cao chất lượng thực tế sáng tác mỹ
thuật cũng như trong giảng dạy mỹ thuật.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ được tính hồn nhiên chạm khắc đình làng
và khẳng định chạm khắc đình làng có giá trị to lớn, là
nguồn cảm hứng cho các hoạ sĩ Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Tính hồn nhiên trong chạm khắc đình làng qua một số
bức chạm khắc tiêu biểu ở các đình làng miền Bắc.

3.2 Phạm vi nghiên cứu
Tập trung vào một số đình làng tiêu biểu từ cuối thế kỷ
XVI đến đầu thế kỷ XVIII, chủ yếu ở các tỉnh Hà Bắc,
Hà Tây, Vĩnh Phúc, nơi hiện nay còn có những ngôi đình
được coi là cổ nhất và có nhiều giá trị nghệ thuật nhất.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu qua tài liệu
- Nghiên cứu thực tiễn làm sáng tỏ vấn đề
- Đánh giá,phân tích rút bài học kinh nghiệm
5. Đóng góp của đề tài
3
3
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
- khẳng định tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc
đình làng của người Việt. Có khả năng thâm nhập tâm
tư tình cảm người dân mỗi làng quê và vẫn còn nguyên
tác dụng của nó trong sáng tạo ngày nay.
- Góp phần bổ sung nguồn tư liệu cho nghiên cứu và
giảng dạy bộ môn mỹ thuật.
7. Bố cục của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ
lục, đề tài được cấu trúc thành 2 chương.
Chương 1: Đình làng trong đời sống của người Việt
Chương 2: Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc
đình làng
B. phần nội dung
Chương 1
Đình làng trong đời sống của người Việt
1. 1. Nguồn gốc và chức năng của đình làng
1.1.1. Nguồn gốc:

Mỗi làng quê Việt Nam đều có một ngôi đình. Đó là nơi
thờ Thành Hoàng làng (vị thần bảo trợ của làng ).Vào
mỗi dịp lễ tết, đình trở thành trung tâm văn hoa của làng
mà ở đó, tất cả kho tàng văn hoá tích luỹ từ đời này qua
đời khác được thể hiện đầy đủ nhất.

Đình “Đình Bảng” (Từ Sơn, Bắc Ninh)
“Đình” theo nghĩa Hán tự là một ngôi nhà để chú ngụ,
nghỉ tạm. Theo một số nhà nghiên cứu, từ “đình” xuất
hiện sớm nhất trong lịch sử Việt Nam là vào thế kỷ thứ
4
4
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
II đến thứ III.Tuy nhiên giả thiết này còn thiếu cơ sở
khoa học. Thời nhà Trần đình với tư cách là trạm nghỉ
chân đ• được nghi trong Đại việt sử ký toàn thư
“Thượng hoàng xuống chiếu rằng, trong nước ta phàm
chỗ nào có đình trạm đều phải đặt tượng phật để thờ”.
Thời nhà Mạc, từ chức năng ngôi nhà công cộng, đình
trở thành công trình đa chức năng. Nó là nơi thờ thành
Hoàng Làng và là nơi hội họp của làng x•. Điều này đ•
được các nhà trong và ngoài nước ghi nhận, người đầu
tiên khái quát tên là M.Giran “Đình là nơi thờ Thành
Hoàng làng và là một ngôi nhà chung cho sinh hoạt cộng
đồng. Nơi đây thường diễn ra các cuộc hôi họp của các
hương l•o, chức sắc trong làng về việc công, hoặc phân
sử kiện tụng, đồng thơì là nơi cúng lễ. Có thể nói nơi đ•
xảy ra hết thảy các hoạt động của cuộc sống, x• hội người
Việt”
Đình đ• xuất hiện ở nhiều vùng nông thôn Việt Nam.

Thời Mạc đ• xây dựng nhiều ngôi đình có quy mô lớn
như đình Thổ Hà, Lỗ Hạnh- Bắc Giang, đình Tây Đằng
–Hà Tây…sang thời Lê Trung Hưng xuất hiện nhiều
ngôi đình nổi tiếng khác: đình Cao Thượng- Bắc Giang,
đình Cổ Mễ, Phù Lao – Bắc Ninh, đình Ngọc Cảnh –
Vĩnh Phúc…Các đình ở thế kỷ này có nhiều giá trị nhân
văn về kiến trúc và điêu khắc.
Tới thế kỷ thứ XVIII việc xây dựng đình có nhiều giảm
sút nhưng vẫn có những ngôi đình được xây dựng với
quy mô lớn như đình Hồi Quan, đình Đình Bảng.
1.1.2. Chức năng:
Là một thiết chế văn hoá tín ngưỡng tổng hợp, theo các
nhà nghiên cứu đình làng có 3 chức năng:Tín ngưỡng –
Hành chính – Văn hóa.
* Chức năng tín ngưỡng.
5
5
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
Trong các đình làng Việt Nam, vị thần được thờ phụng
là Thành Hoàng làng, vị vua tinh thần, vị thần hộ mệnh
của làng.

Đình Phù Lưu (Bắc Ninh)
Nguồn gốc của Thành Hoàng làng cũng rất phức tạp.
Trước hết là những vị thần tự nhiên (thiên thần hay
nhiên thần) được thờ ở rất nhiều đình làng . Các vị thần
này đều được “khoác áo” nhân thần với các tiểu sử rất
thế tục. Được thờ khá phổ biến là Sơn tinh và Thuỷ thần.
Loại Thành Hoàng thứ hai là các nhân thần . Các nhân
vật lịch sử như Lý Bí, Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng,

Trần Hưng Đạo …Chiếm số đông trong các nhân thần là
những người ít nổi tiếng hơn như quan lại, Nho sĩ và đặc
biệt là các bộ tướng của Hai Bà Trưng, nhất là các nữ
tướng. Những vị thần này thực ra là những nhân vật
truyền thuyết có tính “giả lịch sử” hơn
Loại Thành Hoàng thứ ba gắn liền với tín ngưỡng bản
địa như tục thờ cây thờ đá thời nguyên thuỷ.
Thành Hoàng làng còn có thể là những người xuất thân
hèn kém, có người chết vào giờ thiêng cũng được thờ
làm thần. Ngoài ra, ở một số làng nghề thủ công người ta
thờ các tổ làng nghề, được gọi là “tiên sư”
* Chức năng hành chính.
Đình làng thực sự trở thành trụ sở hành chính của
làng,còn được gọi là “nhà việc”, nơi mọi việc thuộc về
hành chính của làng đều được tiến hành ở đó, từ việc xét
xử các việc tranh chấp phạt vạ, khao vọng, đến thu tô,
thuế, việc bắt lính, thu dịch …
Các làng đều có hương ước riêng với nội dung cụ thể
khác nhau. Tuy nhiên, các hương ước thường bao gồm
những nội dung chủ yếu sau:
6
6
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
- Những quy ước về ruộng đất: Việc phân cấp công điền,
công thổ theo định kỳ và quy ước về việc đóng góp (tiền
và thóc)
- Quy ước về việc khuyến nông, bảo vệ sản xuất, duy tu
đê đập, cấm lạp sát trâu bò, cấm bỏ ruộng hoang, chặt
cây bừa b•i…
- Những quy ước về tổ chức x• hội và trách nhiệm của

các chức dich trong làng. Việc xác định trách nhiêm của
các chức dịch nhằm hạn chế họ lợi dụng quyền hành và
thế lực để mưu lợi riêng.
- Những quy ước về văn hóa tinh thần và tín ngưỡng. Đó
là những quy ước nhằm đảm bảo các quan hệ trong làng
xóm,dòng họ, gia đình, láng giềng…được duy trì tốt đẹp.
Quy định về việc sử dụng hoa lợi của ruộng công vào
việc sửa chữa hoặc xây dựng đình, chùa, đền, quy định
về thể lệ tổ chức lễ hội, khao vọng, lễ ra làng, lễ nộp
cheo…
* Chức năng văn hóa.
Đình làng là trung tâm sinh hoạt văn hoá của cả làng.
“Cây đa, bến nước, sân đình” đ• đi vào tâm hồn những
người dân quê. Đỉnh cao của các hoạt động văn hóa diễn
ra ở đình là lẽ hội. Làng vào hội cũng có nghĩa là làng
vào đám, là hoạt động có quy mô và gây ấn tượng nhất
trong năm đối với dân làng.
Những lễ hội truyền thống được dân làng thường xuên
tổ chức vào các dịp lễ hội như: lễ hội xuống đồng, lễ hội
mừng cơm mới, lễ cầu phúc… và cùng với những lễ hội
này là những trò chơi cổ truyền nhằm biểu dương và ca
ngợi tài trí của con người như: đánh cờ,đấu vật, kéo co,
đấu đáo,đá cầu, làm xiếc, đua thuyền…Đây là những
sinh hoạt văn hoá lành mạnh mang rõ dấu ấn bản sắc
dân tộc và mỗi vùng đều có một bản sắc riêng như hội
pháo ở làng Đồng Kỳ- Bắc Ninh, hát quan họ ở một số
7
7
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
đình làng Bắc Ninh, bơi chải ở các đình làng dọc triền

sông…
1.2. Khái quát về nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc
đình làng.
1.2.1. Kiến trúc của ngôi đình trong tín ngưỡng, tôn giáo
truyền thống Việt Nam.
Đình làng là gương mặt của nền kiến trúc mà không chỉ
là công trình oai nghiêm và đồ sộ nhất trong khung cảnh
làng quê Vịêt Nam nghèo nàn thời quân chủ, mà còn là
nơi bảo tồn khá trọn vẹn những đặc điểm của nền kiến
trúc dân tộc.
Kiến trúc đình làng phát triển với sự đóng góp của quần
chúng nhân dân và thực sự trở thành những công trình
đầu tư sáng tác tập thể trong thi công kiến trúc và trang
trí nội thất bên trong.Kiến trúc đình làng với đặc trưng
cân bằng, ổn định và linh hoạt là hệ quả của thế ứng xử
của cư dân đồng bằng Bắc Bộ đối với môi trường vừa
chế ngự, hạn chế sự khắc nghiệt của thiên nhiên, vừa
linh hoạt khôn khéo tận dụng những điều kiện thuận lợi
để tồn tại và phát triển.
Hướng đình rất quan trọng, người ta tin rằng hướng
dựng đình ảnh hưởng trực tiếp đến công việc làm ăn cuả
cả làng. Đình thường được dựng trên b•i đất cao ráo,
bằng phẳng rộng r•i và được xây dựng gần khu đông
dân cư. Kiến trúc đình làng là công trình to lớn nhất ở
làng, nhưng nó không vượt trội, phá vỡ cảnh quan xung
quanh Ngôi đình là nơi con người tìm thấy sự gắn bó,
hoà điệu với thiên nhiên, cũng như tìm thấy sự đồng cảm
của con người với con người . Xét về mặt tổng thể trước
đình làng luôn là ao đình(tròn hoặc bán nguyệt), tiếp đến
là sân đình với nhiều hàng cây cổ thụ .đây là yếu tố quan

trọng tạo nên diện mạo của đình làng. Các cây cối cổ thụ
8
8
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
thường được trồng phia sau và hai bên sân đình kết hợp
với kiến trúc của ngôi đình tạo nên tính đăng đối. Tính
đăng đối của đình cũng tác động đến cảm giác, tạo sự ổn
định, bền vững, thể hiện nhu cầu thường ngày của cư
dân nông nghiệp.


Đình Tây Đằng - Hà Tây (cũ)
-Đình kiến trúc theo dạng chủ yếu là chữ nhất, chữ tam,
chữ đinh, chữ công. Hệ thống kết cấu gỗ, cột và bẩy, liên
kết với mộng, tạo thế cân bằng vững chắc cho kiến trúc
đình.các hàng cột lớn được kê lên trên hòn đá tảng
không cần móng. Cột trong kiến trúc đình Việt Nam đều
được làm bằng gỗ nguyên cây, không có cột nối, không
sơn vẽ và được liên kết với nhau bằng các kiểu khác
nhau đồng thời người ta có thể xoay hướng đình mà
không cần tháo gỡ.
Toà đình đại đình của đình thường là một căn nhà lớn
lợp ngói,mũi kiểu bốn mái xoè rộng ra ôm lấy đất. Thế
nhưng, bốn tầu mái cao rộng đó không trở nên nặng nề
nhờ bốn góc của bốn đầu đao cong vút như nâng các mái
bay bổng.Kiểu mái này chính là đặc điểm nổi bật của
kiến trúc truyền thống Việt Nam, khác hẳn với kiểu tầu
hộp hay giả tầu của nền kến trúc Trung Hoa mà ta
thường thấy trên hầu hết các mái nhà ở cố đô Huế. Kiến
trúc đại đình có nét chung của nền kiến trúc gỗ Phương

Đông, dựa trên sự liên kết của các bộ vì, kèo. Sức nặng
của toà nhà do cột trong vì đảm nhiệm nên khi ấy, tường
nhà không phải là cơ sở chịu lực mà chỉ làm nhiệm vụ
ngăn che nắng mưa, gió b•o. Tuy nhiên, khác với các
dân tộc khác, kiến trúc đình làng Việt ban đầu là một
không gian mở, mỗi khi làng có viêc, cửa bích bàn bốn
mặt đình được dùng làm bàn tiệc, khiến bốn mặt đình
9
9
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
càng trở nên thông thoáng. ỏ đình làng, chúng ta rất rễ
nhận ra hầu hết các thành phần kiến trúc đều được
chạm khắc trang trí trên các vì kèo, đầu bẩy, đầu dư,
ván nong, cốn…. Trang trí đình làng lấy gian giữa làm
trung tâm nên được chạm khắc hình các vật như chúng
ta vẫn thường thấy ở mỹ thuật cổ điển phong kiến Việt
Nam như Long –Ly- Quy- Phượng, các loại hoa lá được
cách điệu cao như Tùng- Cúc – Trúc- Mai…có thể nói
gian giữa của đình được trang trí bằng lối mỹ thuật
chính thống song có một nét riêng là rất gần gũi với
người dân lao động. Từ gian giữa toả ra các gian bên là
thường thể hiện những đề tài sinh hoạt của người dân có
tính chất thoải mái, tự do và cả những những lời lên án
chế độ quân chủ hà khắc thời phong kiến. Tất cả những
điều ấy là dấu ấn tuyệt vời cho cấc thế hệ mai sau hiểu và
cảm được không khí sinh hoạt của cộng đồng làng x•
thời xưa. Đồng thời là bản sắc của nền kiến trúc Việt
Nam- một bản sắc văn hoá và lịch sử sâu sắc nhất.
1.2.2. Nghệ thuật chạm khắc đình làng
ở làng x• của Việt Nam đình làng là nơi bảo lưu nhiều

vốn nghệ thuật dân gian của dân tộc ta. Kiến trúc sư
Trọng Hồi đ• nói trong trương trình “những sắc mầu
không gian” “Đình làng là một bảo tàng sống của thời
đại”
Đề tài phản ánh trong điêu khắc đình làng rất phong
phú nhưng mỗi đình không thấy sự lặp lại, mỗi ngôi đình
là một phong cách, mỗi bức chạm khắc là một độc bản,
cũng một đề tài: Tùng, Cúc, Trúc, Mai …nhưng mỗi
đình lại thể hiện khác nhau
Ngoài những cảnh sinh hoạt quen thuộc của người dân
như mời rượu, đánh cờ, đấu vật, trẻ củi, gánh con trong
thúng, làm xiếc trèo thuyền, trai gái đùa vui…nhiều ngôi
10
10
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
đình còn chạm những cảnh ẩn dụ bất ngờ như rồng mẹ
cầm quả trứng nở ra rồng con.Trong điều kiện các thành
viên trong một cộng đồng cùng lao động và cùng nghĩ
ngợi với nhau và cùng xúc động trước niềm vui hoặc nỗi
buồn chung, cùng theo đuổi những ước mơ nhất định thì
các sáng tạo của các cá nhân có tài đ• mang theo cá tính
đặc trưng cho một người duy nhất. Thật vậy: Tất cả các
hiện tựợng văn hóa dân gian, đều gắn bó chặt chẽ với
thực tiễn sản xuất, sinh hoạt và chiến đấu sinh hoạt của
nhân dân .Nghệ thuật tạo hình dân gian rõ đặc điểm nổi
bật là gắn bó chặt chẽ với nhân dân lao đông. Các tác
phẩm chạm khắc xuất phát từ cuộc sống bình dân và
không câu nệ quy tắc nào cả.
Phần lớn các nghệ nhân trang trí đình là những người
nông dân thực thụ, họ am hiểu tình cảm và con người

của x• hội nông nghiệp hơn ai hết. Và những người dân ở
đây, mỗi khi có hội làng, lễ lạt họ lại co điều kiện tiếp xúc
thưởng thức, họ cũng chính là những người lao động
trong đó hầu hết là nông dân. Trong quá trình xây
dựng hình tượng, nghệ nhân không ràng buộc bởi những
cái vụn vặt của hình mẫu. Từ những cái họ thường gặp
đ• dần đọng lại trong đầu môĩ hình tượng không cụ thể
nhưng thật tiêu biểu. Nghệ nhân cũng không bị lệ thuộc
bởi những định luật, phép tắc, trường quy nào cả, họ
được tự do sáng tác theo sự suy nghĩ và sự thôi thúc của
tình cảm .Lý và tình đ• quyện vào nhau để cùng làm
sáng tỏ chủ đề, tư tưởng bằng những hình tượng gây ấn
tượng mạnh mẽ cho người xem.
Do khái quát cao, hình lại vừa hư vừa thực khiến người
xem nhìn thuận mắt, nghĩ thuận tình và ngắm m•i không
chán.
Các nghệ nhân làm ra những tác phẩm điêu khắc ấy
không ở một trường lớp chính quy nào cả nhưng họ học
11
11
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
suốt đời, học trong cuộc sống, lăn lộn với nghề từ nhỏ
tiếp cận những kinh nghiệm của lớp người đi trước, chan
hoà với quần chúng, tạo được sự đồng cảm với người
thưởng thức, cái trường học thực tế ấy đ• giúp cho nghệ
nhân nắm được cái “duyên” của nhân vật, cái “thần”
của sự vật để các hình ảnh được tạo ra là “truyền thần”
chứ không phải “truyền hình”thoát ra khỏi trạng thái
giống một cách lạnh lùng.
Như trên đ• nói Đình là ngôi nhà chung, “là bảo tàng

sống chứa đựng những tác phẩm nghệ thuật”. Giá trị
của nó không tách khỏi kiến trúc ngôi đình và tất nhiên
nếu chúng ta làm một thí nghiệm đem đình làng ra khỏi
môi trường tự nhiên của nó đến môi trường khác chẳng
hạn thì dù có sang trọng đến đâu cũng làm cho đình làng
giảm hiệu quả về thẩm mỹ đi rất nhiều và sẽ bị trơ ra
cùng chất liệu. Điều cơ bản là những bức chạm chưá
đựng tính hồn nhiên, mộc mạc ấy không còn nữa .

Đầu bẩy. Đình Tây Đằng- Hà Tây (cũ)
ở chạm khắc đình làng những mảng chạm khắc trang trí
làm đep cho công trình nhưng không tham gia chịu lực
cho khung gỗ như đầu dư ở những cột cái, các vi kèo, xà,
đầu bẩy….đựơc chạm trổ thành những cái đầu rồng…
Sự trang trí của các mảng phù điêu trang trí không lấn
át, xoá đường nét kết cấu, làm mờ vẻ đẹp của kiến
trúc .Trái lại, những mảng chạm khắc làm cho ngôi kiến
trúc đình làng trở nên đẹp đẽ, lộng lẫy nhưng vẫn giữ
được sự đường bệ uy nghi, linh thiêng và thần bí.
Tượng tròn và phù điêu trang trí không những tô điểm
cho khối kiến trúc trở nên đẹp hơn, mà làm cho ngôi
đình làng trở nên mềm mại, nhẹ nhàng, uyển chuyển,
làm giảm tải trọng của bộ mái với những dầm, xà đè
nặng trên đầu. Với óc thẩm mỹ tinh tế, bàn tay khéo léo,
12
12
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
các mảng chạm khắc trang trí lấp đầy khoảng trống giữa
các cấu kiện gỗ, với các hình vuông, hình chữ nhật,hình
tam giác… “nhiều thành phần kiến trúc do yêu cầu của

kỹ thuật làm mộng, chốt nên bắt buộc phải dư thừa ra
ngoài những khối gỗ cục mịch và nặng nề, nay được các
nghệ nhân biến thành những đầu rồng ngậm ngọc với
những bờm lửa dài sinh động và thú vị.
Chương 2
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng
Cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ thứ XVIII, đình
làng Việt Nam được xây dựng khá nhiều, gắn với kiến
trúc các bức chạm khắc được trang trí với nhiều nội
dung, đề tài phong phú, qua đó thể hiện được những tâm
tư tình cảm của con người về x• hội đương thời, bộc lộ
những khát khao về cuộc sống hạnh phúc yên bình,
thịnh trị và vui vẻ, đồng thời các bức chạm cũng toát lên
vẻ đẹp dung dị hồn nhiền, vẻ đẹp đó được thể hiện ở một
số yếu tố sau:
13
13
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
2.1. Về đề tài
Đề tài phản ánh trong điêu khắc đình làng rất phong
phú và vị trí để thể hiện các đề tài trong không gian của
ngôi đình không giống nhau. Khi vào bên trong đình
làng ta thường thấy gian giữa là nơi thờ Thành hoàng
làng làm trọng tâm, không gian ở đây là không gian
thiêng liêng, thần bí không dành cho con người do đó
thường được trang trí bằng các đề tài mang tính chất
trang nghiêm quy phạm như tứ quý: Sen, Cúc, Trúc,
Mai. Tứ linh: Long, Ly, Quy, Phượng . Tứ linh và tứ quý
thường gắn với phật giáo và có biểu tượng của sự cao
quý, Sen, Cúc, Trúc, Mai có sức sống bền bỉ trước thiên

nhiên khắc nghiệt và biểu hiện tinh thần ngay thẳng,
trong sạch hay cũng chính là sự thể hiện tinh thần,
phẩm chất của con người Việt Nam.
Từ gian giữa toả sang các gian bên, đề tài trang trí
mang tính chất dân gian thoải mái hơn, ngay cả những
đề tài mang tính chất chính thống cũng được dân gian
hoá. Hình tượng những con vật linh thiêng trong tứ linh
được thể hiện theo suy nghĩ cách cảm của người lao
động. Những hình tượng đó cũng trở nên bình thường,
gần gũi và hoà vào cuộc sống của con người như „Múa
trên lưng rồng“ở đình Hỷ Canh – Hà Tây hay „Cô gái
cưỡi phượng“Đình Thổ Hà- Bắc Giang. Các đề tài về
sinh hoạt của con người, sinh hoạt làng x•, phong tục tập
quán, lễ hội, về các con vật như ngựa, trâu, voi, lợn,…
Những con vật gần gũi với người dân lao động.

Tắm đầm sen . Đình Đông Viên- Hà Tây (cũ)
Có thể thấy nội dung chạm khắc ở các gian bên đề cập
đến mọi mặt của cuộc sống. Điều gì mà người dân yêu
thích đều được đưa vào trong tác phẩm như uống rượu,
14
14
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
hát ả đào, đánh cờ, kể cả các sinh hoạt tình cảm như trai
gái đùa vui, tắm sen, cảnh tình tự…đều được thể hiện
một cách đơn giản, sống động và chân thực.Cũng ở đó
người dân bộc lộ những khát khao về cuộc sống hạnh
phúc, yên bình và vui vẻ. Bên cạnh các đề tài phản ánh
các sinh hoạt x• hội, ca ngợi về con người và cảnh vật của
đất nước, các nghệ nhân còn chạm khắc những đề tài

mang tính chất phê phán thói xấu trong x• hội của
những kẻ thuộc tầng lớp trên, những cảnh quan quân
cướp bóc, hà hiếp dân lành như „Cảnh quan quân cướp
bóc“ở Đình Liên Hiệp- Hà Tây, „Đến hát nhà
quan“Đình Ngọc Cảnh- Vĩnh Phúc hay „Quan trêu ghẹo
phụ nữ“Đình Đệ Tam- Hà Nam. Các nghệ nhân còn
chạm cả những đề tài nhắc nhở mọi người về cuộc sống
lành mạnh, phê phán lối sống đa thê như cảnh đánh
ghen.
2.2 Về bố cục
Bố cục trong chạm khắc đình làng mang tính độc đáo
khác lạ do đó tạo sự cuốn hút, hấp dẫn người xem thể
hiện ở ngay cách sắp xếp hình mảng, khối, ánh
sáng Đặc biệt người nghệ nhân đ• sử dụng lối bố cục
không theo quy luật xa gần và thủ pháp nhiều điểm nhìn,
họ lấy con mắt làm đồng cân mà họ cho rằng thuận mắt
ta ra mắt người và không theo quy cách ước định nào, nó
là những cảm hứng sinh động và giản dị của người lao
động. Các nghệ nhân đ• chạm nhiều hình khối ngẫu
hứng kết hợp với ánh sáng phong phú do đó tạo sự
tương phản giữa khối lồi, khối lõm, bút pháp thô khoẻ
nhưng vẫn tinh tế, các hình tượng di chuyển tự nhiên
thoải mái có nhịp điệu.
15
15
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
Tác phẩm “Đánh cờ’’ ở Đình Hương Canh – Vĩnh Phúc,
„Uống rượu’’ Đình Ngọc Canh- Vĩnh phúc, là một ví
dụ .


(Đánh cờ. Đình Ngọc Canh- Vĩnh Phúc
Bố cục trong bức “Đánh cờ” là bố cục rất tự do,ở đây
người nghệ sĩ đ• sử dụng lối bố cục không theo quy luật
xa gần và thủ pháp “nhiều điểm nhìn” kết hợp với hình
khối, đường nét, ánh sáng đ• khiến cho các bức chạm
khắc được mở rộng khả năng biểu đạt thể hiện sự đa
diện phức tạp của sự vật. Nếu như chúng ta học luật xa
gần thì thấy khác, người nọ phải che khuất người kia,
người gần thì lớn người xa thì nhỏ đi một chút và cái bàn
cờ không phải là hình vuông nữa mà sẽ là hình bình
hành. Nhưng ở trong bức chạm người gần thì nhỏ, người
xa lại được diễn tả với tỉ lệ lớn nhất. Trong bức chạm,
bàn cờ ở vị trí trung tâm có hình vuông như nhìn từ trên
xuống, còn các nhân vật mặt quay ra ngoài như nhìn
ngang theo phối cảnh. bốn người đầu quay về bốn hướng
rất sinh động, những khuôn mặt bàn tay nét đục còn thô
mộc nhưng đ• toát nên cảnh đánh cờ một cách say sưa
đồng thời tạo nên bố cục đặc sắc, điều này cũng bộc lộ
quan niệm tạo hình rõ ràng.
Nhìn vào bức chạm, ta thấy ván cờ đ• như đến hồi kết
thúc( vì trên bàn cờ chỉ còn hai quân cờ), nhưng vẫn có
sự đam mê của người chơi, vẫn như muốn níu kéo để
quyết định thắng – thua, hai người bên ngoài tham gia
vào cuộc chơi với động tác giống như cổ vũ cho người ma
mình ủng hộ.Chính điều đó đ• làm cho “đánh cờ” có một
sức sống kì lạ, cái vẻ hồn nhiên không tuân theo một quy
luật nào cả, nghệ nhân xưa đục tác phẩm này chỉ theo
một kinh nghiệm của thế hệ trước truyền lại, họ đục theo
16
16

Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
chách nhìn, cách hiểu của họ nhưng vẫn toát lên một vẻ
đẹp thật giản dị, hồn nhiên,bố cục chặt chẽ rõ ràng,đơn
giản mà không sơ sài, ngèo nàn. Tất cả đ• tạo nên thành
công cho tác phẩm. Những điều tưởng chừng như bất
hợp lý trong cách tạo hình lại làm người xem thấy hấp
dẫn, hóm hỉnh và say sưa ngồi ngắm nhìn, bức chạm
mang một nét đẹp riêng mà người nghệ sĩ hiện đại cần
phải học hỏi.
Với lòng say mê hào hứng và vô tư trong nghề nghiệp
cùng những khát vọng vươn tới tự do, các nghệ sỹ dân
gian trong chạm khắc đình làng đ• tìm cho mình cách
thể hiện giản dị, trong sáng với óc quan sát tinh tế, sự
từng trải trong cuộc sống đ• làm nên những hình tượng
nghệ thuật phù hợp với quy luật nhận thức và cảm thụ
cái đẹp người dân Việt Nam từ thời xưa. Đó là một thành
công rất lớn của nghệ thuật chạm khắc đình làng.
2.3. Hình khối
Như trên đ• nói, các nghệ nhân khi thực hiện các bức
chạm khắc họ không bị lệ thuộc và bị ràng buộc bởi
những cái vụn vặt của hình mẫu. Từ nhứng cái họ
thường gặp đ• dần đọng lại trong đầu môĩ hình tượng
không cá thể nhưng thật tiêu biểu, chính điều đó đ• tao
nên cách tạo khối đơn giản, mộc mạc thể hiện một vẻ đẹp
hồn nhiên.
Hình và khối được các nghệ nhân chạm khắc một cách
khá đơn giản nhưng lại rất tinh tế. Hình và khối ở trong
bức chạm như chỉ bằng những hình khối đơn giản,
không quá cầu kỳ láng bóng. Hình của nhân vật được
thể hiện với những quan niệm tạo hình dân gian giầu

chất tuợng trưng và ước lệ. Hình được gạn lọc nhưng
người xem vẫn hiểu rõ được tinh thần của tác phẩm.

17
17
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
Chuốc rượu. Đình Hoàng Xá- Hà Tây (cũ)
ở bức “Chuốc rượu”Đình Hoàng Xá ( Hà Tây) hai người
đang uống rượu với thân hình nhiêng ngả. Nguời mời
rượu, đầu và tay tạo thành một đường thẳng, với nét
chạm sắc sảo, dứt khoát đ• thể hiện sự mạnh mẽ của
động tác chuốc rượu, người kia từ chối một cách quyết
liệt không kém. Anh ta từ chối với cả sức lực của mình.
Cánh tay được các nghệ nhân tạo hình cong gập về phía
sau. Với lối tạo hình khối đơn giản song đ• thể hiện đươc
sự từ chối kiên quyết đó.Tác phẩm là sự cân đối hài hoà
và hợp lý của bố cục, của hình khối, đường nét. Chính
điều này đ• tạo nên vẻ đẹp độc đáo và giá trị nghệ thuật
cho các tác phẩm chạm khắc đình làng.
2.4 Xây dưng nhân vật
Một đặc điểm quan trọng góp vào sự thành công của
điêu khắc đình làng là một sự linh hoạt trong phép biến
dạng hinh thể và xây dựng kết cấu.

Gánh con - Đình Tây Đằng - Hà Tây (cũ)
Để giải quyết ổn thoả mối quan hệ giữa hình tượng điêu
khắc và cấu trúc của kiến trúc như: xà, giường, đầu, bẩy
kẻ…cấu tạo này thường kéo dài thêm chiều dài, dọc và
khung ngang, bề ngang (chiều dài) thì thưa, chiều
cao(chiều rộng) lại thiếu .vậy lấy gì để hấp dẫn vào chỗ

trống của chiều dài (ngang). Nếu để nhân vật tương đối
với tỷ lệ đặt vào bố cục sẽ bị lo•ng, chứ không thể đẩy do
những điêu khắc đình làng đ• có. Người nghệ nhân đ•
tìm ra cách giải quyết thông minh: xử lý phép biến dạng
hình thể rất táo bạo, nhiều khi xoá bỏ hẳn cái thông
thường vốn có. Họ đ• đánh lùn chiều cao hình tượng con
18
18
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
người chỉ còn khoảng 3 đầu, đồng thời mở rộng chiều
ngang gấp đôi, gấp 3 lần với chuẩn mực có thể. Và chúng
ta thấy nghệ nhân đ• làm cho hình tượng trở nên đẹp
một cách ngộ nghĩnh, táo bạo, họ đơn giản hoá nhưng lại
rất tinh tế. Thử hỏi, nếu các bức chạm khắc đình làng
được thể hiện bằng nhũng nét đục kĩ xảo, hình vẽ đúng
luật xa gần… liệu cái đẹp ấy có tồn tại được đến bây giờ
không?
Ai đó đ• nói đại ý rằng:nhiều khi cái đúng chưa chắc đ•
là cái đẹp, nhưng cái không đúng lại trở thanh cái đẹp.
Vâng, cái chưa đúng về hình trong chạm khắc đình làng
nhưng lại toát nên đuợc ý nghĩ cái thần của tác phẩm
ngẫu nhiên nó laị trở thành cái đẹp. Cái đẹp hồn nhiên
đáng trân trọng!
Danh họa Trần Văn Cẩn (1977) nhận định “xem trong
nghệ thuật cổ truyền dân tộc, thì rõ ràng chính cái vốn
về chạm trổ lại giầu có, độc đáo còn hơn cả vốn hội họa
về những đức tính tạo hình rất sáng tạo của người xưa,
đ• kết hợp nhuần nhuyễn tài tinh hai tính chất tưởng
như không đi được với nhau: tính hiện thực với tính
trang trí”

Tác phẩm “Chèo thuyền”,”Đình Tây Đằng, “Mẹ gánh
con”, “Đuổi bắt hò”, là một sự thể hiện như thế .
2.5 Kỹ thuật chạm khắc
Nôi dung hình chạm khắc phong phú kết hợp vơí nhiều
kỹ thuật chạm đ• tạo nên tiếng nói riêng và sự hấp dẫn
cho những tác phẩm chạm khắc đình làng . Họ có thể tạo
hình cho phù hợp với hình dáng và kích cỡ cuả xà, kèo,
đâù cột và tính năng trang trí như chạm bong, chạm nổi,
chạm lộng cũng tuỳ theo mà hình thành Sự kết hợp tài
tình đó đ• tạo ra những hiêụ quả về khối và thẩm mỹ
riêng cho từng tác phẩm . Trên các hoành phi, câu đối,
19
19
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
tác phẩm lại được thể hiện với kỹ thuật chạm nông,
chạm nổi, ở những vị trí khác trong kiến trúc các nghệ
nhân lại sử dụng kỹ thuật chạm như chạm bong, kênh,
chạm lộng…tạo cho các bức phù điêu có quả khối và
không gian cao, tạo nhiêù tầng, nhiều lớp giống như bức
tranh giầu sắc độ đậm nhạt

Chạm lộng trên cốn và đầu dư (Đình Chu Quyến)
Các nghệ nhân khi chạm khắc về các mảng đề tài sinh
hoạt của con người thường sử dụng kỹ thuật chạm nổi,
họ không quá cầu kỳ chau chuốt. Tác phẩm được được
tạo nên bằng những hình khối đơn giản, những nhát đục
thô sơ nhưng lại toát lên vẻ đẹp dung dị, hồn nhiên.như
bức “Chèo thuyền”.



Chèo thuyền. Đình Tây Đằng- Hà Tây (cũ)
2.6 Phản ánh cái cảm cái thấy
Xuất phất từ thế giới quan triết học phương đông cổ,
người nghệ sỹ làm đình xưa xây dựng tác phẩm mong
đạt được cái ý, chứ không mong đạt được lý luận cao xa.
Đối với cách cảm của người lao động, quan trọng nhất là
truyền được cái thần của nhân vật, của tác phẩm, vượt
lên trên mối quan tâm về tỉ lệ, vẽ hình sao cho giống
thực.
Đề tài trong chạm khắc đình làng luôn đi thẳng vào đời
sống của người dân lao động do đó nghệ sĩ dân gian luôn
có sẵn trong đầu. Khi đục chạm chỉ cần hiện ra trong gỗ
những gì mình đ• thuộc, đ• nhớ đến thuộc lòng. Cuộc
sống ngoài đời rất động, sự gắn bó giữa các nhân vật khi
chụp được khoảnh khắc điển hình mà họ đưa ra được
cái thần, cái cảm, cái thấy. Trong “trai gái nô đùa” cái
20
20
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
thấy rõ nét để bộc lộ cái cảm, rất vui vẻ, hóm hỉnh người
ta thấy được âm hưởng cuộc sống thanh bình, trai gái tự
do tìm hiểu. Họ muốn vươn lên trên những quy định
khắt khe của chế độ phong kiến, vươn tới những tình
cảm tự nhiên của con người. Bức „Trai gái đùa vui“.
Đình Hương lộc- Nam Hà là một sự thể hiện như thế.

Trai gái vui đùa. Đình Hương Lộc – Nam Hà
Bốn nhân vật ở trong bức chạm với bốn trạng thái
tình cảm khác nhau.Cùng là cười nhưng ở hai nhân vật
nam mỗi người một nét cười không giống nhau, người

thì cười thoải mái, người lại tủm tỉm. Hai cô gái ưu tư,
sâu lắng song cũng được các nghệ nhân diễn tả mỗi
người một vẻ, thể hiện sự tình tứ m•n nguyện. Dáng ngồi
của bốn nhân vật thay đổi, góp phần thể hiện tâm trạng
của từng người, khối hình đơn giản không cốt giống
nhưng sống động tươi mát, hồn nhiên. Tác phẩm bộc lộ
khát vọng yêu thương tự nhiên của con người khá rõ.
Cái cảm, cái thấy ở đây là họ quan trọng cái tình hơn hết
chứ họ không muốn đục, chạm theo cái thấy. Cái hồn
nhiên, chân thực ấy càng được thể hiện rõ nét.
2.7. Không gian, ánh sáng
Ngôi đình làng hoà đồng và đối thoại với thiên nhiên . Ơ
nhiều ngôi đình cổ thế kỷ XVI- XVII xung quanh thông
thoáng để thiên nhiên ùa ào trong đình . Bộ mái đình lớn
có tác dụng điều hoà khí hậu không gian đình, để ánh
sáng tran hoà bên trong luồn lách, phản chiếu và làm nổi
rõ những mảng chạm khắc trên các cấu kiện của kiến
trúc, đồng thời tạo ra sự gắn bó giữa thiên nhiên trong
nghệ thuật chạm khắc vơI thiên nhiên xung quanh ngôi
đình.
21
21
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
Do ánh sáng của đình làng là ánh sáng tự nhiên, nhịp độ
ánh sáng bên ngoài thay đổi thế nào thì bên trong lòng
đình thay đổi như vậy. Trong khoảng thời gian như thế
ta thấy có nhiều ánh sáng: ánh sáng từ trên cao, ánh
sáng trong lòng đình. Hai loại ánh sáng này ảnh hưởng
trực tiếp đến tác phẩm trên, ảnh hưởng trực tiếp đến các
tác phẩm điêu khắc khác trong kiến trúc đình tạo cho

tác phẩm dường như có màu sắc.
Những khối lớn do nhận được ánh sáng nhiều nhất trong
bố cục, những khố vừa và các nét nhận được ít hơn các
mảng trung gian…tuy vị trí đón nhận khác nhau mà độ
lung linh hư ảo ở các tác phẩm trên cũng có sự thay đổi
không giống nhau.

Trai gái vui đùa (Đình Phù L•o- Bắc Giang)
ánh sáng của đình khác hẳn với ánh sáng của chùa. ở
đình là ánh sáng tự nhiên tràn vào, trong khi ánh sáng
chùa chủ yếu là ánh sáng đèn nhang, nếu phát ra tạo
cảm giác càng thâm u càng tốt cùng với các tượng phật
linh thiêng làm cho chùa càng thâm nghiêm.
ánh sáng của đình lại càng khác xa ánh sáng của trang
phục hưng bởi vì đó là ánh sáng trong nhà, còn ánh sáng
tự nhiên trong đình luôn thay đổi khác hẳn với ánh sáng
bất kiến trong tranh Phục Hưng.
Sở dĩ tôi đưa phần hình khối sáng tạo ánh sáng bởi ánh
sáng cũng là yếu tố quan trọng tạo nên thành công của
tác phẩm, tôi không nói ánh sáng là linh hồn trong chạm
khắc nhưng nó cũng gần như thế.

2.8. Sự ảnh hưởng của giá trị chạm khắc đình làng với
Mỹ thuật hiện đại
22
22
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
Nhà phê bình mỹ thuật Lê Quốc Bảo đ• khẳng định khi
ông viết “về tài năng mỹ thuật trẻ”: “cái mới, cái đẹp
trong nghệ thuật chỉ ra đời trên cơ sở truyền thốngvà

tinh hoa nghệ thuật”.
Với tính chất vừa độ, không thái quá về số lượng cũng
như kích thước, tỷ lệ đ• tạo nên sự hòa hợp nền n• của
hợp thể tạo thành: kiến trúc và điêu khắc đình làng. cả
hai vẻ đẹp đều được đảm bảo, cộng hưởng trở thành
công trình nghệ thuật đầy đủ, mẫu mực. Như cố họa sỹ
Tô Ngọc Vân đ• nói: “người nghệ sỹ tài hoa trong sáng
tạo là người biết dừng lại đúng lúc cần…” Những tác
phẩm khỏa thân, mình trần đóng khố, đấu vật, chèo
thuyền, trai gái tình tự, uống rượu, đánh cờ…không kém
phần hiện đại, thậm chí: “hiện đại tới mức là cho người
hiện đại phải kinh ngạc thán phục.”
Chính vì ngày nay có rất nhiều người nghệ sỹ tạo hình
yêu thích và khai thác tiếp thu cái đẹp trong điêu khắc
đình làng. một trong những người tiên phong trong việc
tìm hiểu và phát triển nghệ thuật điêu khắc đình làng và
đạt được thành công lớn trong sáng tác tác phẩm phải kể
đến họa sỹ Nguyễn Tư Nghiêm. một loạt tranh có tên
“những điệu múa cổ” của ông là sự gới ý của điêu khắc
đình làng. Ông từng quan niệm giữa hiện đại và quá khứ
không có gì mâu thuẫn cả” và người thầy lớn nhất của
ông trong nghiệp vẽ, chính là nét đẹp đình làng.
Qua chạm khắc đình làng, chúng ta thấy rằng nghệ
thụât không những cần sự phân tích khoa học, chính xác
còn cần hơn là yếu tố bản năng và năng khiếu của người
nghệ sỹ. Chúng ta hiểu rằng nghệ thuật để tạo ra được
cái thần cái tình khó hơn là để đạt được cái thực, cái
đúng. Cẩn trọng, tỷ mỷ làm cho óng chuốt mộc mà cũng
rất tốt nhưng cẩn trọng quá, nuột là tỷ mỉ quá dễ đi đến
nhút nhát, rụt rè (dễ trở thành mặt hàng mỹ nghệ tinh

23
23
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
luyện). Mà rụt rè, nhút nhát và tinh xảo của mỹ nghệ thì
nghệ thuật không chấp nhận!
Trong điêu khắc đình làng, phải thừa nhận kỹ thuật
chạm khắc khá hoàn hảo. Song ở đây ta không hề thấy
sự phô diễn kỹ thuật. Cái tinh khéo ở đây hòa hợp trong
cái thô mộc. Cái duyên cái đẹp lại chính ở trong cái
tưởng như vụng về bản năng. Do đó, nếu chỉ thấy sự
khoe khoang kĩ thuật, chắc hẳn cái thần của nhân vật
cũng như cái phần hồn của người nghệ sỹ đ• không bộc
lộ ra được?!
Ngày nay chúng ta thực hiện khẩu hiệu “dân tộc-hiện
đại”là rất đúng đắn. Nhưng hiểu cho rõ ràng và tiếp thu
khai thác vốn cổ nhu thế nào cũng không phải việc đơn
giản. Chính vì sự hiểu biết không cặn kẽ mà một số họa
sỹ đ• đưa vốn cổ vào tranh của mình như là một hành
động “ăn sống nuốt tươi” họ sao chép, nệ cổ một cách
khá sống sượng.
Tất nhiên cũng không nên quan niệm việc tìm hiểu khai
thác vốn cổ một cách cứng nhắc. Một mặt, không nên
đơn giản hóa dẫn tới việc sao chép, lệ cổ một cách sơ
lược và công thức khô khan cho dù có thể đạt được về
mặt thủ thuật, thủ pháp. Mặt khác, cũng không nên kỳ
bí hóa dẫn đến thách đố, khó hiểu.
Thừa kế, phát huy vốn cổ phải có sự sáng tạo tìm tìm tòi
để cho tác phẩm mang ngôn ngữ tạo hình của thời đại
mới. Nếu bắt chước cử chỉ, dáng điệu hay ghép một số
họa tiết cổ rồi thêm một vài nhân vật thì tác phẩm sẽ trở

nên tầm thường. Phải nghiên cứu một cách nghiêm túc
và nâng những sản phẩm tinh thần đố lên ngang tầm với
đời sống nghệ thuật đương đại.
Mỗi người họa sỹ có cách tiếp xúc và cảm nhận vốn cổ
một góc độ khác nhau. Bởi vì đó là kho ngôn ngữ tạo
24
24
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng – Đinh Thuỳ Chinh
hình gắn liền với tâm lý thị giác, thẩm mỹ thị giác mang
ảnh hưởng tới tư tưởng và x• hội quyết định bản chất.
Nghệ thuật mỗi thời đại khác nhau, không nên chỉ
nghiêm cứu mỹ thuật Viêt Cổ mà phải hiểu tâm lý và sản
phẩm của vật chất của từng thời và ý thức đầy đủ việc
tạo ra cơ chế hoạt động của thời đại đó. Nghiên cứu về
mặt lịch sử x• hội, về tư tưởng hoàn cảnh, nhìn từ bên
ngoài vào và nhìn từ bên trong ra. Hình thành và chuyển
hóa vốn tiếng dân tộc và nhân nó lên ra sao là ý thức chủ
quan riêng của từng nghệ sỹ.
Với truyền thống mỗi người nhìn lại quá khứ ở một khía
cạnh không nên định ra như một công thức. chính đời
sống tâm hồn cụ thể, sự va đập x• hội cụ thể là chất xúc
tác cho sự nhìn lại quá khứ khác nhau. Nó có tính chất
định hướngchứ không phải là sự chỉ định về ngôn ngữ
cũng như về tâm lý và tư tưởng thẩm mỹ. Hơn nữa có
những ngôn ngữ tạo hình không trùng lăp về tư tưởng
tâm lý, thẩm mỹ truyền thống như một cái gốc phát triển
ra nhiều cành lá xum xuê. Song vẫn từ cái gốc đó với
người này trở thành uyên bác với người kia thì vẫn bình
dân … Điều này còn phu thuộc vào kiến thức của mỗi
người và khí chất của mỗi người có thể đánh thức phục

sinh lại truyền thống đến mưc nào.
Do vậy,tranh của Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Sáng,
Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Tư Nghiêm và tượng của
Nguyễn Hải, Lê Công Thành là những tấm gương tiếp
thu truyền thống có phong cách riêng độc đáo, xứng
đáng để lớp thế hệ sau noi gương.
Tìm hiểu, phân tích những nét đẹp trong điêu khắc đình
làng sẽ có tác động tốt cho việc sáng tạo ra những tác
phẩm hội hoạ Cũng như điêu khắc hiện đại.
25
25

×