Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.73 KB, 28 trang )

Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
LỚP CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 4 – K 21
*


Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM
Giảng viên: PGS.TS Hoàng Đức
Lớp - Khóa: NH Đêm 4 – K21
TP.Hồ Chí Minh, tháng 02 năm 2013
LỜI MỞ ĐẦU
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 1
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
Hệ thống Ngân hàng thương mại với chiến lược huy động vốn trong và ngoài nước đang
là vấn đề hết sức quan trọng cả về lý luận khoa học và thực tiễn trong bối cảnh nền kinh tế
Việt Nam trước vận hội mới, thách thức mới của quá trình hội nhập với khu vực và thế giới.
Huy động vốn càng trở nên cấp thiết, nóng bỏng hơn do những biến động phức tạp của tình
hình kinh tế tài chính trong năm 2008 vừa qua. Vậy, giải pháp nào cho huy động vốn cho
những năm tới; chúng ta phải có những phương án, quyết sách cụ thể mang tính chiến lược
bám sát những diễn biến của nền kinh tế nói chung và lĩnh vực tài chính ngân hàng nói riêng
nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn cũng như nâng cao khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế.
Hoạt động huy động vốn không chỉ đơn thuần là thu hút mọi nguồn lực mà còn đi đôi với
việc chọn lọc và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất. Ngân hàng thương mại gánh trên vai
trọng trách to lớn tiếp tục hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính, làm tốt chức năng là
kênh dẫn vốn cho nền kinh tế thông qua việc khơi thông các dòng vốn, di chuyển vốn từ nơi
có hiệu quả đầu tư thấp sang nơi có hiệu quả đầu tư cao hơn. Mặt khác, Ngân hàng thương
mại với chức năng của mình cần phải có biện pháp thích hợp tập trung mọi nguồn vốn còn
tạm thời nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế, nhất là các hình thức huy động trung
và dài hạn để cho vay và đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết
bị, đổi mới công nghệ. Vì vậy, việc tăng cường huy động và sử dụng vốn hợp lý chính là
mục tiêu quan trọng đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng được an toàn hiệu


quả trong giai đoạn khó khăn tới của cả Hệ thống Ngân hàng.
Đây là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải có quá trình nghiên cứu ở cả tầm vi mô và vĩ
mô. Nhưng do thời gian nghiên cứu và tìm hiểu cả về lý luận và thực tiễn, cùng với trình độ
hiểu biết còn hạn chế. Do vậy mà chuyên đề của nhóm còn nhiều điểm còn chưa đề cập đến
và còn những thiếu sót nhất định nên nhóm rất mong được sự đóng góp và chỉ bảo của thầy
và các bạn đọc. Nhóm xin chân thành cảm ơn.
1. Khái niệm về nghiệp vụ huy động vốn của NHTM
1.1 Khái niệm:
Huy động vốn là nghiệp vụ tiếp nhận nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các cá nhân và tổ chức
bằng nhiều hình thức khác nhau để tạo nên nguồn vốn hoạt động của ngân hàng.
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 2
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
Hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của ngân
hàng thương mại. Hoạt động này mang lại nguồn vốn để ngân hàng có thể thực hiện các hoạt
động khác như cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng.
Theo Nghị định 49/2000/NĐ-CP ngày 12/2/2000 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của
Ngân hàng thương mại nhằm cụ thể hóa việc thi hành Luật các Tổ chức tín dụng, NHTM được
huy động vốn dưới các hình thức sau đây:
• Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức
tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
• Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ
chức, cá nhân trong nước và nước ngoài khi được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp
thuận…
• Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của các tổ chức tín
dụng nước ngoài.
• Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam.
Nguồn vốn huy động này chủ yếu được sử dụng để cho vay mà hoạt động cho vay đem lại lợi nhuận
lớn nhất cho ngân hàng, điều đó chứng tỏ nguồn vốn huy động có một ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với từng NHTM, đồng thời nếu quy mô của nguồn vốn huy động của NHTM lớn sẽ tạo

điều kiện để mở rộng hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tăng khả năng cạnh tranh cho ngân hàng.
Ngoài ra việc huy động vốn sẽ kiểm soát được khối lượng tiền gửi vào ngân hàng góp phần ổn định tiền tệ.
Nghiệp vụ huy động vốn tuy không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho Ngân hàng nhưng nó là nghiệp vụ rất quan
trọng. Không có nghiệp vụ huy động vốn xem như không có hoạt động của NHTM. Vì vậy huy động vốn
có một ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển của các Ngân hàng hiện nay.
2. Đặc điểm của nguồn vốn huy động
 Góp phần mang lại nguồn vốn cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác.
Không có nghiệp vụ huy động vốn, ngân hàng thương mại sẽ không đủ nguồn vốn tài trợ cho
hoạt động của mình. Nghiệp vụ huy động vốn góp phần giải quyết “đầu vào” của ngân hàng.
 Trong nguồn vốn huy động , vốn tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn nhưng không ổn định do
những biến động về lãi suất và lạm phát. Đặc biệt có những biến cố về kinh tế, chính trị, người
gửi rút tiền ồ ạt ảnh hưởng rất lớn đến thanh khoản của Ngân hàng. Đây cũng là nguồn vốn phát
sinh chi phí lớn và chủ yếu trong hoạt động ngân hàng, thông qua nghiệp vụ huy động vốn
NHTM có thể đo lường được uy tín cũng như sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng.
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 3
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
Đây là nguồn vốn có tính cạnh tranh cao, NHTM có các biện phát không ngừng hoàn thiện hoạt
động huy động vốn để giữ vững và mở rộng quan hệ với khách hàng.
 Cung cấp cho khách hàng một kênh tiết kiệm và đầu tư nhằm làm cho tiền của họ sinh lời
tạo cơ hội cho họ có thể gia tăng tiêu dùng trong tương lai, giúp cho khách hàng có cơ hội tiếp
cận với các dịch vụ của ngân hàng.
3. Cơ cấu nguồn vốn huy động:
Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi là hình thức huy động vốn cổ điển và mang tính đặc thù
riêng có của ngân hàng thương mại. Do vậy, đây cũng là điểm khác biệt giữa NHTM và các tổ
chức tín dụng phi ngân hàng. Do nhu cầu và động thái gửi tiền của khách hàng rất đa dạng và
khác nhau nên để thu hút được nhiều khách hàng gửi tiền, NHTM phải thiết kế và phát triển
nhiều loại sản phẩm tiền gửi khác nhau.
3.1 Phân loại theo thời gian
a. Tiền gửi hoạt kỳ
• Tiện ích sản phẩm:

- Sản phẩm tiền gửi được thiết kế dành cho đối tượng khách hàng cá nhân hoặc tổ chức
có tiền tạm thời nhàn rỗi nhưng không thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền gửi trong tương
lai. Khi chon lựa hình thức gửi tiền này thì mục tiêu an toàn và tiện lợi quan trọng hơn là
mục tiêu sinh lợi. (Vì loại tiền gửi này khách hàng muốn rút bất cứ lúc nào cũng được nên
ngân hàng phải đảm bảo tồn quỹ để chi trả, ngân hàng thường trả lãi thấp cho loại tiền gửi
này.)
- Khách hàng có thể gửi tiền và rút tiền bất cứ lúc nào trong giờ giao dịch.
Mặc dù số dư trên tài khoản tiền gửi của khách hàng không lớn nhưng nếu ngân hàng thu hút
được số lượng khá lớn thì tổng khối lượng vốn huy động qua hình thức tiền gửi này có thể trở
nên lớn đáng kể.
• Đặc tính sản phẩm:
- Đồng tiền: VNĐ, USD và EUR
- Gửi tiền: khách hàng gửi tiền nhiều lần vào tài khoản tại quầy giao dịch
- Rút tiền: căn cứ số dư, khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào.
• Đối tượng khách hàng: cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức trong và ngoài nước.
b. Tiền gửi định kỳ
• Tiện ích sản phẩm:
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 4
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
- Khác với tiền gửi hoạt kỳ, tiền gửi định kỳ được thiết kế dành cho khách hàng cá
nhân và tổ chức có nhu cầu gửi tiền vì mục tiêu an toàn, sinh lời và thiết lập được kế hoạch
sử dụng tiền trong tương lai Mục tiêu quan trọng của họ khi chọn lựa hình thức tiền gửi này
là lợi tức có được theo định kỳ. Do vậy, lãi suất trả cho loại tiền gửi định kỳ cao hơn lãi suất
trả cho loại tiền gửi hoạt kỳ.
- Khách hàng trực tiếp đến giao dịch tại ngân hàng và lựa chọn các kỳ hạn gửi.
- Khách hàng có thể sử dụng số dư trên tài khoản để vay cầm cố, bảo lãnh, xác nhận
khả năng tài chính để thân nhân đi du lịch, học tập tại nước ngoài.
• Đặc tính sản phẩm:
- Kỳ hạn gửi: có kỳ hạn là số ngày hoặc số tháng, có thể chia thành tiền gửi kỳ hạn
1,2,3,4,5,6,7,8,9,10,11,12 và 13 tháng hoặc lâu hơn đến 36 tháng.

- Đồng tiền: VNĐ, USD và EUR
- Gửi: KH gửi tiền một lần vào tài khoản tại quầy giao dịch
- Rút: KH thực hiện rút tiền một lần cho toàn bộ số dư tài khoản tại quầy giao dịch
- Căn cứ vào phương thức trả lãi có thể chia thành: tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi đầu kỳ, tiền
gửi kỳ hạn lĩnh lãi cuối kỳ, tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi theo định kỳ (tháng hoặc quý).
• Đối tượng khách hàng: cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức trong và ngoài nước.
3.2 Phân loại theo đối tượng
a. Tiền gửi của cá nhân
Tài khoản tiền gửi cá nhân, như tên gọi của nó, được mở cho khách hàng cá nhân có nhu cầu
sử dụng. Loại tài khoản này thích hợp cho cá nhân có nhu cầu nhận chuyển tiền vào tài khoản,
chẳng hạn nhận tiền lương hàng tháng, nhận chuyển tiền từ nước ngoài hoặc tư cá nhân
khác trong nước. Khi nhận chuyển tiền, khách hàng được ghi “Có” vào tài khoản, ngược lại khi
rút tiền tài khoản được ghi “Nợ”. Số dư trên tài khoản này là “số dư Có” phản ánh số tiền khách
hàng còn gửi ở ngân hàng. Đây chính là nguồn vốn ngân hàng có thể huy động qua tài khoản
này.
Trong những năm gần đây, số lượng loại tài khoản này ở các NHTM không ngừng tăng lên
nhờ có sự phối hợp tốt giữa NHTM với các doanh nghiệp cũng như các tổ chức khác trong việc
triển khai mở tài khoản và trả lương trực tiếp cho nhân viên vào tài khoản. Mặt khác, các NHTM
đã khá thành công trong việc thay đổi thói quen sử dụng tiền mặt và ngày càng thu hút được
nhiều người sử dụng dịch vụ ngân hàng.
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 5
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
Khi mở tài khoản, khách hàng cá nhân chỉ cần điền vào mẫu giấy đề nghị mở tài khoản tiền
gửi cá nhân, đăng ký chữ ký mẫu, xuất trình và nộp bản sao giấy chứng minh nhân dân.
b. Tiền gửi của tổ chức
Tài khoản này mở cho đối tượng khách hàng là tổ chức chủ yếu có nhu cầu thực hiện thanh
toán qua ngân hàng.
Khi mở tài khoản, khách hàng chỉ cần điền vào mẫu giấy đề nghị mở tài khoản tiến gửi thanh
toán, đăng ký mẫu dấu và chữ ký của người đại diện, xuất trình và nộp bản sao các giấy tờ chứng
minh tư cách pháp nhân của tổ chức, và các giấy tờ chứng minh tư cách đại diện hợp pháp của

chủ tài khoản.
3.3 Phân loại theo mục đích của người gửi
a. Tiền gửi thanh toán
Tiền gửi thanh toán là hình thức huy động vốn của NHTM bằng cách mở cho khách hàng tài
khoản gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán. Tài khoản này mở cho các đối tượng khách hàng cá
nhân hoặc tổ chức, có nhu cầu thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Số dư Có trên tài khoản tiền
gửi thanh toán của khách hàng có thể hình thành từ hai nguồn: (1) do khách hàng nộp tiền mặt
vào, (2) do khách hàng nhận tiền chuyển khoản từ các đơn vị khác. Số dư này nhằm duy trì khả
năng thanh toán và chi trả của khách hàng ở bất cứ thời điểm nào.
Tài khoản tiền gửi là loại tài khoản không kỳ hạn, khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào
mà không cần báo trước cho Ngân hàng, nên Ngân hàng rất khó kế hoạch hóa việc sử dụng loại
tiền gửi này. Chính vì vậy, đối với loại tiền gửi này thưởng ngân hàng trả lãi suất thấp, hoặc
thậm chí không trả lãi. Theo thông lệ ở các nước phát triển, ngân hàng không trả lãi cho khách
hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán vì mục đích của khách hàng khi sử dụng tài khoản này là
để thực hiện thanh toán qua ngân hàng chứ không phải để hưởng lãi. Còn ở Việt Nam, do dân
chúng chưa có thói quen sử dụng tài khoản Ngân hàng nên để thu hút khách hàng, ngân hàng
vẫn trả lãi đối với tài khoản tiền gửi thanh toán. Tuy nhiên, mức lãi suất áp dụng thường rất thấp.
Lãi tiền gửi thanh toán có thể tính theo định kỳ hàng tháng hoặc hàng quý theo phương pháp tích
số và lãi được nhập vào số dư Có tài khoản tiền gửi của khách hàng.
Mặc dù số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của từng khách hàng thường không lớn nhưng do
là trung tâm tập trung tiền tệ và cung cấp dịch vụ thanh toán, nên NHTM có số lượng khách
hàng rất đông khiến cho tổng số vốn huy động qua tiền gửi thanh toán của tất cả khách hàng trở
nên lớn đáng kể.
b. Tiền gửi tiết kiệm
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 6
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
Sản phẩm tiến gửi tiết kiệm được thiết kế dành cho đối tượng khách hàng cá nhân hoặc tổ
chức có tiền tạm thời nhàn rỗi muốn gửi ngân hàng. Ngoài hai loại tiền gửi tiết kiệm chính là tiết
kiệm không kỳ hạn và tiết kiệm định kỳ, hầu hết các ngân hàng thương mại đều có thiết kế
những loại tiền gửi tiết kiệm khác như tiết kiệm tiện ích, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm có

thưởng, tiết kiệm an khang với nét đặc trưng riêng nhằm làm cho sản phẩm của mình luôn được
đổi mới theo nhu cầu khách hàng và tạo ra rào cản dị biệt để chống lại sự bắt chước của các đối
thủ cạnh tranh.
3.4 Phân loại theo nội dung nghiệp vụ
a. Tiền gửi không kỳ hạn : giống như tiền gửi hoạt kỳ
b. Tiên gửi có kỳ hạn: giống như tiền gửi định kỳ
c. Huy động vốn ngắn hạn thông qua phát hành kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi. Huy động
vốn trung và dài hạn thông qua phát hành các loại trái phiếu, cổ phiếu
• Huy động vốn ngắn hạn thông qua phát hành kỳ phiếu
- Kỳ phiếu là một loại giấy tờ có giá do ngân hàng phát hành để huy động vốn ngắn
hạn, trong đó ngân hàng cam kết sẽ trả lãi được hưởng và vốn gốc cho nhà đầu tư khi kỳ
phiếu đến hạn.
Ví dụ: Kỳ phiếu của VCB – Tình huống khách hàng cá nhân
- Đối tượng: Cá nhân là người cư trú theo quy định hiện hành của Chính phủ.
- Loại tiền: VNĐ và các loại ngoại tệ được NHNT công bố từng thời kỳ.
- Hình thức mua: tiền mặt, séc du lịch, chuyển khoản.
- Mệnh giá: tối thiểu kỳ phiếu VNĐ là 500.000đ, tối thiểu kỳ phiếu ngoại tệ là 100
USD (hoặc trị giá tương đương với ngoại tệ khác).
- Loại kỳ phiếu: vô danh, đích danh
- Kỳ hạn: dưới 01 năm
- Phương thức trả lãi:
+ Trả lãi sau: trả một lần tại thời điểm thanh toán kỳ phiếu
+ Trả lãi trước: trả một lần tại thời điểm phát hành, lãi của kỳ phiếu là số tiền chênh
lệch giữa mệnh giá và giá bán.
+ Trả lãi định kỳ.
• Huy động vốn ngắn hạn thông qua phát hành chứng chỉ tiền gửi
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 7
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
Ngoài kỳ phiếu, các NHTM còn có thể phát hành chứng chỉ tiền gửi để huy động vốn
ngắn hạn. Ở Việt Nam thời gian qua, các NHTM cổ phần ít khi sử dụng công cụ huy

động vốn ngắn hạn này. Trong khi đó, các NHTM Nhà nước sử dụng thường xuyên hơn.
• Huy động vốn dài hạn bằng phát hành trái phiếu
- Với nhu cầu vốn dài hạn lên đến 10, 15 hoặc 20 năm, rõ ràng các NHTM không thể
sử dụng các hình thức huy động tiền gửi hay phát hành các loại giấy tờ có giá ngắn hạn
được. Trong trường hợp này, NHTM có thể phát hành trái phiếu. Trái phiếu do các
NHTM phát hành có thể xem như là loại trái phiếu công ty. Nó là giấy chứng nhận nợ do
các NHTM phat hành để huy động vốn dài hạn, theo đó Ngân hàng cam kết sẽ trả lãi và
vốn gốc cho các nhà đầu tư mua trái phiếu. Nhìn chung, một trái phiếu có những thuộc
tính sau đây:
- Mệnh giá: là giá trị được công bố trên trái phiếu mà nhà đầu tư sẽ nhận lại khi trái
phiếu đáo hạn.
- Lãi suất của trái phiếu: là lãi suất nhà đấu tư được hưởng, được công bố và ghi trên
trái phiếu
- Thời hạn của trái phiếu: là khoảng thời gian tính từ lúc phát hành cho đến khi trái
phiếu đến hạn hoàn trả vốn gốc.
- Phương thức trả lãi: là cách thức ngân hàng áp dụng để xác định và trả lãi được
hưởng cho nhà đầu tư. Nhìn chung, phương thức trả lãi cũng có thể áp dụng một trong ba
phương thức trả trước, trả sau hoặc trả theo định kỳ. Trong đó, trả lãi định kỳ còn có thể
chia thành trả lãi theo định kỳ hàng năm hoặc trả lãi theo định kỳ sáu tháng hay nửa năm.
• Huy động vốn dài hạn bằng phát hành trái phiếu chuyển đổi
- Trái phiếu chuyển đổi là loại trái phiếu mà tổ chức phát hành bán cho các nhà đầu tư,
trong đó có thỏa thuận đến một thời điểm nào đó sau khi phát hành các nhà đầu tư có
quyền chuyển đổi thành cổ phiếu theo một tỷ lệ chuyển đổi nào đó.
- Loại trái phiếu này được xem như là một dạng chứng khoán lai, do vừa có tính chất
của một chứng khoán nợ, đồng thời vừa có các tính chất của một chứng khoán vốn. Nó
rất phổ biến ở các nước có thị trường vốn phát triển, nhưng chưa phổ biến lắm ở Việt
Nam.
• Huy động vốn dài hạn bằng phát hành cổ phiếu
- Cổ phiếu nói chung là giấy chứng nhận vào công ty cổ phần. Các NHTM cổ phần
cũng là một dạng công ty cổ phần,do đó, có thể phát hành cổ phiếu để huy động vốn cổ

Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 8
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
phần. Để huy động và tăng vốn chủ sở hữu, NHTM có thể xem xét phát hành cổ phiếu
bán cho cổ đông cũ, cổ đông mới và kể cả bán cổ phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài.
• Huy động vốn từ các tổ chức tín dụng khác và từ ngân hàng Nhà nước
- Nhìn vào bên nguồn vốn của bảng cân đối tài sản, chúng ta có thể nhận thấy NHTM
có một bộ phận vốn huy động từ các tổ chức tín dụng khác và bộ phận vốn vay từ Ngân
hàng Nhà nước. Các tổ chức tín dụng khác khi tham gia hệ thống thanh toán có thể mở tài
khoản tại NHTM. Qua tài khoản này, NHTM có thể huy động vốn giống như đối với các
tổ chức kinh tế bình thường. Ngoài các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước cũng có
thể là nơi cung cấp vốn cho ngân hàng thương mại dưới hình thức cho vay như vay chiết
khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá của NHTM; vay cầm cố chứng từ có giá, vay lại
theo hồ sơ tín dụng
4. Nguyên tắc quản lý nguồn vốn huy động:
4.1 Tuân thủ các qui định pháp luật về huy động vốn:
• Quyết định 173-CT năm 1989, cập nhật ngày 16/12/2009 v/v sử dụng nguồn vốn huy
động tiết kiệm do Chủ nhiệm Hội đồng bộ trưởng ban hành.
Nội dung:
- Điều 1.Việc sử dụng nguồn vốn tiết kiệm để cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh, Ngân
hàng Nhà nước chỉ được áp dụng chế độ lãi suất cho vay thông thường. Vốn cho vay
trước hết ưu tiên đối với các đơn vị kinh tế quốc doanh thuộc các ngành then chốt của
nền kinh tế quốc dân, hiện đang thực sự thiếu vốn. Không áp dụng lãi suất thoả thuận đối
với những nhu cầu về vốn ngoài mức cần thiết, hợp lý của các đơn vị và tổ chức kinh tế,
do Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước xem xét, quyết định.
- Điều 2. Cho phép Ngân hàng được sử dụng một phần nguồn vốn tiết kiệm của dân cư để
cho ngân sách trung ương và cấp tỉnh, thành phố vay khi cần thiết để bảo đảm trả lương
hưu và các khoản bảo hiểm xã hội đủ và đúng kỳ hạn. Việc vay vốn của các tỉnh và thành
phố thực hiện theo hướng dẫn của liên Bộ Tài chính - Lao động - Thương binh và xã hội.
Cấp nào vay, cấp đó trả lãi bao gồm lãi trả cho người gửi tiết kiệm và phí Ngân hàng.
- Điều 3. Chênh lệch lỗ phát sinh do sử dụng tiền gửi tiết kiệm để cho vay theo lãi xuất

thông thường, được hạch toán riêng và thanh toán với Bộ Tài chính về kết quả kinh
doanh của Ngân hàng.
- Điều 4. Nghiêm cấm dùng vốn vay Ngân hàng để gửi tiết kiệm, mọi hành vi lợi dụng của
các đơn vị kinh tế, kể cả Ngân hàng đều phải xử lý nghiêm ngặt theo pháp luật.
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 9
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
- Điều 5. Bộ trưởng Bộ Tài chính và Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm
hướng dẫn thực hiện quyết định này và có biện pháp quản lý kiểm soát chặt việc cho vay
cũng như sử dụng vốn vay có hiệu quả.
Quyết định này có hiệu lực từ ngày 1-7-1989
• Quyết định của thống đốc Ngân hàng nhà nước số1310/2001/QĐ-NHNN ngày 15 tháng
10 năm 2001 về việc ban hành Quy chế vay vốn giữa các tổ chức tín dụng
4.2 Đảm bảo nhu cầu thanh khoản:
- Ngân hàng phải thường xuyên bám sát các hoạt động của các bộ phận huy động và sử
dụng vốn, điều phối hoạt động của các bộ phận sao cho hoạt động ăn khớp.
- Cần làm tốt công tác về gửi và rút tiền, đặc biệt là đối với khách hàng lớn
- Việc xác định nhu cầu thanh khoản và các chiến lược liên quan đến thanh khoản phải
được tiến hành liên tục và nhanh chóng. Tránh kéo dài tình trạng thặng dư hay thâm hụt
thanh khoản
- Kết hợp quản trị thanh khoản việc dự trữ tài sản thanh khoản, phần còn lại của nhu cầu sẽ
được giải quyết bằng các khoản vốn đi vay.
5. Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn:
5.1Yếu tố khách quan
Đây là các yếu tố mà khi tác động đến ngân hàng sẽ không thể chống được, đó là các rủi ro
không thể tránh. Ngân hàng chỉ có thể nhận thức, dự báo và tìm cách giảm thiểu các rủi ro khi
nó xảy ra.
a. Môi trường pháp lý
Nghiệp vụ huy động vốn của các ngân hàng thương mại chịu sự điều chỉnh rất lớn của môi
trường pháp lý. Có những Bộ Luật tác động trực tiếp mà chúng ta thường thấy như: Luật các
TCTD, Luật ngân hàng nhà nước Những Luật này qui định tỉ lệ huy động vốn của ngân hàng

so với vốn tự có, qui định về việc gửi và sử dụng tài khoản tiền gửi Có những Bộ Luật tác
động gián tiếp đến hoạt động ngân hàng như Luật đầu tư nước ngoài hoặc các ngân hàng thương
mại không được nhận tiền gửi hoặc cho vay bằng cách tăng giảm lãi suất, mà phải dựa vào lãi
suất do ngân hàng nhà nước đưa ra và chỉ được xê dịch trong biên độ nhất định mà ngân hàng
nhà nước cho phép Bên cạnh những bộ luật đó thì chính sách tài chính tiền tệ của một quốc gia
cũng ảnh hưởng rất lớn tới nghiệp vụ tạo vốn của ngân hàng thương mại. Nó được thể hiện ở
mục tiêu của chính sách tiền tệ, chẳng hạn khi nền kinh tế lạm phát tăng, Nhà nước có chính
sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài xã hội thì lúc đó ngân
hàng thương mại huy động vốn dễ dàng hơn. Như vậy, môi trường pháp lí là nhân tố khách quan
có tác động rất lớn tới quá trình huy động vốn của ngân hàng thương mại. Mục tiêu hoạt động
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 10
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
của ngân hàng thương mại được xây dựng vào các qui định, qui chế của Nhà nước để đảm bảo
an toàn và nâng cao niềm tin từ khách hàng.
b. Môi trường kinh tế xã hội:
Tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước cũng có tác động không nhỏ đến quá trình huy
động vốn của ngân hàng. Khi nền kinh tế tăng trưởng hay suy thoái thì nó đều ảnh hưởng tới
nghiệp vụ tạo vốn của ngân hàng thương mại. Mọi biến động của nền kinh tế bao giờ cũng được
biểu hiện rõ trong việc tăng, giảm nguồn vốn huy động từ bên ngoài của ngân hàng. Nền kinh tế
tăng trưởng, sản xuất phát triển, từ đó tạo điều kiện tích luỹ nhiều hơn, do đó tạo môi trường cho
việc thu hút vốn của ngân hàng thương mại thuận lợi. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, lạm
phát tăng, người dân không gửi tiền vào ngân hàng mà giữ tiền để mua hàng hoá, việc thu hút
vốn gặp khó khăn.
c. Tâm lý, thói quen khách hàng
Khách hàng của ngân hàng bao gồm những người có vốn gửi tại ngân hàng và những đối
tượng sử dụng vốn đó. Về môi trường xã hội ở các nước phát triển, khách hàng luôn có tài khoản
cá nhân và thu nhập được chuyển vào tài khoản của họ. Nhưng ở các nước kém phát triển, nhu
cầu dùng tiền mặt thường lớn hơn. ở khoản mục tiền gửi tiết kiệm có hai yếu tố quan trọng tác
động vào là thu nhập và tâm lý của người gửi tiền. Thu nhập ảnh hưởng đến nguồn vốn tiềm
tàng mà Ngân hàng có thể huy động trong tương lai. Còn yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến sự biến

động ra vào của các nguồn tiền. Tâm lý tin tưởng vào tương lai của khách hàng có tác dụng làm
ổn định lượng tiền gửi vào, rút ra và ngược lại nếu niềm tin của khách hàng về đồng tiền trong
tương lai sẽ mất giá gây ra hiện tượng rút tiền hàng loạt vốn là mối lo ngại lớn của mọi ngân
hàng. Một đặc điểm quan trọng của đối tượng khách hàng là mức độ thường xuyên của việc sử
dụng các dịch vụ ngân hàng. Mức độ sử dụng càng cao, ngân hàng càng có điều kiện mở rộng
việc huy động vốn.
5.2 Các nhân tố chủ quan
a. Các hình thức huy động vốn
Ngân hàng muốn dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn thì trước hết phải đa dạng hình thức huy động
vốn. Hình thức huy động vốn của ngân hàng ngày càng phong phú, linh hoạt bao nhiêu thì khả
năng thu hút vốn từ nền kinh tế càng lớn bấy nhiêu. Điều này xuất phát từ sự khác nhau trong
nhu cầu và tâm lí của các tầng lớp dân cư. Mức độ đa dạng các hình thức huy động càng cao thì
dễ dàng đáp ứng một cách tối đa nhu cầu của dân cư, vì họ đều tìm thấy cho mình một hình thức
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 11
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
gửi tiền phù hợp mà lại an toàn. Do vậy các ngân hàng thương mại thường cân nhắc rất kĩ lưỡng
trươc khi đưa vào áp dụng một hình thức mới.
b. Chính sách lãi suất cạnh tranh:
Việc duy trì lãi suất tiền gửi cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau đã trở nên cực kỳ quan
trọng trong việc thu hút các khoản tiền gửi mới và duy trì tiền gửi hiện có. Điều này đặc biệt
đúng khi lãi suất thị trường đã ở vào mức tương đối cao. Các ngân hàng cạnh tranh giành vốn
không chỉ với các ngân hàng khác mà còn với các tổ chức tiết kiệm khác, các thị trường tiền tệ
và với những người phát hành các công cụ tài chính khác nhau trong thị trường tiền tệ.Khi lãi
suất tối đa bị loại bỏ trong quá trình nới lỏng các quy định, việc duy trì mức lãi suất cạnh tranh
càng trở nên gay gắt. Đặc biệt trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ, đủ cho những khác biệt tương
đối nhỏ về lãi suất cũng sẽ thúc đẩy người gửi tiền tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ ngân
hàng này sang ngân hàng khác hay từ công cụ này sang công cụ khác.
c. Năng lực và trình độ cán bộ ngân hàng
Về phương diện quản lí, nếu ngân hàng có trình độ quản lí tốt sẽ có khả năng tư vấn phù hợp
cho khách hàng đem lại hiệu quả cao thì sẽ thu hút được khách hàng đến với mình. Mặt khác,

quản lí tốt sẽ đảm bảo được an toàn vốn, tăng uy tín, tạo điều kiện tốt cho công tác huy động vốn
của ngân hàng.
Về trình độ nghiệp vụ: trình độ của cán bộ ngân hàng ảnh hưởng lớn tới chất lượng phục vụ,
chi phí dịch vụ làm ảnh hưởng tới việc thu hút vốn của ngân hàng.
Hiện nay, ở nhiều Ngân hàng Việt Nam, trình độ nghiệp vụ của cán bộ có nhiều bất cập. Vì
vậy, cần phải chú trọng vào việc nâng cao trình độ cho cán bộ sao cho phù hợp với nhu cầu đòi
hỏi của kinh tế thị trường
d. Công nghệ ngân hàng
Trình độ công nghệ ngân hàng được thể hiện theo các yếu tố sau:
Thứ nhất: Các loại dịch vụ mà ngân hàng cung ứng
Thứ hai : Trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên ngân hàng
Thứ ba: Cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Trình độ công nghệ ngân hàng ngày càng cao, khách hàng sẽ càng cảm thấy hài lòng về dịch
vụ được ngân hàng cung ứng và yên tâm hơn khi gửi tiền tại các ngân hàng. Đây là một yếu tố
rất quan trọng giúp ngân hàng cạnh tranh phi lãi suất vì khách hàng mà ngân hàng phục vụ,
không quan tâm đến lãi suất mà quan tâm đến chất lượng và loại hình dich vụ mà ngân hàng
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 12
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
cung ứng. Với cùng một lãi suất huy động như nhau, ngân hàng nào cải tiến chất lượng dịch vụ
tốt hơn, tạo sự thuận tiện hơn cho khách hàng thì sức cạnh tranh sẽ cao hơn.
e. Các dịch vụ ngân hàng cung ứng
Một ngân hàng có dịch vụ tốt, đa dạng hiển nhiên có lợi thế hơn so các ngân hàng có các
dịch vụ hạn chế. Trong điều kiện thành phố thiếu bãi đậu xe, ngân hàng có bãi đậu xe rộng rãi
cũng là một lợi thế hoặc ngân hàng có giao dịch mặt đường trên các phố chính, có hệ thống rút
tiền tự động làm việc ngày đêm, có cán bộ giao dịch niềm nở, có trách nhiệm, tạo được niềm tin
cho khách hàng cũng là lợi thế đáng quan tâm của các ngân hàng thương mại. Khác về cạnh
tranh, về lãi suất, cạnh tranh về dịch vụ ngân hàng không giới hạn, do vậy đây chính là điểm
mạnh để các ngân hàng giành thắng lợi trong cạnh tranh.
f. Mức độ thâm niên của một Ngân hàng:
Đối với các khách hàng khi cần giao dịch với một ngân hàng thì bao giờ họ cũng dành phần

ưu ái đối với một ngân hàng có thâm niên hơn là một ngân hàng mới thành lập. Bởi vì, theo họ
thì một ngân hàng thâm niên là một ngân hàng có uy tín, vững vàng trong nghiệp vụ, có nguồn
vốn và có khả năng thanh toán cao. Do vậy, mức độ thâm niên về một khía cạnh nào đó cũng tạo
ra được lòng tin đối với khách hàng
g. Chính sách quảng cáo:
Không một ai có thể phủ nhận được vai trò to lớn của chính sách quảng cáo trong thời đại
ngày nay. Trong hoạt động ngân hàng hiện đại, quảng cáo luôn được đề cao và cần phải có một
chi phí nhất định cho công tác này. Đồng thời ngân hàng cũng phải có chiến lược quảng cáo đặc
biệt không chỉ trên truyền hình mà nên dùng cả Pano, áp phích, tờ rơi nhằm đẩy mạnh công tác
huy động vốn.
h. Mạng lưới phục vụ cho việc huy động vốn:
Mạng lưới huy động vốn của các ngân hàng thường biểu hiện qua việc tổ chức các quĩ tiết
kiệm. Mạng lưới huy động không chỉ được mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền,
mà cần được mở ra ở cả những nơi cách xa trung tâm kinh tế như nông thôn, vùng sâu, vùng xa
để từ đó nâng cao được hiệu quả huy động vốn.
Trên đây là các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của các hệ thống ngân hàng
thương mại. Với mỗi ngân hàng trong những giai đoạn khác nhau, mức độ ảnh hưởng của các
nhân tố trên đến hoạt động huy động vốn cũng khác nhau. Tùy thuộc vào tình hình cụ thể mà các
ngân hàng có thể xây dựng cho mình một chiến lược huy động thích hợp.
6. Nâng cao hiệu quả nguồn vốn huy động:
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 13
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
6.1. Khái niệm:
Về phía xã hội : Để thực hiện được công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, cần
một lượng vốn rất lớn làm tiền đề vật chất, vốn để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật , kết cấu hạ
tầng, vốn để sản xuất kinh doanh.
Về phía ngân hàng: để có thể tiến hành kinh doanh có hiệu quả, đa dạng các hình thức kinh
doanh để nâng cao sức cạnh tranh và lợi nhuận ngân hàng cần có một lượng vốn lớn huy động từ
các nguồn trong nước.
Vốn trong nước phần lớn nằm trong các hộ gia đình dưới dạng tiết kiệm dự phòng. Hơn nữa

vốn của các tổ chức kinh tế xã hội không phải lúc nào cũng được sử dụng theo vụ mùa, theo chu
kỳ kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.Do đó lượng vốn nhàn rỗi trong khu vức này cũng rất là
lớn. Nhiệm vụ to lớn của mỗi ngân hàng là phải tập trung và thu hút các nguồn vốn lớn này để
đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, các công trình kinh tế xã hội biến chúng thành
những đồng vốn mang lại hiệu quả kinh tế xã hội.
Để đạt được điều đó thì ngân hàng phải có công tác huy động vốn phù hợp và có hiệu quả.
Như vậy, hiệu quả huy động vốn của NHTM chính là kết quả huy động mà ngân hàng đạt
được, phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn, đảm bảo được mục tiêu an toàn và sinh lợi cho
ngân hàng trong từng thời kỳ. Huy động vốn có hiệu quả là huy động vốn ổn định, vừa đủ
đáp ứng nhu cầu kinh doanh của Ngân hàng.
Nhưng làm thế nào để biết nguồn vốn đó ổn định, vừa đủ, đáp ứng được nhu cầu kinh doanh
của các Ngân hàng thì phải dựa vào các chỉ tiêu cụ thể khi đánh giá
6.2. Tiêu chí xác định hiệu quả huy động vốn:
Điểm khác nhau cơ bản trong nguồn vốn của các NHTM với các doanh nghiệp phi tài chính
là các NHTM kinh doanh chủ yếu bằng nguồn vốn huy động từ nền kinh tế còn các doanh
nghiệp khác hoạt động chủ yếu dựa vào vốn tự có là chính. Vì vậy, đánh giá hiệu quả công tác
huy động vốn là công tác quan trọng trong nghiên cứu nguồn vốn của các ngân hàng.
Khi đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn, các nhà nghiên cứu thường tập trung vào một
số tiêu chí sau đây:
a. Quy mô và cơ cấu của nguồn vốn:
Nguồn vốn huy động của Ngân hàng bao gồm nhiều bộ phận khác nhau: nguồn tiền gửi,
nguồn tiền vay và các nguồn khác. Mỗi thành phần có đặc tính khác nhau về quy mô, cơ cấu,
tính ổn định, thời gian tồn tại, chi phí phải trả, khả năng thanh toán và rủi ro lãi suất. Trong đó:
 Qui mô là chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động của Ngân hàng. Qui mô nguồn huy
động gia tăng đáp ứng cho hoạt động tài trợ không ngừng tăng trưởng sẽ tạo diều kiện để
Ngân hàng mở rộng hoạt động, nâng cao tính thanh khoản và tính ổn định của nguồn vốn.
 Cơ cấu nguồn vốn ảnh hưởng tới cơ cấu tài sản và quyết định chi phí của Ngân hàng.
Cơ cấu huy động phải phù hợp với cơ cấu sử dụng. Nếu cơ cấu nguồn huy động không phù
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 14
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức

hợp, không đáp ứng được yêu cầu sử dụng thì sẽ không tối đa được dư nợ tín dụng và đầu tư,
nhu cầu thanh toán và các nhu cầu khác. Ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu của khách
hàng, không đa dạng hóa được các hoạt động kinh doanh, không mở rộng cạnh tranh được và
sẽ bị mất hết khách hàng, ngược lại cơ cấu huy động nhiều mà sử dụng không hết thì vốn sẽ
bị “đóng băng” khiến lợi nhuận bị giảm sút, do vẫn phải trả lãi và các chi phí kèm theo như
chi phí bảo quản, kế toán, kho quỹ…trên phần huy động thừa mà không có khoản nào bù đắp
lại.
Cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng có thể rất khác nhau, tùy thuộc vào đặc điểm khách hàng,
chiến lược kinh doanh và hoạt động Marketing của Ngân hàng. Nhìn chung, cơ cấu của một
ngân hàng được xem là hợp lý nếu các thành phần của nó đáp ứng được kế hoạch sử dụng vốn,
đồng thời với chi phí biến động thấp nhất.
Chỉ tiêu đánh giá cơ cấu các khoản huy động:
Mỗi loại tiền gửi có các yêu cầu khác nhau về chi phí, thanh khoản, thời hạn Do đó, việc
xác định rõ cơ cấu vốn huy động sẽ giúp cho ngân hàng hạn chế rủi ro có thể gặp phải và tối
thiểu hoá chi phí đầu vào.
Chúng ta sẽ so sánh những khoản vốn có tính thời hạn dài so với các khoản vốn có tính thời
hạn thấp để xem xét sự ổn định của nguồn vốn huy động. Từ đó tìm ra nguyên nhân và biện
pháp để tăng các khoản huy động có thời hạn dài. Chi phí huy động là vấn đề mà các ngân hàng
đều quan tâm. Để có được chi phí đầu vào hợp lý, có lợi cho ngân hàng thì các ngân hàng phải
xem xét khoản mục nào có tỷ trọng lớn nhất. Trong thực tế các khoản huy động từ các doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế có tính ổn định tương đối cao, chi phí vừa phải rất có lợi cho hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Cho nên để đẩy mạnh hiệu quả công tác huy động vốn thì các ngân
hàng phải tìm cách nâng cao tỷ trọng của nhóm này lên hơn nữa trong cơ cấu vốn huy động của
mình. Bên cạnh đó các khoản vốn huy động từ khu vực dân cư rất tiềm tàng giúp Ngân hàng mở
rộng kinh doanh tín dụng tiêu dùng, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, tiết kiệm chi phí
lưu thông có lợi cho nền kinh tế.
b. Chi phí vốn
Thành phần cơ bản của chi phí huy động vốn của các ngân hàng thể hiện ở khoản chi phí trả
lãi (trả lãi cho tiền gửi và tiền vay) cùng với các khoản chi phí phi lãi mà ngân hàng phải bỏ ra
để huy động vốn.

Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 15
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
Công tác huy động vốn của ngân hàng được đánh giá là có chất lượng và hiệu quả cao về
phương diện chi phí khi nó đạt được những lợi ích cơ bản sau đây:
 Tìm kiếm được nguồn vốn có chi phí thấp nhất để đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư
trong khi vẫn thỏa mãn các yêu cầu tương xứng giữa huy động và sử dụng về các phương
diện quy mô, thời hạn, tính ổn định.
 Tăng được lợi nhuận cho ngân hàng mà không nhất thiết phải chấp nhận những rủi ro
cao do sức ép tăng chi phí vốn.
c. Chênh lệch lãi suất bình quân giữa huy động vốn và sử dụng vốn:
Chênh lệch lãi suất bình quân = -
d. Tỉ lệ quỹ đảm bảo khả năng thanh toán:
Các Ngân hàng Thương mại phải chấp hành tỷ lệ này nhằm đảm bảo an toàn cho các khoản
huy động. Ngân hàng nào có tỷ lệ này đúng theo quy định chứng tỏ ngân hàng đó rất coi trọng
công tác huy động vốn bởi vì bên cạnh huy động vốn - mục tiêu của ngân hàng thì ngân hàng
cũng đảm bảo được an toàn cho khách hàng, tạo được tâm lý yên tâm cho khách hàng khi họ
“gửi gắm ” tiền cho ngân hàng.
Sở dĩ các ngân hàng phải chấp hành tỷ lệ này vì không phải các khoản huy động nào cũng có
tính ổn định, các ngân hàng phải có khả năng thanh toán để đảm bảo cho các nhu cầu rút tiền
mặt bất thường của khách hàng nhằm không ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng,
từ đó góp phần làm ổn định nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng, đảm bảo an toàn cho hoạt
động kinh doanh ngân hàng.
e. Tỉ lệ tiền gửi tiết kiệm bình quân đầu người :
Để đánh giá mức độ huy động được từ dân cư, ta xét hệ số:
Nếu tỉ lệ này càng cao chứng tỏ hoạt động huy động vốn đạt kết quả tốt, bởi vì ngân hàng đã
tác động vào ý thức tiết kiệm, ý thức gửi tiền vào ngân hàng và đã thu hút được một nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi từ dân cư để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế.
f. So sánh nguồn vốn huy động và việc sử dung vốn:
Nếu một Ngân hàng Thương mại có nguồn sử dụng vốn tương xứng với nguồn vốn huy
động, chứng tỏ nguồn vốn huy động đã được sử dụng có hiệu quả và công tác huy động vốn của

ngân hàng đã thành công. Bởi vì phần lớn thu nhập từ hoạt động sử dụng vốn sẽ bù đắp phần nào
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 16
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
chi phí huy động và đem lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Hơn nữa việc sử dụng vốn tốt sẽ
thúc đẩy hoạt động huy động vốn. Cho nên khi đánh giá hiệu quả hoạt động của công tác huy
động vốn người ta thường xem xét đến công tác sử dụng vốn của ngân hàng đó.
g. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn hàng năm:
Sự phát triển của các ngân hàng đều tập trung vào mục tiêu lợi nhuận và tăng trưởng dư nợ.
Để tăng trưởng được dư nợ thì ngân hàng phải mở rộng doanh số cho vay và điều này có liên
quan đến nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng lớn hay nhỏ. Việc gia tăng nguồn vốn biểu hiện
qua nghiệp vụ huy động vốn. Nếu huy động vốn có hiệu quả sẽ làm tăng nguồn vốn kinh doanh,
tăng doanh số cho vay, tăng lợi nhuận. Điều đó cũng có nghĩa là nguồn vốn của ngân hàng đưcợ
bổ sung như thế nào tuỳ thuộc chủ yếu vào hoạt động huy động vốn của ngân hàng đó.
6.3. Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả huy động vốn:
a. Đối với Ngân hàng thương mại:
- Trong môi trường kinh doanh ngày nay sự cạnh tranh diễn ra gay gắt thì vốn là một yếu
tố giúp các ngân hàng thắng thế trong cạnh tranh. Ngân hàng nào trường vốn sẽ có khả năng
thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, có khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh, tăng
thêm thu nhập và củng cố vị thế trên thị thương trường Nhận thức được vai trò to lớn của vốn
trong hoạt động kinh doanh, các Ngân hàng Thương mại luôn tìm cách phát triển nguồn vốn của
mình, tìm mọi biện pháp để đẩy mạnh hiệu quả của công tác huy động vốn.
- Huy động vốn là một nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng. Từ khi có các ngân hàng ra
đời thì nghiệp vụ huy động vốn đã gắn liền với các hoạt động của nó, trải qua quá trình phát
triển của hệ thống ngân hàng thì nghiệp vụ huy động vốn cũng được đổi mới cho phù hợp với sự
phát triển của xã hội. Hiệu quả công tác huy động vốn được các ngân hàng quan tâm không chỉ
vì nó là một nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng ma còn vì nó là một trong những hoạt động
chủ yếu và mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó trong mọi giai đoạn, nâng cao hiệu
quả công tác huy động vốn luôn là vấn đề được các Ngân hàng Thương mại chú trọng.
- Nhu cầu phát triển của xã hội ngày càng tăng kéo theo nhu cầu về vốn của các thành phần
kinh tế, của dân cư Để đáp ứng được mọi yêu cầu này thì các ngân hàng phải có một nguồn

vốn đủ lớn để có thể phục vụ cho sự phát triển chung của nền kinh tế, mà nguồn vốn tự có của
ngân hàng luôn là quá “nhỏ bé” trước yêu cầu phát triển của xã hội. Do đó để có thể có một
lượng vốn cần thiết để thực hiện sứ mệnh “bà đỡ” cho nền kinh tế thì các Ngân hàng Thương
mại phải tìm cách tăng trưởng nguồn vốn hiện có của mình và vấn đề nâng cao hiệu quả công tác
huy động vốn được đặt ra rất bức thiết.
- Các Ngân hàng Thương mại hoạt động trên thị trường với tư cách là các trung gian tài
chính với chức năng chủ yếu là phân phối lại tiền tệ trong xã hội, thúc đẩy nền kinh tế không
ngừng phát triển. Hoạt động huy động vốn chính là việc thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 17
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
hội để rồi sau đó ngân hàng phân phối đến nơi thiếu vốn (bằng các hoạt động cho vay, đầu tư).
Làm tốt công tác huy động vốn cũng đồng nghĩa với ngân hàng làm tốt nhiệm vụ quan trọng
nhất của mình . Cho nên mọi Ngân hàng Thương mại đều ý thức được sự cần thiết của việc đẩy
mạnh hiệu quả hoạt động huy động vốn.
b. Đối với khách hàng:
- Đối với dân cư:
Nghiệp vụ huy động vốn đã cung cấp cho mọi người dân các phương thức tiết kiệm tiền hợp
lý và an toàn. Nguồn tiền tiết kiệm trong dân cư rất dồi dào, có nhiều điều kiện thuận lợi để ngân
hàng sử dụng kinh doanh. Để thu hút được các nguồn vốn này các ngân hàng đã sử dụng nhiều
hình thức huy động vốn phong phú và tiện lợi. Điều này giúp người dân dễ dàng lựa chọn một
hình thức gửi tiền phù hợp với đặc điểm khoản tiền của mình. Do đó tâm lý người dân luôn
mong ngân hàng đưa ra được các hình thức huy động vốn hiệu quả, có lợi cho cả hai bên: vừa
ích nước vừa lợi nhà, vừa an toàn tài sản.
- Đối với các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp :
Nghiệp vụ huy động vốn đã giúp cho các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp thuận tiện trong
thanh toán giao dịch thông qua tài khoản tiền gửi thanh toán. Nếu ngân hàng đẩy mạnh công tác
huy động vốn thì sẽ giúp các doanh nghiệp rất nhiều trong hoạt động kinh doanh, làm cho hoạt
động của doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế luôn trôi chảy. Hơn nữa, các doanh nghiệp và tổ
chức kinh tế đều có quan hệ tín dụng với ngân hàng và huy động vốn có hiệu quả sẽ giúp cho
doanh nghiệp có vốn kịp thời bất cứ lúc nào mà doanh nghiệp cần vốn. Do đó đứng ở góc độ

doanh nghiệp thì nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn ở mỗi ngân hàng là cần thiết.
c. Đối với nền kinh tế:
Nghiệp vụ huy động vốn giúp cho các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội được tập trung về
một mối, thuận tiện cho việc phân phối lại chúng. Tránh được tình trạng lãng phí nguồn vốn,
một số người tổ chức “hụi”, “họ” gây mất ổn định trong xã hội.Với nền kinh tế thì hoạt động huy
động vốn là không thể thiếu nhất là khi nền kinh tế có lạm phát, lúc đó huy động vốn là một
trong những công cụ để kìm chế lạm phát.
Khi nền kinh tế trong giai đoạn phát triển, huy động vốn giúp cho nó phát triển nhịp nhàng,
hiệu quả hơn. Vì thế đẩy mạnh công tác huy động vốn ở mỗi Ngân hàng Thương mại có ý nghĩa
rất lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế.
7. Một số thuận lợi và khó khăn khi thực hiện huy động vốn.
7.1 Thuận lợi
Thuận lợi cơ bản nhất là nền kinh tế tiếp tục duy trì phát triển. Mặc dù ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính – tín dụng ở Mỹ kéo theo sự sụt giảm của nhiều nền kinh tế lớn trên thế
giới, nhưng tình hình kinh tế xã hội cả nước vẫn phát triển tương đối ổn định.
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 18
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
7.2 Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi, NHTM hiện nay cũng phải đối mặt với không ít những khó khăn
phải vượt qua. Khủng hoảng tài chính tín dụng ở Mỹ ít nhiều cũng tác động đến nề kinh tế nước
ta. Điều này cũng làm giảm nguồn vốn của ngân hàng.
Về huy động vốn, với trên 90% tỷ trọng vốn của ngân hàng hiện nay là nguồn vốn ngắn hạn,
gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại trong việc quản trị nguồn vốn, khó bảo đảm cân đối
kỳ hạn. Kỳ hạn huy động vốn bình quân có xu hướng rút ngắn trong khi kỳ hạn cho vay bình
quân dài, tạo nguy cơ rủi ro kỳ hạn và lãi suất. Qua thực tế tình hình huy động vốn, một số ngân
hàng thương mại có lợi thế về mạng lưới, thương hiệu, nguồn vốn huy động tăng mạnh; một số
ngân hàng quy mô nhỏ huy động vốn trên thị trường 1 gặp khó khăn, một số khác quản trị rủi ro
thanh khoản yếu, vốn huy động phụ thuộc lớn vào thị trường 2, nắm giữ ít giấy tờ có giá, thực
hiện cạnh tranh lách huy động vốn với lãi suất cao đã ảnh hưởng đến hoạt động của các tổ chức
tín dụng khác và gây mất ổn định thị trường tiền tệ

Về chất lượng tín dụng và tỷ lệ nợ xấu, trong bối cảnh lãi suất vẫn còn cao, môi trường kinh
tế trong và ngoài nước tiềm ẩn rủi ro, các doanh nghiệp tiếp tục gặp nhiều khó khăn trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh, làm dư nợ quá hạn và nợ xấu có xu hướng gia tăng
Bên cạnh đó, việc trần lãi suất huy động hạ thấp xuống còn 8%/năm dẫn đến kênh ngân hàng
không còn thu hút khách như trước kia nên các nhà băng đang cần "hút" vốn để đẩy mạnh cho
vay, bởi nhu cầu vay của doanh nghiệp hiện nay rất lớn. Ngoài ra, việc nhà băng không ngừng
thu hút vốn vào giai đoạn hiện nay là để chuẩn bị nguồn vốn cho giai đoạn tiếp theo của nền
kinh tế.
Các cơ sở vật chất tuy đã được cải thiện nhưng so với nhu cầu hiện tại và thế giới thì vẫn còn
lạc hậu
Nhận biết được những thuận lợi và khó khăn khi huy động vốn, NHTM cần phải phát huy
những lợi thế và hạn chế những bất lợi của mình. Để làm được những điều đó thì Chi nhánh phải
có những giải pháp thích hợp.
8. Một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động huy động vốn .
Huy động vốn thông qua hệ thống NHTM là vấn đề quan trọng trong cơ chế thị trường, là
kênh huy động vốn linh hoạt góp phần đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế - xã hội, đặc
biệt ở những quốc gia đang phát triển và đang trong qua trình thâm nhập vào nền kinh tế thế giới
như nước ta hiện nay. Muốn thu hút vốn nhàn rỗi của công chúng thì chính NHTM phải tìm hiểu
nhu cầu, tâm lý của công chúng và phải đáp ứng tốt nhất các nhu cầu đó.
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 19
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
Dưới sự tác động của nhiều nhân tố (tình hình hấp thụ vốn trung và dài hạn của nền kinh tế,
lãi suất ), công tác huy động vốn luôn là vấn đề thách thức đối với các NHTM Việt Nam.
8.1 Xây dựng chiến lược huy động vốn phù hợp cho từng thời kỳ.
NHTM cần phải xây dựng cho mình một chiến lược huy động vốn phù hợp trên cơ sở chiến
lược phát triển chung của NHNN.
Tùy từng điều kiện khách quan thuận lợi hay bất lợi mà mỗi NHTM xây dựng cho mình một
chiến lược huy động vốn cụ thể. Trên cở sở chiến lược đề ra, dựa vào điều kiện thực tế để có
biện pháp cụ thể trong công tác tổ chức chỉ đạo, điều hành thực hiện những chiến lược đã đề ra
đồng thời phải thường xuyên cập nhật thông tin để có ý kiến chỉ đạo kịp thời từ đó đưa ra định

hướng cho những bước tiếp theo phải thực hiện như: đề ra mức lãi suất huy động thích hợp
8.2 Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn.
Đối với khách hàng, mục tiêu của họ khi sử dụng một sản phẩm của ngân hàng để gửi tiền là
vì những tiện ích mà loại sản phẩm đó đem lại như lãi suất mà họ được hưởng, kỳ hạn gửi tiền,
lợi ích mà họ được hưởng thêm do ngân hàng cung cấp, khuyến mại Vì vậy, để có thể thu hút
được khách hàng thì ngân hàng cần đáp ứng được nhu cầu đa dạng của họ bằng cách cung cấp
cho họ các loại hình sản phẩm dịch vụ phong phú để họ lựa chọn. Do đó, NHTM cần phải đa
dạng hóa hình thức huy động vốn, thường xuyên cải tiến hình thức huy động vốn theo hướng có
lợi cho khách hàng mà hoạt động của ngân hàng vẫn đạt được hiệu quả. Thực hiện được như vậy
thì khi khách hàng tìm đến với ngân hàng, họ có thể lựa chọn bất kỳ hình thức nào sao cho thuận
tiện và phù hợp với tiện ích của mình.
8.2.1 Đa dạng hóa tài khoản *ền gửi cá nhân
Hình thức này giúp ngân hàng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư với lãi suất thấp.
Đồng thời, phát triển tài khoản cá nhân góp phần hiện đại hóa quá trình thanh toán qua ngân
hàng, giảm tỷ lệ tiền mặt lưu thông, tiết kiệm chi phí lưu thông.
Việc mở tài khoản tiền gửi cá nhân là nhu cầu cấp thiết xét về góc độ đáp ứng nhu cầu phát
triển các dịch vụ ngân hàng cho mọi tầng lớp dân cư và xu hướng thanh toán không dùng tiền
mặt của một nền kinh tế phát triển. Để tăng số lượng tài khoản này lên, đồng nghĩa với việc tăng
doanh số thanh toán qua tài khoản, góp phần thúc đẩy quá trình thanh toán không dùng tiền mặt
trong xã hội thì NHTM cần chú ý hơn nữa đến hình thức. Bởi vì nước ta vẫn còn khó khăn, thu
nhập bình quân thấp, tâm lý của người dân Việt Nam vẫn quen sử dụng tiền mặt. Vì vậy khái
niệm mở tài khoản cá nhân và thanh toán qua ngân hàng với nhiều người vẫn còn rất mới mẻ.
Hơn nữa, lãi suất huy động đối với loại tài khoản này là rất thấp (lãi suất không kỳ hạn) ngược
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 20
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
hẳn với tâm lý của người gửi tiền vào ngân hàng luôn mong hưởng lãi suất cao. Về phía ngân
hàng cần có những biện pháp tác động như sau:
- Áp dụng mức lãi suất phù hợp hơn, hấp dẫn khách hàng mở tài khoản, kết hợp với các
dịch vụ thanh toán, chi trả hộ khách hàng. Hướng dẫn cho khách hàng thấy được những tiện ích
khi sử dụng tài khoản này để họ hiểu được những ưu điểm của tài khoản và thường xuyên sử

dụng nó. Khi người dân đã quen với việc thanh toán, chi trả và các dịch vụ thuận tiện mà ngân
hàng đưa ra cộng với sự đa dạng hóa các dịch vụ, các hình thức hoạt động của ngân hàng, người
dân sẽ ít quan tâm đến lãi suất. Cần phải tạo cho khách hàng hiểu được mục đích chủ yếu của
khách hàng khi mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân là chất lượng dịch vụ mà không phải là
hưởng lãi.
- Ngân hàng có thể áp dụng việc theo dõi 2 tài khoản song song của khách hàng tức là
khi tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng có nhu cầu thanh toán cao, ngân hàng sẽ có tự
động chuyển tiền gửi có kỳ hạn thành tiền gửi thanh toán để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Ngân hàng làm được như vậy sẽ tạo sự nhanh chóng, tiện lợi hơn cho khách hàng. Đồng thời
cũng giúp cho ngân hàng giảm giai đoạn rút tiền nhiều lần, tốn thời gian và chi phí.
- Ngân hàng cũng có thể liên kết với Kho bạc để làm dịch vụ mở tài khoản chi trả
lương cho các khách hàng là cán bộ công nhân viên làm việc ở các cơ quan, các doanh nghiệp
Nhà nước có thu nhập ổn định. Đây là lĩnh vực có thị trường và khả năng khai thác rất lớn. Hơn
nữa, trong thị trường này trình độ dân trí cao nên khả năng thích ứng của khách hàng với các
dịch vụ ngân hàng là rất nhanh. Ngân hàng có thể qua đó giúp khách hàng tiếp xúc với các dịch
vụ thanh toán hiện đại như thẻ thanh toán, máy rút tiền tự động ATM nhanh chóng hòa nhập
vào mạng lưới thanh toán quốc tế, tạo nguồn vốn lớn, ổn định cho ngân hàng.
- Ngân hàng có thể liên hệ với các trường đại học, cao đẳng trong khu vực để cùng
nhà trường có thể mở tài khoản cho sinh viên trong trường. Làm được điều này có lợi cho cả
ngân hàng, nhà trường và cả sinh viên. Đối với ngân hàng, đây là một nguồn huy động dồi dào
vì hiện nay số lượng sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng rất lớn. Về phía nhà trường và
sinh viên, sẽ dễ dàng hơn trong việc thu học phí và các chi phí, lệ phí khác.
8.2.2. Mở rộng các loại hình *ết kiệm
Thời gian qua, các NHTM đã tung ra thị trường rất nhiều chiêu thức mang tính cạnh tranh để
có thể huy động vốn đạt hiệu quả cao nhất. Bên cạnh mức lãi suất tiền gửi được thống nhất trong
từng thời điểm, hầu hết các NHTM đều cố gắng nghiên cứu, đa dạng hóa các hình thức huy động
vốn như: Tiết kiệm quà tặng, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm trả lãi
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 21
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
bậc thang, tiết kiệm trả góp Để cạnh tranh với các đối thủ NHTM đưa ra các hình thức huy

động mới như: Tiết kiệm học đường, gửi góp theo niên kim, các hình thức tiết kiệm dài hạn có
mục đích để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của dân chúng, cụ thể:
* Tiết kiệm học đường: Là một hình thức tiết kiệm đối với các đối tượng là học sinh, sinh
viên. Do đặc điểm của các loại khách hàng này là nhận tiền vào một thời điểm, chi tiêu trong
một thời gian hàng tháng vì vậy nếu huy động được lượng tiền nhàn rỗi này thì ngân hàng có thể
tìm một nguồn vốn tương đối ổn định. Nhưng do đối tượng khách hàng này cũng không phải là
nhiều nên khi đưa ra hình thức này ngân hàng cần tính toán kỹ đến lợi nhuận và chi phí.
* Tiền gửi theo niên kim: Đây là hình thức tiết kiệm dựa vào đặc điểm của dòng tiền. Ví dụ:
Khách hàng cứ mỗi tháng gửi một số tiền là a, đến thời điểm nào đấy, mỗi tháng rút ra số tiền là
a’. Đây chính là hình thức giúp cho khách hàng có một khoản tiết kiệm ổn định cũng như một
nguồn thu nhập ổn định trong tương lai. Do nhu cầu mua sắm các tài sản cố định đắt tiền như
nhà cửa, xe hơi, hình thức này giúp cho khách hàng có một khoản tiết kiệm lớn.
* Hình thức tiết kiệm nhà ở: Hình thức này tạo cho người gửi tiền được quyền vay ở ngân
hàng một khoản lớn với lãi suất hợp lý để đầu tư cho chỗ ở của chính mình.
* Hình thức tiết kiệm hưu trí bảo thọ: Hình thức này tạo cho người có thu nhập hiện tại để
dành một phần tiêu dùng cho tương lai khi về già bằng cách hàng tháng gửi tiền vào tài khoản
này.
Song song với đa dạng hóa các hình thức tiền gửi tiết kiệm, ngân hàng cần mở rộng việc phát
hành kỳ phiếu có mục đích với hình thức đa dạng hơn như trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi định kỳ
loại 2 năm, 3 năm , lãi suất linh hoạt tùy thuộc môi trường cạnh tranh và cung cầu trên thị
trường; phát hành trái phiếu ngân hàng thương mại để huy động vốn trung và dài hạn vừa tạo
nguồn vốn trung và dài hạn, vừa cung cấp hàng hóa cho thị trường vốn.
Tùy từng điều kiện, thời điểm cụ thể mà ngân hàng áp dụng những hình thức huy động vốn
phù hợp nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi và tiền mặt ngoài xã hội.
8.3 Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt.
Lãi suất huy động là một trong các yếu tố có vai trò quan trọng trong việc thu hút lượng
khách hàng đến gửi tiền ở ngân hàng. Người dân khi có tiền nhàn rỗi gửi vào ngân hàng thường
đặt mục tiêu lãi suất lên hàng đầu. Lãi suất được coi là giá cả của sản phẩm dịch vụ tài chính và
thường rất khó xác định vì nó rất phức tạp. Để sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất cho việc huy
động vốn NHTM cần đảm bảo các nguyên tắc sau trong huy động vốn, đó là:

Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 22
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
- Lãi suất phải phù hợp thời hạn của nguồn vốn huy động đảm bảo lợi ích cho khách
hàng.
- Lãi suất huy động phải được xây dựng trên cơ sở lãi suất đầu ra, bù đắp được chi phí
và có lãi.
- Lãi suất phải được xây dựng theo nguyên tắc thị trường, phản ánh đúng cung – cầu
trên thị trường.
Chính sách lãi suất phải linh hoạt theo từng đối tượng huy động, linh hoạt qua từng thời kỳ.
Để làm được điều đó, ngoài những cách lãi suất thông thường theo kỳ hạn khoản tiền gửi hay
hình thức lĩnh lãi và gốc,ngân hàng nên phân loại khách hàng theo nhiều nhóm khác nhau (như
nhóm khách hàng thường xuyên, nhóm khách hàng mới đến giao dịch lần đầu, khách hàng
VIP ) để áp dụng lãi suất phù hợp cho từng nhóm. Đối với khách hàng truyền thống, khách
hàng có lượng tiền lớn nên có mức lãi suất cao hơn hoặc có thể tăng số lượng dịch vụ đi kèm, để
giữ chân khách hàng tăng cường mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng. Ngoài ra, đối với
đối tượng khách hàng là dân cư, ngân hàng cần thường xuyên khảo sát thị trường vận dụng lãi
suất linh hoạt, đồng thời đưa ra các sản phẩm tiền gửi với lãi suất lũy tiến theo số dư tiền gửi
như: với cùng một kỳ hạn như nhau, ngân hàng có thể thay lãi suất với những khoản tiền lớn.
Với chính sách như vậy ngân hàng có thể thu hút được những khoản tiền lớn. Tuy nhiên, không
phải lúc nào ngân hàng cũng có quyền quyết định việc điều chỉnh lãi suất. Vì vậy, ngân hàng cần
phải tham khảo và xin phép ý kiến của các cấp cao hơn để có được một chính sách lãi suất hợp
lý đảm bảo lợi ích cho cả khách hàng và ngân hàng.
8.4. Tăng cường hoạt động Marke*ng ngân hàng.
Marketing là một hoạt động không thể thiếu đối với bất kỳ một lĩnh vực sản xuất – kinh
doanh nào trong nền kinh tế thị trường. Theo thống kê chi phí cho hoạt động Marketing là rất
lớn song lợi ích mà nó mang lại lớn hơn gấp nhiều lần. Marketing được coi là chiếc cầu nối giữa
nhà cung cấp và người tiêu dùng. Còn trong kinh doanh ngân hàng – một lĩnh vực rất nhạy cảm
thì Marketing càng trở nên quan trọng bởi sản phẩm của chúng mang tính đơn điệu, khách hàng
có thể lựa chọn ngân hàng này hoặc ngân hàng khác để tiếp cận dịch vụ ngân hàng mà gần như
không có sự khác biệt nhất là những dịch vụ truyền thống: Gửi tiền, vay tiền. Trong điều kiện

các ngân hàng ngày càng có nhiều đối thủ như hiện nay, họ không thể tồn tại và phát triển nếu
như không chú trọng đến hoạt động này.
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 23
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
Vì vậy, để mở rộng hoạt động vốn nói riêng, nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung trong
thời gian tới các ngân hàng sẽ chú trọng hơn nữa đến hoạt động Marketing nhằm nâng cao năng
lực và uy tín. Cụ thể là:
- Tăng cường công tác quảng bá hình ảnh của ngân hàng qua các phương tiện thông tin
đại chúng. Ngoài quảng cáo trên các tạp chí, đài phát thanh, truyền hình ngân hàng còn nên tham
gia vào các hoạt động tài trợ cho các giải bóng đá, cho giáo dục, y tế
- Tổ chức hội nghị khách hàng theo định kỳ. Thông qua hội nghị khách hàng sẽ giúp
cho ngân hàng nắm bắt được nhu cầu khách hàng, giải quyết các thắc mắc, mâu thuẫn giữa
khách hàng và ngân hàng, tạo nên mối quan hệ khăng khít, lâu dài với khách hàng đồng thời
giúp cho khách hàng có được thông tin nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời về ngân hàng. Công tác tổ
chức hội nghị khách hàng còn giúp cho ngân hàng có cơ hội giới thiệu cung ứng các sản phẩm
dịch vụ mới, duy trì khách hàng hiện tại, tăng hiệu quả thị trường mục tiêu, kế hoạch hóa được
kế hoạch kinh doanh của mình trong thời gian tới, giúp cho ngân hàng cân đối nguồn vốn hợp lý.
- NHTM cần đầu tư nhiều hơn nữa cho công tác nghiên cứu phân đoạn thị trường. Việc
phân đoạn thị trường sẽ giúp ngân hàng đưa ra được những chính sách phù hợp nhất với từng đối
tượng khách hàng. Phân đoạn thị trường còn giúp ngân hàng xác định thị trường mục tiêu để tập
trung nguồn lực của mình vào thị trường này, tạo ra lợi thế cạnh tranh hơn hẳn đối thủ.
Đặc biệt trong hoạt động Marketing ngân hàng cần chú trọng đến khách hàng và việc chăm
sóc khách hàng. Việc chăm sóc khách hàng sau khi cung cấp sản phẩm cũng rất quan trọng. Nó
làm cho khách hàng có ấn tượng tốt về sự chu đáo, chuyên nghiệp của ngân hàng. Tuy nhiên
công việc này chưa được thực hiện ở nhiều ngân hàng Việt Nam do họ chưa ý thức được tấm
quan trọng của công việc này, một phần do lượng khách hàng của ngân hàng quá đông.
8.5 Nâng cao vị thế và uy >n của ngân hàng.
Trong hoạt động của ngân hàng thì vị thế và uy tín của ngân hàng có ảnh hưởng đến kết quả
hoạt động của ngân hàng. Nếu các ngân hàng trên cùng địa bàn đưa ra các mức lãi suất huy động
như nhau, cung ứng các sản phẩm dịch vụ như nhau thì ngân hàng nào có vị thế và uy tín cao

hơn sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn nhất là các khách hàng lớn. Uy tín của ngân hàng
được thể hiện trong chính các hoạt động của ngân hàng như khả năng sẵn sàng chi trả theo nhu
cầu của khách hàng, khả năng đối phó với những trường hợp khách hàng rút tiền ra với khối
lượng lớn và đột xuất; khả năng cho vay đối với các dự án lớn, mức độ đa dạng của sản phẩm
dịch vụ mà ngân hàng cung ứng cũng như những tiện ích mà ngân hàng mang lại cho khách
hàng và hơn hết là mức đọ hài lòng của khách hàng về việc sử dụng các sản phẩm ngân hàng
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 24
Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ HĐV của NHTM GVHD: GS –TS Hoàng Đức
Như vậy với khả năng của mình ngân hàng sẽ tạo ra được hình ảnh của riêng mình trong
lòng thị trường, một ngân hàng lớn có uy tín và danh tiếng trong nhiều năm thì sẽ có lợi thế
trong hoạt động huy động vốn nói riêng và trong hoạt động ngân hàng nói chung. Sự tin tưởng
của khách hàng sẽ giúp cho ngân hàng ổn định khối lượng vốn huy động và tiết kiệm được chi
phí huy động, nâng cao khả năng thu hút và giữ được khách hàng của mình.
8.6 Hoàn thiện công nghệ ngân hàng.
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, sự thành bại phụ thuộc rất lớn vào công nghệ ngân
hàng. Sức mạnh nằm trong tay những ngân hàng đặc quyền về thông tin, có hệ thống thanh toán
hiện đại Hiện nay, ngành ngân hàng đã sử dụng công nghệ tin học khá rộng rãi với nhiều loại
máy hiện đại, có một đội ngũ cán bộ chuyên gia về công nghệ thông tin khá đông đảo, tạo cơ hội
sử dụng tối ưu nguồn vốn và huy động ngày càng nhiều nguồn. Nâng cao hiệu suất giao dịch,
phục vụ nhanh và đúng khách hàng trong các khâu thanh toán bù trừ, vận hành thị trường liên
ngân hàng bằng điện tử (cung cấp dịch vụ ngân hàng tại nhà, lắp dặt máy rút tiền tự động tại các
điểm giao dịch), thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ
ngân hàng hiện có, chú trọng trong nghiên cứu phát triển. Như vậy, để tăng khả năng cạnh tranh
và kinh doanh có hiệu quả thì NHTM cần không ngừng hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, đổi
mới trang thiết bị, hoàn thiện cơ chế thanh toán trong nội bộ ngân hàng, ứng dụng công nghệ tin
học để quản lý chặt chẽ các nghiệp vụ.
8.7 Thường xuyên đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ ngân hàng.
Mặc dù trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
nhưng con người vẫn luôn khẳng định vị trí trung tâm của mình. Con người vừa là chủ thể vừa là
mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Con người là nhân tố quyết định đến

sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của NHTM cũng như hoạt động huy động vốn của ngân
hàng. Vì vậy, muốn cho sự nghiệp kinh doanh ngân hàng ngày càng phát triển nguồn nhân lực.
Chính vì vậy mà ngân hàng luôn xác định rõ phát triển nguồn nhân lực là yêu cầu then chốt đặc
biệt là giai đoạn cạnh tranh như hiện nay.
8.8 Các giải pháp hỗ trợ từ Chính Phủ và NHNN.
8.7.1 Từ phía Chính Phủ :
Chúng ta có thể nhận thấy chỉ có một phần tiết kiệm trong nước được sử dụng cho đầu tư
trực tiếp, còn lại nằm dưới dạng nhàn rỗi. Muốn khai thác hết tiềm năng này và nâng cao sức
mạnh cạnh tranh thu hút vốn từ thị trường quốc tế, Nhà nước cần ổn định môi trường kinh tế vĩ
mô, hoàn thiện môi trường pháp lý trong lĩnh vực ngân hàng, củng cố lại hệ thống NHTM.
Nhóm 3 – Cao học NH Đêm 4, K21 25

×