Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.32 KB, 39 trang )

Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
LỜI NÓI ĐẦU
Đã từ lâu, người dân Việt Nam có thói quen dùng tiền mặt trong các giao dịch
mua bán hàng ngày. Với sự phát triển của công nghệ thông tin và sự hội nhập kinh tế
của Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và thế giới trong những năm gần đây, đã đến lúc
cho phép chúng ta nghĩ đến việc phát triển phương thức thanh toán bằng thẻ – một bộ
phận trong hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt.
Việc sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt cũng là một trong
những chủ trương lớn của Ngân hàng Nhà nước nhằm mở rộng dịch vụ ngân hàng
trong khu vực dân cư. Đứng về phía các ngân hàng thương mại, chủ trương này tạo ra
một hình thức huy động vốn mới, tập trung các nguồn vốn tiềm tàng trong dân cư vào
các tài khoản cá nhân để đầu tư phát triển.
Với những ưu thế của mình, thẻ thanh toán cần được triển khai áp dụng trong
dân chúng Việt Nam để phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới. Song thực tế
cho thấy, thẻ thanh toán hiện nay nói chung chỉ phục vụ chủ yếu cho đối tượng khách
du lịch quốc tế đến Việt Nam tiêu dùng, vì nó chưa thực sự có ý nghĩa đối với người
Việt Nam. Do đó, nhóm lựa chọn đề tài về thẻ thanh toán làm nội dung viết tiểu luận
nhằm nêu lên thực trạng của dịch vụ thanh toán thẻ quốc tế tại Việt Nam và kiến nghị
một số giải pháp cho việc phát triển hoạt động kinh doanh thẻ trong tương lai ở Việt
Nam.
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 1
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
I.KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI, TÁC DỤNG THẺ THANH TOÁN
1. Khái niệm thẻ thanh toán
Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt được cung cấp
bởi ngân hàng hoặc các công ty lớn. Thẻ được dùng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch
vụ mà không dùng tiền mặt. Thẻ cũng được dùng để rút tiền mặt tại các ngân hàng đại
lý hoặc các máy rút tiền tự động. Số tiền thanh toán hay rút ra phải nằm trong phạm vi
số dư trong tài khoản tiền gửi hoặc hạn mức tín dụng ngân hàng cho phép.
Kể từ khi ra đời, cấu tạo của thẻ luôn được cải tiến để phù hợp và thuận lợi cho việc
sử dụng, thanh toán thẻ. Thẻ được chế tạo dựa trên những thành tựu to lớn của công


nghệ thông tin điện tử. Thẻ được làm bằng nhựa cứng, hình chữ nhật với kích thước
9,6 cm x 5,4 cm x 0,076 cm. Mặt trước của thẻ có in huy hiệu là tên của tổ chức phát
hành thẻ (Ví dụ: Vietcombank), số thẻ, ngày hiệu lực của thẻ, họ và tên, ảnh của chủ
thẻ (nếu có), số mật mã của ngày phát hành, ngoài ra còn một đặc điểm không thể
thiếu, đó là biểu tượng riêng của tổ chức thẻ quốc tế (Ví dụ: Tổ chức thẻ Master Card
có biểu tượng là hai hình tròn giao nhau nằm ở góc dưới bên phải của thẻ. Hình tròn
bên phải màu vàng cam, bên trái là màu đỏ, có chữ Master Card màu trắng chạy ngang
giữa. Phía bên trên hai hình tròn này là hai nửa hình tròn giao nhau in chìm). Riêng số
thẻ, ngày hiệu lực và tên số thẻ được in nổi, mặt sau của thẻ là một dải băng từ có khả
năng lưu giữ thông tin cần thiết, phía dưới băng từ là dải ô chữ ký của chủ thẻ.
Trên thế giới hiện nay, có nhiều loại thẻ do các tổ chức khác nhau phát hành nhưng
dù là loại thẻ nào thì về cơ bản cũng có đặc điểm nêu trên nhằm đảm bảo an toàn và
thuận tiện cho các bên tham gia.
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 2
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
2. Lịch sử ra đời của thẻ thanh toán
Thẻ thanh toán là một phương thức thanh toán không dùng tiền mặt hiện đại và hữu
ích. Thẻ ra đời vào năm 1949 do ông Frank Mc Namara, một doanh nhân người Mỹ
sáng chế. Có một lần sau khi dùng bữa tối tại một nhà hàng, ông bỗng phát hiện ra
mình không mang theo tiền mặt. Ông phải gọi điện cho vợ nhanh chóng mang tiền đến
thanh toán. Tình trạng khó xử này đã khiến ông mày mò chế tạo một phương tiện chi
trả tiền mặt trong những trường hợp tương tự như thế. Thế là lần đầu tiên Mc Namara
cho ra đời loại thẻ mang tên “Diners Club”.
Theo chân “Diners Club”, hàng loạt thẻ mới ra đời như Trip Charge, Golden Key,
Gourmet Club, Espire Club và đến năm 1995, Carte Blanche và American Express ra
đời (1958) và thống lĩnh thị trường. Lúc đầu phần lớn thẻ chỉ dùng cho giới doanh
nhân nhưng các ngân hàng đã thấy rằng giới bình dân mới là đối tượng sử dụng chủ
yếu trong tương lai. Với sự thay đổi chiến lược khách hàng của mình, các ngân hàng
nhanh chóng thâm nhập vào thị trường thẻ và coi đây là thị trường đầy tiềm năng.
Ngân hàng Mỹ quốc là nơi đầu tiên phát hành thẻ Bank Americard mà ngày nay là

Visa Card. Năm 1966, Bank Americard bắt đầu liên kết với các liên bang khác để phát
triển mạng lưới thẻ này.
Trong khi thẻ Bank Americard đang thành công rực rỡ thì các tổ chức phát hành thẻ
khác cũng đang tìm kiếm khả năng cạnh tranh với loại thẻ này. Năm 1966, một hiệp
hội ngân hàng mới, trong đó gồm 14 ngân hàng của Mỹ đã xây dựng một hệ thống giao
dịch tự động nối mạng trong thanh toán thẻ tín dụng. Ngay sau đó, năm 1967, có bốn
ngân hàng bang Califonia có hiệp hội thẻ mang tên Wessten States Bank Card
Association đã liên kết với hiệp hội ngân hàng Interbank phát hành thẻ Master Charge
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 3
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
mà ngày nay có tên là Master Card. Năm 1979, tổ chức thẻ quốc tế Master Card được
thành lập, hiện nay hiệp hội có tới 29.000 thành viên.
Bên cạnh Visa Card và Master Card, thẻ American Express (Amex) và JCB của
Nhật Bản cũng vươn lên mạnh mẽ. Doanh thu của các loại thẻ này cũng lên tới hàng
trăm tỷ USD với hàng chục triệu thẻ lưu hành.
Với sự phát triển của thẻ thanh toán, các hiệp hội đang cạnh tranh nhau quyết liệt
nhằm dành phần lớn thị trường cho mình. Sự cạnh tranh này tạo điều kiện cho thẻ
thanh toán có cơ hội phát triển nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu.
3. Phân loại thẻ thanh toán
- Phân loại theo công nghệ
 Thẻ khắc chữ nổi: Đây là loại thẻ được làm dựa trên kỹ thuật khắc chữ nổi.
Đó cũng là loại thẻ đầu tiên được sản xuất theo công nghệ tiên tiến này. Trên
bề mặt thẻ những thông tin cần thiết được khắc nổi. Hiện nay người ta không
dùng loại thẻ này nữa vì kỹ thuật sản xuất qua thô sơ, dễ bị làm giả.
 Thẻ băng từ: Thẻ này được sản xuất dựa trên kỹ thuật thư tín với hai băng từ
chứa thông tin ở mặt sau của thẻ. Thẻ loại này được sử dụng phổ biến trong
vòng 20 năm trở lại đây nhưng đã bộc lộ một số điểm yếu: dễ bị lợi dụng do
thông tin ghi trong thẻ không tự mã hoá được, có thể đọc thẻ dễ dàng nhờ
thiết bị đọc gắn với máy vi tính; thẻ chỉ mang thông tin cố định; khu vực
chứa tin hẹp, không áp dụng các kỹ thuật đảm bảo an toàn.

 Thẻ thông minh (Smart Card): Đây là thế hệ mới nhất của thẻ thanh toán.
Thẻ thông minh được sản xuất dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học, nhờ gắn
vào thẻ một chíp điện tử mà thẻ có cấu tạo giống như một máy tính hoàn
hảo. Thẻ thông minh có nhiều nhóm với dung lượng nhớ khác nhau.
Hiện nay, thẻ thông minh đuợc sử dụng rất phổ biến trên thế giới vì có ưu điểm
về mặt kỹ thuật độ an toàn cao, khó làm giả được, ngoài ra còn làm cho quá trình thanh
toán thuận tiện, an toàn và nhanh chóng hơn.
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 4
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
- Phân loại theo chủ thể phát hành
 Thẻ do ngân hàng phát hành: Đây là loại thẻ do ngân hàng cung cấp cho
khách hàng, giúp khách hàng sử dụng linh hoạt tài khoản của mình hoặc sử
dụng số tiền do ngân hàng cấp tín dụng. Thẻ này được phát triển rộng không
chỉ trong phạm vi một quốc gia mà đã phát triển trên phạm vi toàn thế giới.
 Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành: Đây là thẻ du lịch, giải trí cho
các tập đoàn kinh doanh lớn như Diners Club, Amex. Thẻ cũng được sử
dụng trên phạm vi toàn cầu với các quy trình thanh toán không khác nhiều so
với thẻ do ngân hàng phát hành.
- Phân loại theo tính chất thanh toán của thẻ
 Thẻ tín dụng: Đây là loại thẻ được sử dụng phổ biến hiện nay. Chủ thẻ được
sử dụng một hạn mức tín dụng tuần hoàn không phải trả lãi để mua hàng hoá
và dịch vụ. Cuối tháng, khách hàng sẽ nhận được một bảng sao kê (sao kê là
một bảng kê chi tiết các khoản chi tiêu và trả nợ của chủ thẻ cùng lãi và phí
phát sinh trong một chu kỳ sử dụng thẻ. Sao kê được gửi cho chủ thẻ hàng
tháng ngay sau ngày lập bảng sao kê) do ngân hàng gửi tới. Nếu khách hàng
thanh toán được hết số tiền nợ thì sẽ không phải trả lãi. Còn nếu trả được
một phần (hiện nay quy định thấp nhất là 20% số tiền nợ) thì chủ thẻ phải trả
lãi, trả phí hoặc bị phạt theo quy định của ngân hàng trong từng thời kỳ.
 Thẻ ghi nợ: Loại thẻ này có quan hệ trực tiếp và gắn liền với tài khoản tiền
gửi hoặc tài khoản séc. Khi mua hàng hoá, dịch vụ, giá trị giao dịch sẽ được

khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ thông qua các thiết bị điện tử
đặt tại nơi tiếp nhận thẻ.
 Thẻ rút tiền mặt tự động (Thẻ ATM): Là loại thẻ ghi nợ cho phép chủ thẻ sử
dụng thẻ để rút tiền mặt từ tài khoản của chủ thẻ tại các máy rút tiền tự động
(ATM) hoặc sử dụng các dịch vụ khác mà máy ATM cung ứng.
- Phân loại theo phạm vi lãnh thổ:
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 5
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
 Thẻ trong nước: Là lợi thẻ được sử dụng trong phạm vi một quốc gia, do vậy
đồng tiền giao dịch là đồng bản tệ. Thẻ cũng có các đặc điểm như các loại
thẻ khác, song điểm khác chủ yếu là phạm vi sử dụng.
 Thẻ quốc tế: Là loại thẻ được chấp nhận thanh toán trên toàn cầu, sử dụng
ngoại tệ mạnh để thanh toán. Thẻ này được khách hàng ưa chuộng do tính
thuận lợi, an toàn. Các ngân hàng cũng có được lợi ích đáng kể với loại thẻ
này như nhận được nhiều sự giúp đỡ trong nghiên cứu thị trường, chi phí xây
dựng cơ sở chấp nhận thẻ thấp hơn so với tự hoạt động
Như vậy, mặc dù có nhiều cách phân loại thẻ khác nhau nhưng các loại thẻ trên đều
có đặc điểm chung là dùng để thanh toán hàng hóa và rút tiền mặt. Do vây, một cách
tổng quát người ta gọi là thẻ thanh toán.
4. Các bên tham gia liên quan đến thẻ thanh toán.
- Chủ thẻ: là người có tên ghi trên thẻ, được dùng thẻ để thanh toán hàng hoá,
dịch vụ thay tiền mặt. Do vậy không áp dụng chế độ ủy quyền sử dụng thẻ cho
người thứ hai, chỉ có chủ thẻ mới có quyền sử dụng thẻ. Mỗi khi thanh toán cho
cơ sở chấp nhận thẻ, chủ thẻ xuất trình thẻ để cơ sở kiểm tra theo quy định và
lập biên lai thanh toán. Ngoài ra chủ thẻ có thể sử dụng thẻ để rút tiền mặt tại
các máy rút tiền tự động hoặc tại các ngân hàng đại lý.
- Ngân hàng phát hành (NHPH): là thành viên chính thức của các tổ chức thẻ
quốc tế, là ngân hàng tiến hành các thủ tục để in thẻ cho khách hàng. Ngân hàng
phát hành có trách nhiệm: xem xét việc phát hành thẻ, hướng dẫn chủ thẻ sử
dụng và thực hiện các quy định cần thiết khi sử dụng thẻ, thanh toán số tiền trên

hoá đơn do ngân hàng đại lý chuyển đến, cấp phép cho các thương vụ vượt hạn
mức. Từng định kỳ, ngân hàng phát hành phải lập sao kê ghi rõ và đầy đủ các
giao dịch phát sinh và yêu cầu thanh toán đối với chủ thẻ tín dụng hoặc khấu trừ
trực tiếp vào tài khoản của chủ thẻ đối với thẻ ghi nợ.
- Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT): là đơn vị bán hàng hóa, dịch vụ có ký kết với
ngân hàng thanh toán về việc chấp nhận thanh toán thẻ như: cửa hàng, khách
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 6
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
sạn, nhà hàng Thông thường các đơn vị này được ngân hàng trang bị máy móc
kỹ thuật để chấp nhận thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ bằng thẻ.
- Ngân hàng thanh toán (NHTT): là ngân hàng trực tiếp ký hợp đồng với
ĐVCNT và thanh toán các chứng từ giao dịch do ĐVCNT xuất trình. Đối với
thẻ Visa Card và Master Card thì ngân hàng thanh toán phải là thành viên chính
thức của tổ chức thẻ quốc tế đó. Một ngân hàng vừa có thể đóng vai trò là ngân
hàng thanh toán vừa đóng vai trò là ngân hàng phát hành.
- Tổ chức thẻ quốc tế: là tổ chức cho phép ngân hàng phát hành thẻ và làm trung
tâm xử lý, cấp phép, thông tin giao dịch, thanh toán của các ngân hàng thành
viên trên toàn thế giới. Mỗi tổ chức thẻ quốc tế đều có tên trên sản phẩm của
mình. Khác với ngân hàng thành viên, tổ chức thẻ quốc tế không có quan hệ
trực tiếp với chủ thẻ hay đơn vị chấp nhận thẻ, mà chỉ cung cấp một mạng lưới
viễn thông toàn cầu phục vụ cho quy trình thanh toán, cấp phép cho ngân hàng
thành viên một cách nhanh chóng.
II. VAI TRÒ VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC MỞ RỘNG THẺ
THANH TOÁN
1. Vai trò của việc phát triển thẻ thanh toán:
Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt nói chung và thanh toán thẻ nói riêng có
vai trò quan trọng và mang lại nhiều lợi ích đối với sự phát triển kinh doanh của các
ngân hàng, của khách hàng và của cả nền kinh tế.
1.1. Đối với chủ thẻ:
Ngày nay thẻ thanh toán đã trở thành một phương tiện thanh toán hiệu quả an toàn

và chính xác, hơn hẳn so với các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt khác. Nó
cho phép người sử dụng có thể mua hàng hoá, dịch vụ tại bất cứ một điểm chấp nhận
thẻ hoặc một ngân hàng thanh toán nào. Số lượng các cơ sở chấp nhận thẻ ngày càng
có xu hướng tăng lên do đó phạm vi lưu hành thẻ càng được mở rộng. Điều này cho
phép thẻ thay thế tiền mặt ở mọi nơi mọi lúc. Với sự trợ giúp của tiến bộ khoa học
công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng, công nghệ sản xuất thẻ đã đến trình độ cao cộng
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 7
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
với các biện pháp chống làm giả mạo như mã hoá thông số từ tính hoặc kỹ thuật vi
mạch điện tử đã giúp cho thẻ rất khó làm giả. Một điểm lợi lớn mà thẻ tín dụng đem lại
cho khách hàng là một dịch vụ “chi tiêu trước trả tiền sau”. Các ngân hàng phát hành
thẻ cấp một hạn mức tín dụng và chủ thẻ được phép chi tiêu trong hạn mức tín dụng đó
mà không phải trả tiền ngay. Theo qui định của các ngân hàng, chủ thẻ có thể sử dụng
hạn mức tín dụng và chỉ phải thanh toán cho ngân hàng một phần nhất định khoản tiền
đã sử dụng khi đến hạn. Đặc biệt chủ thẻ có thể sử dụng khoản tín dụng đó không chịu
lãi trong thời hạn 10- 45 ngày và nếu chủ thẻ trả nợ toàn bộ số dư sao kê, chủ thẻ sẽ
không phải trả một khoản lãi nào cho ngân hàng. Tuy nhiên, trên thực tế có rất ít khách
hàng thanh toán các khoản theo sao kê. Phần lớn họ chỉ thanh toán một khoản lớn hơn
hoặc bằng số tiền tối thiểu mà ngân hàng qui định và chấp nhận trả lại cho số dư còn
lại. Hơn thế chi phí thực tế vào việc sử dụng thẻ không phải là lớn. Ngoài khoản lệ phí
bắt buộc thường niên mà chủ thẻ phải nộp, hầu như toàn bộ các khoản giao dịch phát
sinh của chủ thẻ sẽ không bị tính lãi nếu được thanh toán theo đúng sao kê. Hơn nữa sử
dụng thẻ sẽ giúp các chủ thẻ luôn kiểm soát và tự tính toán được các khoản phí và lãi
nếu trả cho mỗi khoản giao dịch
1.2. Đối với đơn vị chấp nhận thẻ:
Việc sử dụng thẻ làm công cụ thanh toán làm cho người tiêu dùng thuận tiện và dễ
dàng hơn trong việc mua hàng. Điều này tạo điều kiện cho người bán hàng có cơ hội
tăng doanh số bán hàng của mình.
Tạo cơ hội mở rộng thị trường bán hàng cho người bán. Thị trường sẽ trở thành
toàn cầu đối với họ một khi cho phép người tiêu dùng mua bán hàng hoá trên Internet

hoặc trong kinh doanh thương mại điện tử.
Với việc chấp nhận thẻ thanh toán, người bán hàng có khả năng giảm thiểu các
chi phí về quản lý tiền mặt như bảo quản, kiểm đếm nộp vào tài khoản ở ngân hàng
Ngoài ra, việc thanh toán giữa người mua và người bán được ngân hàng bảo đảm vừa
nhanh chóng, thuận tiện và chính xác.
1.3. Đối với Ngân hàng phát hành:
Thẻ thanh toán là một cách dễ nhất cho ngân hàng mở rộng tín dụng và cũng là một
phương thức tạo thuận tiện cho khách hàng muốn vay ngân hàng. Do hạn mức tín dụng
là tuần hoàn nên khách hàng có thể vay tiền, hoàn trả và vay lại tiếp mà không phải đến
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 8
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
ngân hàng xin khoản vay mới. Một khi khách hàng đã thanh toán, hạn mức tín dụng tự
động được tăng lên. Điều này đồng nghĩa với việc khách hàng đã được ngân hàng chấp
nhận một khoản vay mới (hạn mức tín dụng mới).
Việc sử dụng thẻ thanh toán tạo điều kiện cho các ngân hàng có thể mở rộng thị
trường và tăng thêm khách hàng mà không cần phải mở thêm nhiều chi nhánh. Ngoài
ra, một cách gián tiếp, lượng tiền gửi của khách hàng xét trên cả hai đối tượng: chủ thẻ
(người mua) và người bán sẽ tăng lên vì cả hai đối tượng này đều được những lợi ích
nhất định khi chấp nhận sử dụng thẻ thanh toán.
Việc thanh toán bằng thẻ tạo điều kiện huy động vốn cho ngân hàng, bổ sung nguồn
vốn cho ngân hàng. Ngân hàng có thể sử dụng tốt nguồn vốn thanh toán này để phục
vụ hoạt động sản xuất doanh. Đây là một nguồn vốn rất lớn cần được khai thác.
1.4. Đối với nền Kinh tế
Thẻ thanh toán giúp tăng cường hoạt động lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế, tăng
cường vòng quay của đồng tiền, khơi thông các luồng vốn khác nhau, tạo điều kiện cho
việc kiểm soát khối lượng giao dịch thanh toán trong dân cư và của cả nền kinh tế. Hạn
chế các hoạt động kinh tế ngầm, kiểm soát các hoạt động giao dịch kinh tế, giảm thiểu
các tiêu cực và tăng cường tính chủ đạo của nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế
và điều hành các chính sách kinh tế tài chính quốc gia. Việc tăng tốc độ thanh toán
không dùng tiền mặt trong lưu thông sẽ làm giảm tỷ trọng của số lượng tiền mặt trong

lưu thông, từ đó làm giảm những chi phí cần thiết lưu thông trong xã hội (in ấn, bảo
quản tiền mặt, kiểm đếm ). Hơn nữa, việc thanh toán bằng thẻ qua việc sử dụng các
tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho
việc hội nhập với nền kinh tế thế giới.
2. Những nhân tố chính tác động đến việc mở rộng thẻ thanh toán
Thẻ ngân hàng đã và đang trở thành PTTT phổ biến tại VN, được các NHTM chú
trọng phát triển, có tốc độ phát triển nhanh chóng. Đến cuối tháng 6/2012, lượng thẻ
phát hành đạt khoảng 36 triệu thẻ với khoảng 234 thương hiệu thẻ, trong đó thẻ ghi nợ
chiếm tới 95%. Dịch vụ thẻ phát triển đã giúp NHTM có thêm kênh huy động vốn và
phát triển thêm các dịch vụ cung cấp cho khách hàng qua tài khoản tại ngân hàng; cung
cấp các giá trị gia tăng trên sản phẩm thẻ với nhiều tiện ích khác nhau.
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 9
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
Cùng với việc phát hành thẻ đa tiện ích và đầu tư thêm POS/EDC tại các ĐVCNT,
các NHTM cũng bắt đầu quan tâm đến độ an toàn, bảo mật đối với thẻ thanh toán. Một
số NHTM đã phát hành các loại thẻ chip có độ bảo mật, an toàn cao và có khả năng
tích hợp đa tiện ích, mạng lại nhiều tiện lợi cho khách hàng. Việc chuyển đổi từ thẻ từ
sang thẻ chip là phù hợp với xu thế chung, có ý nghĩa quan trọng, mở ra cơ hội phát
triển mới cho thẻ thanh toán và mở rộng các dịch vụ dùng thẻ.
2.1 Phát triển theo chiều rộng
a. Lợi thế về dân số
Lợi thế của VN trong việc phát triển thẻ thanh toán hiện nay là chúng ta đang
có một “tháp dân số vàng” với 56,3% dân số đang trong độ tuổi lao động, tầng lớp
trung lưu và cư dân đô thị tăng lên nhanh chóng cùng với quá trình đô thị hóa - đây
chính là khách hàng tiềm năng. Không những thế, nền kinh tế VN hiện cũng đã vượt
qua ngưỡng thu nhập trung bình (>1000USD/người/năm) nên nhu cầu đối với thẻ sẽ
tăng lên nhiều.
b. Thói quen tiêu dùng của người dân
Thói quen tiêu dùng của người dân sẽ tạo ra một môi trường cho thanh toán thẻ.
Một thị trường mà người dân vẫn chỉ có thói quen tiêu dùng bằng tiền mặt sẽ không thể

là một môi trường tốt để phát triển thẻ. Chỉ khi việc thanh toán được thực hiện chủ yếu
qua hệ thống ngân hàng thì thẻ thanh toán mới thực sự phát huy hiệu quả sử dụng của
nó.
c. Trình độ dân trí
Trình độ dân trí thể hiện thông qua nhận thức của người dân về thẻ, một phương
tiện thanh toán đa tiện ích từ đó có tiếp cận và có thói quen sử dụng thẻ. Trình độ dân
trí cao cũng đồng nghĩa với một nền kinh tế phát triển về mọi mặt, tiếp cận với nền văn
minh thế giới, ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật phục vụ con người.
d. Thu nhập của người dùng thẻ
Thu nhập cao đồng nghĩa với mức sống cao hơn. Khi đó, nhu cầu của con người
không chỉ đơn thuần là mua được hàng hóa mà còn phải mua bán với độ thỏa dụng tối
đa. Thẻ thanh toán sẽ đáp ứng nhu cầu này của họ. Khi mức sống được nâng cao, nhu
cầu du lịch, giải trí của con người cũng cao hơn. Thẻ thanh toán là phương tiện hữu
hiệu nhất đáp ứng nhu cầu này của họ. Mặt khác, chỉ một mức thu nhập khá cao và ổn
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 10
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
định mới có thể đáp ứng được những điều kiện của NH khi phát hành thẻ. Khi thu nhập
thấp dù KH có nhu cầu sử dụng thẻ, NH cũng khó có thể đáp ứng ngay được.
e. Trình độ kỹ thuật công nghệ ngân hàng:
Thanh toán thẻ gắn liền với máy móc thiết bị hiện đại, nếu hệ thống máy móc có
gì trục trặc thì sẽ gây ách tắc trong toàn hệ thống. Vì vậy đã đưa ra dịch vụ thẻ, NH
phải đảm bảo một công nghệ thanh toán hiện đại theo kịp yêu cầu của thế giới.
Hơn nữa, chỉ khi có trình độ kỹ thuật cao thì việc vận hành, bảo dưỡng, duy trì
hệ thống máy móc phục vụ phát hành, thẻ thanh toán mới có hiệu quả, giảm giá thành
phục vụ từ đó thu hút thêm người sử dụng nó.
f. Môi trường pháp lý
Môi trường được xem là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của thẻ.
Một môi trường pháp lý hoàn thiện chặt chẽ, đầy đủ hiệu lực mới có thể đảm bảo cho
quyền lợi của tất cả các bên tham gia phát hành, thanh toán, sử dụng thẻ.
2.2 Phát triển theo chiều sâu

Các NHTM đã có những nỗ lực không ngừng trong việc mở rộng phạm vi và
tăng tiện ích cho các dịch vụ TTKDTM ở VN. Lợi thế của VN trong việc phát triển
TTKDTM hiện nay là chúng ta đang có một “tháp dân số vàng” với 56,3% dân số đang
trong độ tuổi lao động, tầng lớp trung lưu và cư dân đô thị tăng lên nhanh chóng cùng
với quá trình đô thị hóa - đây chính là khách hàng tiềm năng của hoạt động TTKDTM.
Không những thế, nền kinh tế VN hiện cũng đã vượt qua ngưỡng thu nhập trung bình
(>1000USD/người/năm) nên nhu cầu đối với TTKDTM sẽ tăng lên nhiều. Theo đánh
giá của các chuyên gia thuộc Công ty Nghiên cứu thị trường hàng đầu của Mỹ
Research and Markets thì VN sẽ đạt mức tăng trưởng khoảng 18,5% trong giai đoạn từ
nay đến năm 2014.
Xu hướng chung ở hầu hết các thị trường là tập trung phát triển thẻ ghi nợ nội
địa để khẳng định vị thế của mình trên thị trường, sau đó, khi thị trường thẻ nội địa đã
chuyển sang xu hướng bão hòa, các ngân hàng sẽ chuyển dần sang khai thác những
dòng sản phẩm quốc tế (tín dụng quốc tế và ghi nợ quốc tế). Thị trường thẻ sẽ tiếp tục
phát triển, điều đó là không phủ nhận nhưng chắc chắn sẽ không thể mở rộng mãi.
Những khách hàng dễ tiếp nhận thẻ trong thanh toán cơ bản đã được các ngân hàng
khai thác gần hết. Vì vậy cần phải phát triển thị trường theo chiều sâu, theo hướng gia
tăng tiện ích cho các loại thẻ và tăng thêm quyền lợi cho các chủ thẻ.
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 11
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
a. Thực hiện chiến lược marketing rộng rãi
Đầu tư cho quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, đài
phát thanh, truyền hình…), hay các panô quảng cáo trên đường phố. Làm các chương
trình giải đáp thắc mắc về thẻ cho mọi đối tượng dân cư…
Chấp nhận giảm giá cho KH khi mua hàng thanh toán bằng thẻ.
Đầu tư nghiên cứu phát triển các sản phẩm thẻ mới.
b. Hợp lý hóa chi phí sử dụng thẻ
Hiện nay chi phí sử dụng thẻ còn nhiều bất hợp lý, ngoài chi phí thường niên,
chủ thẻ còn phải trả thêm lãi suất cho khoản tín dụng chi tiêu, phí chậm trả, phí rút tiền
mặt, phí cấp thẻ lần đầu…Các khoản chi phí này làm cho việc sử dụng thẻ trở nên đắt

hơn nhiều so với chi tiêu tiền mặt. Hơn nữa lãi suất thẻ tín dụng cao hơn lãi thông
thường là một bất hợp lý. Vì vậy, hợp lý hóa các loại chi phí sử dụng thẻ là một điều
cần chú ý điều chỉnh để mở rộng hơn nữa việc phát hành thẻ.
c. Tăng cường mối quan hệ với các tổ chức quốc tế để mở rộng phạm vi
sử dụng thẻ
Thiết lập MQH chặt chẽ với các NH tham gia thanh toán thẻ. Thành lập trung
tâm thanh toán liên NH về thẻ…
d. Mở rộng mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ
Với nỗ lực mở rộng mạng lưới, doanh số thanh toán thẻ của các NHTM đã
không ngừng gia tăng qua các năm. Năm 2010, doanh số thanh toán thẻ quốc tế của
toàn thị trường đạt gần 1.500 triệu USD, cao gấp 3 lần năm 2006. Mạng lưới thanh
toán thẻ tại VN đã sẵn sàng chấp nhận thanh toán các thẻ mang thương hiệu Visa,
MasterCard, Amerrican Express, JCB, Dinners Club, CUP và DiscoverCard là các
thương hiệu thẻ hàng đầu và phổ biến nhất thế giới hiện nay. Đối với hoạt động thanh
toán thẻ nội địa, thời gian gần đây, các NHTM đã chú trọng đầu tư và tích cực mở rộng
mạng lưới ĐVCNT nội địa, trong đó chú trọng các ĐVCNT trong các lĩnh vực kinh
doanh nhà hàng, khách sạn, TTTM, siêu thị, các sản phẩm thời trang và một số dịch vụ
tiện ích hàng ngày khác nhằm tạo cơ sở thuận lợi và dễ dàng cho khách hàng sử dụng
thẻ ghi nợ nội địa để thanh toán hàng hóa, dịch vụ.
e. Tập trung vốn vào công nghệ thanh toán thẻ
Máy in thẻ, máy EDC, CAT…trang bị cho các cơ sở chấp nhận thẻ đảm bảo
thanh toán nhanh chóng, an toàn và tiện lợi nhất.
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 12
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
f. Nâng cao hơn nữa các tiện ích của thẻ
+ Phát huy vai trò của NH thanh toán.
+ Thành lập trung tâm thanh toán thẻ độc lập
+ Tăng cường đầu tư cho chiến lược nguồn nhân lực trong lĩnh vực phát triển
thẻ.
+ Phòng chống rủi ro trong thanh toán thẻ: thường xuyên cập nhật thông tin về

thẻ giả, thẻ cấm lưu hành, thẻ bị mất cắp, thất lạc…để đưa lên danh sách Bulletin.
Đồng thời, kịp phát hiện những hành vi lợi dụng nhiều thương vụ có giá trị thanh toán
nhỏ hơn hạn mức thanh toán để đạt tổng giá trị thanh toán lớn hơn hạn mức thẻ của chủ
thẻ.
+ Hoàn thiện các văn bản pháp quy về thẻ.
+ Có chính sách khuyến khích mở rộng kinh doanh thẻ
g. Hạn chế rủi ro tăng mức độ an toàn cho khách hàng
Ngân hàng cần thẩm định kỹ hồ sơ đăng ký làm đơn vị chấp nhận thanh toán thẻ,
phòng tránh chấp nhận các đơn vị giả mạo, hoạt động không hiệu quả.
Cho nhân viên đến các đơn vị chấp nhận thẻ của CN hướng dẫn đào tạo cho các
ĐVCNT tuân thủ đúng các qui định của TCTQT về an ninh thông tin thẻ như: dấu số
thẻ trên hóa đơn cà thẻ và các dữ liệu khác như số thẻ, tên chủ thẻ phải được lưu giữ an
toàn.
III. THỰC TRẠNG VỀ PHÁT TRIỂN THẺ THANH TOÁN HIỆN NAY
1. Lịch sử hình thành và phát triển thẻ thanh toán tại Việt Nam:
Năm 1990 hợp đồng làm đại lý chi trả thẻ Visa giữa ngân hàng Pháp BFCE và
Ngân hàng Ngoại thương VN đã mở đầu cho sự du nhập của thẻ thanh toán vào VN.
Sự liên kết này chủ yếu là nhằm phục vụ cho lượng khách du lịch quốc tế đang đến VN
ngày càng nhiều. Sau Ngân hàng Ngoại Thương, Sài Gòn Thương Tín cũng liên kết với
trung tâm thanh toán thẻ Visa để làm đại lý thanh toán. Có lẽ chính sách mở cửa thông
thoáng đã đem lại cho VN một bộ mặt kinh tế – xã hội nhiều triển vọng. Các dự án đầu
tư nước ngoài tăng từ số lượng đến quy mô, các định chế tài chính lớn đã chú ý đến
VN và đi theo những tập đoàn này là các dịch vụ song hành trong đó thẻ thanh toán là
không thể thiếu được.
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 13
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
Năm 1995 cùng với Ngân hàng Ngoại thương TP.HCM, Ngân hàng Thương mại
Cổ phần Á Châu, Ngân hàng Liên doanh First-Vina-Bank và Ngân hàng Thương mại
Cổ phần Eximbank được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước VN cho phép chính thức gia
nhập tổ chức thẻ quốc tế Mastercard.

Năm 1996 Ngân hàng Ngoại thương chính thức là thành viên của tổ chức Visa
International. Tiếp sau đó là Ngân hàng Á Châu, Ngân hàng Công thương VN cũng lần
lượt là thành viên chính thức của tổ chức Visa Card, trong đó Ngân hàng Ngoại thương
và Á Châu thực hiện thanh toán trực tiếp với tổ chức này. Cũng trong năm này Ngân
hàng Ngoại thương VN (Vietcombank) phát hành thí điểm thẻ ngân hàng đầu tiên,
đồng thời Hội các ngân hàng thanh toán thẻ VN cũng được thành lập với bốn thành
viên sáng lập gồm Vietcombank, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu, Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Xuất nhập khẩu (Eximbank) và First Vinabank. Hành lang pháp
lý cho hoạt động thẻ lúc ấy chỉ là quyết định số 74 do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
ký ban hành ngày10/4/1993, qui định “thể lệ tạm thời về phát hành và sử dụng thẻ
thanh toán”. Việc ứng dụng thẻ ở VN vào thời điểm đó còn bị giới hạn rất nhiều về cơ
sở pháp lý, điều kiện kinh tế, hạ tầng kỹ thuật… Trên cơ sở thỏa thuận của Ngân hàng
Nhà Nước, ngân hàng thương mại thí điểm phát hành thẻ tự xây dựng qui chế, hợp
đồng phát hành và sử dụng thẻ, tức tính pháp lý chỉ dừng ở mức điều chỉnh “nội bộ”
giữa ngân hàng phát hành và chủ thẻ.
Thị trường thẻ năm 2006, 2007 trở lên sôi động vì VN đã bước vào sân chơi rộng là
WTO, thị trường tài chính VN càng cạnh tranh quyết liệt hơn khi có thêm nhiều ngân
hàng nước ngoài đầu tư vào đây và dịch vụ thẻ tín dụng, thẻ ATM là một loại “vũ khí”
đắc lực để ngân hàng thâm nhập thị trường. Hàng loạt sản phẩm thẻ thanh toán ra đời,
mở ra một cuộc “so tài” phát hành thẻ giữa các ngân hàng trong nước. Đầu tiên là
Ngân hàng TMCP Kỹ thương VN – Techcombank, ngân hàng này đã tung ra hàng loạt
thẻ thanh toán, nổi trội là thẻ Fastaccess. Tiếp theo đó, Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Thương Tín – Sacombank đã kết hợp cùng tổ chức Visa ra mắt thẻ thanh toán Quốc tế
Sacom Visa Debit. Đây là phương tiện thanh toán năng động nhắm vào giới doanh
nhân: chủ tài khoản có thể dùng thẻ để thanh toán trong và ngoài nước.
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 14
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
2. Những kết quả ban đầu đạt được:
- Có thể dễ dàng nhận thấy thanh toán bằng tiền mặt hiện nay vẫn rất phổ biến trong
nền kinh tế nước ta. Tiền mặt vẫn là phương tiện thanh toán chiếm tỷ trọng lớn

trong khu vực doanh nghiệp và chiếm đại đa số trong các giao dịch thanh toán của
khu vực dân cư. Theo những con số thống kê chính thức, tỷ trọng thanh toán
không dùng tiền mặt một số năm: 2004: 20,35%; 2005: 19,01%; 2006: 17,2; 2008:
14,6. Với chủ trương đúng đắn của Chính phủ, nỗ lực của ngành Ngân hàng, sự
quan tâm, phối hợp của các cơ quan, tổ chức và ủng hộ của xã hội, hoạt động thanh
toán không dùng tiền mặt đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Tỷ lệ tiền mặt
trên tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế Việt Nam giảm dần qua các
năm với tốc độ khá nhanh, đến tháng 7/2012 còn 11,14%, giảm đáng kể so với tỷ
lệ 19,27% năm 2006. Thẻ ngân hàng đã trở thành phương tiện thanh toán phổ biến
với tốc độ phát triển nhanh chóng. Tính đến cuối tháng 9/2012, số lượng thẻ phát
hành tăng hơn 16 lần, giá trị giao dịch thẻ tăng khoảng 4,7 lần so với cuối năm
2006
- Thẻ thanh toán có mặt ở nước ta từ khoảng năm 1994 thông qua hình thức đại lý
chấp nhận thẻ của các tổ chức thẻ quốc tế. Đến năm 1996, các loại thẻ NH xuất
hiện nhiều hơn nhưng phải đến năm 2002, khi thẻ ghi nợ nội địa (ATM) đầu tiên
với thương hiệu Vietcombank Connect 24 ra đời cùng mạng lưới máy giao dịch tự
động ATM tại Việt Nam, thị trường thẻ NH mới thật sự bùng nổ. Năm 2006, toàn
thị trường mới có khoảng gần 5 triệu thẻ các loại, gần 3.000 máy ATM và khoảng
11.000 máy quẹt thẻ (POS). Số lượng thẻ thanh toán tăng hơn gấp đôi từ năm 2008
là 14,7 triệu thẻ lên 33 triệu thẻ năm 2011, hơn 12.000 máy rút tiền tự động (ATM)
cùng 50.000 điểm chấp nhận thanh toán bằng thẻ (POS), trong đó có hơn 20 ngân
hàng triển khai Internet Banking, và gần 8 ngân hàng triển khai Mobile banking ở
các mức độ khác nhau (theo số liệu thống kê của ngân hàng Nhà nước tính tới
tháng 9/2011).
- Tính đến ngày 31/12/2012, cả nước đã có hơn 54 triệu thẻ được phát hành, cao gấp
8 lần so với năm 2006, trong đó, gần 93% là thẻ nội địa (50,26 triệu thẻ), còn lại là
thẻ quốc tế; có gần 70.000 máy chấp nhận thanh toán thẻ (POS).
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 15
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
SỐ LƯỢNG THẺ NGÂN HÀNG

( Quý IV năm 2012 )
STT Chỉ tiêu
Số lượng thẻ đã
phát hành
(Triệu thẻ)
1 Thẻ phân theo phạm vi
- Thẻ nội địa
50.26
- Thẻ quốc tế
4.03
2 Thẻ phân theo nguồn tài chính
- Thẻ ghi nợ
50.89
- Thẻ tín dụng
1.62
- Thẻ trả trước
1.78
Nguồn: Vụ Thanh toán-NHNNVN
- Toàn thị trường đã có gần 15.000 máy ATM, tăng hơn 5 lần năm 2006. Hiện,
ngoài việc cung cấp các dịch vụ cơ bản như rút tiền mặt, chuyển khoản, các ngân
hàng còn chủ động nghiên cứu và triển khai nhiều tính năng gia tăng trên hệ thống
ATM như thanh toán hoá đơn dịch vụ (điện, nước, viễn thông, bảo hiểm, thu nộp
ngân sách Nhà nước).
- Hiện có 50 tổ chức phát hành thẻ với hơn 200 thương hiệu thẻ khác nhau. “Sự phát
triển của dịch vụ thẻ NH có thể xem là lĩnh vực phát triển năng động nhất trong
các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt. Tốc độ tăng trưởng khoảng 50%
- 60%/năm trong vài năm gần đây”
- Tuy nhiên, theo Hội Thẻ ngân hàng Việt Nam, nếu so với tiềm năng và yêu cầu
phát triển thì thị trường thẻ Việt Nam vẫn còn dừng lại ở mức phát triển hạn chế,
nhất là về mặt chất lượng dịch vụ, tiện ích của sản phẩm và chưa đem lại nhiều

hiệu quả về mặt kinh doanh cho các tổ chức tham gia cung ứng dịch vụ.
Với dân số hiện nay khoảng 90 triệu người trong khi mới chỉ có khoảng 40 triệu
thẻ thì số lượng thẻ thanh toán đã được phát hành này không phải là nhiều và thị
trường thẻ tại Việt Nam còn nhiều màu mỡ, là cơ hội để các ngân hàng đẩy mạnh
đầu tư.
- Đến thời điểm hiện tại, mạng lưới thanh toán thẻ tại Việt Nam đã sẵn sàng chấp
nhận thanh toán các thẻ mang thương hiệu Visa, MasterCard, American Express,
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 16
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
JCB, Diners Club, CUP và DiscoverCard, là các thương hiệu thẻ hàng đầu và phổ
biến nhất trên thế giới hiện nay.
Một số sự kiện đáng chú ý của hoạt động thẻ thanh toán thời gian qua:
• Sáp nhập 2 liên minh thẻ lớn nhất Việt Nam
Theo kế hoạch, việc sáp nhập Smartlink và Banknetvn cơ bản hoàn thành trước
ngày 31/12/2012; tuy nhiên thực tế khó diễn ra như kế hoạch do hai bên phải thỏa
thuận về công nghệ. Công ty mới sẽ củng cố và tiếp tục phát triển cơ sở hạ tầng kỹ
thuật của các bên, tạo điều kiện cho việc sắp xếp lại và hợp lý hóa hệ thống ATM, POS
trên phạm vi toàn quốc, đồng thời mở rộng kết nối hệ thống thanh toán thẻ của Việt
Nam với các tổ chức thẻ quốc tế. Công ty cũng đặt mục tiêu phát triển và đa dạng hóa
dịch vụ giá trị gia tăng trên nền hệ thống chuyển mạch thống nhất; tiến tới xây dựng
trung tâm thanh toán bù trừ tự động giao dịch bán lẻ, tạo hạ tầng để phát triển thanh
toán không dùng tiền mặt trong khu vực dân cư. Hiện nay, vốn điều lệ của Smartlink là
50 tỷ đồng và của Banknetvn là gần 130 tỷ đồng.
• Triệt phá thành công nhiều vụ án gian lận thẻ
Sự phát triển mạnh mẽ của các ứng dụng công nghệ trong ngành tài chính ngân
hàng đã biến lĩnh vực này trở thành “mảnh đất màu mỡ” của giới tội phạm, với nhiều
thủ đoạn ngày càng tinh vi và khó kiểm soát. Một trong những vụ án nổi bật được nhắc
nhiều trong năm vừa qua chính là việc triệt phá thành công ổ nhóm, do Đinh Văn Long
cầm đầu, chuyên sản xuất và tiêu thụ thẻ ATM giả tại Hà Nội với nhiều thương hiệu
thẻ nổi tiếng và đã thực hiện trót lọt nhiều phi vụ. Sự kiện này chính là lời cảnh báo đối

với các tổ chức phát hành thẻ trong việc đầu tư nâng cấp cho công tác bảo mật để
không chỉ bảo vệ khách hàng mà còn là bảo vệ chính thương hiệu mà mình đã dày
công gây dựng.
• Ngân hàng Việt Nam đầu tư nhiều hơn cho công nghệ bảo mật
Trước sự gia tăng mạnh mẽ của giới tội phạm trong việc gian lận và ăn cắp thông
tin thẻ, các ngân hàng Việt Nam đã ý thức và tăng cường đầu tư để tự bảo vệ mình và
khách hàng bằng việc ứng dụng nhnều công nghệ bảo mật mới. Nhiều ngân hàng đã
cung cấp mật khẩu một lần thông qua thẻ cào, token tạo mật khẩu hoặc tin nhắn… Ví
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 17
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
dụ, ACB đã lắp đặt các thiết bị chống gian lận cho tất cả các buồng ATM trên toàn
quốc. Thiết bị này sẽ giúp ngăn chặn tối đa việc cài đặt các thiết bị lạ vào đầu đọc thẻ
ATM, giúp chống lại các hành vi sử dụng công nghệ cao nhằm đánh cắp thông tin của
các khách hàng sử dụng dịch vụ ATM. Ngoài việc lắp đặt thiết bị chống gian lận tại hệ
thống ATM, trước đó, ACB đã thực hiện nhiều giải pháp khác để đảm bảo an toàn
tuyệt đối cho khách hàng bao gồm: phòng máy ATM được lắp đặt thiết bị phòng chống
đột nhập từ bên ngoài (khách hàng phải quẹt thẻ để mở cửa khi bước vào buồng ATM
và cửa sẽ đóng lại khi khách hàng đang giao dịch); gương chiếu hậu tại máy ATM để
khách hàng quan sát phía sau lưng trong khi giao dịch.
• Đẩy mạnh thanh toán thẻ trực tuyến
Để khuyến khích khách hàng sử dụng thẻ và đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền
mặt, nhiều ngân hàng đang triển khai các chương trình khuyến mãi dành cho chủ thẻ
khi thanh toán trực tuyến.
Lướt qua các trang web hoặc bản tin tài chính ngân hàng, người tiêu dùng có thể dễ
dàng nhận được những thông tin về các chương trình mua sắm, thanh toán trực tuyến
với nhiều ưu đãi hấp dẫn: từ việc mua sắm hàng tiêu dùng, thanh toán các dịch vụ tiện
ích cho đến việc tham gia các chương trình hoặc dịch vụ cao cấp trong và ngoài nước.
Có thể nói, xu hướng thanh toán thẻ trực tuyến đã và đang đem lại nhiều lợi ích cho cả
khách hàng và doanh nghiệp và ngày các thu hút được sự quan tâm của người tiêu
dùng.

• Nở rộ các chương trình marketing nhằm khuyến khích việc mở thẻ và sử
dụng thẻ
Ngày nay, việc sử dụng thẻ trong mua sắm trực tuyến, siêu thị hoặc rút tiền đã
không còn xa lạ và mới mẻ với đại đa số người dân Việt Nam. Trước tiềm năng lớn về
nhu cầu sử dụng thẻ của người dân, các ngân hàng đã liên kết cùng các doanh nghiệp
thương mại cung cấp thêm nhiều chương trình thẻ liên kết thiết thực như giảm giá, tích
điểm, quà tặng hay các ưu đãi đặc biệt cho chủ thẻ khi sử dụng thẻ để thanh toán vé
máy bay, sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục, bảo hiểm, ăn uống giải
trí…
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 18
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
Người tiêu dùng có thêm nhiều cơ hội “rút thẻ” trong đời sống hàng ngày là tín
hiệu tốt đối với thị trường thẻ Việt Nam, khiến thị trường thẻ ngày càng phát triển và
sôi động, đồng thời rút ngắn dần khoảng cách trong việc sử dụng thẻ với khu vực và
thế giới.
• Chính phủ chủ trương đẩy mạnh thanh toán bằng thẻ trong chi tiêu công
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt
tại Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015 với mục tiêu chính là đến cuối năm 2015, tỉ lệ tiền
mặt trong tổng phương tiện thanh toán ở mức thấp hơn 11%.
Với đề án này, Chính phủ chủ trương phát triển thanh toán điện tử với nhiều sản
phẩm, dịch vụ mới, đa dạng, an toàn và thuận tiện. Trong đó, trọng tâm là tập trung
thực hiện 3 nhiệm vụ chủ yếu:
a) Phát triển thanh toán điện tử với nhiều sản phẩm, dịch vụ mới, đa dạng, an
toàn, thuận tiện; trong đó trọng tâm là phát triển thanh toán qua điểm chấp nhận thẻ để
giảm thanh toán bằng tiền mặt, tạo thói quen thanh toán không dùng tiền mặt trong bộ
phận lớn dân cư.
b) Lựa chọn áp dụng một số mô hình thanh toán phù hợp với Việt Nam để xây
dựng nền tảng, tạo bước phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ở khu
vực nông thôn, góp phần thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp,
nông thôn, nông dân và xây dựng nông thôn mới.

c) Tăng cường quản lý thanh toán bằng tiền mặt, giảm sử dụng tiền mặt trong
các giao dịch thanh toán.
• Triển khai thành công dịch vụ chuyển tiền qua thẻ
Sau một năm khai trương dịch vụ, đến tháng 11/2012 đã có 18 ngân hàng (gồm
Vietcombank, Sacombank, ACB, Eximbank, Techcombank, VIB, SHB, MB, HDBank,
TienPhongBank, GPBank, VPBank, OceanBank, VietA Bank, OCB, LienViet Post
Bank, NaviBank và Hong Leong Bank) triển khai thành công dịch vụ chuyển tiền liên
ngân hàng qua thẻ thông qua hệ thống Smartlink.
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 19
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
Gần 15 triệu chủ thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ và thẻ trả trước của 18 ngân hàng nói trên
có thể sử dụng các kênh giao dịch điện tử của ngân hàng phát hành như ATM, Internet
Banking, Mobile Banking, SMS Banking để giao dịch chuyển khoản liên ngân hàng tới
chủ thẻ nội địa hoặc quốc tế của ngân hàng khác một cách thuận tiện và đơn giản,
không cần đến quầy giao dịch của ngân hàng hoặc tới bưu điện.
• Xu hướng chuyển đổi sang EMV của thị trường thẻ Việt Nam
Hiện nay có khoảng 1,5 tỉ thẻ theo chuẩn EMV đang được lưu hành trên thế giới,
chiếm khoảng 44% lượng thẻ phát hành, do đó vẫn còn rất nhiều không gian để phát
triển thẻ EMV. Hầu hết các nước trên thế giới đã chuyển hướng sang thị trường thẻ
EMV, trong đó khu vực Châu Âu có tốc độ phát triển thẻ chip nhanh nhất, bởi nhiều
ngân hàng thương mại (NHTM) đã nhận thấy việc chuyển đổi này không chỉ bảo vệ an
toàn cho chủ thẻ mà còn hạn chế tối đa những hoạt động giả mạo gây thiệt hại cho
ngân hàng về tài sản và uy tín. Đặc biệt, việc ứng dụng thẻ chip có thể giúp các ngân
hàng phát triển mạnh mẽ hơn trong lĩnh vực dịch vụ thanh toán nhờ khả năng cung cấp
thêm nhiều dịch vụ không dùng tiền mặt mới (kết hợp thẻ ATM, thẻ ghi nợ, thẻ giao
thông, thẻ cá nhân…), tăng cường sức mạnh của thương hiệu ngân hàng.
Tuy nhiên, các NHTM ở Việt Nam chưa thực sự mặn mà với chuyển đổi thẻ nội
địa. sang chuẩn EMV. Lý giải nguyên nhân này, một số chuyên gia tài chính ngân
hàng cho rằng, thực tế không chỉ do rào cản chi phí dẫn đến việc chuyển đổi thẻ chip
của các NHTM chưa nhanh, mà còn do hạ tầng cơ sở. Trên thực tế các điểm POS cũng

như các ATM của các NHTM Việt Nam chưa được nâng cấp lên theo chuẩn EMV, vì
vậy nhiều NHTM phát hành thẻ quốc tế buộc phải tích hợp cả băng từ và chip.
Mặc dù vậy, xu hướng chuyển đổi sang EMV là tất yếu và bắt buộc nếu các ngân hàng
Việt Nam muốn gia nhập sân chơi chung các định chế tài chính toàn cầu.
• Dịch vụ thanh toán hóa đơn, cước phí, đặt vé trực tuyến thông qua thẻ thanh
toán tăng cao
Trong nỗ lực nhằm đa dạng hóa các kênh thanh toán qua ngân hàng và đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của khách hàng, các ngân hàng đã cung cấp nhiều dịch vụ tiện ích
tới người tiêu dùng. Thay vì phải xếp hàng chờ đợi hoặc phải có mặt tại địa điểm thanh
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 20
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
toán, người tiêu dùng có thể nhanh chóng sử dụng thẻ hoặc dịch vụ ngân hàng trực
tuyến để thanh toán các hóa đơn sinh hoạt, mua sắm trực tuyến.
Việc người tiêu dùng Việt Nam ngày càng có thêm nhiều lựa chọn thiết thực và tiện
lợi cho cuộc sống và công việc sẽ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người
dân.
• Hành lang pháp lý về thu phí sử dụng thẻ, phí rút tiền tại máy ATM
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã yêu cầu các tổ chức phát hành thẻ chấp
hành nghiêm túc chủ trương của NHNN và Hội Thẻ ngân hàng Việt Nam. Cụ thể, trong
năm 2012 chưa thu phí giao dịch rút tiền ATM nội mạng, chưa điều chỉnh mức phí
giao dịch ATM ngoại mạng đối với khách hàng sử dụng thẻ.
Thay vào đó, NHNN yêu cầu NHTM phát hành thẻ tự đề xuất mức thu phí đối với
thẻ ghi nợ nội địa (ATM), gồm chi phí bình quân cho một giao dịch ATM tại NH, mức
phí dự kiến đề xuất cho từng loại giao dịch, lý do đề xuất mức phí này, sau đó báo cáo
với Vụ Thanh toán - NHNN. Để làm căn cứ cho việc thu phí, NHNN cũng yêu cầu các
NHTM báo cáo chi tiết tình hình thu chi đối với dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa để có thêm
thông tin phục vụ việc tính toán, xây dựng biểu phí ATM áp dụng từ năm 2013. Theo
đó, ngoài việc phải báo cáo chi tiết các khoản thu từ dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa theo
thời gian quy định, các NH cũng phải báo cáo số lượng thẻ ATM, tổng số dư trên tài
khoản ATM và số tiền mặt tồn quỹ tại các ATM của đơn vị.

3. Hạn chế và nguyên nhân
3.1 Tâm lý và thói quen của người dân:
Phần lớn khách hàng sử dụng thẻ nội địa là người Việt Nam, vốn quá quen với việc sử
dụng tiền mặt nên việc sử dụng các phương tiện thanh toán phi tiền mặt, trong đó có
thẻ, nhìn chung còn rất hạn chế.
3.2 Rủi ro trong thanh toán qua thẻ:
- Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT) giả mạo (Fraudulen Merchant);
- ĐVCNT thông đồng với chủ thẻ: đánh cắp dữ liệu thẻ sử dụng vào mục đích
bất hợp pháp hoặc thông đồng với chủ thẻ chấp nhận thanh toán thẻ giả;
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 21
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
- Thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng thẻ qua các phương tiện viễn thông qua
thư, điện thoại, Internet: thay đổi số tiền trên hóa đơn, đánh cắp tiền trong tài
khoản;
- Nhân viên ĐVCNT in nhiều hoá đơn thanh toán của một thẻ (Multiple
imprint);
- Các ĐVCNT có tỷ lệ rủi ro cao (High Risk Merchant): Hàng hóa, dịch vụ có
giá trị lớn, có tính chất dễ chuyển đổi sang tiền mặt;
- ĐVCNT gian lận: Thực hiện giao dịch không đúng loại hình giao dịch đã
đăng ký, sửa đổi số tiền giao dịch, không xin chuẩn chi theo thoả thuận qui
định;
- Tài khoản của chủ thẻ bị lợi dụng (fraudulent use of account): sử dụng trong
môi trường thanh toán không phải xuất trình thẻ (thanh toán qua thư/điện
thoại hoặc thương mại điện tử);
- Chủ thẻ để lộ số PIN
+ Thẻ bị mất/mất trộm (lost/stolen card);
+ Thẻ giả (counterfeit): thẻ thật đã bị thay đổi thông tin, thẻ
chỉ giả mạo thông tin trên dải băng từ hoặc thẻ bị sao chép
làm giả hoàn toàn.
+ Dữ liệu băng từ (skimming) hoặc dữ liệu trên đường

truyền (tapping) bị đánh cắp.
3.3 Các dịch vụ, PTTT chưa phong phú và tiện ích chưa cao
Mặc dù thời gian qua, NHNN đã triển khai một số chương trình mang tính định
hướng thị trường nhằm mục tiêu thúc đẩy phát triển mạng lưới POS thẻ nội địa, tuy
nhiên, việc mở rộng mạng lưới chấp nhận thẻ nội địa vẫn gặp rất nhiều khó khăn, trở
ngại. Do phần lớn khách hàng sử dụng thẻ nội địa là người VN, vốn quá quen với việc
sử dụng tiền mặt và lại luôn có sẵn tiền mặt cũng như dễ dàng tiếp cận với nguồn tiền
mặt có tại các ATM, nên việc sử dụng các phương tiện TTKDTM còn rất hạn chế.
Các PTTT hiện nay chưa được triển khai trên diện rộng để đáp ứng nhu cầu thanh
toán trong nền kinh tế. Các PTTT này còn mới mẻ và bỡ ngỡ với phần lớn người dân;
tâm lý e dè, sợ rủi ro đã ngăn cản việc tiếp cận của người tiêu dùng với các PTTT mới.
Các thanh toán trong khu vực dân cư phần lớn vẫn sử dụng tiền mặt, ngay cả ở thành
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 22
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
thị, nơi có điều kiện thuận lợi cho phát triển các phương tiện TTKDTM, việc sử dụng
tiền mặt vẫn còn phổ biến.
Dịch vụ thẻ ngân hàng mới có sự gia tăng về số lượng nhưng chưa có sự chuyển
biến thực sự về chất lượng; mục tiêu cuối cùng là sử dụng thẻ để thanh toán hàng hóa,
dịch vụ thay vì dùng tiền mặt nhưng thực tế là 83% giao dịch thực hiện tại hệ thống
ATM là để rút tiền mặt, việc chuyển khoản chủ yếu được thực hiện trong nội bộ từng
ngân hàng; dịch vụ đi kèm ATM đã có nhưng chưa nhiều. Hệ thống POS chưa phát
triển rộng, thanh toán qua POS còn hạn chế; số lượng giao dịch qua POS còn ít (chỉ đạt
chưa đến 5% doanh số bán hàng).
3.4 Phí chưa thỏa đáng
Các đơn vị kinh doanh không muốn chấp nhận thẻ một phần do phải trả phí ngân
hàng, một phải là phải công khai doanh thu. Vì thế, một số ĐVCNT dù đã ký hợp đồng
chấp nhận thẻ với ngân hàng nhưng vẫn tìm nhiều cách hạn chế các giao dịch bằng thẻ
của khách hàng như để máy cà thẻ vào nơi khuất, ưu tiên khách hàng trả tiền mặt,…
Thực tế các ngân hàng chạy đua hạ mức phí chiết khấu cho các ĐVCNT khiến cho
việc phát triển mạng lưới POS không có hiệu quả do các ngân hàng không có nguồn

thu bù đắp chi phí đầu tư mua sắm thiết bị, chi phí cho nhân sự để phát triển ĐVCNT.
3.5 Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ thanh toán còn hạn chế
Hạ tầng cơ sở kỹ thuật phục vụ cho hoạt động thanh toán phát triển chưa đồng bộ,
bởi đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn nên thường chỉ có các NHTM có tiềm lực về tài
chính mới có khả năng đầu tư các trang thiết bị phục vụ hoạt động thanh toán, mở rộng
các PTTT mới. Mặc dù số lượng ATM, POS được lắp đặt tăng đều qua các năm nhưng
thực tế là tỷ trọng so với số dân vẫn còn thấp, chưa phân bố đều (chủ yếu tập trung tạo
các đô thị lớn, khu công nghiệp). Hoạt động của hệ thống phục vụ thanh toán chưa đảm
bảo, còn tiềm ẩn nguy cơ về bảo mật; sự hợp tác giữa các nhà cung cấp dịch vụ với các
ngân hàng gặp trở ngại do sự khác biệt về hệ thống quản lý, cơ sở dữ liệu…
3.6 Khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện
Với sự phát triển của khoa học công nghệ và truyền thông, nhiều dịch vụ thanh toán
mới ra đời nhưng hành lang pháp lý chưa được thiết lập. Các cơ chế, chính sách nhằm
thúc đẩy TTKDTM chưa thật đồng bộ, chưa khuyến khích đầu tư mạnh cho cơ sở hạ
tầng; sự phối kết hợp giữa những biện pháp hành chính và biện pháp kích thích kinh tế
chưa đủ mạnh đề đưa chủ trương đi vào cuộc sống.
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 23
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
Đối với dịch vụ thẻ, cho đến nay, các cơ quan quản lý vĩ mô như Chính phủ,
NHNN, Bộ Tài chính vẫn chưa ban hành chính sách nhằm tạo một bước đột phá đối
với dịch vụ thanh toán thẻ như: quy định về các loại hình kinh doanh bắt buộc phải
thanh toán qua thẻ, giảm thuế/hoàn thuế cho các giao dịch thanh toán bằng thẻ,
miễn/giảm thuế nhập khẩu đối với thiết bị thanh toán thẻ EDC…
IV. GIẢI PHÁP CHO VIỆC PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ
TRONG TƯƠNG LAI
1. Nhóm giải pháp từ các NHTM tổ chức thực hiện
1.1 Hoàn thiện mô hình tổ chức, xây dựng hình ảnh thương hiệu mạnh
Để phát triển hoạt động kinh doanh thẻ thanh toán của ngân hàng, thì chính các
NHTM phải hoàn thiện mô hình tổ chức để kiện toàn bộ máy quản lý như thành lập mô
hình trung tâm thẻ theo hướng gọn nhẹ và tập trung vào các nghiệp vụ chính tránh việc

chồng chéo công việc: phát triển kinh doanh, hỗ trợ kinh doanh, chính sách và quản lý
rủi ro… Làm được điều đó cần sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, như:
phòng phát triển kinh doanh: xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển hoạt động kinh
doanh thẻ, triển khai công tác phát triển thẻ, đơn vị chấp nhận thẻ, phân tích, đánh giá
hiệu quả, đề xuất biện pháp cho việc phát triển hoạt động kinh doanh thẻ. Ngoài ra còn
phải tổ chức công tác bán hàng, chăm sóc khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ
phát hành và thanh toán thẻ; và phòng hỗ trợ kinh doanh phải: hỗ trợ công tác hậu cần,
phân tích báo cáo phục vụ công tác quản trị và cho các cơ quan chức năng, ….
Các NHTM phải luôn xây dựng hình ảnh thương hiệu mạnh và đặc trưng riêng
của mình. Do sản phẩm dịch vụ ngân hàng có đặc điểm chung là tương đối giống nhau
nhưng khách hàng vẫn có thể có phản ứng khác nhau trong việc quyết định sử dụng sản
phẩm dịch vụ ngân hàng đối với các thương hiệu mà họ cảm nhận được. Bằng việc xây
dựng thương hiệu với tinh thần riêng và luôn đảm bảo chất lượng sản phẩm dịch vụ về
thẻ của ngân hàng nhằm đáp ứng được các yêu cầu ngày càng đa dạng của mọi đối
tượng khách hàng.
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 24
Giải pháp phát triển thẻ thanh toán hiện nay ở các NHTM GVHD: PGS.TS. Hoàng Đức
1.2 Quản trị ngân hàng, phòng ngừa và quản lý rủi ro
Đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho đội ngủ nhân viên bộ phận phát hành và tư vấn
thẻ, để nhân viên có đầy đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đảm bảo khả năng tiếp
nhận cũng như vận hành công nghệ mới. Phát triển được một đội ngũ nhân viên am
hiểu về chuyên môn, có tinh thần trách nhiệm và phẩm chất đạo đức tốt cũng là một
trong những giải pháp giúp ngân hàng phát triển hoạt động kinh doanh thẻ một cách an
toàn và hiệu quả.
Thường xuyên theo dõi động thái của thị trường thẻ tại Việt Nam để điều hành
chiến lược phát hành và kinh doanh thẻ cho phù hợp với thực tế. Xây dựng những
chính sách phù hợp để hỗ trợ cho hệ thống phát hành được số lượng thẻ cần thiết. Bên
cạnh đó, phải có quy trình rõ ràng để quản lý rủi ro từ thẻ quốc tế, vì điều đó sẽ làm
giảm được chi phí và tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
Thường xuyên cập nhật những chính sách mới của các ngân hàng cạnh tranh

trong lĩnh vực phát hành thẻ để điều chỉnh kịp thời chính sách của mình nhằm đáp ứng
kịp thời nhu cầu của khách hàng.
Kết hợp với phòng công nghệ thông tin để kiểm tra, giám sát những giao dịch
mang tính rủi ro cao, để kịp thời ngăn chặn và xử lý giao dịch hiệu quả. Phối hợp với
khách hàng, trang bị kiến thức và nâng cao trình độ sử dụng thẻ. Việc làm này là hết
sức cần thiết và thường xuyên, đặc biệt đối với khách hàng, người trực tiếp sử dụng
thẻ. Khi cung cấp sản phẩm thẻ cho khách hàng, cán bộ thẻ phải trực tiếp hướng dẫn cụ
thể và gửi cẩm nang sử dụng. Ngoài ra, ngân hàng phải tăng cường các biện pháp kiểm
tra, kiểm soát trong hoạt động kinh doanh thẻ, như: ngân hàng thường xuyên kiểm tra
hệ thống máy móc thiết bị đảm bảo hoạt động liên tục và ổn định; ngân hàng tăng
cường kiểm soát các bước thực hiện nghiệp vụ của các cán bộ làm việc trực tiếp đảm
bảo tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của quy trình nghiệp vụ, ngân hàng nên lắp hệ
thống camera tại các máy ATM; tăng cường hợp tác với các ngân hàng khác trong việc
ngăn ngừa rủi ro hay phối hợp với cơ quan hữu quan phòng chống tội phạm thẻ,…
Đảm bảo hoạt động thẻ của ngân hàng theo đúng quy định của pháp luật Việt
Nam và thông lệ của các tổ chức chấp nhận thẻ quốc tế.
Nhóm 10 – NH Đêm 4 – K21 25

×