Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

Quan hệ thương mại của vương quốc Champa trong bối cảnh thương mại khu vực đông nam á thời cổ trung đại (từ thế kỷ VII đến thế kỷ XV)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (806.05 KB, 100 trang )

Phần mở đầu
i. ý nghĩa khoa học và mục đích nghiên cứu.
Champa là một vơng quốc cổ ra đời sớm khu vực Đông Nam á, có
địa bàn chủ yếu ở vùng đồng bằng duyên hải miền Trung Việt Nam ngày
nay. Do án ngữ một vị trí quan trọng trên con đờng giao lu quốc tế Đông-
Tây, những thuyền bè ngợc xuôi trong hệ thống mậu dịch châu á đều phải i
qua hay dừng chân ở nơi đây, nên ngời Chăm đã sớm có những mối liên hệ
rộng rãi với các nớc trong và ngoài khu vực. Sách An Nam chí lợc của Lê
Tắc biên soạn vào năm 1333, phần Các dân biên cảnh phục dịch có đa ra lời
bình về vị trí tự nhiên của Chiêm Thành (Champa): Nớc này ở ven biển,
những thuyền buôn của Trung Hoa vợt biển đi lại với các nớc ngoại phiên
đều tụ ở đây, để lấy củi, nớc chứa. Đấy là bến thứ nhất ở phơng Nam.
Vị trí tự nhiên thuận lợi cho xu hớng mở rộng giao lu với thế giới bên
ngoài đã là điều kiện quan trng dẫn tới việc ra đời sớm của vơng quốc cổ
Champa trong khu vực Đông Nam á.
G. Maspero trong những nghiên cứu của mình, đã từng có một cái
nhìn đa diện về một vơng quốc mà đờng giao thông khó khăn, đờng biển
bất trắc, những thung lũng nhỏ chỉ có thể nuôi sống đợc đám dân c tha
thớt nhng chính Ông cũng khẳng định: Chính tại vùng đất này đã tồn tại
một quốc gia phồn vinh, mà ở tận xa ngời ta nói nhiều đến sự phú cờng đó là
vơng quốc Chàm
1
.
Lịch sử vơng quốc Champa là một đối tợng nghiên cứu thu hút sự
quan tâm của rất nhiều học giả trong và ngoài nớc từ trớc tới nay, không chỉ
bởi sự phong phú của nguồn t liệu văn bia, những dấu vết vật chất còn lại đến
1 G.Maspero, Vơng quốc Chàm, T liệu dịch Khoa Lịch sử, Trờng Đại học KHXH và Nhân văn, ĐHQG Hà
Nội.
ngày nay. Lịch sử vơng quốc Champa còn thu hút sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu bởi những bí ẩn về chính bản thân của một trong những quốc gia
ra đời sớm nhất, có thời gian tồn tại lâu dài nhất ở Đông Nam á, một quốc


gia cờng thịnh trong một khoảng thời gian dài, mà đến nay còn để lại những
công trình văn hoá kỳ vĩ . Đi tìm nguyên nhân, và lý giải về sự cờng thịnh
của vơng quốc Champa, đặc biệt là những hoạt động và vị trí của nền thơng
mại Champa đối với sự phát triển của nền hải thơng khu vực, thực sự là
một đề tài khó, tuy nhiên nó cũng là một đề tài lý thú và có những ý nghĩa
khoa học cũng nh ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Chính vì vậy, ngời viết đã lựa
chọn đề tài: Quan hệ thơng mại của vơng quốc Champa trong bối cảnh th-
ơng mại khu vực Đông Nam á thời cổ trung đại (từ thế kỷ VII đến thế kỷ
XV), làm đề tài cho Khóa luận tốt nghiệp của mình.
ii. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Những tri thức về vai trò của kinh tế thơng mại biển trong hoạt động
kinh tế của vơng quốc Champa xa đã đựơc ghi nhận bởi con ngời qua các
thời đại lịch sử khác nhau. Những phát hiện khảo cổ học những năm gần đây
về các hiện vật ngoại nhập, liên quan đến hoạt động buôn bán trên biển của
Champa cũng góp phần minh chứng cho điều đó. Vì vậy, nghiên cứu hoạt
động thơng mại biển của ngời Chăm xa, cụ thể hơn là hoạt động thơng mại
biển của ngời Chăm trong giai đoạn từ thế kỷ VII đến thế kỷ XV mang một ý
nghĩa khoa học quan trọng.
Những nguồn t liệu có liên quan đến lịch sử vơng quốc Champa nói
chung đợc biết đến nay không phải là ít, tuy nhiên những tài liệu đó hết sức
tản mạn, đặc biệt, những tài liệu ghi chép về hoạt động hải thơng của ngời
Chàm trong lịch sử thì hầu nh không có.
Trong một số th tịch cổ của ngời Trung Quốc, vơng quốc Champa xuất
hiện dới những tên gọi khác nhau: Lâm ấp, Chiêm Thành, Hoàn Vơng,
Champa Các th tịch cổ Trung Quốc ở mỗi thời kỳ nhắc đến Champa với
những sự kiện khác nhau, tơng đối phong phú, từ địa lý (Tân Đờng Th), sản
vật (Lơng Th), khí hậu (Ch Phiên Chí), động thực vâth (Văn hiến thông
thảo) và cả cách ăn mặc, sinh hoạt hàng ngày (Tống sử) Các th tịch cổ
Trung Quốc kể trên đã cung cấp cho chúng ta nhiều hiểu biết quan trọng về
đời sống và sinh hoạt của c dân Champa cổ, tuy nhiên, các th tịch cổ đó mới

chỉ dừng lại ở những ghi chép vụn vặt, chủ yếu tập trung vào những hoạt
động triều cống, những quan hệ mang tính thần thuộc. Về quan hệ buôn bán
của Champa với bên ngoài nhìn chung ít đợc nhắc đến.
Th tịch cổ của ngời Ba T và arập cũng tản mạn ghi chép về vấn đề
này. Cùng với hoạt động buôn bán của các thơng nhân vùng Tây á sang
Đông Nam á, hiểu biết của họ về một vơng quốc ven biển nổi tiếng với
những sản phẩm quý hiếm, có giá trị cao trên thị trờng nh trầm hơng, đậu
khấu, hồi hơng, vàng ngày càng t ờng tận. Trong số các th tịch cổ đó có thể
kể đến cuốn Akhbàr al Sìn wa al Hind (Truyện kể về Trung Quốc và ấn
Độ) đợc viết từ thế kỷ IX bằng tiếng arập . Cuốn sách này đã nhắc tới vơng
quốc Sanf (Champa) và địa danh Sanf-fùlàu (Cù Lao Chàm) nơi mà các th-
ơng nhân Tây á thờng xuyên ghé thuyền nghỉ ngơi và tích trữ lơng thảo, nớc
ngọt, cũng nh trao đổi hàng hoá trớc khi đi tiếp sang Trung Quốc hoặc đi về
các địa điểm phía Nam.
Các bộ thông sử của Việt Nam cũng biên chép khá nhiều những thông
tin vụn vặt về Champa qua nhiều thời kỳ khác nhau.
Sách An Nam Chí Lợc của Lê Tắc thế kỷ XIV ghi chép khá tỉ mỉ về
các hoạt động bang giao với Chiêm Thành bao gồm từ địa lý, các việc chinh
thảo và vận lơng, quan lại, việc triều cống
2
.
Sách Đại Việt sử ký toàn th của Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê
cũng cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin quý giá về lịch sử Champa từ khi
lập quốc đến đời Uy Mục Đế triều Lê (Thế kỷ XVI). Các bộ sử khác của Việt
Nam nh ức Trai dị tập của Nguyễn Trãi, Phủ Biên Tạp lục của Lê Quý Đôn,
Việt sử thông giám cơng mục, Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán
triều Nguyễn, Sử học bị khảo của Đặng Xuân Bảng cũng bổ sung thêm
nhiều t liệu quý về vơng quốc Champa cổ xa. Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân
khác nhau, trong đó phải kể đến nhãn quan của giai cấp thống trị về phẩm
giá xã hội của hoạt động buôn bán (thơng vi mạt) nên các th tịch cổ của Việt

Nam và Trung Quốc dù có ghi chép khá nhiều, nhng những thông tin về hoạt
động nội, ngoại thơng của Champa vẫn hầu nh không đợc đề cập đến.
Tài liệu của ngời phơng Tây nói về Champa muộn hơn rất nhiều so
với các nguồn th tịch của Việt Nam và Trung Quốc nhng lại có nhiều ghi
chép và nhận xét đầy thú vị. Chẳng hạn nh Những ngời Bồ Đào Nha trên bờ
biển Việt Nam và Chiêm Thành của Manguin, hay cuốn Vơng quốc Chàm
của Maspero.
Trong thời kỳ thực dân Pháp cai trị nớc ta, một số học giả Pháp đã có
nhiều đóng góp cho việc nghiên cứu lịch sử Champa. Cùng với việc xây dựng
các bảo tàng, phòng trng bày, phòng nghiên cứu trên đất Việt Nam, các học
giả ngời Pháp cũng đã từng bớc đi sâu vào nghiên cứu các lĩnh vực khác
nhau. Về nghệ thuật phải kể đến những đóng góp của P.Stern với tác phẩm
Nghệ thuật Chăm và quá trình phát triển, H.Parmentier với tác phẩm Thống
kê khảo tả các di tích Chàm, Maspero với tác phẩm Vơng quốc Chàm đã đa
2 Lê Tắc, An Nam Chí Lợc.
ra một diễn trình tơng đối hoàn chỉnh về lịch sử Champa Bên cạnh đó còn
rất nhiều công trình nghiên cứu có giá trị tổng kết và khoa học cao của các
học giả thuộc trờng Viễn Đông Bác Cổ đợc đăng tải lần lợt trên tập san
BEFEO
Sau ngày chính quyền cai trị của ngời Pháp ở Đông Dơng sụp đổ, sự
tập trung nghiên cứu về văn hoá Champa có giảm đi một thời gian và từ cuối
thập kỷ 60 của thế kỷ XX, những nghiên cứu về Chàm lại mới đợc phục hồi
thông qua hoạt động của Trung tâm Nghiên cứu lịch sử và văn minh vùng
Bán đảo Đông Dơng dới sự chủ trì của giáo s P.D.Lafont. Trung tâm nghiên
cứu này đã cho ra đời nhiều công trình nghiên cứu quan trọng về các lĩnh vực
ngôn ngữ học, văn học, nghệ thuật của Champa. Đặc biệt phải kể đến những
đóng góp của nhà nghiên cứu ngời Pháp gốc Chăm là Pô Dharma trong việc
liệt kê, xắp xếp vào danh mục những bản viết tay của Champa nằm rải rác ở
châu Âu và Mỹ.
Những nghiên cứu của các học giả ngời Pháp thực sự có ý nghĩa và rất

đáng trân trọng. Những nghiên cứu đó đã đặt nền móng cho quá trình nghiên
cứu văn minh Champa trên rất nhiều các lĩnh vực nh kiến trúc, nghệ thuật, bi
ký Tuy vậy, các lĩnh vực nghiên cứu vẫn còn phiến diện, một số mảng vẫn
còn bỏ trống nh nghiên cứu các khu di chỉ c trú của c dân Chăm cổ, nghiên
cứu hoạt động thơng mại biển của Champa.
Bên cạnh ngời Pháp và sau ngời Pháp, nhiều học giả quốc tế cũng đã ít
nhiều đề cập đến việc nghiên cứu Champa dới những khía cạnh đơn lẻ. Các
học giả này trong quá trình nghiên cứu có tính bao quát hơn đều gián tiếp đề
cập đến lịch sử Champa, coi Champa nh một bộ phận quan trọng cấu thành
lịch sử chung của khu vực Đông Nam á. Trong số này, phải kể đến một số
công trình nghiên cứu nổi tiếng của Kenneth R. Hall nh Eleventh Century
Commercial Developments in Ankor and Champa đăng trong Tạp chí
Nghiên cứu Đông Nam á năm 1979 và Maritime Trade and State
Devolopment in Early Southeast Asia xuất bản tại Hawaii năm 1985. Trong
những tác phẩm này K.R.Hall chủ yếu đi sâu vào phân tích một cách khái
quát về hoạt động thơng mại trên biển của Đông Nam á thời cổ trung đại và
quá trình hình thành, hng thịnh và suy vong của một số vơng quốc, trong đó
Champa cũng đợc đề cập với khá nhiều thông tin và t liệu quý giá. G.Coedes
trong cuốn sách nổi tiếng của mình The Indianized State of Southeast Asia
cũng đề cập khá thờng xuyên về Champa qua các giai đoạn khác nhau và đặt
trong tơng quan với các quốc gia ấn Độ hoá khác. Anthony Reid trong
cuốn sách Charting the Shape of Early Modern Southeast Asia cũng đã dành
toàn bộ chơng th ba Chams in the Southeast Asia Maritime System để khái
quát về lịch sử của quá trình hội nhập của thơng mại biển Champa với thị tr-
ờng buôn bán đầy sôi động của Đông Nam á cho đến trớc khi ngời Bồ Đào
Nha xuất hiện ở eo biển Malacca vào năm 1511.
Bên cạnh những ấn bản nói trên, còn có nhiều bài nghiên cứu riêng đ-
ợc công bố trong các tạp chí nghiên cứu hay kỷ yếu hội thảo. Những bài viết
này đề cập trực tiếp đến hoạt động thơng mại biển của ngời Chăm trong lịch
sử không nhiều lắm, chẳng hạn nh: Sources on Economic Activities in

Khmer and Cham Lands của Claude Jacques
3
. Trong công trình nghiên cứu
của mình, Claude Jacques cũng đã phải thừa nhận không giống nh đế quốc
Angkor, vơng quốc Chàm nhìn ra biển. Thực tế này gợi mở sự tồn tại của th-
ơng mại quốc tế mặc dù không một bằng chứng nào về nó đợc tìm thấy qua
những văn bia. Momoki Shiro với các công trình nghiên cứu nh: Champa
chỉ là một thể chế biển? (Những ghi chép về nông nghiệp và ngành nghề
3Claude Jacques, Sources on Economic Activities in Khmer and Cham Lands. In: Southeast Asia in the 9
th
-
14
th
centuries, Institute of Southeast Asia Studies, Singapore, 1990.
trong các t liệu Trung Quốc).
4
và Đại Việt và thơng mại ở biển đông từ thế kỷ
X đến thế kỷ XV
5
; Noboru Karashima với Hoạt động thơng mại của ấn Độ ở
Đông Nam á thời cổ trung đại
6
; Peter Burns Roxanna M.Brown với
Quan hệ ngoại giao Chàm-Philippines thế kỷ XI
7

Những công trình nghiên cứu trên đây của các học giả quốc tế, đã đề
cập trực tiếp hay gián tiếp tới hoạt động thơng mại của vơng quốc Champa
trong lịch sử, khẳng định tầm quan trọng của hoạt động thơng mại đối với
lịch sử vơng quốc Champa, cũng nh những đóng góp quan trọng của Champa

vào nền hải thơng của khu vực trong lịch sử. Tuy nhiên, mức độ tập trung vào
nghiên cứu hoạt động hải thơng của Champa vẫn còn thấp, tản mạn và cha
thực sự tơng xứng với yêu cầu khoa học đợc đặt ra.
Về phía các nhà khoa học Việt Nam, suốt nhiều thập kỷ qua, các học
giả Việt Nam đã kế thừa và tiếp tục những nghiên cứu còn dang dở của ngời
Pháp, và cũng đã bớc đầu đạt đợc những thành quả nhất định, đặc biệt là từ
phía các nhà khảo cổ.
Từ năm 1985, trong Hội nghị khoa học về Khu phố cổ Hội An lần thứ
nhất, GS. Trần Quốc Vợng đã công bố tham luận mang tính định hớng với
tựa đề Chiêm cảng Hội An với cái nhìn về biển của ngời Chàm và ngời Việt
8
.
Đến Hội thảo Quốc tế về Đô thị cổ Hội An năm 1990, hai nhà nghiên cứu
Trần Kỳ Phơng và Vũ Hữu Minh cũng đã công bố tham luận Cửa Đai Chiêm
4 Momoki Shiro, Champa chỉ là một thể chế biển? (Những ghi chép về nông nghiệp và ngành nghề trong
các t liệu Trung Quốc), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, 1996.
5 Momoki Shiro, Đại Việt và thơng mại ở biển Đông từ thế kỷ X đến thế kỷ XV. In trong: Đông á - Đông
Nam á những vấn đề lịch sử và hiện tại, NXB Thế Giới, Hà Nội-2004, tr.309-331.
6 N.Karashima, Hoạt động thơng mại của ấn Độ ở Đông Nam á thời cổ trung đại, Tạp chí Nghiên cứu Lịch
sử, số 3, 1995, tr.67-81.
7 Peter Burns Roxanna M.Brown, Quan hệ ngoại giao Chàm-Philippin thế kỷ XI, trong: Đô thị cổ Hội
An NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội-1991
8 Trần Quốc Vợng, Chiêm cảng Hội An với cái nhìn về biển của ngời Chàm và ngời Việt. In trong: Đô Thị
cổ Hội An, 1991.
thời vơng quốc Champa thế kỷ IV-XV
9
đã tiến thêm một bớc nữa trong việc
nghiên cứu Champa nói chung và hoạt động buôn bán trên biển của ngời
Chăm nói riêng.
Thời gian gần đây, vấn đề thơng mại biển của vơng quốc Champa cũng

đã trở thành đối tợng nghiên cứu thờng xuyên hơn của các nhà nghiên cứu
Việt Nam. Học giả Trần Kỳ Phơng công bố công trình: Bớc đầu tìm hiểu về
địa-lịch sử của vơng quốc Chiêm Thành (Champa) ở miền Trung Việt Nam:
Với sự tham chiếu đặc biệt vào hệ thống trao đổi ven sông của l u vực sông
Thu Bồn ở Quảng Nam
10
. Nhà nghiên cứu Hoàng Anh Tuấn cũng đã thể hiện
sự quan tâm của mình với vấn đề thơng mại biển của Champa thông qua việc
công bố một số công trình nghiên cứu của mình nh: Cù Lao Chàm và hoạt
động thơng mại ở biển Đông thời vơng quốc Champa
11
, Hải thơng Champa
thế kỷ VII-X qua t liệu Khảo cổ học ở Quảng Nam và Đà Nẵng
12
.
Qua việc tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề, có thể thấy rằng nghiên
cứu hoạt động hải thơng của vơng quốc Champa còn sơ lợc, hoạt động thơng
mại biển của vơng quốc Champa trong các thế kỷ VII-XV vẫn cha có công
trình nghiên cứu quy mô mang tính hệ thống nào đề cập cho đến hôm nay.
III. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu.
9 Trần Kỳ Phơng, Vũ Hữu Minh, Cửa Đại Chiêm thời vơng quốc Champa thế kỷ IV-XV, In trong: Đô Thị cổ
Hội An, 1991.
10 Trần Kỳ Phơng, Bớc đầu tìm hiểu về địa-lịch sử của vơng quốc Chiêm Thành (Champa) ở miền Trung
Việt Nam: Với sự tham chiếu đặc biệt vào hệ thống trao đổi ven sông của l u vực sông Thu Bồn ở Quảng
Nam, In Trong: Thông tin Khoa học, tháng 03-2004, Phân viện nghiên cứu văn hoá nghệ thuật tại thành phố
Huế.
11 Hoàng Anh Tuấn, Cù Lao Chàm và hoạt động thơng mại ở biển Đông thời vơng quốc Champa, trong:
Khoa Lịch Sử, Trờng ĐH KHXH&NV: Một chặng đờng nghiên cứu lịch sử (1995-2000), NXB CTQG,
2000.
12 Hoàng Anh Tuấn, Hải thơng Champa thế kỷ VII-X qua t liệu Khảo cổ học ở Quảng Nam và Đà Nẵng.

In trong: Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam, tập I, Tập II, NXB KHXH, Hà Nội 2005.
Trong khuôn khổ của một Khóa luận tốt nghiệp, ngời viết không có
tham vọng, và cũng không đủ khả năng để trình bày dàn trải mọi lĩnh vực,
mọi thời kỳ của lịch sử thơng mại Champa xa. Thông qua việc khảo sát các
nguồn t liệu, và kế thừa những kết quả của những học giả đi trớc, ngời viết
muốn tiếp tục làm sáng tỏ hoạt động thơng mại biển của vơng quốc Champa
trong khoảng thời gian từ thế kỷ VII đến thế kỷ XV, v những đóng góp của
Champa vào nền hải thơng của khu vực.
IV. Nguồn tài liệu và phơng pháp nghiên cứu.
- Nguồn tài liệu chữ viết đợc sử dụng trong Khóa luận, bao gồm một
số lọai chính sau:
+ Các th tịch cổ của Việt Nam, Trung Quốc, Arập viết về Champa nói
chung, quan hệ buôn bán, thơng mại của Champa nói riêng.
+ Các tài liệu nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nớc viết về v-
ơng quốc Champa và về hoạt động thơng mại, buôn bán của Champa.
+ Các báo cáo khai quật, các bài nghiên cứu liên quan đợc đăng trên
các tạp chí nghiên cứu chuyên ngành lịch sử, khảo cổ học
Ngoài ra, Khóa luận tốt nghiệp còn sử dụng một nguồn tài liệu quan
trọng khác khác là một số Luận văn thuộc chuyên ngành khảo cổ học, tài
liệu và hiện vật của các đợt khảo sát, nghiên cứu khảo cổ học trên địa bàn
miền Trung Việt Nam.
- Phơng pháp nghiên cứu sử dụng trong Khóa luận:
Khóa luận sử dụng Phơng pháp lịch sử, phân tích mối liên hệ giữa các
sự kiện xét về cả khía cạnh đồng đại và lịch đại. Bên cạnh đó một số Phơng
pháp bổ trợ nh Phơng pháp so sánh thống kê, Phơng pháp dân tộc học cũng
đợc vận dụng để làm phong phú thêm cho đề tài nghiên cứu
Những phân tích, đánh giá của tác giả đều cố gắng đợc trình bày trên
cơ sở vận dụng Phơng pháp duy vật của chủ nghĩa Mac-Lênin.
Khoá luận cũng đã sử dụng Phơng pháp liên ngành, khai thác và kết
hợp ba loại tài liệu: Lịch sử, dân tộc học và khảo cổ học.

V. Bố cục của Khóa luận.
Khóa luận gồm trang. Phần nội dung chính là trang, trong đó gồm
phần mở đầu trang, kết luận trang, tài liệu tham khảo trang. Khóa luận đ-
ợc chia thành 3 chơng:
Chơng 1: Tổng quan về thơng mại Đông Nam á thời cổ (Từ đầu
công nguyên đến thế kỷ XV).
Chơng 2: Khái quát về vơng quốc Champa
Chơng 3: Quan hệ thơng mại của vơng quốc Champa với các quốc
gia trong khu vực (thế kỷ VII-XV).
Kt lun
Chơng 1.
tổng quan về Thơng mại Đông Nam á
thời cổ trung đại (Từ đầu công nguyên đến thế kỷ XV).
Đông Nam á là khu vực nằm giữa Trung Quốc và ấn Độ, chiếc nôi
của hai trong số các nền văn minh lâu đời nhất thế giới. Nhìn chung, văn hoá
và lịch sử của Đông Nam á đã chịu ảnh hởng mạnh mẽ của hai nền văn
minh này đến tận đầu thế kỷ XIX khi các cờng quốc thực dân phơng Tây đến
thống trị Đông Nam á. Do đó cũng cần phải xem xét các giai đoạn khác
nhau trong lịch sử ấn Độ và Trung Quốc về quan hệ quốc tế của các quốc gia
này với vùng ven biển Đông Nam á.
1.1 Quan hệ thơng mại Đông Nam á truyền thống
Trớc thế kỷ XV quan hệ thơng mại của Đông Nam á chịu sự chi phối của
hai trung tâm kinh tế lớn là Trung Quốc và ấn Độ. Vì Đông Nam á, không
có nhiều sản phẩm mang giá trị thơng mại cao nên nó chủ yếu đóng vai trò là
trung gian cho hai thị trờng này. Những thơng nhân ấn Độ và Trung Quốc tới
Đông Nam á chủ yếu là để trao đổi hàng hoá với nhau. Họ cũng nhập hàng
hoá của Đông Nam á nh bạc, vàng, hơng liệu, gia vị, đồ lâm thổ sản nhng
chủ yếu đó là những hàng hoá mang tính phụ trợ.
Chứng cứ thành văn đầu tiên về mối liên hệ thông qua biển giữa vùng
nam Trung Quốc với ấn Độ Dơng là những ghi chép rất ít ỏi nhng đợc nhiều

ngời biết đến trong sách Hán th. Theo đó, con đờng này có lẽ đợc hình thành
vào thế kỷ thứ nhất sau công nguyên. Nhng sự hình thành đó là kết quả của
một quá trình tích góp dần dần từ những hải trình ngắn nối liền các điểm mút
của đất liền nh Quảng Đông, Hải Nam, Vịnh Bắc Bộ Đó là những lối thoát
ra biển của vùng Trung Nguyên (trung tâm của Trung Quốc). Tơng tự nh vậy,
vùng duyên hải miền Trung Việt Nam là lối ra biển của phần phía đông
Đông Nam á lục địa. Vì vậy mà con đờng giao thông ven biển trong thời kỳ
này có thể đợc xem nh tuyến bổ xung cho tuyến giao thông đờng bộ.
Lịch sử hải thơng của khu vực Đông Nam á từ đầu thiên niên kỷ thứ
nhất đến thế kỷ XV, theo GS. Nhật Bản Shigeru Ikuta, có thể đợc phân chia
thành 2 giai đoạn lớn:
1. Giai đoạn thứ nhất (Giữa thế kỷ II TCN đến khoảng thế kỷ VI)
Vào giữa thế kỷ II TCN, hoặc có lẽ sớm hơn một chút, quan hệ hàng
hải giữa ấn Độ và Trung Quốc bắt đầu. Bớc ngoặt đã diễn ra vào đầu Công
nguyên. Phía bắc, đế chế Hán đợc thành lập (206 TCN), có khuynh hớng h-
ớng về phơng Nam rất mạnh. Không chỉ trao đổi tự nhiên, mà một hệ thống
thơng mại địa phơng và quốc gia đã đợc hình thành. Việt Nam trở thành một
vùng đất giữ vị trí cầu nối giữa Trung Quốc và Đông Nam á. Thơng mại
Đông Nam á đã tìm đợc sức sống khi có điều kiện địa lý từ vùng Tây Nam
á là thị trờng ấn Độ. ấn Độ là một dạng thức, mô hình phát triển của phơng
Đông, là một trung tâm kinh tế lớn. Vùng Nam ấn mang đậm dấu ấn Đông
Nam á, chia sẻ với nhau nhiều nét tơng đồng về văn hoá, lịch sử, phong tục.
Con đờng hàng hải nối Trung Quốc và ấn Độ đi từ bắc Việt Nam lúc
bầy giờ chịu sự thống trị của ngời Trung Hoa, dọc theo bờ biển bán đảo
Đông Dơng, qua bán đảo Mã Lai ở phần phía Bắc và tới Kancipura ở miền
Nam ấn Độ. Một con đờng khác không cắt ngang bán đảo nhng đi xuyên
qua eo biển Malacca. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu từ Trung Hoa là
vàng và tơ lụa, và các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Trung Hoa từ ấn Độ
là đá quý, vật lạ và đồ thuỷ tinh. Nói một cách khác, trong thời kỳ đó đã xuất
hiện một dòng vàng chảy từ Trung Hoa sang ấn Độ theo đờng ven biển Đông

Nam á. Trên thực tế, vàng cũng đợc xuất từ Trung Hoa sang ấn Độ theo đ-
ờng Trung á.
13
Do kỹ thuật đi biển trong thời gian đầu còn hạn chế, nên hải trình của
các thơng nhân phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện gió mùa. Xuất phát từ các
cảng ở Nam ấn Độ, thơng thuyền phải dựa vào gió mùa Tây - Nam ở biển ấn
Độ Dơng giữa tháng 4 và tháng 8 để đi về phía đông. Vì thời gian của một
đợt gió mùa kéo dài, nên sau khi dỡ hàng tại các bến cảng ở Đông Nam á,
họ có thể trở về cùng trong đợt gió mùa. Tuy nhiên hầu hết họ ở lại các thơng
cảng để hoạt động buôn bán với các vùng nằm trong vòng hoạt động của gió
mùa. Để tránh những đợt gió xoáy trên vịnh Bengan vào tháng 10, thơng
thuyền trở về vào tháng 12 khi gặp gió mùa Đông Bắc.
Để phục vụ cho việc buôn bán lâu dài, thơng nhân ấn Độ thờng thiết
lập những khu định c dọc theo bờ biển phía tây của bán đảo Mã Lai và mời
dân địa phơng đến cùng sinh sống. Điều này đã kích thích sự ra đời của các
quốc gia - đô thị. Trong các quốc gia - đô thị đó, vai trò làm chủ thuộc về
những thơng nhân ấn Độ.
Chúng ta đều biết rằng ở miền Bắc ấn Độ, đế chế Mauryan (khoảng
317-180 TCN) đã nhập vàng bạc từ Tây á. Dới thời Mauryan, tiền vàng và
bạc đã đợc đúc và lu hành rộng rộng rãi. Tiền Hy Lạp và La Mã cũng đợc lu
hành. Kancipura, trạm cuối của tuyến đờng biển từ Trung Hoa, nằm ở miền
Nam ấn Độ, và về mặt kinh tế, phụ thuộc vào Bắc ấn Độ. Có thể nói rằng
mặc dù Nam ấn Độ đã khai thác và tinh chế đợc vàng nhng không đủ để
buôn bán với bắc ấn Độ và do đó Nam ấn Độ tìm nguồn cung cấp vàng từ
vùng ven biển Đông Nam á. Đòi hỏi này đã đợc Trung Hoa, quốc gia muốn
13 Shigeru Ikuta, Vai trò của các cảng thị ở vùng ven biển Đông Nam á từ đầu thế kỷ II TCN đến đầu thế
kỷ XIX. In trong: Đô thị cổ Hội An, NXB KHXH, Hà Nội-1991, tr.247.
có các sản phẩm quý lạ từ ấn Độ, nhận ra. Và kết quả là dòng vàng và sản
phẩm thay thế của nó, tơ lụa, bắt đầu từ Trung Hoa theo đờng ven biển Đông
Nam á chảy sang.

14
Cũng khoảng thời gian này, các thơng nhân ấn Độ bắt đầu đến bán
đảo Mã Lai để mua vàng, mặt hàng đợc thu gom ở bán đảo Sumatra hoặc đợc
mua từ Trung Hoa. Con đờng bộ thông dụng nhất là qua eo đất Kra tại
Takuapa. Từ đây, tiếp tục cuộc hành trình xuyên qua eo Kra tới Chaiya ở
phía đông của bán đảo Mã lai. Tới đợc phía đông, đoàn ngời phải đáp
thuyền tới thơng cảng của Siam, Chiêm Thành, Đại Việt rồi mới tới các cảng
phía nam của Trung Quốc. Ngoài con đờng qua Kra còn có con đờng từ
Kedah theo đờng bộ tới thẳng Tumasik (Singapore) rồi mới tới các cảng phía
nam của Đông Nam á. Hoặc, có thể từ Tavoy qua đèo Bachua tới sông
Kanburi, từ đây tới sông Menam rồi mới tới Siam trớc khi vào Trung Quốc.
ở Đông Đơng, những hoạt động thơng mại sôi động đã giúp hình
thành nên những vơng quốc cảng hùng mạnh, đặc biệt là ở phía nam Việt
Nam ngày nay nh: Phù Nam, Lâm ấp. Theo truyền thuyết thì vơng quốc Phù
Nam đợc lập nên bởi ngời anh hùng từ phơng nam vợt biển tới. Điều đó có
nghĩa là vơng quốc này đợc hình thành bởi một quốc gia - đô thị trên bán đảo
Mã lai nh là tiền đồn cho công cuộc thơng mại và săn cớp nô lệ
15
.
ở Phù Nam, cảng thị óc Eo ra đời vào khoảng giữa thế kỷ II và tiếp
tục hoạt động cho tới tận giữa thế kỷ VII. Sự ra đời của óc Eo tơng ứng với
quá trình thống nhất Bắc ấn Độ do vua Kanichka (khoảng 144-173) tiến
hành. Có thể nói kết quả của nó là: Một con đờng thơng mại trực tiếp chắc
14 Shigeru Ikuta, Vai trò của các cảng thị ở vùng ven biển Đông Nam á từ đầu thế kỷ II TCN đến đầu thế
kỷ XIX. Sđd, tr.246.
15 Shigeru Ikuta, Vai trò của các cảng thị ở vùng ven biển Đông Nam á từ đầu thế kỷ II TCN đến đầu thế
kỷ XIX. Sđd, tr.248.
chắn đã đợc mở từ đồng bằng hạ lu sông Ganges qua bán đảo Mã Lai tới ốc
Eo, rồi sau đó tới Lâm ấp
16

. Từ thế kỷ thứ III thuyền buôn của Phù Nam đã
tới mua hàng ở các quần đảo, chẳng hạn nh mua dầu Long não từ Padang,
đinh hơng từ Maluku và vàng từ Borneo. Những điều trên đây biết đợc qua
hàng loạt các ghi chép trong sách Trung Quốc vào thế kỷ thứ III. Phù Nam là
vơng quốc truyền bá văn minh ấn Độ và Trung Quốc vào Đông Nam á và có
thể coi là trung tâm liên thế giới đầu tiên ở khu vực, đồng thời là là nơi nối
thông mạng lới riêng vốn có của Đông Nam á với thế giới bên ngoài
17
.
Tơng đơng với Phù Nam, ở bờ biển bán đảo Đông Dơng có vơng quốc
Lâm ấp (Champa). Vơng quốc này nằm ngay ở phía Nam đèo Hải Vân. Con
đờng thơng mại từ ấn Độ đến đợc tới Lâm ấp theo đờng bộ qua thung lũng
sông Me Kong và theo đờng biển, dọc theo bờ biển bán đảo Đông Dơng.
ở ấn Độ, đầu thế kỷ IV xuất hiện đế chế GúpTa (320-520). Dới triều
đại Gupta, cấu trúc cơ bản của nền văn minh ấn Độ đã đợc hình thành. Đạo
Shaivism và đạo Phật Đại thừa là hai trong số những thành tố tạo nên văn hoá
Gupta. Quyền tối cao của giai cấp Bà La Môn đối với tất cả các giai cấp khác
cũng là một trong những đặc tính của nó. Ngôn ngữ thiêng liêng của ngời Bà
La Môn đợc sử dụng rộng rãi. Các nguyên tắc chính trị và xã hội đợc soạn
thảo. Nền văn hoá Gupta này đợc những ngời Bà La Môn truyền sang Đông
Nam á và giới thiệu với dân chúng địa phơng. Các quốc gia hùng cờng đã
ấn hoá đợc thành lập ở nhiều nơi khác nhau, kể cả Phù Nam và Lâm ấp
trên cơ sở các khuôn mẫu ấn Độ.
16 Shigeru Ikuta, Vai trò của các cảng thị ở vùng ven biển Đông Nam á từ đầu thế kỷ II TCN đến đầu thế
kỷ XIX. Sđd, tr.
17 Sakurai Yumio, Thử phác dựng cấu trúc lịch sử của khu vực Đông Nam á. (Thông qua mối quan hệ
giữa biển và lục địa). Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, 4/1996.
Từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ VII, là thời kỳ ảnh hởng mạnh mẽ nhất của
ấn Độ tới Đông Nam á. Dới sự trị vì của hai vơng triều Giupta (320-535) và
vơng triều Hácsa (606-648), ấn Độ đã đạt tới mức cực thịnh. Nhu cầu truyền

bá văn hoá cũng nh nhu cầu về trao đổi hàng hoá đã thúc đẩy thơng nhân ng-
ời ấn tới Đông Nam á thờng xuyên hơn
18
. Nhiều học giả đã thống nhất, cho
rằng, yếu tố thơng mại là nguyên nhân chủ yếu khiến ngời ấn Độ , vào
những thế kỷ đầu Công nguyên, đã tìm đờng vợt biển tới Đông Nam á. Các
nguồn t liệu khác nhau cho biết, nguồn hơng liệu, gỗ trầm, các loại dầu
thơm, long não, cánh kiến trắng vô cùng phong phú ở Đông Nam á đã thu
hút các thơng nhân ấn Độ đến Đông Nam á. Tuy nhiên, đối với ngời ấn Độ,
sức hấp dẫn trên của Đông Nam á cha mạnh bằng sức hút của vàng, khi họ
đã mất nguồn mua vàng ở Xiberi và Trung á vào các thế kỷ đầu trớc và sau
Công nguyên. Một loạt các địa danh của Đông Nam á đã đợc ghi lai bằng
chữ Phạn, nh Takhola (chợ Bạch đậu khấu), Rarguradvipa (đảo long não),
Narikelađivipa (đảo dừa), Karakapuri (thành phố vàng), Suvannabhumi hay
Suvarnađvipa (xứ vàng) Chính xứ trầm hơng của Champa là một trong
những nơi ở Đông Nam á có sức hút sớm nhất đối với các thơng nhân ấn
Độ
19
.
2. Giai đoạn thứ hai (từ khoảng thế kỷ VII đến thế kỷ XV).
Sau khi triều đại Gupta sụp đổ vào giữa thế kỷ VI, ấn Độ mất dần ảnh
hởng đối với Đông Nam á, mặc dù những ngời di c và thơng nhân vẫn tiếp
tục đến đó. Đặc biệt sau khi đền Naranda ở miền Nam ấn Độ bị phá huỷ vào
18 Ngô Văn Doanh, Văn hoá Champa, NXB Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội-1994. tr.12.
19 Ngô Văn Doanh, Văn hoá Champa, NXB Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội-1994, tr.13.
thế kỷ XII, ấn Độ đã không còn nhiều ảnh hởng văn hoá đối với Đông Nam
á nữa
20
.
Sự mở đầu của giai đoạn này còn đợc đánh dấu bởi sự xuất hiện của

các tàu buôn từ Tây á tới Trung Hoa, mang theo bạc khai thác từ các mỏ ở
Ba T và các vùng lân cận. Khoảng những năm 650, những con tàu Tây á này
bắt đầu giơng buồm thẳng tới Trung Hoa. Điểm đến cuối cùng của những th-
ơng nhân Tây á này là Quảng Châu (Quảng Đông).
Sự suy yếu của vơng quốc Phù Nam đã đẩy hoạt động thơng mại tiến
sâu xuống phía nam của bán đảo Mã lai. Thậm chí trớc đó, tàu bè từ Tây á
chắc chắn đã tới vùng ven biển Đông Nam á ít nhất là từ đầu thế kỷ V. Nhng
từ đầu thế kỷ VII, chúng lại chở bạc từ Ba T và các vùng lân cận. Do đó việc
buôn bán giữa vùng đồng bằng Bengal và Phù Nam qua bán đảo Mã Lai
giảm dần, và vì vậy óc Eo bị rơi vào lãng quên. Lãnh địa của vơng quốc Phù
Nam bị Chenla, một vơng quốc Khơ Me đã di chuyển xuống phía Nam dọc
theo thung lũng sông Mê Kông, xâm lợc và chiếm cứ. Sự suy yếu của vơng
quốc Phù Nam, vừa là hệ quả của một quá trình dịch chuyển con đờng thơng
mại trong khu vực từ phía Bắc xuống phía nam bán đảo Mã Lai; đồng thời,
sự suy yếu của Phù Nam đã trở thành điều kiện khách quan để hình thành ở
Đông Nam á những trung tâm thơng mại mới, đặc biệt là sự xuất hiện của
Srivijaya - ở nơi hiện nay là Palembang nh một trạm trung chuyển cho các
tàu Ba t và Arập trên đờng tới Trung Hoa.
Cho đến thế kỷ VII-VIII, kĩ thuật hàng hải đã đạt đợc những bớc tiến
mới, đặc biệt là sự tham gia của những thuỷ thủ arập đã có thể tận dụng đợc
những u việt của hoạt động gió mùa vào trong các hoạt động buôn bán, đi
20 Shigeru Ikuta, Vai trò của các cảng thị ở vùng ven biển Đông Nam á từ đầu thế kỷ II TCN đến đầu thế
kỷ XIX. Sđd, tr.
biển. Đồng thời, các thuyền mành (Junk) Trung Quốc đã bắt đầu cập bến các
thơng cảng Đông Nam á và vợt biển tới ấn Độ. Đây là loại thuyền buồm lớn
có sức chứa lớn có thể chở trên 500 ngời và về trọng lợng có thể đến 500 tấn.
Chính những u việt của loại thuyền mành đã làm cho hoạt động đi biển đợc
thuận lợi hơn rất nhiều. Các thơng thuyền không còn lo sợ hoạt động của gió
mùa mà còn tận dụng nó làm sức đẩy cho những con thuyền của mình. Hoạt
động thơng mại vì thế cũng theo định kỳ để tận dụng những u điểm của gió

mùa. Đây là điều kiện để ra đời những cảng thị nh là nơi thu gom hàng hoá
và là chốn nghỉ chân cho những thơng thuyền. Nhờ kiểm soát đợc những
tuyến thơng mại mà nhiều đế chế đã ra đời, chẳng hạn nh Srivijaya hay
Ayuthaya.
Sự xuất hiện của các thuyền mành của ngời Trung Hoa tại vùng ven
biển Đông Nam á đã tạo ra một sự thay đổi lớn về chính trị và kinh tế trong
khu vực
21
. Thứ nhất, cảng xuất phát của các thuyền mành Trung Hoa là
Quảng Châu. Do đó các cảng của Bắc Việt Nam dới thời này trở nên kém
quan trọng hơn, và chỉ còn là những trạm trung chuyển địa phơng.
Trong giai đoạn này, những biến đổi lớn đã xảy ra ở vùng Nam Việt
Nam. Vơng quốc Lâm ấp biến diệt vào năm 749, và từ năm 758, một vơng
quốc mới xuất hiện ở khu vực Phan Rang và Nha Trang, mang tên Hoàn V-
ơng. Nó tồn tại cho tới năm 810. Sau đó, một vơng quốc khác ra đời trên
vùng đất xa của xứ Lâm ấp với cái tên Zhancheng hay Champapura. Kinh đô
của nó là Indrapura. Sự thay đổi này có thể phản ánh những thay đổi trong
thơng mại hàng hải quốc tế. Lâm ấp chắc chắn đã tuyệt diệt do sự gia tăng
buôn bán trực tiếp giữa Srivijaya và Trung Hoa, trong khi sự ra đời của
Champapura lại đồng nghĩa với sự xuất hiện của trung Java và sự mở đầu
quan hệ buôn bán trực tiếp giữa trung Java và Nam Việt Nam qua đờng biển.
21 Shigeru Ikuta, Vai trò của các cảng thị . Sđd
Campuchia, Java và vơng quốc Việt độc lập thờng xâm lấn, cớp bóc
các quốc gia đô thị ở vùng ven biển Đông Nam á. Mục tiêu chính của họ là
Champa. Việt Nam từ phía Bắc, Campuchia từ phía Tây và Java vợt biển từ
phía Nam thờng xuyên xâm lấn xứ Champa. Mục đích của họ là cớp bóc của
cải đợc tích luỹ và dân chúng đang sinh sống ở đó. Điều này cho thấy
Champa quan trọng nh thế nào trong quan hệ thơng mại hàng hải quốc tế ở
khu vực thời kỳ bấy giờ.
Căn cứ vào những ghi chép trong th tịch của nhiều nớc đã cho thấy

mặt hàng chính của con đờng buôn bán trên biển ở Đông Nam á thời kỳ này
không chỉ là tơ lụa mà còn có hơng liệu và gốm sứ từ Đông mang sang Tây
để đổi lấy vàng bạc, đá quý, thuỷ tinh, Vì thế, đã có ng ời cho rằng, cần
phải đặt tên lại cho con đờng này là con đờng gốm sứ hay con đờng hơng
liệu. Do thách thức khắc nhiệt của thời gian, nên hàng hoá đợc vận chuyển
trên con đờng tơ lụa trên biển đã bị mất hầu hết dấu vết ngoại trừ gốm sứ.
Có thể thấy, trớc thời Đờng (618- 907), các tuyến buôn bán quốc tế đã
đợc xác lập và chúng đặt cơ sở cho sự hình thành con đờng tơ lụa trên biển
sau này chạy xuyên qua nhiều quốc gia Đông Nam á. Từ thế kỷ VI, các th-
ơng nhân Tây á đã thay thế ngời ấn Độ trong quan hệ thơng mại ở Biển
Đông. Từ thế kỷ VIII, các thơng nhân ngời Hoa bắt đầu thâm nhập mạnh vào
khu vực Đông Nam á và lại thay thế dần các thơng nhân Tây á. Do đó,
Đông Nam á với lợi thế là eo biển Malacca và eo biển Sunda đã trở thành
trung tâm trung chuyển hàng hoá giữa các khu vực Đông Bắc á với Nam á
và Tây á. Quá trình thâm nhập trực tiếp của ngời Hoa đã đẩy vai trò thơng
mại của các nớc Đông Nam á xuống vị trí thứ yếu và thụ động. Nhiều cảng
thị thực tế chỉ là các trung tâm buôn bán địa phơng, nơi lu trú thu gom, cung
cấp hàng hoá cho các thuyền buôn ngoại quốc do thơng nhân Hoa kiều chi
phối.
Có thể xem nh kẻ thống trị con đờng tơ lụa trên Biển thế kỷ IX- X là
các thơng nhân Nam Trung Hoa và thơng nhân arập. Đặc biệt là các thơng
nhân Trung Hoa, họ tăng cờng các hoạt động buôn bán ở vùng biển Đông
Nam á, Do vậy, thuyền buôn của các nớc vùng Tây á không cần phải đến
Trung Quốc, họ chỉ cần đến một số cảng vùng Đông Nam á là có thể mua đ-
ợc hàng hoá của Trung Quốc. Điều đó khiến cho khu vực Đông Nam á dần
nóng lên bởi các chuyến thơng mại từ Trung Quốc đến đây và từ đây sang
khu vực ấn Độ Dơng.
Bản đồ con đờng tơ lụa- gốm sứ xuyên Đại Dơng
Vào khoảng thời gian này, các mỏ bạc ở Ba T và những vùng phụ cận
đã cạn kiệt, do đó việc tìm kiếm hàng thay thế rất đợc chú ý. Các thơng nhân

Ba T và arập mua bạc từ châu Âu để xuất sang ấn Độ và Trung Hoa. Họ
cũng mua hạt tiêu từ Nam ấn Độ, và sau đó từ bắc Sumatra. Một mặt hàng
xuất khẩu quan trọng khác của ấn Độ là vải bông sản xuất ở Gujarat. Các th-
ơng nhân Trung Hoa cũng săn lùng các mặt hàng buôn bán đợc sản xuất ở
Đông Nam á, kể cả lâm sản của vùng bán đảo Đông Dơng và đồ gia vị của
vùng Moluccas. Trong khi đó, cùng với hàng tơ lụa, các sản phẩm sứ Trung
Quốc bắt đầu đợc xuất khẩu với số lợng lớn.
Đối với hàng hoá của khu vực Đông Nam á, thì thị trờng Trung Quốc
có vị trí đặc biệt quan trọng cho đến tận thế kỷ XIX. Vì vậy mà nhịp độ buôn
bán và tình trạng kinh tế Trung Quốc có ảnh hởng tới mức có thể làm biến
động mạng lới Đông Nam á. Trong khoảng từ thế kỷ IX đến cuối thế kỷ X,
sự đình trệ về kinh tế suốt gần một thế kỷ rỡi ở Trung Quốc đã làm tan rã
mạng lới kinh tế ở các nớc nhỏ nh An Nam đô hộ phủ, Lâm ấp, Dvaravati,
Pyu, Maratam, và ngay cả mạng lới ven biển nh Srivijaya- Sailendra. Sự suy
yếu của Srivijaya xuất hiện vào giữa lúc thơng nhân ả Rập, ấn Độ, Trung
Quốc đang mở rộng thu mua các mặt hàng từ vùng biển này. Borneo và
Philippin trỗi dậy tổ chức buôn bán hơng liệu ở vùng biển Đông Nam á.
Đối với quốc gia Srivijaya, hng thịnh và suy tàn đã gắn mình với
Trung Hoa. Các thơng nhân Trung Hoa và các thơng nhân ở Srivijaya thờng
xuyên qua lại hoạt động buôn bán trao đổi giữa hai bên rất mạnh. Năm 971,
khi Trung Quốc mở một đại lý tại Quảng Đông để quản lý hoạt động thơng
mại trên biển thì các thơng nhân Srivijaya đã đợc nêu trong danh sách những
ngời ngoại quốc thờng xuyên lui tới đó. Cuốn sách Lịch sử nhà Tống có ghi
chép lại việc một thơng gia của Srivijaya đến Sơn Đầu (Quảng Đông) vào
năm 980, và 5 năm sau một phái bộ thơng mại thuần tuý cũng đã tới đó. Việc
triều đại nhà Tống tái lập lại trật tự đã tạo ra nhiều mối giao lu với Srivijaya.
Trung Quốc có ghi chép lại nhiều sứ bộ đến đây vào những năm 960, 962,
972, 974, 975, 980, 983, và 988. Mối giao lu đều đặn giữa hai triều đình tiếp
diễn đến năm 1178, khi hoàng đế Trung Quốc thấy việc đón tiếp các sứ bộ
này quá tốn kém và đã chỉ thị rằng, kể từ đó về sau, các sứ bộ này không đợc

đi quá Tuyền Châu (Phúc Kiến). Tuy vậy, hoạt động thơng mại bình thờng
vẫn đợc tiếp tục.
Từ khoảng cuối thế kỷ XI, thị trờng Trung Quốc dần sống lại. Sự biến
đổi quan trọng nhất trong thời kỳ này là sự hng thịnh của các đô thị ở vùng
trung và nam Trung Quốc. Sự phát triển đó cần tới sự buôn bán trên biển.
Về mặt kỹ thuật, thuyền buôn lớn xuất hiện ở các vùng phía Nam Trung
Quốc. Sức trở của loại thuyền này tăng lên rất nhanh chóng và hải trình của
chúng cũng thay đổi từ cận hải (chạy ven bờ) đến viễn dơng (đi biển xa).
Hàng hoá chuyên chở cũng thay đổi từ hàng nhẹ, quý nh tơ lụa sang những
hàng nặng nh đồ sứ, từ những đồ xa xỉ nh dầu thơm sang những vật dụng đại
chúng hơn nh giấy. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật thuyền mành (Junk),
Các thơng nhân nhận ra: Việc gom hàng từ các cảng lớn còn thu lợi nhiều
hơn. Sự sực tỉnh này cùng sự lớn mạnh trở lại của trung tâm buôn bán vùng
hạ lu bán đảo Mã Lai, bắc Sumatra và sự tham dự trực tiếp của các thế lực
đất liền (Ankor, Pagan), làm cho khu vực từ vịnh Bengan qua bán đảo Mã
Lai, Nam biển Đông hng thịnh trở lại, tham dự tích cực vào con đờng buôn
bán quốc tế.
Trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ XI sang thế kỷ XII trên thế giới
hình thành xu hớng độc chiếm đờng buôn bán trên biển. Chẳng hạn nh ngời
ý chi phối vùng phía Đông biển Địa Trung Hải, ngời Hồi giáo ở phía Tây ấn
Độ Dơng, ở biển Đông lúc này vị trí đó thuộc về ngời Trung Quốc. ấn Độ D-
ơng và Nam Trung Hoa nối lại giao thơng thông qua eo Malacca. Hoạt động
trên biển ở đây sống lại với việc hình thành một liên minh các tiểu quốc cảng
biển gọi là San fo Chi (Tam Phật Tề) do ngời Trung Quốc tri phối. Quốc gia
liên bang San Fo Chi này có thể bao gồm các tiểu vơng quốc ven biển
Palembang, Jambi và Kedah, đã phản ánh quy mô buôn bán rộng lớn của
thời kỳ đó.
Năm 1368, nhà Minh đợc thành lập thay thế nhà Nguyên- một vơng
triều ngoại phiên đến thống trị Trung Hoa, giành lại giang sơn cho ngời
Hán. Sau khi lên ngôi, Chu Nguyên Chơng (tức Minh Thái Tổ) tiếp tục tiêu

diệt những thế lực cát cứ còn sót lại của nhà Nguyên, thống nhất đất nớc, mặt
khác ổn định tình hình kinh tế, chính trị và xã hội Trung Quốc, đi đến xây
dựng một chính quyền phong kiến trung ơng tập quyền đủ mạnh để cai trị
đất nớc, phát triển kinh tế. Triều Minh là một trong những triều đại hng thịnh
nhất Trung Quốc, với nền kinh tế hàng hoá phát triển, quan hệ ngoại giao đ-
ợc mở rộng hơn bao giờ hết, với mạng lới ch hầu thần thuộc dày đặc.
Trong giai đoạn này, lần đầu tiên Trung Quốc đóng cửa đất nớc. Đó là
chính sách của triều đại Minh nhằm độc quyền ngành thơng mại hàng hải
vốn nằm trong tay các thơng nhân ngời Hoa. Chính quyền cấm các thuyền bè
t nhân đi ra nớc ngoài và hoạt động ngoại thơng chỉ giành cho các đội tàu
của Hoàng Đế và những ai tới thăm Trung Hoa dới hình thức các sứ bộ đến
triều cống.
Chính quyền Trung Quốc cũng đã ra sức tìm cách thiết lập hệ thống
kiểm soát vùng biển Nam Trung Hoa. Đó chính là nguyên nhân dẫn tới
chính sách cấm vận hàng hải vào cuối thế kỷ XIV. Từ đó không một thơng
thuyền nào có thể đến Trung Quốc buôn bán nếu không có giấy phép chính
thức của triều đình. Cuộc xuất dơng của hạm đội Trịnh Hoà vào đầu thế kỷ
xv thực chất cũng vẫn là nhằm kiểm soát trên khu vực Nam Trung Hoa cho
nhà Minh
22
.
22 Trần Khánh: Tiếp xúc hội nhập kinh tế Đông Nam á- Đông Bắc á ven biển dới góc nhìn lịch sử. Đông
á- Đông Nam á Những vấn đề lịch sử và hiện tại. NXB Thế Giới, 2004. tr.93-96.
Cũng trong khoảng thời gian này, Nhật Bản đã xuất hiện nh một bạn
hàng hùng hậu trong thơng mại hàng hải quốc tế. Kể từ giữa thế kỷ VIII, các
tàu buôn Trung Hoa đã đến Nhật. Nhật cần đến tơ lụa, đồ sứ và các sản phẩm
thủ công Trung Hoa cũng nh các sách kinh điển Trung Hoa và các kinh phật
đã đợc dịch ra chữ Hán. Các mặt hàng xuất khẩu của Nhật là đồng có chứa
bạc, các sản phẩm thủ công nh quạt gấp và kiếm Nhật. ở Trung Hoa, đồng
của Nhật đợc sử dụng để đúc tiền đồng và tách lấy bạc. Đến đầu thế kỷ XII,

tàu Nhật bắt đầu đến các cảng Trung Hoa, đặc biệt là cảng Ningpo. Đó là do
nhu cầu về hàng Trung Hoa tại Nhật ngày càng tăng lên. Vì ngời Nhật không
có đủ mặt hàng buôn bán để mua đủ số lợng cần thiết hàng Trung Hoa nên
họ phải tiến hành cớp bóc dọc theo bờ biển Triều Tiên và bắc Trung Hoa. Đó
là một trong những lý do để Hoàng đế Hồng Vũ nhà Minh đóng cửa đất n-
ớc nhằm diệt hoạ hải tặc Nhật và yêu cầu quốc vơng Nhật truy diệt bọn hải
tặc trong nớc. Sau đó việc buôn bán giữa Nhật Bản và Trung Hoa đợc các sứ
bộ Nhật bản sang triều cống tiến hành hoặc thông qua thơng mại trung gian
với vơng quốc Ryukyu và cũng bằng hình thức các sứ bộ triều cống. Vơng
quốc Ryukyu cũng có quan hệ buôn bán với một số cảng ở ven biển Đông
Nam
23
.
Thế kỷ XIII có một sự thay đổi lớn đối với ấn Độ. ở Bắc ấn, vơng
quốc Hồi giáo sultan Delli (1206-1526) đợc thành lập đã tách khỏi sự phụ
thuộc vào ápganixtan và thực sự phát triển cờng thịnh. Thêm vào đó là việc
ngời Mông Cổ ở Trung á thờng xuyên tấn công vào ấn Độ đã kích thích th-
ơng nhân ấn Độ thờng xuyên lui tới thơng cảng Đông Nam á hơn. Vì vậy,
những ảnh hởng của ấn Độ đến Đông Nam á trong giai đoạn này càng đợc
23 Nguyễn Văn Kim, Nhật Bản với Châu á, những mối liên hệ lịch sử và chuyển biến kinh tế xã hội, NXB
ĐHQG, Hà Nội-2003.
tăng cờng. Chính điều này là một trong những nhân tố giúp cho sự ra đời của
vơng triều Majapahit - vơng triều cuối cùng ra đời do ảnh hởng của ấn Độ.
Khi mối quan hệ giữa ấn Độ và Đông Nam á đợc thiết lập trở lại thì
cũng là lúc hoạt động thơng mại ở Đông Nam á có những bớc chuyển biến
quan trọng. Do chính sách hạn chế thơng mại của nhà Minh, những thơng
nhân ấn Độ và Tây á không thể tới trực tiếp Trung Quốc để nhập hàng mà
phải thông qua thị trờng trung gian là Đông Nam á. Để bù lấp vào những
thiếu hụt về mặt hàng Trung Quốc, nhiều mặt hàng Đông Nam á cũng bắt
đầu gia nhập vào mạng lới buôn bán quốc tế. Hơn nữa trong thời gian này, ở

Đông Nam á nhiều thơng cảng đã đợc thành lập đáp ứng nhu cầu là trạm
trung chuyển hàng hoá không những của Đông Nam á mà cho cả Đông Bắc
á.
Bản thân Đông Nam á, sau một thời gian tích luỹ kinh nghiệm, học
hỏi giao thơng với bên ngoài cũng đã có những mặt hàng có giá trị thơng mại
cao: tơ lụa, gốm sứ của Việt Nam, gốm của Champa, gốm của Thái Lan, h-
ơng liệu, gia vị của quần đảo Maluku, Banda, Sumatra Những hàng hoá này
sau thời gian mang tính thử nghiệm ở thị trờng phơng Tây đã đợc chấp nhận
ở mức độ cao. Khi nhu cầu về hàng hoá Đông Nam á ngày càng cao là nhân
tố thúc đẩy việc hình thành những trung tâm sản xuất hàng hoá ở Đông Nam
á và thúc đẩy hoạt động thơng mại trong vùng. Những đế chế lớn nh
Majapahit, Ayuthaya, Malacca ra đời cũng trong bối cảnh này. Trớc tiên,
thành phố và vơng quốc Ayuthaya đợc thành lập năm 1351 và đóng vai trò
trạm trung chuyển giữa ngời Thái và ngời Mã Lai. Cũng nh vơng quốc
Majapahit, nó kiểm soát khu vực nông nghiệp từ cảng thị. Các mặt hàng xuất
khẩu chính của nó bao gồm gạo, hàng lâm sản nh gỗ, và một số thuỷ sản.

×