Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Bài thu hoạch Chính trị Hè 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.26 KB, 30 trang )

CHUYÊN ĐỀ 2 (30 trang)
CHỦ ĐỘNG ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU, TĂNG CƯỜNG QUẢN
LÝ TÀI NGUYÊN VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
A. VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU, QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN VÀ BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
Biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường và suy giảm đa
dạng sinh học là những vấn đề lớn, mang tính toàn cầu, đã và đang làm thay đổi
các hệ sinh thái tự nhiên, đời sống kinh tế- xã hội trên toàn thế giới, trở thành một
trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ XXI. Ứng phó với
biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường có ý nghĩa sống còn, là
những nhân tố quyết định đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc.
Việt Nam nằm trong vùng ảnh hưởng của bão từ Thái Bình Dương, có bờ
biển dài, địa hình chia cắt, phức tạp, hẹp về bề ngang, dốc ra biển, các đồng bằng
ven biển địa hình thấp nên dễ bị tổn thương trước tác động của biến đổi khí hậu.
Nước biển dâng, sụt lún do khai thác nước ngầm quá mức, ảnh hưởng từ các hoạt
động trên thượng nguồn các sông quốc tế làm cho triều cường, ngập lụt và xâm
nhập mặn diễn ra mạnh, nhanh hơn so với dự báo nhất là ở Thành phố Hồ Chí
Minh, Cần Thơ, Đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng Sông Hồng và một số địa
phương ven biển khác. Thiên tai như lụt bão, hạn hán diễn ra thất thường, cực
đoan, khó dự báo. Tài nguyên ngày càng cạn kiệt nhất là tài nguyên không tái tạo
do khai thác quá mức và không bền vững. Sử dụng nước lãng phí, kém hiệu quả;
nhiều nơi thiếu nước gay gắt vào mùa khô, nhất là vùng Tây Bắc, Tây Nguyên.
Xung đột lợi ích trong khai thác, sử dụng tài nguyên xảy ra ngày càng phức tạp. Ô
nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng, có nơi diễn ra nghiêm trọng, làm suy giảm chất
lượng môi trường sống, ảnh hưởng tới đời sống kinh tế - xã hội, sức khỏe nhân
dân, chất lượng giống nòi và cản trở tiến trình phát triển bền vững của đất nước.
1. Khí hậu
Khí hậu là một hình thái tương đối ổn định của khí quyển (gồm tổng thể các
yêu tố gắn với bầu khí quyển như nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, áp suất khí quyển,
gió) trong khoảng thời gian dài ở một vùng miền xác định trên trái đất.


Khí hậu khác với thời tiết. Thời tiết là trạng thái của khí hậu tại một thời
điểm nhất định. Khí hậu của một khu vực ảnh hưởng bởi tọa độ địa lý, địa hình, độ
cao, độ ổn định của băng tuyết bao phủ cũng như các dòng nước lưu ở các đại
dương lân cận.
Biến đổi khí hậu là sự thay đổi khí hậu do tác động trực tiếp hoặc gián tiếp
của con người dẫn đến thay đổi thành phần khí quyển toàn cầu, được quan sát trên
một chu kỳ thời gian dài. Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu toàn cầu là do
sự gia tăng các hoạt động của con người làm phát thải quá mức khí nhà kính vào
khí quyển, khai thác quá mức các bể hấp thu và bể chứa khí nhà kính như sinh
khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác.
2. Tài nguyên
Tài nguyên thiên nhiên (gọi tắt là “tài nguyên”) là toàn bộ giá trị vật chất có
sẵn trong tự nhiên (nguyên liệu, vật liệu do tự nhiên sinh ra mà loài người có thể
khai thác và sử dụng trong sản xuất và đời sống). Là những điều kiện cần thiết cho
sự tồn tại của xã hội và loài người.
Tài nguyên thiên nhiên được chia thành hai loại: tài nguyên tái tạo và tài
nguyên không tái tạo.
- Tài nguyên tái tạo (nước ngọt, đất, sinh vật,…vv), là tài nguyên có thể tự
duy trì hoặc bổ sung một cách liên tục khi được quản lý một cách hợp lý. Tuy
nhiên, nếu sử dụng không hợp lý, tài nguyên tái tạo có thể bị suy thoái không thể
tái tạo được. Ví dụ: tài nguyên nước có thể bị ô nhiễm, tài nguyên đất có thể bị
mặn hóa, bạc màu,xói mòn,vv.
- Tài nguyên không tái tạo: là loại tài nguyên tồn tại hữu hạn, sẽ mất đi hoặc
biến đổi sau quá trình sử dụng. Ví dụ như tài nguyên khoáng sản của một mỏ có
thể cạn kiệt sau khi khai thác than. Tài nguyên gen di truyền có thể mất đi cùng với
sự tuyệt diệt của các loài sinh vật quý hiếm.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – kỹ thuật đang làm thay đổi giá trị của
nhiều loại tài nguyên. Nhiều tài nguyên cạn kiệt trở nên quý hiếm; nhiều loại tài
nguyên giá trị cao trước đây nay trở thành phổ biến, giá rẻ do tìm được phương
pháp chế biến hiệu quả hơn, hoặc được thay thế bằng loại khác.

Môi trường tự nhiên (gọi tắt là “môi trường”) bao gồm các yếu tố tự nhiên
và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có
ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và thiên
nhiên.
3. Môi trường
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hóa học,
sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng ít nhiều cũng chịu tác động
của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi, sông, biển cả, không khí, động, thực
vật, đất nước….Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà
cửa, trồng cấy, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản
cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng đồng hóa các chất thải, cung cấp cho
ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú.
II. CÁC CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ ỨNG PHÓ VỚI BIỂN ĐỔI KHÍ
HẬU, QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN, BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT
RA HIỆN NAY
1. Các chủ trương của Đảng về ứng phó với biển đổi khí hậu, quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường
2
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng, Nhà nước ta luôn
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác ứng phó biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên
và bảo vệ môi trường, đã được nêu trong văn kiện Đại hội IX, X và XI, trong các
nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trong chính sách,
pháp luật về đất đai, chiến lược biển, khoáng sản và bảo vệ môi trường.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) nhận định “Nhân dân thế giới đang đứng trước những
vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài người. Đó là giữ gìn hòa
bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó
với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi
những dịch bệnh hiểm nghèo.Việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi sự hợp tác
và tinh thần trách nhiệm cao của tất cả các quốc gia, dân tộc”, chỉ ra phương hướng

cơ bản phát triển đất nước là “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường”, đồng thời xác
định “Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội
và nghĩa vụ của mọi công dân. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc
phục ô nhiễm với khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển năng lượng
sạch, sản xuất sạch và tiêu dùng sạch. Coi trọng nghiên cứu, dự báo và thực hiện
các giải pháp ứng phó với quá trình biến đổi khí hậu và thảm họa thiên nhiên.
Quản lý, bảo vệ, tái tạo và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên quốc gia”.
Nghị quyết Đại hội Đảng XI đã xác định vị trí, vai trò quan trọng của bảo vệ
tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 2011 - 2020 khẳng định “Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng
bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu”, đồng thời
xác định mục tiêu, định hướng nhiệm vụ, giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu,
khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 18 tháng 3 năm 2002 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX về Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010 có chủ trương ưu tiên đầu tư phát triển hệ
thống thủy lợi theo hướng sử dụng tổng hợp tài nguyên nước.
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5 tháng 8 năm 2008 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa X về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có mục tiêu chủ
động triển khai các biện pháp thích ứng và đối phó với biến dổi khí hậu;ngăn chặn
và xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường, từng bước nâng cao chất lượng môi
trườngtạo điều kiện sống an toàn cho nhân dân đồng bằng sông Cửu Long, miền
Trung và các vùng thường xuyên bị bão, lũ, thiên tai…
Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 3003 của Bộ Chính trị về
sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh với quan điểm nâng
cao hiệu quả sử dụng bền vững tài nguyên đất rừng, bảo vệ môi trường sinh thái.
Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16 tháng 01 năm 2012 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI về Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm
đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại với quan điểm

3
phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng phải gắn với tiết kiệm đất canh tác, bảo vệ môi
trường, tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Quan điểm quản lý, bảo vệ tài nguyên đất được đề cập đến trong Nghị quyết
số 26-NQ/TW ngày 12 tháng 3 năm 2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và trong Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày
31 tháng 10 năm 2012 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về Tiếp tục đổi
mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc
đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 25 tháng 4 năm 2011 của Bộ Chính trị về
định hướng chiến lược khoáng sản và phát triển công nghiệp khai khoáng đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã thể hiện rõ quan điểm, mục tiêu và giải pháp
đồng bộ về bảo vệ tài nguyên khoáng sản.
Bảo vệ rừng luôn được đề cập trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng về
bảo vệ môi trường. Tỷ lệ che phủ rừng là chỉ tiêu quan trọng trong các Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004
của Bộ Chính trị về Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước nêu rõ nhiệm vụ bảo vệ nghiêm ngặt rừng tự nhiên, đặc biệt
là đối với các khu rừng nguyên sinh, rừng đầu nguồn, rừng ngập mặn; hạn chế đến
mức thấp nhất việc mở đường giao thông và các hoạt động gây tổn hại đến rừng;
đẩy mạnh trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi trọc và khôi phục rừng ngập mặn.
Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9 tháng 2 năm 2007 của Ban Chấp hành
Trung ương về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 nhấn mạnh thế kỷ 21 là
thế kỷ biển và đại dương, định hướng phát triển kinh tế biển đồng thời đề ra các
chủ trương, giải pháp về bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, đặc biệt là công tác
điều tra cơ bản.
Về bảo vệ môi trường, bên cạnh các chủ trương, giải pháp nêu trong Văn
kiện của Đại hội Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành một số Nghị quyết,

Chỉ thị chuyên đề về công tác bảo vệ môi trường
Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng
cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đã nêu quan điểm của Đảng về công tác bảo vệ môi trường, đó là “Bảo vệ
môi trường là một vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ có
tính xã hội sâu sắc”.
Tiếp theo đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15
tháng 11 năm 2004 về Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết tiếp tục khẳng định các quan điểm của Chỉ thị số
36/TW và bổ sung, phát triển các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp lớn,
cập nhật xu thế của thời đại và phù hợp với yêu cầu của thực tiễn đặt ra.
Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 21 tháng 1 năm 2009 của Ban Bí thư về tiếp tục
thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị cập nhật những nhận thức
4
mới và đề ra các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ môi trường phù hợp với
tình hình mới.
2. Vấn đề đặt ra cho Việt Nam hiện nay
Hiện thực hóa các chủ trương, giải pháp của Đảng, các cấp, các ngành đã
đẩy mạnh hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên bảo vệ môi
trường và đã đạt được những kết quả bước đầu.
Tuy nhiên, các chủ trương, giải pháp còn thiếu đồng bộ; nhiều giải pháp
chưa xác định rõ bước đi, cơ chế và nguồn lực thực hiện; những vấn đề mới xuất
hiện chưa có hướng xử lý kịp thời. Do đó, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn
còn nhiêu hạn chế, yếu kém trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện.
Trước tình hình và bối cảnh đó, với những lý do nêu trên, đòi hỏi ban Chấp
hành Trung ương Đảng phải xem xét và ban hành Nghị quyết vè chủ động ứng phó
với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường để định
hướng cho các cấp, các ngành thống nhất triển khai thực hiện những vấn đề có ý
nghĩa sống còn này.
B. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ HẠN CHẾ, YẾU KÉM TRONG VIỆC

ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU, QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN VÀ
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
I. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Thời gian qua công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai,
quản lý tài nguyên và bảo vệ tài nguyên, môi trường được quan tâm, có bước
chuyển biến và đạt được một số kết quả quan trọng.
1. Về ứng phó với biến đổi khí hậu
- Nhận thức về biến đổi khí hậu của các ngành các cấp, các tổ chức đoàn
thể và người dân đã có những bước chuyển biến tích cực.
Việt Nam đã sớm tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi
khí hậu và Nghị định thư Kyoto.
Công tác tuyên truyền, phổ biên, giáo dục nâng cao nhận thức về biến đổi
khí hậu được thực hiện; qua đó nhận thức của các ngành, các cấp về biến đổi khí
hậu, về nguy cơ tác độngc ủa biến đổi khí hậu đã có chuyển biến tích cực.
- Thể chế, chính sách về ứng phó với biến đổi khí hậu bước đầu được thiết
lập.
Chủ trương, giải pháp của Đảng về ứng phó với biến đổi khí hậu như: Chiến
lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020; Chiến lược quốc gia về
Tăng trưởng xanh; Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu; Chiến lược quốc gia
Phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020; Chiến lược Phát triển ngành Khí
tượng Thủy văn đến năm 2020; Chiến lược Phát triển Thủy lợi đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2050;Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020 và tầm
nhìn đến năm 2030.
5
Một số văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành như:Luật Đê điều;
Luật Tài nguyên nước; ; Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; Pháp lệnh
Phòng, chống lụt bão. Đã thành lập Ủy ban Quốc gia về biến đổi khí hậu, hình
thành đơn vị đầu mối trung ương thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về biến đổi
khí hậu.
Về tổ chức bộ máy, Ở Trung ương, Bộ Tài nguyên và Môi trường được

Chính phủ giao là cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về biến đổi
khí hậu. Trong cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường có Cục Khí tượng
Thủy văn và Biến đổi khí hậu là cơ quan chuyên môn, giúp Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường thực hiện quản lý, điều phối các vấn đề liên quan đến biến
đổi khí hậu. Bên cạnh đó, Ban Chỉ đạo phòng, chống lụt bão Trung ương, Ủy ban
quốc gia về tìm kiếm cứu nạn, các cơ cấu tổ chức về phòng tránh và giảm nhẹ thiên
tai ở các địa phương cũng được kiện toàn, bổ sung theo hướng phù hợp với bối
cảnh biến đổi khí hậu. Để tăng cường công tác chỉ đạo, điều phối liên ngành thực
hiện các chiến lược, chương trình, đề án, dự án liên quan đến biến đổi khí hậu, Ủy
ban Quốc gia về biến đổi khí hậu được thành lập.
Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Namđược xây dựng, cập
nhật và công bố. Chương trình mục tiêu quốc gia về biến đổi khí hậu được triển
khai thực hiện đã đạt được kết quả bước đầu. Đã triển khai nghiên cứu, đánh giá
được tác động của biến đổi khí hậu đến một số lĩnh vực, trên cơ sở đó xây dựng kế
hoạch hành động ứng phó.
Năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai được nâng lên một bước. Hệ thống quan
trắc và dự báo khí tượng thủy văn từng bước được đầu tư, nâng cấp thông qua đảm
bảo thông tin thích ứng với biến đổi khí hậu; bước đầu thực hiện điều chỉnh hệ
thống tự nhiên, kinh tế - xã hội để có thể tiếp tục tồn tạo và phát triển trong điều
kiện biến đổi khí hậu; hạn chế thấp nhất những tổn thất có thể xảy ra trong hiện tại
và tương lai. Qua Đề án hiện đại hóa công nghệ dự báo và mạng lưới quan trắc khí
tượng thủy văn. Đến nay, một số công nghệ dự báo hiện đại đã được đưa vào sử
dụng, nhờ đó đã tăng thời gian dự báo bão và áp thấp nhiệt đới từ 24 giờ lên 36
giờ, dự báo cơn bão có quỹ đạo ổn định trước từ 60 giờ đến 72 giờ, cảnh báo trước
48 giờ đến 72 giờ các đợt không khí lạnh gây rét đậm, rét hại.
Công tác phòng chống thiên tai đã được triển khai quán triệt theo phương
châm “Bốn tại chỗ” đã tính đến tác động của biến đổi khí hậu. Các nội dung phòng
tránh, giảm nhẹ thiên tai đã được lồng ghép trong các quy hoạch, kế hoạch, chương
trình phát triển kinh tế - xã hội, của các ngành, các vùng và địa phương. Việc nâng
cao điều kiện phòng, chống thiên tai cho các khu dân cư tại các vùng có nguy cơ,

vùng ngập lũ, vùng ven biển được quan tâm.
Các hoạt động giảm nhẹ biến đổi khí hậu đã được thúc đẩy thực hiện, đã
được quan tâm. Tiết kiệm năng lượng, sử dụng năng lượng mới và tái tạo, các hoạt
động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính được triển khai. Một số ngàng và địa phương
đã đạt được những kết quả bước đầu trong các lĩnh vực này. Người dân và doanh
nghiệp đã bắt đầu chủ động đầu tư khai thác thủy điện nhỏ, năng lượng gió, năng
lượng mặt trời, nhiên liệu sinh học phục vụ sản xuất và tiêu dung. Chương trình
6
giảm mất rừng, suy thoái rừng nhằm giữ khả năng hấp thụ khí nhà kính của hệ sinh
thái rừng được thực hiện với sự hỗ trợ của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc
và chính phủ một số nước.
2. Về quản lý tài nguyên
- Các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể và người dân đã nhận thức được
vai trò của tài nguyên, coi trọng nguồn lực tài nguyên trong quá trình xây dựng và
phát triển đất nước.
Các cấp, các ngành đều nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của tài
nguyên và chú ý phát huy nguồn lực tài nguyên trong quá trình phát triển kinh tế-
xã hội. Đã có những chuyển biến bước đầu trong nhận thức về sự cần thiết bảo vệ,
khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn tài nguyên của đất nước. việc sử
dụng lãng phí tài nguyên bị lên án ngày càng mạnh mẽ.
- Hệ thống chính sách, pháp luật, tổ chức bộ máy quản lý tài nguyên sớm
được xây dựng từng bước đổi mới và hoàn thiện; đầu tư cho điều tra cơ bản được
chú ý hơn.
Pháp luật về Đất đai, Khoáng sản, Tài nguyên nước,Thủy sản… sớm được
xây dựng đã được sửa đổi, bổ sung với bảy bộ luật chuyên ngàng,hình thành môi
trường pháp lý tương đối đầy đủ cho việc khai thác, sử dụng tài nguyên phục vụ
cho phát triển kinh tế - xã hội. Các chiến lược, quy hoạch tài nguyên cũng đã được
xây dựng và phê duyệt, định hướng cho hoạt đọng khai thác, sử dụng tài nguyên.
Theo đó, một số cơ chế công cụ, biệ pháp về quản lý tài nguyên cũng được xác lập
và áp dụng trên thực tế. Bộ máy quản lý nhà nước về quản lý tài nguyên được thiết

lập từ trung ương đến địa phương; có lĩnh vực đến cấp xã. Nhà nước quan tâm đầu
tư từ ngân sách cho công tác quản lý tài nguyên, nhất là cho điều tra, đánh giá tiềm
năng, trữ lượng tài nguyên. Hoạt động khoáng sản đã được chấn chỉnh theo đúng
quy định của pháp luật sau khi có Luật Khoáng sản năm 2010 và Chỉ thị của Thur
tướng Chính phủ về vấn đề này.
- Đầu tư cho điều tra cơ bản được chú ý hơn,nhiều chương trình, dự án điều
tra cơ bản về tài nguyên được thực hiện, nhất là điều tra địa chất khoáng sản.
Kinh phí đầu tư cho điều tra cơ bản về tài nguyên đã được đảm bảo ở mức
ngày càng tốt hơn. Huy động nguồn thu từ tài nguyên đầu tư trở lại cho công tác
bảo vệ tài nguyên đã được thí điểm thực hiện bước đầu thành công. Đấu giá quyền
sử dụng đất, quyền khai thác khoáng sản, thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên
nước, chi trả dịch vụ môi trường rừng, v.v. là những hướng đi, cách làm mới đang
được triển khai thực hiện.
Công tác kiểm kê, thống kê đất đai lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
được triển khai ở tất cả các cấp.
Điều tra cơ bản tài nguyên nước được triển khai trên tất cả các mặt: điều tra
đánh giá nước mặt, nước dưới đất; tình hình khai thác, sử dụng và xả nước thải vào
nguồn nước; lập bản đồ lưu vực sông, trong đó một số lưu vực sông lớn, vùng
trọng điểm đã và đang được điều tra, đánh giá; đã hoàn thành công tác điều tra cơ
bản tài nguyên nước dưới đất trên phạm vi 15 tỉnh trung du và miền núi Bắc
7
bộ.Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Quy hoạch điều tra cơ bản địa chất về tài
nguyên khoáng sản đến năm 2015, định hướng đến năm 2020”. Đã hoàn thành điều
tra địa chất - khoáng sản tỉ lệ 1:50.000 trên tổng diện tích 198.000 km
2
, chiếm 59,8
% lãnh thổ đất liền; đã làm rõ tiềm năng của nhiều vùng có triển vọng khoáng sản,
góp phần gia tăng đáng kể tài nguyên quặng vàng gốc, chì kẽm, đồng, antimon,
urani, kaolin, đá vôi sạch, đá ốp lát các loại, nguyên liệu làm xi măng v,v, ; đã
phát hiện nhiều mỏ mới từ trung bình đến lớn như: đồng Tả Phời (Lào Cai), đồng

Nậm Tia (Lai Châu), v.v. Đặc biệt đã phát hiện sa khoáng titan trong tầng cát đỏ
ven biển có tiềm năng rất lớn tại Bình Thuận, Ninh Thuận và Bắc Bà Rịa - Vũng
Tàu. Hoạt động khai thác khoáng sản thời gian gần đây đã được chấn chỉnh theo
đúng quy định của pháp luật; đã điều tra và xây dựng cơ sở dữ liệu về nguồn lợi
thủy sản,lập quy hoạch, chương trình, dự án bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy
sản.Tài nguyên đã đóng góp quan trọng cho giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội thời
gian qua, đặc biệt trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới.
Quỹ đất cho phát triển công nghiệp, đô thị, hạ tầng và các mục đích phi nông
nghiệp khác được đảm bảo. Nguồn thu từ đất đai đã đóng góp ngày càng lớn cho
ngân sách. Đất canh tác nông nghiệp, đất rừng về cơ bản được bảo về, nhờ đó an
ninh lương thực đã được giữ vững; Việt Nam trở thành một trong những quốc gia
xuất khẩu nông sản hàng đầu trên thế giới.
Than, dầu khí, vật liệu xây dựng và một số loại khoáng sản đã góp phần bảo
đảm nguồn cung cho phát triển kinh tế - xã hội và tạo nguồn thu quan trọng cho
ngân sách nhà nước. Nhu cầu nước tăng nhanh song vẫn được bảo đảm phục vụ
sản xuất – kinh doanh, tưới tiêu, thủy điện và nhiều mục đích khác. Khai thác
nguồn lợi thủy sản góp phần quan trọng tạo thu nhập và ổn định sinh kế của nười
dân ven biển.
Bước đầu quan tâm đến khai thác các nguồn tài nguyên mới, năng lượng tái
tạo, năng lượng mới và vật liệu thay thế. Diện tích đất chưa sử dụng của cả nước
từng bước được khai thác đưa vào sử dụng. Một số khoáng sản mới được phát
hiện làm cơ sở phát triển nguyên liệu mới. Việc tìm kiếm các nguồn năng lượng
mới, vật liệu thay thế đã bước đầu được triển khai.
Một số chương trình, dự án tìm kiếm, khai thác khoáng sản từ các nước khác
đang được thực hiện. Đã đầu tư nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm một số vật liệu
thay thế nguyên liệu tự nhiên góp phần giảm sức ép lên khai thác tài nguyên.
3. Về bảo vệ môi trường
- Nhận thức của các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể và người dân về
bảo vệ môi trường được nâng lên.
Nhận thức vai trò, tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường của các

cấp các ngành, các tổ chức đoàn thể và người dân đã có những chuyển biến tích
cực; Bảo vệ môi trường đã được đưa vào chương trình giáo dục trong các cấp học
tuyên truyền trên phương tiện truyền thông. Báo cáo đánh giá, kiểm điểm, kế
hoạch, chương trình hoạt động của nhiều cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể đã đề
8
cập đến công tác bảo vệ môi trường. Đã xuất hiện nhiều gương tốt, điển hình trong
công tác bảo vệ môi trường.
- Hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường được hình thành về
cơ bản, tổ chức bộ máy và nguồn lực cho bảo vệ môi trường có bước tăng cường.
Từ năm 1991, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch Quốc gia về
Môi trường và Phát triển bền vững giai đoạn 1991 - 2000. Tiếp sau đó Chính phủ
cũng đã phê duyệt Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia giai đoạn đến năm
2010, đến năm 2020, và các chiến lược có liên quan.
Hệ thống pháp luật, chính sách về bảo vệ môi trường được hình thành về cơ
bản từng bước hoàn thiện với hai bộ luật cơ bản: Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đa
dạng sinh học. Nhiều bộ luật liên quan cũng có các quy định về bảo vệ các thành
phần môi trường.
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đã được thiết lập từ
Trung ương đến địa phương và từng bước được kiện toan; lực lượng cảnh sát môi
trường đã đi vào hoạt động; Nhà nước đã dành 1% tổng chi ngân sách nhà nước
hàng năm cho các hoạt động sự nghiệp môi trường; ban hành một số cơ chế chính
sách để huy động nguồn lực trong xã hội, vốn vay, tài trợ các tổ chức quốc tế,
chính phủ các nước cho bảo vệ môi trường và đã huy đôngk được nguồn vốn đáng
kể cho bảo vệ môi trường.
Một số cơ chế tài chính về bảo vệ môi trường được hình thành, đi vào hoạt
động như Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam, quỹ bảo vệ môi trường của một số
ngành, địa phương đã góp phần tăng cường các nguồn vốn hỗ trợ thực hiện công
tác bảo vệ môi trường thời gian qua. Một số công cụ kinh tế như thuế, phí bảo vệ
môi trường đã góp phần tạo nguồn thu từ xã hội để tái đầu tư cho bảo vệ môi
trường.

Công tác xã hội hoá hoạt động bảo vệ môi trường bước đầu cũng đã đem lại
những kết quả đáng ghi nhận, đã có nhiều doanh nghiệp tư nhân tham gia cung ứng
dịch vụ vệ sinh môi trường như cấp thoát nước, xử lý nước thải, khí thải, thu gom
và xử lý chất thải rắn và chất thải nguy hại, hoạt động tư vấn, thiết kế, v.v. Việt
Nam đã và đang tích cực thực hiện nghĩa vụ của các nước thành viên. Việt Nam
đã tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế, tham gia 20 điều ước quốc tế về môi trường;
đã có gần 40 chương trình, dự án lớn về bảo vệ môi trường được thực hiện với các
đối tác song phương và đa phương. Việt Nam cũng tham gia tích cực vào các diễn
đàn thế giới và khu vực về bảo vệ môi trường, đặc biệt là các hoạt động hợp tác
quốc tế về bảo vệ môi trường trong khu vực châu Á, khối các nước ASEAN, các
nước tiểu vùng sông Mê - Công mở rộng.
Mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường được kiềm chế, làm chậm lại; nhiều
cảnh quan thiên nhiên, giá trị của đa dạng sinh học được bảo vệ, bảo tồn.
Thời gian qua, kinh tế nước ta phát triển nhanh, đô thị hóa, công nghiệp hóa
diễn ra mạnh mẽ nên môi trường chịu nhiều áp lực lớn, đặc biệt là nước thải, khí
thải, chất thải rắn. Thông thường trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa như thời
gian qua, ô nhiễm môi trường có thể gia tăng ở mức gấp nhiều lần so với mức tăng
9
GDP
1
. Tuy nhiên, những nỗ lực bảo vệ môi trường đã góp phần kiềm chế, làm
chậm lại tốc độ gia tăng ô nhiễm, suy giảm chất lượng môi trường sống ở nước ta.
Trong công tác phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm, hoạt động đánh giá môi
trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường đã
được thực hiện. Nhiều cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đã được xử lý
triệt để, nhất là trong các đô thị, khu dân cư. Công tác quản lý chất thải được quan
tâm hơn. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn và chất thải nguy hại tăng. Lộ trình áp dụng
các tiêu chuẩn về khí thải đối với các phương tiện giao thông vận tải đã được ban
hành.
Từng bước khắc phục ô nhiễm môi trường và cải thiện chất lượng môi

trường. Nhiều đoạn sông, kênh, mương, ao, hồ trong đô thị, khu dân cư được kè
bờ, nạo vét, cải thiện môi trường. Một số khu vực mỏ sau khai thác được cải tạo,
phục hồi. Điều kiện sống của người dân được cải thiện, Tỷ lệ dân được cung cấp
nước sạch, hợp vệ sinh tăng.
Độ che phủ rừng được nâng lên đạt gần 40%. Quy hoạch hệ thống các khu
nảo tồn thiên nhiên được xây dựng.
Số lượng và diện tích các vườn quốc gia, khu bảo tồn ngày càng tăng trong
những năm gần đây. Nhiều khu bảo tồn thiên nhiên đã được công nhận là di sản tự
nhiên của thế giới, là khu dự trữ sinh quyển quốc tế, di sản tự nhiên của ASEAN.
II. HẠN CHẾ, YẾU KÉM
Mặc dù đã đạt được những kết quả trên, nhưng, việc ứng phó với biến đổi khí
hậu cọn bị động,lúng túng; thiên tai ngày càng bất thường,gây nhiều thiệt hại về
người và tài sản, tài nguyên chưa được quản lý, khai thác sử dụng có hiệu quả bền
vững, một số loại tàu nguyên bị khai thác quá mức dẫn tới suy thoái, cạn kiệt; ô
nhiễm môi trường vẫn tiếp tục gia tăng, có nơi nghiêm trọng; đa dạng sinh học suy
giảm, nguy cơ mất cân bằng sinh thái đang diễn ra trên diện rộng.
1. Về ứng phó với biến đổi khí hậu
Nhận thức về biến đổi khí hậu chưa đầy đủ, chưa thống nhất về nguy cơ cũng
như cách thức ứng phó.
Hiểu biết, nhận thức cũng về biến đổi khí hậu còn chung cung; nhận biết, nhận
dạng về biến đổi khí hậu nhiều nơi còn chưa rõ; chưa đánh giá đầy đủ tác động của
biến đổi khí hậu theo vùng, miền, lĩnh vực. Nhiều vấn đề mới chưa được cập nhật
hoặc chậm so với nhận thức chung trên thế giới. Vẫn còn những hoài nghi về biến
đổi khí hậu và những nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu mới
chỉ được coi là nguy cơ mà chưa được xem là cơ hội để thúc đẩy phát triển theo
hướng bền vững; ứng phó với biến đổi khí hậu chỉ mới được quan tâm ở khía cạnh
phòng chống thiên tai mà chưa nhận thức được cần chủ động thích ứng, giảm nhẹ
phát thải nhà kính. Nhận thức về sự cần thiết phải lồng ghép biến đổi khí hậu, phối
hợp liên ngành, liên vùng trong ứng phó với biến đổi khí hậu chưa được quan tâm
đúng mức.

1
10
- Hệ thống chính sách, pháp luật , tổ chức bộ máy, nhân lực về ứng phó với
biến đổi khí hậu hình thành còn chậm, nguồn lực còn hạn chế.
Chính sách, pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu mới bước đầu được
hình thanh chưa có hệ thống và thiếu đồng bộ, chưa rõ hướng đi và lộ trình. Các
quy định về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính còn phân tán; các quy định về thích
ứng chủ yếu về phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai. Phần lớn quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của các ngành, lĩnh vực, địa phương chưa được bổ sung, điều chỉnh
cho phù hợp với diễn biến của biến đổi khí hậu.
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước mới chỉ được thành lập ở Trung ương với
đội ngũ cán bộ còn mỏng chưa đáp ứng về chuyên môn, nghiệp vụ.
Nguồn lực cho đầu tư,ứng phó với biến đổi khí hậu chỉ đáp ứng được một
phần rất nhỏ so với nhu cầu. Công tác nghiên cứu khoa học về cơ bản biến đổi khí
hậu còn yếu.
- Hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu thiếu đồng bộ, chưa đạt kết quả
như yêu cầu của thực tiễn.
Năng lực cảnh báo, dự báo thiên tai, giám sát biến đổi khí hậu chưa đáp ứng
yêu cầu. Mặc dù đã được quan tâm đầu tư trong thời gian gần đây, nhưng hệ thống
mạng lưới các trạm khí tượng thủy văn, giám sát khí hậu còn thiếu và chưa đáp
ứng yêu cầu. Khả năng dự báo, cảnh báo còn hạn chế, thời gian dự báo so với các
nước tiên tiến còn ngắn, độ chính xác chưa cao.
Kịch bản biến đổi khí hậu chưa cụ thể cho từng giai đoạn, đặc biệt là giai
đoạn 2020-2030 và các giai đoạn sau đó để có kế hoạch ứng phó phù hợp.
Công tác phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai chỉ mới tập trung vào ứng phó
và khắc phục hậu quả mà ít chú trọng đến chủ động phòng ngừa. Các hoạt động
phòng chống thiên tai còn thiếu tính chuyên nghiệp, năng lực cứu hộ, cứu nạn còn
hạn. Chỉ tính trong 15 năm trở lại đây, thiên tai đã làm chết và mất tích hơn 10.711
người, giá trị thiệt hại về tài sản ước tính lên đến 1,5% GDP/năm
2

.
Các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong thời gian qua vẫn chưa
được đẩy mạnh đúng mức. Phát thải nhà kính trên đơn vị GDP còn ở mức cao
(khoảng hơn 2 tấn CO2 tương đương/1.000 USD). Năng lượng sạch, năng lượng
tái tạo vân chưa được phát triển sử dụng tương xứng với tiềm năng.
Mức tiêu hao năng lượng trên đơn vị GDP còn cao hơn các nước trong khu
vực. Hoạt động sử dụng tiết kiệm hiệu quả năng lượng, dù đã đạt được một số kết
quả, xong song cũng chưa tương xứng với tiềm năng, chưa đáp ứng được như
mong đợi.
2. Về quản lý tài nguyên
- Công tác quản lý tài nguyên chưa được quan tâm đúng mức, nhận thức về
khai thác, sử dụng tài nguyên có chỗ còn chưa đúng, nhất là về mối quan hệ giữa
lợi ích trước mắt và lâu dài.
2
Theo báo cáo của Cục Quản lý đê điều và Phòng chống lụt bão.
11
Mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên để khôi phục nền
kinh tế sau chiến tranh, thoát khỏi tính trạng kém phát triển, song kéo dài, kém
hiệu quả. Ở một số nơi chỉ quan tâm, đáp ứng nhu cầu về tài nguyên cho phát triển
kinh tế , tạo nguồn thu lớn nhất cho ngân sách mà không chú ý đến khai thác, sử
dụng hợp lý, hiệu quả và bền cũng tào nguyên để giữ gìn cho các giai đoạn tiếp
theo, cho các thế hệ tương lai. Việc giải quyết hài hòa giữa lợi ích Nhà nước, nhà
đầu tư và người dân, giữa lợi ích trước mắt và lâu dài, giữa cục bộ và tổng thể chưa
được nhận thức đầy đủ vè coi trọng.
- Chính sách, pháp luật về quản lý tài nguyên còn bất cập, thiếu đồng bộ,
thiếu chặt chẽ và chưa sát với thực tế.
Chính sách, pháp luật về tài nguyên còn thiên về huy động nguồn lực cho tài
nguyên phát triển kinh tế - xã hội, chưa chú trọng đến bảo vệ các nguồn tài nguyên
quốc gia. Quy hoạch tài nguyên chưa thực sự dựa trên tiềm năng, khả năng cung
ứng của các nguồn tài nguyên, chưa làm tiền đề, cơ sở dđể lập quy hoạch phát triển

kinh tế - xã hội, ngành,lĩnh vực. Một số chính sách, cơ chế khai thác, sử dụng tài
nguyên không còn phù hợp nhưng chậm được đổi mới. Các quy định về khai thác,
sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững tài nguyên còn phân tán, thiếu đồng bộ, chưa
thống nhất. Công cụ kinh tế chưa được áp dụng triệt để, chưa phát huy hiệu quả
trong nền kinh tế thị trường.
Công tác điều tra cơ bản, đánh giá tiềm năng các nguồn tài nguyên chưa
được quan tâm đúng mức.
Việc quản lý, quy hoạch, cấp phép, giám sát hoạt động khai thác, sử dụng tài
nguyên chưa tốt, có nơi còn buông lỏng quản lý.
Còn thiếu cơ chế, chính sách, pháp luật, đủ mạnh để khuyến khích phát
triển, sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng mới; thúc đẩy, khuyến khích và sử
dụng tiết kiệm, hợp lý, hiệu quả và bền vững tài nguyên.
Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, bộ phận chuyên môn quản lý nhà
nước về quản lý tài nguyên chưa thật rõ, chưa thống nhất, còn mâu thuẫn, chồn
chéo. Quản lý nhà nước đối với hoạt động điều tra cơ bản về tài nguyên còn bất
cập, chậm đổi mới, chưa phù hợp với thể chế kinh tế thị trường. Còn thiếu các
chuyên gia, cán bộ quản lý làm công tác phân tích, dự báo về biến động tài nguyên,
phân tích kinh tế trong khai thác, sử dụng tài nguyên. Đầu tư cho công tác điều tra
cơ bản về tài nguyên chưa đáp ứng được nhu cầu.
Tài nguyên chưa được điều tra, đánh giá đầy đủ tiềm năng, các giá trị, chưa
được khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững,một số loại bị khai thác quá
mức nên suy thoái, cạn kiệt.
Các loại tài nguyên đất đai, nước, khoáng sản, rừng, thủy sản chưa được
đánh giá, xác định đầy đủ về số lượng, chất lượng, giá trị. Do nguồn lực đầu tư hạn
chế, công nghệ, trang thiết bị, máy móc còn lạc hậu, nguồn nhân lực nhiều bất cập
nên công tác điều tra cơ bản chưa thực sự đi trước một bước như yêu cầu để phục
vụ công tác bảo vệ, quản lý các nguồn tài nguyên của đất nước.
12
Quy hoạch tài nguyên nói chung chậm, thiếu, chưa đồng bộ, mức độ gắn
kết giữa các quy hoạch chưa cao. Công tác quản lý, kiếm soát các hoạt động khai

thác, sử dụng tài nguyên chưa tốt. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên chưa tốt.
Việc khai thác tài nguyên ở nhiều nơi còn kém hiệu quả, gây thất thoát tài nguyên
và tác động tới môi trường và xã hội.
Đất canh tác nông nghiệp, đất rừng tự nhiên, rừng đặc dụng, rừng phòng hộ
bị thu hẹp diện tích do bị chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Việc sử dụng đất còn
lãng phí, manh mún, hiệu quả thấp nhất là đất trong các khu đô thị, dân cư. Chất
lượng đất đã và đang có xu hướng giảm, tình trạng hoang hóa, sa mạc hóa đất nông
nghiệp xảy ra ở nhiều nơi.
Khai thác khoáng sản tràn lan, manh mún và kém hiệu; công nghệ khai thác,
chế biến còn lạc hậu, gây ô nhiễm nghiêm trọng đến môi trường. Chưa kiểm soát
và ngăn chặn hiệu quả hoạt động khai thác trái phép, xuất khẩu khoáng sản dưới
dạng nguyên liệu thô đãvà làm thất thoát tài nguyên. Xung đột lợi ích trong khai
thác khoáng sản chậm được khắc phục. Tiềm năng trữ lượng các loại khoáng sản
của Việt Nam không lớn so với một số nước khác, tuy nhiên, số lượng các doanh
nghiệp tham gia hoạt động khoáng sản lớn hơn nhiều lần.
Sử dụng tài nguyên nước còn lãng phí, hiệu quả thấp, nhiều nơi thiếu nước
ngọt trầm trọng; về lâu dài an ninh tài nguyên nước không được bảo đảm. Tình
trạng khai thác nước không có giấy phép còn phổ biến. Đã xảy ra tranh chấp trong
sử dụng nước ở một số nơi.
Nguồn lợi thủy sản thuộc các lưu vực và vùng ven bờ bị khai thác quá mức,
không bền vững, mất dần khả năng tự tái tạo, phục hồi nên suy thoái, cạn kiệt, nhất
là vùng ven bờ.
Chưa coi trọng đầu tư nghiên cứu, phát triển và sử dụng các loại năng lượng
tái tạo,vật liệu mới, vật liệu tái chế.
3. Về bảo vệ môi trường
- Ý thức tự giác chưa cao, bảo vệ môi trường chưa trở thành thói quen, nếp
sống thường xuyên của người dân; còn một bộ phận không nhỏ thiếu ý thức giữ
gìn, bảo vệ môi trường.
Ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ; ý thức tự giác của nhiều doanh
nghiệp và người dân về bảo vệ môi trường còn thấp. Vẫn còn tư tưởng chấp nhận

môi trường quá mức để phát triển kinh tế. Một bộ phận chưa nhận thức rõ vai trò
tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường đối với sự nghiệp phát triển bền
vững của đất nước; chưa nhận thức được xu thế thế giới và thời đại về môi trường
và phát triển bền vững. Phần lớn còn coi bảo vệ môi trường là việc của Nhà nước,
của người khác chưa thấy hết trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, bản thân mình và
của cộng đồng. Thái độ, hành vi, lối sống, thói quen tiêu dùng lãng phí thiếu thân
thiện với môi trường còn phổ biến ở nhiều nơi. Việt Nam còn bị một số tổ chức
quốc tế phê phán về thói quen tiêu thụ động vật hoang dã.
Ý thức chấp hành Luật Bảo vệ môi trường và giữ gìn vệ sinh môi trường của
các hộ sản xuất kinh doanh, nhất là các hộ sản xuất kinh doanh thuộc các làng nghề
13
còn kém. Ý thức trách nhiệm về bảo vệ môi trường của một số nhà máy, xí nghiệp,
cơ sở sản xuất, kinh doanh còn thấp, chưa chủ động, tự giác thực hiện trách nhiệm
và nghĩa vụ bảo vệ môi trường, phần lớn vẫn chạy theo lợi nhuận, coi nhẹ bảo vệ
môi trường.
- Hệ thống chính sách, pháp luật, tổ chức bộ máy về bảo vệ môi trường còn
nhiều bất cập, nguồn luwch cho bảo vệ môi trường chưa đáp ứng yêu cầu.
Hệ thống chính sách,pháp luật về bảo vệ môi trường còn thiếu hệ thống
chồng chéo, chưa sát thực tế và không theo kịp yêu cầu của phát triển bền vững và
hội nhập quốc tế. Còn thiếu các quy định hoặc có nhưng chưa đầy đủ về bảo vệ
môi trường đất, nước, không khí, về tái chế chất thải, về khắc phục ô nhiễm, cải
tạo, phục hồi môi trường, về tiêu dùng bền vững. Chưa có cơ sở pháp lý về quy
hoạch môi trường, phân vùng chức năng sinh thái làm căn cứ để hoạch định chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội, lập quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng.
Chưa tạo ra hành lang pháp lý và môi trường thuận lợi để khuyến khích phát
triển ngành công nghiệp, dịch vụ môi trường và sản phẩm thân thiện với môi
trường. Thiếu các cơ chế về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra,
giải quyết tranh chấp, xung đột về môi trường. Mặc dù đã có các quy định về tội
phạm môi trường trong Bộ luật Hình sự nhưng chưa đầy đủ và cụ thể nên chưa
thực hiện được trên thực tế. Nhiều quy định về xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi

trường mới chỉ dừng lại ở nguyên tắc, thiếu cơ chế phù hợp để thực hiện nên chưa
phát huy được hiệu quả.
Cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường chậm đổi mới, chưa đồng bộ với thể
chế thị trường. Các loại thuế, phí về môi trường mới chỉ bước đầu tạo nguồn thu
cho ngân sách mà chưa phát huy được vai trò công cụ kinh tế điều tiết vĩ mô, hạn
chế gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, thúc đẩy các hoạt động kinh tế - xã hội
theo hướng hài hòa với thiên nhiên, thân thiện với môi trường và phát triển bền
vững.
Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật chưa được quan tâm đúng mức,
chậm được phổ biến hướng dẫn nên nhiều doanh nghiệp, người dân chưa hiểu biết,
thậm chí còn chưa biết về pháp luật bảo vệ môi trường.
Công tác kiểm tra, thanh tra, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật
chưa thường xuyên, chưa thực chất và chưa phát huy được tác dụng như mong
muốn. Trong nhiều trường hợp xử lý vi phạm pháp luật chưa nghiêm nên vẫn còn
tình trạng coi thường, “nhờn” pháp luật hoặc chấp nhận chịu phạt vì chế tài chưa
đủ mạnh, chưa đủ sức răn đe.
Tổ chức bộ máy còn thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng lớn,
phức tạp của công tác bảo vệ môi trường, tính hội nhập chưa cao. Chức năng quản
lý nhà nước về bảo vệ môi trường chưa được phân định thật rõ ràng Phân công
trách nhiệm giữa các bộ, ngành, phân cấp giữa trung ương và địa phương chưa hợp
lý, chưa rõ, còn chồng cheo, phân tán, mâu thuẫn. Thiếu cơ chế quản lý liên ngành,
liên vùng, giữa trung ương và địa phương còn rời rạc, hành động còn đơn phương.
14
Đội ngũ cán bộ nhà nước còn thiếu năng lực, trình độ chuyên môn, kiến thức quản
lý còn nhiều hạn chế, bất cập.
Nguồn lực cho bảo vệ môi trường chưa đáp ứng yêu cầu. Đầu tư cho tiêu
thoát và xử lý nước thải đô thị, quản lý chất thải rắn sinh hoạt, khắc phục, cải tạo
môi trường tại các khu vực đã bị ô nhiễm, suy thoái còn quá thấp so với yêu cầu.
Chưa có cơ chế huy động nguồn lực trong xã hội hoặc đã có nhưng chưa phù hợp
nên nguồn lực huy động được còn nhỏ lẻ, không đáng kể. Sử dụng nguồn lực còn

dàn trải thiếu trọng tâm, trọng điểm nên hiệu quả thấp. Hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) cho bảo vệ môi trường còn thấp, phân tán và đang có xu hướng giảm dần.
“Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả chi phí xử lý, khắc phục, cải tạo môi
trường”, “người hưởng lợi từ tài nguyên, môi trường phải trả tiền” chưa được áp
dụng triệt để, mức chi chưa đúng, chưa đủ để xử lý, giải quyết các vấn đề tài
nguyên, môi trường.
- Ô nhiễm môi trường còn diễn ra phổ biến có xu hướng gia tăng, đa dạng
sinh học suy giảm nhanh, nguy cơ mất cân bằng sinh thái trên diện rộng.
Nguồn gây ô nhiễm môi trường tăng nhanh do quá trình công nghiệp hóa, đô
thị hóa mạnh. Việc xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
còn chậm, chưa đạt mục tiêu đề ra. Các nguồn gây ô nhiễm môi trường gia tăng
nhanh về số lượng, quy mô và mức độ tác động xấu lên môi trường, làm cho môi
trường đất, nước, không khí nhiều nơi bị ô nhiễm, có nơi đã đến mức nghiêm
trọng. Phần lớn hồ, ao, kênh, mương các đoạn sông trong các đô thị, khu dân cư đã
bị ô nhiễm nghiêm trọng, một số chỉ số như nồng oxy sinh học, chất rắn lơ lửng đã
vượt quy chuẩn cho phép đến hàng chục lần. Ô nhiễm do sử dụng phân bón, thuốc
bảo vệ thực vật, phụ phẩm sản phẩm nông nghiệp, rác thải sinh hoạt ở nông thôn,
chưa được kiểm soát; ô nhiễm ở các khu công nghiệp, các làng nghề chưa được
giải quyết; các đề án bảo vệ môi trường, lưu vực sông chậm được triển khai, đạt
hiệu quả thấp.
Quản lý chất thải rắn còn nhiều tồn tại, yếu kém. Chất thải rắn sinh hoạt
chưa được phân loại tại nguồn; chủ được chôn lấp không hợp về sinh. Tỷ lệ tái sử
dngj, tái chế thấp. Còn một tỷ lệ chất thải nguy hại chưa được quản lý tốt, tiêu hủy
chưa an toàn.
Hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường còn lạc hậu, yếu kém. Hầu hết các đô thị
trên cả nước và khoảng hơn 35% khu công nghiệp, khu chế xuất chưa có hệ thống
xử lý nước thải tập trung hoặc có nhưng không đáp ứng yêu cầu. Hiện nay, trên
60% trong số 1 triệu m
3
nước thải/ngày/đêm từ các khu công nghiệp xả thẳng ra

các nguồn tiếp nhận, không qua xử lý.
Việc phục hồi và các khu vực bị ô nhiễm, suy thoái chậm được thực hiện. Ô
nhiễm nguồn nước mặt nhiều nơi nghiêm trọng, đặc biệt trong các khu đô thị, dân
cư, xung quanh các khu công nghiệp, làng nghề. Ô nhiễm không khí, nhất là ô
nhiễm bụi một số nơi ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn
khác vượt cho phép nhiều lần.
15
Diện tích các hệ sinh thái tự nhiên bị thu hẹp nhanh. Rừng nguyên sinh chỉ
còn rất ít, bị chia cắt và cô lập.Các hệ sinh thái sông, hồ, đầm phá cũng đang bị
khai thác quá mức, chịu áp lực lớn từ các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều
hệ sinh thái biển như rừng ngập mặn, rạn san hô, cỏ biển trên đà suy thoái mạnh.
Nơi cư trú của động vật hoang dã đã bị thu hẹp hoặc mất đi. Số loài và số cá
thể các loài hoang dã, giống cây trồng, giống vật nuôi, trong đó có các loài quý,
hiếm giảm. Công tác bảo tồn các nguồn gen bản địa, kiểm soát sinh vật ngoại lai
xâm hại, quản lý an toàn sinh vật biến đổi trên vẫn còn nhiều yếu kém.
Số lượng loài nguy cấp, quý, hiếm bị đe dọa tăng lên. Với tình trạng săn bắn,
buôn bán động, thực vật hoang dã tiếp tục diễn biến như hiện nay thì nhiều loại
động, thực vật quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng sẽ bị giảm nhanh về số lượng.ước
tính ở Việt Nam hiện nay chỉ còn khoảng 50 cá thể hổ ngoài tự nhiên. Theo sự báo
của chuyên gia bảo tồn, đến năm 2015 phân loài Hổ Đông Dương có thể biến mất,
nhanh hơn bất kỳ phân loài hổ nào trên thế giới. Tê giác, bò xám, heo vòi, cầy rái
cá, cá trình Nhật, cá lợ thân thấp, hươu sao, cá sấu hoa cà là những loài đã bị tuyệt
chủng ngoài thiên nhiên. Trong Danh sách đỏ của IUCN năm 1996 liệt kê 25 lìa
động vật của Việt Nam ở mức nguy cấp (EN) thì đến năm 2004 con số này đã lên
tới 46 loài, và đến năm 2010 là 47 loài. Trong hệ thực vật, loài Lan hài Việt Nam
cũng đã tuyệt chủng ngoài thiên nhiên.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên có cả nguyên nhân khác quan và nguyên
nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chính.
- Về khách quan:
+ Trình độ phát triển của đất nước còn thấp, dân số tăng nhanh tạo sức ép

lên vấn đề sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường.
+ Việt Nam là quốc gia có bờ biển dài, nằm trong vùng ảnh hưởng của bão
từ Thái Bình Dương, nhiều khu vực, địa hình thấp nên dễ bị tổn thương trước tác
động của biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng và thiên tai cực đoan…
- Về chủ quan:
+ Về nhận thức:
Nhận thức và tầm nhìn của các cấp ủy, chính quyền, doanh nghiệp và cộng
đồng về công tác này còn chưa đầy đủ, thiếu thống nhất, còn thiên về lợi ích kinh
tế trước mắt, chưa coi trọng phát triển bền vững.
+ Về tổ chức thực hiện chủ trương, quan điểm:
* Một số chủ trương của Đảng chưa được quán triệt và thể chế hóa đầy đủ,
kịp thời.
* Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ; một số cơ chế, chính sác chưa sát với
thực tế, thiếu tính khả thi.
* Chất lượng công tác dự báo và quy hoạch còn nhiều hạn chế, chưa theo kịp
yêu cầu phát triển, tính tổng thể, liên ngành, liên vùng; chưa rõ trọng tâm, trọng
điểm và nguồn lực thực hiện.
16
* Tổ chức bộ máy, quản lý nhà nước và việc phân công,phân cấp, phối hợp
giữa các bộ, ban,ngành, địa phương còn thiếu chặt chẽ.
* Tổ chức thực hiện chưa thực sự chủ động, cương quyết.
+ Công tác kiểm tra, giám sát:
Hiệu lực, hiệu quả thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm chưa cao.
+ Nguồn lực thực hiện
Chủ trương xã hội hóa chưa huy động được sự tham gia của các đoàn thể,
hiệp hội, doanh nghiệp, cộng đồng và người dân.
C. ĐỊNH HƯỚNG ỨNG PHÓ VỚI BIỂN ĐỔI KHÍ HẬU, QUẢN LSY
TÀI NGUYÊN VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
I. BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC, THÁCH THỨC VÀ KINH
NGHIỆM QUỐC TẾ

1. Bối cảnh trong nước và quốc tế
Trên thế giới kinh tế phục hồi dần và sẽ trở lại chu kỳ tăng trưởng mới. Phát
triển bền vững, tăng trưởng xanh trở thành xu hướng chủ đạo, được nhiều nước coi
là quốc sách. Thế giới đang hướng tới kỷ nguyên sinh thái, năng lượng tái tạo,
năng lượng mới được nhiều nước chú trọng phát triển, có khả năng thay thế dần
nhiên liệu hóa thạch. Đàm phán toàn cầu về căt giảm phát thải nhà kính khó đạt kết
quả khả quan trong thời gian gần nên biến đổi khí hậu sẽ ngày càng mạnh hơn.
Nhiều báo cáo khoa học gần đây nhận định mực nước biển có thể dâng khoangr1m
và nhiệt độ trung bình của trái đất dự kiến có thể sẽ tăng hơn 4
0
C cho đến cuối thế
kỷ này.
Suy thoái đất, hoang mạc hóa diễn tiến nhanh hơn. Tài nguyên khoáng sản
ngày càng khan hiếm và đăt giá. Nhiều nơi trên thế giới thiếu nước nghiêm trọng,
xung đột, bất ổn trong việc chia sẻ nguồn nước gia tăng giữa các quốc gia. Biển và
đại dương ngày càng bị ô nhiễm; tranh chấp, xung đột giữa các quốc gia đối với tài
nguyên biển ngày càng gay gắt. Chất lượng môi trường suy giảm, nhiều nơi ô
nhiễm nghiêm trọng. Rừng tiếp tục bị suy giảm mạnh, các hệ sinh thái tự nhiên bị
thu hẹp diện tích. Nhiều loài hoang dã bị tuyệt chủng hoặc bị đe dọa tuyệt chủng ở
mức cao.
Ở trong nước, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tiếp tục
được đẩy mạnh để đạt mục tiêu đưa nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020 nên nhu cầu khai thác sử dụng các nguồn tài
nguyên tăng mạnh. Kinh tế tăng trưởng chậm lại trong một thời gian nhưng sẽ sớm
trở lại chu kỳ tăng trưởng mới. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ được đẩy mạnh,
hệ thống hạ tầng được quan tâm đầu tư, thể chế được hoàn thiện, nguồn nhân lực
phát triển một bước.
Nước biển dâng, sụt lún vùng ven biển do khai thác nước ngầm quá mức,
ảnh hưởng từ các hoạt động khai thác nước trên thượng nguồn các sông quốc tế
làm cho triều cường, ngập lụt, xâm nhập mặ diễn ra mạnh hơn nhất là ở Thành phố

Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đồng bằng Sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng và một
17
số địa phương ven biển khác. Thiên tai như bao lũ, hạn hán diễn biến thất thường,
cực đoan hơn. Tài nguyên tiếp tục bị khai thác mạnh hơn, nhất là nguồn tài nguyên
không tái tạo. Các nguồn nguyên liệu hóa thạch như than, dầu khí có xu hướng
giảm dần. Đất đô thị, khu công nghiệp, hạ tầng, phát triển cây công nghiệp, nuôi
trồng thủy sản tăng nhanh; những vùng đất bị suy thoái, bạc màu hoang mạc hóa
gây nên áp lực lớn lên đất canh tác nông nghiệp đất úng. Nhu cầu về nước tăng
,mạnh, Tây Nguyên, Tây Bắc, Đồng bằng Sông Cửu Long và một số địa phương
ven biển đối mặt với tình trạng thiếu nước gay gắt vào mùa khô; an ninh về nước
tiếp tục bị chi phối mạnh bởi hoạt động của các quốc gia thượng nguồn sông quốc
tế. Độ che phủ của rừng tiếp tục tăng nhưng chậm lại, chất lượng rừng tiếp tục suy
giảm. Ô nhiễm môi trường diễn ra trên diện rộng, vẫn trong xu thế tăng nhưng
chậm hơn, có thể được kiểm soát, đảo chiều trong một vài thập kỷ tới. Không gian
đất liền ngày càng trở nên chặt hẹp, nhiều nước chủ trương hướng ra biển khai thác
tài nguyên, phát triển kinh tế biển dẫn đến xung đột, tranh chấp chủ quyền biển đảo
nổi lên gay gắt. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, cùng với đó,
nhiều rào cản kỹ thuật được dựng lên, nhất là các rào cản về môi trường, biến đổi
khí hậu, cản trở thương mại của các nước yếu thế, trình độ phát triển thấp. Ngoài
ra, những nước này còn đứng trước nguy cơ trở thành bãi thải công nghệ, máy móc
thiết bị cũ,lạc hậu, thậm chí cả chất thỉa từ phần còn lại của thế giới.
Những dự báo tình hình trên đây đặt nước ta trước những vấn đề không thể
xem nhẹ như ngập lụt, triều cường, xâm nhập mặn, thiên tai cực đoan, tài nguyên
cạn kiệt, ô nhiễm môi trường gia tăng ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của
đất nước, hội nhập quốc tế, công cuộc xóa đói giảm nghèo, đòi hỏi phải có những
chủ trương, giải pháp phù hợp, kịp thời.
2. Thách thức
Còn những hạn chế trong nhận thức của cấp ủy đảng, chính quyền; ý thức
trách nhiệm về ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường của các cán bộ lãnh đạo, quản lý và người dân chưa cao; hành vi của từng

người dân, thái độ ứng xử của xã hội đối với tài nguyên, môi trường chưa phù hợp,
thân thiện.
Mô hình tăng trưởng thiếu bền vững, dựa quá nhiều vào khai thác tài
nguyên, vốn đầu tư, đánh đổi môi trường, hàm lượng khoa học trong giá trị tăng
trưởng kinh tế chưa cao.
Trình độ phát triển còn ở mức thấp, tiềm lực kinh tế chưa mạnh, tăng trưởng
đang chậm lại, nguồn lực tài chính, hạ tầng kỹ thuật yếu kém, chưa đáp ứng yêu
cầu trong khi các vấn đề khai thác tài nguyên, ô nhiễm môi trường gia tăng nhanh,
biến đổi khí hậu tác động mạnh, phức tạp diễn ra nhanh hơn so với dự báo. Mặt
trái của toàn cầu hóa, kinh tế thị trường, những thay đổi chính sách toàn cầu trong
bối cảnh biến đổi khí hậu đặt ra nhiều thách thức đối với nước ta. Các tác động của
biến đổi khí hậu sẽ ngày càng gia tăng, khó lường và mang tính cực đoan hơn, đe
dọa quốc phòng, an ninh quốc gia, an ninh lương thực, an ninh sinh thái, an ninh
năng lượng, trong khi dân số tăng nhanh, phân bố không đồng đều, chủ yếu tập
chung ở vùng Đồng bằng Sông Hồng và Sông Cửu Long, ven biển miền Trung,
18
dọc theo sông, suối là những khu vực dễ bị tổn thương do tác động của thiên tai.
3. Kinh nghiệm quốc tế
Về tư duy và nhận thức, từ cuối thập niên 1980 trên thế giới đã hình thành
khái niệm phát triển bền vững, theo đó phát triển bền vững là sự phát triển đáp
ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại tới khả năng đáp ứng nhu
cầu, tiềm năng phát triển của các thế hệ. Để đạt được phát triển bền vững, Liên
Hợp Quốc kêu gọi thúc đẩy tăng trưởng xanh, phát triển nền kinh tế xanh thông
qua khuyến khích đầu tư vào các hoạt động bảo vệ tài nguyên, môi trường, giảm
phát thải các-bon để tạo ra việc làm, tăng thu nhập và giảm nghèo; đồng thời giải
quyết các vấn đề tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Trong ứng phó với biến đổi khí hậu trước đây, các nước đang phát triển chủ
yếu tập trung vào các biện pháp thích ứng thì nay cũng đã chuyển dần sang chủ
trương kết hợp hài hòa giữa thích ứng và chủ động giảm nhẹ phát thải khí nhà
kính. Các mô hình “quản lý châu thổ thích ứng” để phòng, chống ngập lụt của Hà

Lan, quản lý rủi ro thiên tai (DRM) để thích ứng với động đất của Nhật Bản, thóc
lúa cho màu xanh chống lại xa mạc hóa cuả Trung Quốc là những kinh nghiệm hết
sức quý báu về thích ứng với biển đổi khí hậu và phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai.
Trong quản lý tài nguyên, nhìn chung, các nước trên thế giới đã và đang dần
nhận thức được tài nguyên thiên nhiên (đặc biệt là tài nguyên không tái tạo) càng
khan hiếm và đắt giá, cần phải bảo vệ, gìn giữ, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu
quả và bền vững. Thế giới đã rút ra những bài học “lời nguyền tài nguyên
3
”, “căn
bệnh Hà Lan” trong việc khai thác, sử dụng tài nguyên để phát triển kinh tế- xã
hội.
Về bảo vệ môi trường, hình thành xu hướng coi môi trường là nội dung
chính của phát triển bền vững. Nhận thức về bảo vệ môi trường gắn với mô hình
tăng trưởng, đạo đức lối sống, hành vi, thái độ ứng xử của con người với thiên
nhiên. Ngày càng có nhiều tiếng nói mạnh mẽ hơn về việc xem xét laijcoi con
người chỉ là một phần của thiên nhiên, hành vi của con người phải tuân theo quy
luật tự nhiên, phản bác quan điểm coi con người là trung tâm, cần phải cải tạo
thiên nhiên để phục vụ mục đích của con người.
Về mặt cơ chế chính sách, vấn đề biến đổi khí hậu đã được nhiều nước đưa
vào chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Một số nước đã xây dựng
Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu Luật Biến đối khí hậu. Luật tiết kiệm và
sử dụng hiệu quả tài nguyên gắn với tái chế chất thải. Nhiều quốc gia xây dựng và
ban hành đạo luật cơ bản về môi trường và có các đạo luật quy định chi tiết, cụ thể
về các vấn đề môi trường như kiểm soát ô nhiễm, quản lý chất thải, tái chế, sử
dụng chất thải.
Các hình thức quản lý tổng hợp, đặc biệt là quản lý tổng hợp tài nguyên
nước theo lưu vực sông; xây dựng và thực hiện chiến lược dự trữ khoáng sản; công
khai, minh bạch hóa việc khai thác, sử dụng được thực hiện ở nhiều nước trên thế
giới. Nhiều quốc gia thực hiện phân vùng chức năng sinh thái làm căn cứ để hoạch
3

19
định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực
phù hợp với đặc tính sinh thái của từng vùng, tránh xung đột giữa bảo vệ, bảo tồn
với khai thác tài nguyên và phát triển kinh tế phù hợp với bối cảnh biến đổi khí
hậu. Công cụ kinh tế dựa trên cơ chế thị trường ngày càng được ứng dụng rộng rãi
và phát huy hiệu quả trong công tác bảo vệ tài nguyên môi trường. Ở các nước
phát triển, nguồn lực đầu tư cho các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu được
huy động thông qua thuế, phí, trợ giá. Các nước đang phát triển chủ yếu vẫn dựa
vào vốn vay ưu đãi, hỗ trợ tìa chính và chuyển giao công nghệ từ các nước phát
triển để ứng phó với biến đổi khí hậu. Huy động nguồn lực trong xã hội cho công
tác quản lý tài nguyê, bảo vệ môi trường dựa trên nguyên tắc: người gây ô nhiễm
phải trả chi phí xử lý, khắc phục, cải tạo và phục hồi môi trường, “người hưởng lợi
từ tài nguyên, môi trường phải trả tiền” được áp dụng thành công ở nhiều nước,
qua đó giảm gánh nặng đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Về tổ chức, bộ máy, tài nguyên, môi trường và biến đổi khí hậu mang tính đa
ngành, đa lĩnh vực, nên việc phân định chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan quản
lý nhà nước ở các nước cũng có những điểm khác nhau. Phần lớn các quốc gia trên
thế giới thành lập Bộ Môi trường hoặc Bộ Môi trường kết hợp với một hoặc một số
thành phần môi trường khác như nước, rừng Một số quốc gia giao Bộ Môi trường
làm cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về ứng phó với
biến đổi khí hậu và bảo vệ tài nguyên, môi trường.
II. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU
1. Quan điểm
a). Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyênvà
bảo vệ môi trường là ba vấn đề cùng giải quyết sự phát triển bền vững của đất
nước; là trách nhiệm chung của toàn xã hội, trong đó Nhà nước là chủ đạo.
Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và
bảo vệ môi trường là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh
hưởng lớn, quan hệ, tác động qua lại, cùng quyết định sự phát triển bền vững của
đất nước; là cơ sở, tiền đề cho hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế -

xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội.
Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống
chính trị; là trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và
cộng đồng dân cư, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và sự tham gia, giám sát của toàn xã hội.
b) Phải trên cơ sở phương thức quản lý tổng hợp và thông nhất, liên ngành,
liên vùng; đáp ứng yêu cầu trước mắt với lâu dài, toàn diện nhưng có trọng tâm,
trọng điểm, dựa vào nội lực là chính.
Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và
bảo vệ môi trường phải trên cơ sở phương thức quản lý tổng hợp và thống nhất,
liên ngành, liên vùng. Vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa bảo đảm lợi ích lâu dài,
trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản. Vừa bảo đảm toàn diện, vừa phải có trọng tâm,
trọng điểm; có bước đi phù hợp trong từng giai đoạn; dựa vào nội lực là chính,
20
đồng thời phát huy hiệu quả nguồn lực hỗ trợ và kinh nghiệm quốc tế.
c) Biến đổi khí hậu phải đặt trong mối quan hệ toàn cầu, không chỉ là thách
thức mà còn là cơ hội vừa thích ứng, vừa giảm nhẹ tác động xấu.
Biến đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu, là thách thức nghiêm trọng đối với toàn
nhân loại trong thế kỷ XXI. Ứng phó với biến đổi khí hậu phải được đặt trong mối
quan hệ toàn cầu; không chỉ là thách thức mà còn tạo cơ hội thúc đẩy chuyển đổi
mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển bền vững. Phải tiến hành đồng thời
thích ứng và giảm nhẹ, trong đó thích ứng với biến đổi khí hậu, chủ động phòng,
tránh thiên tai là trọng tâm.
d) Tài nguyên phải được đánh giá đầy đủ, quản lý chặt chẽ, gắn với mục
tiêu phát triển, bảo đảm an ninh.
Tài nguyên là tài sản quốc gia, là nguồn lực, nguồn vốn tự nhiên đặc biệt
quan trọng để phát triển đất nước. Tài nguyên phải được đánh giá đầy đủ các giá
trị, định giá, hạch toán trong nền kinh tế, được quản lý, bảo vệ chặt chẽ; khai thác,
sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả và bền vững, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm an ninh tài nguyên.Chú trọng phát triển, sử dụng năng lượng tái tạo,

vật liệu mới, tái chế.
đ) Bảo vệ môi trường phải theo phương châm hài hòa, kết hợp khắc phục
với bảo tồn, phòng ngừa, lấy sức khỏe nhân dân làm mục tiêu.
Môi trường là vấn đề toàn cầu.
Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu vừa là một nội dung cơ bản của phát
triển bền vững.
Tăng cường bảo vệ môi trường phải theo phương châm ứng xử hài hòa với
thiên nhiên, theo quy luật tự nhiên, phòng ngừa là chính; kết hợp kiểm soát, khắc
phục ô nhiễm, cải thiện môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; lấy
bảo vệ sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án
gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Đầu tư cho bảo vệ
môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững.
2. Mục tiêu
a) Mục tiêu tổng quát
- Đến năm 2020
+ Về cơ bản, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai,
giảm phát thải khí nhà kinh.
+ Có bước chuyển biến cơ bản trong khai thác, sử dụng tài nguyên theo hướng
hợp lý, hiệu quả và bền vững
+ Kiềm chế mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học
nhằm bảo đảm chất lượng môi trường sống, duy trì cân bằng sinh thái, hướng tới
nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường.
- Đến năm 2050.
21
+ Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu;
+ Khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả và bền vững tài nguyên;
+ Bảo đảm chất lượng môi trường sống và cân bằng sinh thái, phấn đấu đạt
các chỉ tiêu về môi trường tương đương với mức hiện nay của các nước công
nghiệp phát triển trong khu vực
b) Mục tiêu cụ thể đến năm 2020

- Về ứng phó với biến đổi khí hậu:
+ Về dự báo: Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, giám sát biến đổi
khí hậu của các cơ quan chuyên môn.
+ Về ý thức: Hình thành cho mỗi thành viên trong xã hội ý thức chủ động
phòng, tránh thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.
+ Về mức thiệt hại: Giảm dần thiệt hại về người, tài sản do thiên tai gây ra.
+ Về thiên tai: Chủ động phòng, chống, hạn chế tác động của triều cường,
ngập lụt, xâm nhập mặn do nước biển dâng đối với vùng ven biển, nhất là vùng
đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, ven biển miền Trung, trước hết
là khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Cà Mau và các thành phố ven biển
khác.
+ Về hành vi của con người:Giảm mức phát thải khí nhà kính trên đơn vị
GDP từ 8 - 10% so với năm 2010.
- Về quản lý tài nguyên:
+ Về điều tra, đánh giá:Đánh giá được tiềm năng, giá trị của các nguồn tài
nguyên quan trọng trên đất liền. Đạt được bước tiến quan trọng trong điều tra cơ
bản tài nguyên biển.
+ Về quản ký, khai thác sử dụng: Quy hoạch, quản lý và khai thác, sử dụng
tiết kiệm, hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên quốc gia. Ngăn chặn xu
hướng suy giảm tài nguyên nước ngọt và tài nguyên rừng; nâng cao hiệu quả sử
dụng nước tính trên một đơn vị GDP. Bảo đảm cân đối quỹ đất cho phát triển kinh
tế - xã hội; giữ và sử dụng linh hoạt 3,8 triệu ha đất chuyên trồng lúa nhằm bảo
đảm an ninh lương thực và nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Khai thác hiệu quả và
bền vững sinh thái, cảnh quan, tài nguyên sinh vật. Hạn chế tối đa xuất khẩu
khoáng sản thô.
+ Về mô hình năng lượng:Chuyển đổi cơ cấu sử dụng năng lượng theo hướng
tăng tỉ lệ năng lượng tái tạo, năng lượng mới lên trên 5% tổng năng lượng thương
mại sơ cấp; giảm tiêu hao năng lượng tính trên một đơn vị GDP.
- Về bảo vệ môi trường:
+ Về xử lý ô nhiễm: Không để phát sinh và xử lý triệt để các cơ sở gây ô

nhiễm môi trường nghiêm trọng; 70% lượng nước thải ra môi trường lưu vực các
sông được xử lý; tiêu huỷ, xử lý trên 85% chất thải nguy hại, 100% chất thải y tế;
tái sử dụng hoặc tái chế trên 65% rác thải sinh hoạt.
22
+ Về cải thiện môi trường: Phấn đấu 95% dân cư thành thị và 90% dân cư
nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh. Kiểm soát an toàn, xử lý ô nhiễm
môi trường do hậu quả chiến tranh. Nâng cao chất lượng môi trường không khí ở
các đô thị, khu vực đông dân cư. Cải thiện rõ rệt môi trường làng nghề và khu vực
nông thôn.
+ Về bảo tồn thiên nhiên: Quản lý khai thác hợp lý, sớm chấm dứt khai thác
rừng tự nhiên, nâng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên lên trên 3 triệu ha; nâng
độ che phủ của rừng lên trên 45%.
III. NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM
1. Nhiệm vụ chung
a) Chuyển đổi mô hình tăng trưởng
Thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế theo
hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Ban hành bộ chỉ số đánh giá kết
quả phát triển bền vững, tăng trưởng xanh đưa vào bộ tiêu chí quốc gia; thí điểm
phát triển mô hình kinh tế xanh, công nghiệp xanh, đô thị xanh, nông thôn xanh.
b) Phân vùng chức năng
Thực hiện phân vùng chức năng dựa trên đặc tính sinh thái, tiềm năng tài
nguyên và thích ứng với biến đổi khí hậu làm căn cứ để lập quy hoạch phát triển;
quy hoạch không gian biển gắn với không gian phát triển trên đất liền; lồng ghép
mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
trong quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực và quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của địa phương.
c) Thí điểm phương thức quản lý tổng hợp
Thiết lập, ứng dụng các mô hình dự báo tổng thể tác động của biến đổi khí
hậu đến phát triển kinh tế - xã hội và tài nguyên, môi trường. Áp dụng thí điểm
phương thức quản lý tổng hợp, thống nhất về tài nguyên, môi trường và thích ứng

với biến đổi khí hậu cho lưu vực sông, vùng ven biển, sau đó nhân rộng ra cả
nước.
d) Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu
Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu tổng hợp và thống nhất về tài nguyên, môi
trường và biến đổi khí hậu theo chuẩn quốc tế. Có cơ chế phù hợp khai thác, chia
sẻ thông tin, sử dụng có hiệu quả cơ sở dữ liệu
3. Nhiệm vụ cụ thể
a) Về ứng phó với biến đổi khí hậu
- Xây dựng năng lực dự báo, cảnh báo, chủ động phòng, tránh và giảm nhẹ
thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Xây dựng, phát triển năng lực nghiên cứu, giám sát biến đổi khí hậu, dự báo,
cảnh báo thiên tai đạt trình độ tương đương nhóm các nước dẫn đầu trong khu vực
23
Đông Nam Á. Thường xuyên cập nhật, hoàn thiện kịch bản biến đổi khí hậu, nước
biển dâng cụ thể cho giai đoạn đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050.
Chuyển đổi cơ cấu, giống cây trồng, vật nuôi, điều chỉnh mùa vụ, kỹ thuật
sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu. Tăng cường kiến thức, nâng
cao năng lực thích ứng, bảo đảm sinh kế cho người dân những vùng có nguy cơ bị
ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, vùng thường xuyên bị tác động của thiên
tai.
Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới thích ứng biến đổi khí hậu trong xây
dựng đô thị, phát triển, sử dụng năng lượng, giao thông, vật liệu xây dựng, thoát
nước
Chủ động chuẩn bị các phương án, điều kiện phòng, tránh và giảm nhẹ thiên
tai phù hợp với từng ngành, lĩnh vực, vùng, miền, nhất là các địa phương ven biển,
vùng núi cao, vùng dễ bị tổn thương trước thiên tai. Có phương án chủ động xử lý
tình huống xấu nhất ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống của nhân dân và bảo đảm
quốc phòng, an ninh. Nâng cao năng lực tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống
dịch bệnh. Chú trọng chăm sóc sức khỏe nhân dân trong các vùng bị tác động
mạnh của biến đổi khí hậu. Phát huy trách nhiệm và huy động các doanh nghiệp,

cộng đồng dân cư tích cực tham gia phòng, tránh, giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với
biến đổi khí hậu.
Thực hiện chương trình nâng cấp, bảo đảm an toàn các hồ chứa nước, nhất là
ở khu vực miền Trung, Tây Nguyên, trung du miền núi phía Bắc. Nâng cấp các
đoạn đê biển, đê sông xung yếu, xây dựng cống ngăn mặn, giữ ngọt. Bảo vệ, đẩy
mạnh phục hồi, trồng rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển, rừng phòng hộ đầu
nguồn.
Bảo vệ không gian thoát lũ trên các lưu vực sông, lòng sông, trước hết cho
sông Hồng, sông Cửu Long, sông Cầu, sông Nhuệ - sông Đáy, sông Đồng Nai,
sông Sài Gòn và các sông lớn khác. Củng cố và xây dựng mới các công trình cấp,
thoát nước của các đô thị, nhất là vùng ven biển.
- Đẩy mạnh các biện pháp phòng, chống, hạn chế tác động của triều cường,
ngập lụt, xâm nhập mặn do nước biển dâng.
Xây dựng bản đồ nguy cơ ngập lụt theo các kịch bản nước biển dâng đến cấp
xã. Rà soát, bổ sung điều chỉnh chiến lược, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực,
phát triển kinh tế - xã hội vùng và địa phương phù hợp với kịch bản nước biển
dâng. Chủ động di dời, sắp xếp lại các điểm dân cư ở những vùng thường xuyên bị
tác động của lũ lụt, bão và những khu vực có nguy cơ xảy ra lũ quét, sạt lở đất.
Triển khai thực hiện đề án chống ngập cho Thành phố Hồ Chí Minh, Cần
Thơ, Cà Mau, các thành phố ven biển khác, nhất là ở vùng châu thổ sông Cửu
Long.
- Giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; bảo vệ, phát triển các hệ sinh thái tự
nhiên, tăng cường khả năng hấp thụ khí nhà kính.
24
Điều tra, kiểm kê, xây dựng lộ trình, kế hoạch thực hiện giảm nhẹ phát thải
khí nhà kính phù hợp với từng ngành, lĩnh vực, địa phương.
Thúc đẩy các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính phù hợp với điều
kiện nước ta trên cơ sở hỗ trợ tài chính và công nghệ của các nước và tổ chức quốc
tế. Phát triển thị trường trao đổi tín chỉ các-bon trong nước và tham gia thị trường
các-bon toàn cầu.

Ưu tiên thực hiện chương trình giảm phát thải khí nhà kính thông qua nỗ lực
chống mất rừng, suy thoái rừng và tạo sinh kế cho cộng đồng.
Đẩy mạnh thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết
kiệm và hiệu quả.
b) Về quản lý tài nguyên
- Đẩy mạnh điều tra, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, giá trị kinh tế, thực
trạng và xu hướng diễn biến của các nguồn tài nguyên quốc gia.
Coi trọng công tác điều tra cơ bản tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên khoáng
sản, tài nguyên nước, tài nguyên biển. Chú trọng điều tra cơ bản địa chất khoáng
sản vùng biển sâu, phát hiện các loại khoáng sản mới.
Từng bước xác định, đánh giá các giá trị, thiết lập tài khoản, hạch toán trong
nền kinh tế đối với các loại tài nguyên quốc gia.
Đánh giá, phát huy các giá trị dịch vụ hệ sinh thái, cảnh quan, tài nguyên di
truyền.
- Quy hoạch, quản lý và khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững các
nguồn tài nguyên quốc gia.
Xây dựng chiến lược bảo vệ, khai thác, sử dụng các loại tài nguyên quan
trọng đối với phát triển đất nước. Thiết lập cơ chế quản lý, giám sát minh bạch, bảo
đảm sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên quốc gia.
Hạn chế tối đa, từng bước tiến tới chấm dứt xuất khẩu khoáng sản thô và chỉ
qua chế biến sơ, thúc đẩy chế biến sâu. Đối với loại khoáng sản chiến lược đặc thù
như than, dầu khí cần có chính sách cụ thể, cân đối giữa nhập khẩu và xuất khẩu.
Định hướng dự trữ, nhập khẩu một số loại khoáng sản quan trọng đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội lâu dài của đất nước.
Đổi mới công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; xây dựng cơ sở dữ
liệu về đất đai. Thúc đẩy sử dụng đất tiết kiệm, hợp lý và có hiệu quả; kết hợp bảo
vệ diện tích, độ phì nhiêu của đất canh tác nông nghiệp; từng bước khắc phục tình
trạng manh mún, nhỏ lẻ trong sử dụng đất. Đẩy mạnh khai thác quỹ đất chưa sử
dụng, mở hướng đi mới trong khai thác quỹ đất trung du, miền núi cho mục đích
phi nông nghiệp.

Bảo vệ, phòng, chống hoang mạc hóa, sa mạc hóa và bảo đảm diện tích đất
cho phát triển rừng bền vững theo quy hoạch, đặc biệt là ở vùng núi Tây Bắc, Bắc
Trung Bộ và Tây Nguyên.
25

×