Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

tài liệu ôn thi triết học theo chuyên đề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.44 KB, 46 trang )

1
Vấn đề 1: Trong văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần IV có đoạn viết:
“Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện đảm
bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng” (Văn kiện Đại hội lần IX, NSB Sự thật – HN
1987, trang 30). Đồng chí hãy phân tích cơ sở lý luận triết học của luận điểm trên và
liên hệ thực tiễn cách mạng nước ta.
Ngay từ khi ra đời, Đảng cộng sản Việt Nam đã lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm nền
tảng tư tưởng và vận dụng tư tưởng lý luận đó vào thực tế cách mạng nước ta để đề ra
đường lối, chủ trương, chính sách qua từng thời kỳ. Một trong những vận dụng cơ sở lý
luận của triết học Mác Lênin vào công cuộc đổi mới đất nước mà Đảng đã khởi xướng bắt
đầu từ Đại hội Đảng lần thứ IV là nguyên tắc khách quan, một nguyên tắc được rút ra từ
mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX đã viết:
“Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện đảm bảo sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng”. Việc tìm hiểu quy luật khách quan trên cơ sở mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức để vận dụng đúng đắn quy luật này vào thực tiễn là vấn đề hết sức cần
thiết đối với Đảng viên.
Vật chất theo quan điểm triết học Mác Lênin “là một phạm trù triết học đúng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng
ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Thực tại khách quan
(tồn tại khách quan) là một nội dung cơ bản trong định nghĩa vật chất của Lênin, đó là sự
tồn tại có thật, không phải do ý muốn của thần linh, thượng đế sinh ra, không phải do ý thức
chức quan của con người sản sinh ra, mà đó là sự tồn tại, vận động, chuyển hóa và phát
triển theo những quy luật vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng, dù con người có
muốn, có biết hay chưa biết về sự tồn tại đó thì chúng vẫn tồn tại.
Ý thức của con người theo triết học duy vật biện chứng không phải là một hiện
tượng thần bí, tách rời khỏi vật chất mà là đặc tính của một dạng vật chất có tổ chức đặc
biệt là bộ óc của con người, là sự phản ánh sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài vào bộ
óc của con người trên nền tảng của hoạt động lao động sáng tạo và được hiện thực hóa bằng
ngôn ngữ. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.


Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, thể hiện qua vai trò quyết
định của vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại của ý thức đối
với vật chất.
Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, vật chất là cơ sở, cội nguồn sản
sinh ra ý thức. Vật chất là cái có trước, nó sinh ra ý thức, quyết định nội dung và xu hướng
phát triển của ý thức. Không có vật chất thì không thể có ý thức bởi vì nguồn gốc của ý
thức chính là vật chất trong đó bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức, cơ quan phản
ánh thế giới xung quanh, sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người, tạo thành
nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Lao động trong hoạt động thực tiễn, hoạt động sản xuất của
cải vật chất và ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết), cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự
hình thành tồn tại và phát triển của ý thức. Mặt khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan vật chất là đối tượng, khách thể của ý thức, nó quy định nội dung, hình
thức, khả năng và quá trình vận động của ý thức. Ngoài ra, ý thức chỉ có thể trở thành sức
mạnh vật chất, sức mạnh cải tạo hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn, bằng việc khai
thác, sử dụng hợp lý các điều kiện phương tiện vật chất cần thiết cho hành động.
Tuy nhiên, mặc dù do vật chất sinh ra và quy định nhưng ý thức lại có tính độc lập
tương đối. Sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh của ý thức đối với vật
chất là sự phản ánh sáng tạo chủ động chứ không thụ động máy móc nguyên si. Sự phát
triển của ý thức là một quá trình con người không ngừng tìm kiếm tích lũy những hiểu biết
mới ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về mặt bản chất, quy luật vận động và phát triển sự
vật và qua đó sau khi đã hình thành, ý thức có vai trò định hướng cho con người trong việc
xác định mục tiêu, phương hướng tìm ra biện pháp lựa chọn các phương án, hành động tối
ưu nhất và sử dụng các điều kiện vật chất cần thiết để làm biến đổi chúng đạt đến mục tiêu
đã đặt ra. Mặt khác sự tác động của ý thức đến vật chất có thể theo hai khuynh hướng: Một
là ý thức sẽ thúc đẩy cùng chiều đối với sự phát triển của sự vật nếu ý thức phản ánh đúng
hiện thực, khách quan nếu con người nhận thức đúng quy luật khách quan, có ý chí động cơ
hành động đúng và thông qua cơ chế tổ chức hoạt động phù hợp trong thực tiễn. Hai là ý
thức kìm hảm, cản trở, thậm chí phá hoại sự phát triển bình thường của sự vật nếu ý thức
phản ánh không đúng hiện thực khách quan, ý thức lạc hậu, phản khoa học, phản động, nếu
con người không có ý chí, không nhiệt tình, động cơ sai …Tuy vậy, sự tác động của ý thức

đối với vật chất cũng chỉ với mức độ nhất định, nó không thể sinh ra hay tiêu diệt các quy
luật vận động của vật chất.
Từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, một nguyên tắc được rút ra, đó
là nguyên tắc, khách quan. Nguyên tắc khách quan trước nhất thừa nhận vai trò quyết
định của vật chất đối với ý thức, nó đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan, “phải lấy thực thể khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình”. Nguyên tắc
này đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ chính bản thân sự vật
với những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của nó, những quy luật khách quan, phải có
thái độ tôn trọng sự thật, không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không
được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược, sách lược cách mạng.
Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc khách quan không có nghĩa là quan điểm khách
quan xem nhẹ, tính năng động, sáng tạo của ý thức mà nó còn đòi hỏi phát phát huy tính
năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan. Bởi vì quá trình đạt tới tính khách
quan đòi hỏi chủ thể phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong việc tìm ra những biện
pháp, những con đường để từng bước thâm nhập sâu vào bản chất của sự vật, trên cơ sở đó
thực hiện việc biến đổi từ cái “vật tự nó” thành cái phục vụ cho nhu cầu lợi ích của con
người
Trong thực tế nhận thức và hoạt động của con người, nếu chúng ta tuyệt đối hóa một
trong hai mặt của vật chất và ý thức thì sẽ có những sai lầm và rơi vào một trong 2 bệnh :
chủ quan duy ý chí và bảo thủ trì trệ.
Bệnh chủ quan duy ý chí là khuynh hướng, thổi phồng, tuyệt đối hóa vai trò của
nhân tố chủ quan quá đề cao, cường điệu tính sáng tạo của ý thức, của ý chí, xa rời hiện
thực khách quan, bất chấp quy luật khách quan, điều kiện khách quan, lấy nhiệt tình cách
mạng thay thế cho sự yếu kém về trí thức khoa học. Sai lầm của bệnh chủ quan duy ý chí là
lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội áp đặt ý chí vào thực tế khi định ra chủ trương
chính sách.
Ngược lại với bệnh chủ quan duy ý chí là bệnh bảo thủ trì trệ. Đây là tình trạng ỷ lại,
dựa dẫm, chờ đợi, ngại đổi mới thẩm chí cản trở cái mới, bằng lòng thỏa mãn với cái đã có
do khuynh hướng cường điệu vai trò quyết định của vật chất, sùng bái sức mạnh của quy

luật, hạ thấp vai trò của nhân tố chủ quan.
Bệnh chủ quan duy ý chí và là bệnh bảo thủ trì trệ là một sai lầm của Đảng ta trước
thời kỳ đổi mới (trước Đại hội lần VI tháng 12-1986). Đánh giá về mức độ sai lầm do chủ
quan duy ý chí của Đảng trong thời kỳ này, Đại hội lần thứ VI đã chỉ rõ Đảng đã “nóng vội
chạy theo nguyện vọng chủ quan”, “giản đơn hóa, muốn thực hiện nhiều mục tiêu của
CNXH trong điều kiện nước ta mới có chặng đường đầu tiên”. Do chủ quan duy ý chí và
bảo thủ trì trệ, Đảng đã có những sai lầm nghiêm trọng và kèo dài về chủ trương, chính
sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện trong giai đoạn này, vi phạm các quy
luật khách quan, biểu hiện qua một số lĩnh vực cụ thể được Văn kiện ĐH Đảng lần VI đánh
giá như sau : “chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta tồn tại
trong một thời gian tương đối dài” nên “đã có những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay
các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa”, “chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật
về sự phù hợp giữa quan hệ SX với tính chất và trình độ SX” nên “có lúc đẩy mạnh quá
mức việc xây dựng công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ”. Trên
thực tế, do việc đầu tư cơ sở sai và tràn lan, không có cơ sở khoa học, không phù hợp với
điều kiện thực tế về tài nguyên, lao động của từng vùng nên việc khai thác nguồn vốn đầu
tư không hiệu quả, nhiều công trình đầu tư dở dang và thậm chí không đủ nguyên liệu để
đưa vào hoạt động (cụ thể như đầu tư nhà máy đường đều khắp các tỉnh nhưng có tỉnh
không đủ nguyên vật liệu để cung cấp cho nhà máy hoạt động).
Ngoài ra, cũng do chủ quan duy ý chí trong việc dùng kế hoạch pháp lệnh để chỉ huy
toàn bộ nền kinh tế đất nước, “duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp” - một cơ chế "gắn liền với tư duy kinh tế dựa trên những quan niệm giản đơn về chủ
nghĩa xã hội, mang nặng tính chất chủ quan, duy ý chí", “có nhiều chủ trương sai trong việc
cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ “ cùng với “việc bố trí cơ cấu kinh tế trước hết là SX và
đầu tư thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính đến điều kiện khả
năng thực tế ” nên dẫn đến việc SX chậm phát triển, mâu thuẩn giữa cung và cấu ngày càng
gay gắt do việc áp dụng những chính sách, chủ trương trên đã vi phạm những quy luật
khách quan của nền kinh tế SX hàng hóa (quy luật cung cầu quy luật giá trị, quy luật cạnh
tranh, phá sản …). Tóm lại, việc bỏ qua không thừa nhận và vận dụng những quy luật
khách quan của phương thức sản xuất, của nền kinh tế hàng hóa vào việc chế định các

chủ trương chính sách kinh tế làm cho nền kinh tế nước ta bị trì trệ khủng hoảng trầm trọng.
Nguyên nhân của bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ trì trệ mà Đảng ta mắc
phải có nguyên nhân khách quan nhưng chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan Đó là sự yếu
kém lạc hậu về tư duy lý luận, trí thức lý luận không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Đó là việc hiểu và vận dụng chưa đúng nguyên lý, quy luật, phạm trù, chưa chú ý tiếp thu
kế thừa những thành tựu, kỹ thuật công nghệ mới của chủ nghĩa tư bản, của nhân loại, thậm
chí còn có định kiến phủ nhận một cách cực đoan những thành tựu đó, chưa chú ý tổng kết
những cái mới từ sự vận động, phát triển của thực tiễn theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì
nguyên nhân của bệnh chủ quan là kém lý luận, lý luận và lý luật suông. Bệnh chủ quan
duy ý chí còn do nguồn gốc lịch sử, xã hội, giai cấp, tâm lý của con người chi phối. Những
nguyên nhân khách quan ấy có thể kế như : do xuất phát điểm của nước ta quá thấp, nền SX
nhỏ với trình độ SX lạc hậu, do hậu quả của chiến tranh kéo dài ảnh hưởng rất lớn đến
không chỉ đến tốc độ phát triển kinh tế - xã hội mà còn làm cho đội ngũ cán bộ - đảng viên
không có điều kiện để học tập nên trình độ KH công nghệ, tri thức không đáp ứng đầy đủ
những yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, cơ chế quan liêu bao cấp, bệnh quan liêu ảo
tưởng, “kiêu ngạo cộng sản… cũng tạo điều kiện cho sự ra đời của căn bệnh chủ quan duy ý
chí và bảo thủ trì trệ.
Rút kinh nghiệm từ những sai lầm trên, Đại hội Đảng lần VI (1986) đã chỉ rõ bài học
kinh nghiệm trong thực tiễn cách mạng ở nước ta là “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế,
tôn trọng và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu của Đảng” (Văn
kiện Đại hội Đảng lần VI trang 30). Đây là sự vận dụng đúng đắn nguyên tắc khách quan,
thừa nhận vai trò quyết định của vật chất và các quy luật khách quan vốn có của nó trong
việc đề ra các chế định, chủ trương, chính sách vào thực tế của công cuộc xây dựng đất
nước ta từ sau ĐH Đảng lần VI
Đại hội Đảng lần VI đã xác định xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa là
một công việc to lớn, không thể làm xong trong một thời gian ngắn, không thể nóng vội làm
trái quy luật. Văn kiện Đại hội xác định: "Nay phải sửa lại cho đúng như sau: Đẩy mạnh
cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát

triển của lực lượng sản xuất". Đại hội cũng phát hiện một vấn đề lớn có tính lý luận, hoàn
toàn mới mẻ: "Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong
trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ,
có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất". Trên cơ sở đó,
Đại hội xác định: "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ".
Trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, Đảng và Nhà nước đã điều chỉnh lại theo
hướng "không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều kiện và khả năng thực tế",
tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất lương
thực- thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là những
chương trình chẳng những đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ mà còn là điều
kiện thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản phẩm hàng hóa.
Về cơ chế quản lý kinh tế, lần đầu tiên khái niệm về hàng hóa, thị trường được đưa
vào Nghị quyết một cách rõ ràng "Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước" (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: ). Cơ
chế quản lý kinh tế được Đại hội VI xác định : "Tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ
chế quản lý kinh tế ngay từ buổi đầu của thời kỳ quá độ. Sử dụng đúng đắn quan hệ hàng
hóa - tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế về quản lý kinh tế". Vì vậy, chúng ta phấn
đấu thi hành chính sách một giá, đó là giá kinh doanh thương nghiệp và xây dựng hệ
thống ngân hàng chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng, hoạt động
theo chế độ hạch toán kinh tế.
Vấn đề phân phối đã được chú trọng hơn trong quan hệ SX bằng việc thực hiện
nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ
yếu, đồng thời dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh
doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện cả ở khâu phân phối
hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất. Văn kiện Đại hội chỉ rõ: "Để
phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa nhận trên
thực tế còn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội, nhưng phải luôn

quan tâm bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống
làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói giảm nghèo".
Đồng thời với các đổi mới trong lĩnh vực kinh tế, việc đổi mới bắt đầu từ việc Đảng
phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực, trình độ lý luận của Đảng để nhận thức
đúng và hành động đúng phù hợp với hệ thống các quy luật khách quan. Đồng thời với việc
đổi mới tư duy lý luận, việc tăng cường phát huy dân chủ, phát huy tiềm năng cán bộ
KHKT, đội ngũ cán bộ quản lý và tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, tổng kết cái mới,
không ngừng bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh lý luận về mô hình, mục tiêu, bước đi, đổi mới
và kiện toàn tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị … là những biện
pháp nhằm từng bước sửa chữa sai lầm và khắc phục bệnh của chủ quan duy ý chí.
Với những đường lối, chủ trương trên của Đảng, Nhà nước đã cụ thể hóa bằng nhiều
nghị quyết và chính sách phù hợp và khi triển khai thực hiện đã có tác dụng rất lớn trong
việc thúc đẩy sản xuất, cải thiện đời sống của người dân: đó là Nghị quyết 168 về chuyển
đổi cơ cấu SX, các chính sách đất đai cho người dân tộc, chính sách tái định cư, chính sách
cứu đói giảm nghèo đồng thời với thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở và việc tôn vinh các cá
nhân, tập thể có hiệu quả năng suất lao động cao, làm kinh tế giỏi đã thực sự khuyến
khích, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của cá nhân, tập thể và nhân rộng những
mô hình SX, kinh tế tiên tiến
Nhờ vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua các chủ trương chính sách của Đảng
và Nhà nước ta, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân từng bước được ổn định và nâng
cao, các ngành nghề truyền thống được khôi phục và phát triển mạnh, tỷ lệ hộ đói nghèo
giảm mạnh từ 20% xuống còn 11%, tăng trưởng kinh tế tăng và giữ mức ổn định, thu nhập
của hộ thành thị tăng từ 10 triệu/năm lên 50 triệu/năm, chế độ XHCN ngày càng củng cố và
đất nước đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội và đang có những bước chuyển biến
tích cực trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
Tóm lại, từ những phân tích trên cho thắng lợi của công cuộc đổi mới có được là dựa
trên một nền tảng tư tưởng đúng, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà
trong đó sự quán triệt và vận dụng đúng quy luật, nguyên tắc khách quan là điều kiện đảm
bảo sự dẫn dắt đúng đắn của Đảng.
Vấn đề 2 : Đồng chí hãy sử dụng lý luận Triết học duy vật biện chứng về mối

quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức cùng với thực tiễn cách mạng Việt Nam để
phân tích, phê phán bệnh chủ quan duy ý chí, bệnh bảo thủ trì trệ, từ đó chỉ ra
phương hướng khắc phục các bệnh đó theo tinh thần đổi mới của Đảng ta
Bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ trì trệ là những sai lầm khá phổ biến ở
nước ta trong thời kỳ trước đổi mới và nhiều nước XHCN trước đây, nó gây tác hại nghiêm
trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc tìm hiểu nguyên nhân, những biểu
hiện của 2 căn bệnh này trên cơ sở lý luận triết học về mối quan hệ vật chất và ý thức để tìm
ra những giải pháp khắc phục và tránh những sai lầm của nó trong thực tiễn là vấn đề hết
sức cần thiết đối với Đảng viên, nhất là trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn mà đất nước
đang đứng trước những thử thách lớn lao của thời đại, hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi Đảng và
Nhà nước ta phải không ngừng đổi mới và không cho phép mắc phải những sai lầm như đã
có trước đây .
Bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ trì trệ xuất phát từ khuynh hướng sai lầm,
cực đoan trong việc nhận thức mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Vật chất theo quan điểm triết học Mác Lênin “là một phạm trù triết học đúng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng
ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Thực tại khách quan
(tồn tại khách quan) là sự tồn tại có thật, không phải do ý muốn của thần linh, thượng đế
hoặc do ý thức chức quan của con người sản sinh ra, mà đó là sự tồn tại, vận động, chuyển
hóa và phát triển theo những quy luật vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng, dù con
người có muốn, có biết hay chưa biết về sự tồn tại đó thì chúng vẫn tồn tại.
Ý thức của con người theo triết học duy vật biện chứng không phải là một hiện
tượng thần bí, tách rời khỏi vật chất mà là đặc tính của một dạng vật chất có tổ chức đặc
biệt là bộ óc của con người, là sự phản ánh sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài vào bộ
óc của con người trên nền tảng của hoạt động lao động sáng tạo và được hiện thực hóa bằng
ngôn ngữ. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, thể hiện qua vai trò quyết
định của vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại của ý thức đối
với vật chất.
Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, vật chất là cơ sở, cội nguồn sản

sinh ra ý thức. Vật chất là cái có trước, nó sinh ra ý thức, quyết định nội dung và xu hướng
phát triển của ý thức. Không có vật chất thì không thể có ý thức bởi vì nguồn gốc của ý
thức chính là vật chất trong đó bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức, cơ quan phản
ánh thế giới xung quanh, sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người, tạo thành
nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Lao động trong hoạt động thực tiễn, hoạt động sản xuất của
cải vật chất và ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết), cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự
hình thành tồn tại và phát triển của ý thức. Ngoài ra, ý thức chỉ có thể trở thành sức mạnh
vật chất, sức mạnh cải tạo hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn, bằng việc khai thác, sử
dụng hợp lý các điều kiện phương tiện vật chất cần thiết cho hành động.
Ý thức do vật chất sinh ra và quy định nhưng nó lại có tính độc lập tương đối nhưng
nó lại có tính độc lập tương đối, sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh của
ý thức đối với vật chất là sự phản ánh sáng tạo chủ động, là quá trình con người không
ngừng tìm kiếm tích lũy những hiểu biết mới ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về mặt bản
chất, quy luật vận động và phát triển sự vật . Vì vậy, sau khi đã hình thành, ý thức có vai trò
định hướng cho con người trong việc xác định mục tiêu, phương hướng tìm ra biện pháp
lựa chọn các phương án, hành động tối ưu nhất và sử dụng các điều kiện vật chất cần thiết
để làm biến đổi chúng đạt đến mục tiêu đã đặt ra. Mặt khác sự tác động của ý thức đến vật
chất có thể theo hai khuynh hướng : Một là ý thức sẽ thúc đẩy cùng chiều đối với sự phát
triển của sự vật nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực, khách quan nếu con người nhận thức
đúng quy luật khách quan, có ý chí động cơ hành động đúng và thông qua cơ chế tổ chức
hoạt động phù hợp trong thực tiễn. Hai là ý thức kìm hảm, cản trở, thậm chí phá hoại sự
phát triển bình thường của sự vật nếu ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan, ý
thức lạc hậu, phản khoa học, phản động, nếu con người không có ý chí, không nhiệt tình,
động cơ sai …Tuy vậy, sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với mức độ nhất
định, nó không thể sinh ra hay tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất.
Từ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức một
nguyên tắc được rút ra, đó là nguyên tắc, khách quan. Nguyên tắc khách quan trước nhất
thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, nó đòi hỏi trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan, “phải lấy thực thể khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của

mình”. Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc khách quan không có nghĩa là quan điểm
khách quan xem nhẹ, tính năng động, sáng tạo của ý thức mà nó còn đòi hỏi phát phát huy
tính năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan. Bởi vì quá trình đạt tới tính
khách quan đòi hỏi chủ thể phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong việc tìm ra những
biện pháp, những con đường để từng bước thâm nhập sâu vào bản chất của sự vật, trên cơ
sở đó con người thực hiện sự biến đổi từ cái “vật tự nó” (tức thực tại khách quan) thành cái
phục vụ cho nhu cầu của con người đồng thời sử dụng hiệu quả các điều kiện, sức mạnh vật
chất khách quan, sức mạnh của quy luật … để phục vụ cho các mục tiêu, mục đích khác
nhau của con người.
Như vậy, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau và mối liên hệ đó
tuân theo các quy luật khách quan vốn có của nó. Nếu trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn, chúng ta tuyệt đối hóa, cường điệu hóa vai trò của một trong hai mặt thì sẽ ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển của xã hội và rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí hoặc bệnh bảo
thủ trì trệ.
Bệnh bảo thủ trì trệ là khuynh hướng sai lầm cực đoan do cường điệu hóa vai trò
của vật chất, sùng bái sức mạnh của quy luật, hạ thấp vai trò của nhân tố chủ quan. Khuynh
hướng bảo thủ sẽ dẫn đến tình trạng ỷ lại, chậm đổi mới, ngại thay đổi, dựa dẫm, chờ đợi,
thậm chí cản trở cái mới, bằng lòng thỏa mãn với cái đã có. Trên thực tế, bệnh bảo thủ còn
biểu hiện qua những định kiến.
Bệnh chủ quan duy ý chí cũng là 1 khuynh hướng sai lầm, ngược lại với bệnh bảo
thủ trì trệ, nó thổi phồng, tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan quá đề cao, cường điệu
tính sáng tạo của ý thức, của ý chí, xa rời hiện thực khách quan, bất chấp quy luật khách
quan, điều kiện khách quan, lấy nhiệt tình cách mạng thay thế cho sự yếu kém về trí thức
khoa học. Sai lầm của bệnh chủ quan duy ý chí là lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng
vội chạy theo nguyện vọng chủ quan. Sai lầm đó thể hiện rõ trong khi định ra chủ trương
chính sách và lựa chọn phương pháp tổ chức hoạt động thực tiễn theo hướng áp đặt ý chí
vào thực tế, lấy ảo tưởng chủ quan thay cho hiện thực.
Bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ trì trệ là một thực tế tồn tại trong thời kỳ
khá dài trước đổi mới (trước Đại hội lần VI tháng 12-1986). Trong giai đoạn này, tình trạng
khủng hoảng kinh tế xã hội ngày càng trầm trọng xuất phát từ nguyên nhân chủ quan, bắt

nguồn từ những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài mà trong đó sai lầm do chủ quan duy ý chí
và bảo thủ có tác hại rất lớn.
Đánh giá về những sai lầm do chủ quan duy ý chí của Đảng trong thời kỳ này, Văn
kiện Đại hội VI đã nêu “Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trãi qua nhiều chặng đường và do tư tưởng chỉ
đạo chủ quan, nóng vội muốn bỏ qua những bước đi cần thiết”. Văn kiện Đại hội lần thứ VI
cũng đã chỉ rõ Đảng đã “nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”, “giản đơn hóa, muốn
thực hiện nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta mới có chặng đường đầu tiên”.
Do chủ quan duy ý chí, trong nhận thức và hành động của Đảng trong giai đoạn này vi
phạm các quy luật khách quan, biểu hiện qua một số lĩnh vực cụ thể được Văn kiện ĐH
Đảng lần VI đánh giá như sau : “chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta tồn tại trong một thời gian tương đối dài” nên “đã có những biểu hiện nóng vội
muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa”, “chưa nắm vững và vận
dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ SX với tính chất và trình độ SX” nên “có
lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công
nghiệp nhẹ” hoặc “đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết”.
Bênh bảo thủ trì trệ được biểu hiện qua việc “chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã lỗi
thời”, trong công tác tổ chức thời kỳ này “khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới
công tác cán bộ. Việc lựa chọn, bố trí cán bộ vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp
còn theo quan niệm cũ kỹ và tiêu chuẩn không đúng đắn, mang nặng tính hình thức ”
Ngoài ra, cũng do chủ quan duy ý chí và bảo thủ trì trệ nên trong kinh tế, Đảng ta đã “duy
trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp” - một cơ chế "gắn liền với tư
duy kinh tế dựa trên những quan niệm giản đơn về chủ nghĩa xã hội, mang nặng tính chất
chủ quan, duy ý chí", “có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ
“ cùng với “việc bố trí cơ cấu kinh tế trước hết là SX và đầu tư thường chỉ xuất phát từ lòng
mong muốn đi nhanh, không tính đến điều kiện khả năng thực tế ”, bỏ qua không thừa nhận
và vận dụng những quy luật khách quan của phương thức sản xuất, của nền kinh tế hàng
hóa vào việc chế định các chủ trương chính sách kinh tế do định kiến cho rằng những
quy luật này là chủ nghĩa tư bản, không được áp dụng vào chủ nghĩa xã hội … dẫn đến việc
SX chậm phát triển, khủng hoảng kinh tế trên mâu thuẩn giữa cung và cấu ngày càng gay

gắt do việc áp dụng những chính sách, chủ trương trên đã vi phạm những quy luật khách
quan của nền kinh tế SX hàng hóa (quy luật cung cầu quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh,
phá sản …).
Bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ trì trệ có nguyên nhân từ sự yếu kém
lạc hậu về tư duy lý luận, trí thức lý luận không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Sự
giản đơn yếu kém về lý luận thể hiện ở chổ : hiểu và vận dụng chưa đúng nguyên lý, quy
luật, phạm trù, chưa chú ý tiếp thu kế thừa những thành tựu, kỹ thuật công nghệ mới của
chủ nghĩa tư bản, của nhân loại, thậm chí còn có định kiến phủ nhận một cách cực đoan
những thành tựu đó, chưa chú ý tổng kết những cái mới từ sự vận động, phát triển của thực
tiễn theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nguyên nhân của bệnh chủ quan là kém lý luận, lý luận
và lý luật suông. Bệnh chủ quan duy ý chí, bảo thủ còn do nguồn gốc lịch sử, xã hội, giai
cấp, tâm lý của con người chi phối. Những nguyên nhân khách quan ấy có thể kế như : do
xuất phát điểm của nước ta quá thấp, nền SX nhỏ với trình độ SX lạc hậu, do hậu quả của
chiến tranh kéo dài ảnh hưởng rất lớn đến không chỉ đến tốc độ phát triển kinh tế - xã hội
mà còn làm cho đội ngũ cán bộ - đảng viên không có điều kiện để học tập nên trình độ KH
công nghệ, tri thức không đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, cơ chế
quan liêu bao cấp, bệnh quan liêu ảo tưởng, “kiêu ngạo cộng sản… cũng tạo điều kiện cho
sự ra đời của căn bệnh chủ quan duy ý chí.
Trên cơ sở quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, rút kinh
nghiệm từ những sai lầm do chủ quan duy ý chí, từ Đại hội VI của Đảng (1986) Đảng đã
chỉ rõ bài học kinh nghiệm và đề ra phương hướng, biện pháp khắc phục bệnh chủ quan
duy ý chí và bệnh bảo thủ, trì trệ nhằm từng bước sửa chữa những sai lầm. Những phương
hướng biện pháp đó là :
Một là phải tiến hành đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với những hình thức,
bước đi, cách làm phù hợp, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm mà trước hết là đổi
mới tư duy kinh tế, nâng cao năng lực nhận thức và vận dụng quy luật, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ của Đảng viên. Đây là cuộc cách mạng triệt để, sâu sắc và đồng bộ trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…), từ đổi mới quan niệm,
tư duy lý luận đến đổi mới cơ chế chính sách, tổ chức cán bộ, phong cách và lề lối làm
việc. Để đảm bảo sự lãnh đạo thành công trong công cuộc đổi mới này thì Văn kiện Đại

hội Đảng lần đã xác định: “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu của Đảng. Năng lực nhận thức theo quy
luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”. Trên cơ sở hiểu rõ mối quan
hệ biện chứng giữa kinh tế và tìhn hình chính trị và ổn định xã hội, Đảng ta bắt đầu công
cuộc đổi mới từ đổi mới về tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi
mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng KT-XH, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần
để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để
đổi mới các mặt khác của đời sống XH. Bên cạnh đó, với quan điểm tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan, trong các chủ trương, chính sách kinh tế từ sau Đại hội Đảng lần
VI đến nay đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể như: Đại hội VI xác định xây dựng
quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa là một công việc to lớn, không thể làm xong trong
một thời gian ngắn, không thể nóng vội làm trái quy luật. Văn kiện Đại hội xác định: " Nay
phải sửa lại cho đúng như sau: Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường
xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước
đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất". Đại hội cũng phát
hiện một vấn đề lớn có tính lý luận, hoàn toàn mới mẻ: "Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực
lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi
quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất". Trên cơ sở đó, Đại hội xác định: "Nền kinh tế nhiều thành
phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ".Trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, tôn trọng
nguyên tắc quan hệ SX phải phù hợp với lực lượng SX, Đại hội VI đã xác định phải điều
chỉnh lại các cơ cấu này theo hướng "không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá
điều kiện và khả năng thực tế", tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương
trình mục tiêu: sản xuất lương thực- thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng
xuất khẩu. Đây là những chương trình chẳng những đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc
bấy giờ mà còn là điều kiện thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản
phẩm hàng hóa
Hai là đồng thời với việc đổi mới toàn diện về kinh tế và tư duy lý luận, việc tăng
cường phát huy dân chủ, phát huy tiềm năng cán bộ KHKT, đội ngũ cán bộ quản lý nhằm

đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước “nâng cao hàm lượng tri thức trong
các nhân tố phát triển KTXH, từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Đây là biện pháp nhằm
khắc phục nguyên nhân sâu xa của bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ là sự yếu kém
về lý luận, lạc hậu về trình độ, tri thức KH công nghệ. Văn kiện ĐH Đảng lần VIII đã nhấn
mạnh: “phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững”
Ba là tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, tổng kết cái mới, không ngừng bổ sung,
phát triển, hoàn chỉnh lý luận về mô hình, mục tiêu, bước đi, đổi mới và kiện toàn tổ chức
và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị trong điều kiện mới, căn cứ vào sự vận
động của thực tiễn, của cuộc sống để kịp thời loại bỏ những hiểu biết lỗi thời, lạc hậu.
Bốn là phải đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới,
trong đó, VK ĐH Đảng lần VII đã chỉ rõ: “Đảng làm giàu trí tuệ của mình bằng cách không
ngừng nâng cao trình độ lý luận, nắm vững và vận dụng sáng tạo những luận điểm cơ bản
của CN Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh… không ngừng tổng kế kinh nghiệm thực tiễn
…phát triển công tác lý luận của Đảng …tiếp thu những thành quả trí tuệ của con người.
Nhờ vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua các chủ trương chính sách của Đảng
và Nhà nước ta, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân từng bước được ổn định và nâng
cao, chế độ XHCN ngày càng củng cố và đất nước đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã
hội và đang có những bước chuyển biến tích cực trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
Tóm lại, từ những phân tích trên cho thắng lợi của công cuộc đổi mới có được là dựa
trên một nền tảng tư tưởng đúng, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà
trong đó sự quán triệt và vận dụng đúng quy luật, nguyên tắc khách quan là điều kiện đảm
bảo sự dẫn dắt đúng đắn của Đảng.
Vấn đề 3: Phân tích nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, từ đó rút ra quan điểm
toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể và vận dụng các quan điểm đó để phân tích, phê
phán bệnh phiến diện, bệnh giáo điều, đồng thời phân tích phương hướng đổi mới sau
đây của Đảng ta: “Đổi mới toàn diện, đồng bộ triệt để với những bước đi, hình thức,
cách làm phù hợp” (Văn kiện Đại hội IX, trang 81)
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền
tảng tư tưởng và vận dụng tư tưởng, lý luận đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để đề ra

đường lối, cương lĩnh đúng đắn. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986), Đảng đã khởi
xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới trên toàn đất nước, trong đó phương hướng đổi mới
được Đảng xác định tại là phải đổi mới toàn diện, đồng bộ triệt để với những bước đi, hình
thức, cách làm phù hợp. Đây là một những vận dụng của Đảng vào thực tiễn Việt Nam dựa
trên nguyên lý của mối liên hệ phổ biến và được rút ra từ quan điểm toàn diện và quan điểm
lịch sử cụ thể.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong hai nguyên lý cơ bản của phép biện
chứng duy vật, trong đó liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự liên quan tác động,
ràng buộc, quy định và chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện
tượng (SVHT) hoặc giữa các SVHT với nhau. Mọi SVHT trong thế giới khách quan đều
tồn tại trong những mối liên hệ tác động lẫn nhau, sự vật này thay đổi kéo theo sự vật kia
thay đổi và không có một SVHT nào tồn tại một cách cô lập, tách rời, do đó mối liên hệ
giữa các SVHT mang tính phổ biến. Mối liên hệ này còn mang tính khách quan do đây là
cái vốn có từ bên trong SVHT chứ không phải do áp đặt từ bên ngoài, nó bắt nguồn từ tính
thống nhất vật chất của thế giới vật chất của thế giới, từ sự tồn tại và phát triển của chính
SVHT. Các SVHT trong thế giới vật chất rất đa dạng nên mối liên hệ giữa chúng cũng đa
dạng. Căn cứ vào tính chất, phạm vi, trình độ có thể phân biệt các mối liên hệ thành các
dạng như sau : liên hệ bên trong và bên ngoài, chung và riêng, cơ bản và không cơ bản, chủ
yếu và thứ yếu, không gian và thời gian, trực tiếp và gián tiếp… Sự phân loại này là tương
đối vì mối liên hệ đó chỉ là bộ phận trong toàn bộ mối liên hệ phổ biến nói chung, tuy nhiên
sự phân biệt các mối liên hệ là cần thiết vì chúng có vai trò khác nhau đối với sự vận động
và phát triển của các SVHT.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến cho ta 2 quan điểm về cách nhận thức, xem xét một
SVHT và hành động trong thực tiễn, đó là quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi khi xem xét, đánh giá sự vật hiện tượng, ta phải đặt
chúng vào mối quan hệ với các SVHT khác, xem xét các SVHT trong mối quan hệ qua lại
giữa các bộ phận, các yếu tố các thuộc tính khác nhau của chính bản thân SVHT và giữa
SVHT đó với những SVHT khác (kể cả trực tiếp, gián tiếp). Thực chất của quan điểm toàn
diện là trong khi chú ý xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ giữa các yếu tố cấu thành của
sự vật, tư duy phải phát hiện được, phản ánh được những mặt chủ yếu, bản chất, quan trọng

nhất, rút ra được cái trọng tâm, trọng điểm, cơ bản, cốt lõi chi phối sự tồn tại và phát triển
của sự vật, không xem xét dàn trãi, đánh đồng các mối liên hệ . Từ quan điểm toàn diện khi
sự xem xét các SVHT dẫn đến nguyên tắc đồng bộ trong hành động thực tiễn, có nghĩa là
để cải tạo một SVHT bao giờ chúng ta cũng phải áp dụng đồng bộ một hệ thống nhiều biện
pháp, nhiều phương tiện khác nhau để biến đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật . Tuy
nhiên như đã nói ở trên, “đồng bộ” không có nghĩa là giàn đều, bình quân mà trong từng
bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu then chốt. Thực hiện quan điểm toàn diện góp
phần khắc phục bệnh phiến diện một chiều hoặc chống chủ nghĩa chiết trung mà đặc trưng
của nó là nhân danh quan điểm toàn diện do tỏ ra chú ý đến nhiều mặt nhưng không nhìn
thấy được mặt bản chất của sự vật. Quan điểm toàn diện cũng góp phần khắc phục lối suy
nghĩ giản đơn, duy ý chí
Quan điểm lịch sử cụ thể là một quan điểm được rút ra từ nguyên lý mối liên hệ phổ
biến. Quan điểm này đòi hỏi khi xem xét mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra hoặc khi đánh giá
một SVHT, để nhìn thấy được bản chất của sự vật hiện tượng chúng ta gắn nó với không
gian và thời gian cụ thể, với những điều kiện, những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự tồn tại
của sự vật, không được đánh giá chung. Tư duy của chúng ta chỉ có thể chân thực khi chúng
ta theo sát sự thay đổi của những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự vật. Quan điểm hoàn cảnh
lịch sử cụ thể đòi hỏi khi vận dụng những nguyên tắc lý luận vào thực tiễn không được
dừng lại ở những công thức chung, sơ đồ chung mà phải tính đến những điều kiện lịch sử
cụ thể của sự vận dụng. Nói cách khác, khi xem xét một luận điểm, một chân lý nào đó
phải gắn với những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của luận điểm, của chân lý đó, bởi vì chân lý
sẽ trở thành sai lầm nếu nó bị đẩy ra ngoài giới hạn tồn tại của nó, trong những điều kiện
không gian và thời gian nhất định của nó. Lênin nói “Bản chất linh hồn sống của Chủ nghĩa
Mác là phân tích cụ thể một tình hình cụ thể, điều kiện cụ thể”.
Quán triệt quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể, chúng ta cần khắc phục và
nghiêm khắc phê phán bệnh phiến diện và bệnh giáo điều.
Bệnh phiến diện đối lập với quan điểm toàn diện, nó xuất phát từ việc xem xét một
SVHT chỉ nhìn thấy những sự vật cá biệt mà không nhìn thấy mối quan hệ qua lại giữa
những SVHT ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và
tiêu vong của sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của sự việc ấy mà quên mất sự vận

động của sự vật ấy, chỉ thấy cây mà không thấy rừng. Ngoài ra, khi xem xét SVHT, mặc dù
có chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ nhưng nếu ta đánh giá ngang nhau những mặt,
những mối liên hệ đó thì ta cũng rơi vào bệnh phiến diện.
Trong thời kỳ trước đổi mới (trước ĐH Đảng lần VI-1986), Đảng ta đã mắc phải nhiều
sai lầm trong chủ trương, chính sách mà trong đó có nguyên nhân do bệnh phiến diện một
chiều. Văn kiện ĐH Đảng lần VI có nêu “Trong nhận thức và hành động, …. chúng ta chưa
nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất (QHSX) với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất (LLSX). Vì vậy, Đảng ta chỉ tập trung xây dựng
phát triển QHSX mà không thấy được vai trò của LLSX dẫn đến xây dựng QHSX tiến vượt
xa so với tính chất và trình độ LLSX đưa đến không phát triển được. Văn kiện ĐH Đảng lần
VI xác định : "Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong
trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ,
có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất". Khi xây dựng
QHSX, trong thời kỳ trước 1986, chúng ta chỉ chú ý đến mối quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất (TLSX) mà không chú ý đến mối quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối sản
phẩm dẫn đến việc quốc hữu hóa TLSX, mở rộng kinh tế quốc doanh và tập thể (sở hữu
Nhà nước và sở hữu tập thể) nhưng không tạo được động lực phát triển, không giải quyết
tốt vấn đề lưu thông phân phối hàng hóa, quản lý kinh tế yếu kém dẫn đến “sản xuất chậm
phát triển, mâu thuẩn giữa cung cầu ngày càng gay gắt” (ĐH Đảng lần VI – Trang 25) kinh
tế không phát triển được. Để khắc phục bệnh phiến diện một chiều, chúng ta cần phải có
quan điểm toàn diện khi xem xét nghiên cứu SNHT, phải biết kết hợp chặt chẽ giữa “chính
sách có dàn đều” và “chính sách có trọng điểm” (V.I Lênin) trong phát triển kinh tế.
Bệnh giáo điều cũng xuất phát từ quan điểm phiến diện và không tôn trọng quan điểm
lịch sử cụ thể, đó là việc tuyệt đối hóa lý luận coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận
là bất di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung trừu tượng, không
chú ý đến những hoàn chỉnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận. Bệnh giáo điều có 2
dạng : giáo điều lý luận và giáo điều kinh nghiệm. Bệnh giáo điều lý luận là việc thuộc
lòng lý luận, cho rằng áp dụng lý luận áp dụng vào đâu cũng được không xem xét điều kiện
cụ thể của mình. Ví dụ như theo Mác thì phải xóa bỏ tư hữu dẫn đến việc ta tiến hành cải
tạo XHCN xóa tất cả các thành phần kinh tế nhằm mục đích chỉ còn 2 thành phần kinh tế

quốc doanh và tập thể mà không thấy được rằng "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc
trưng của thời kỳ quá độ", sự có mặt của nhiều thành phần kinh tế với các mối quan hệ tác
động qua lại của nó sẽ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế trong giai đoạn này. Bệnh giáo
điều kinh nghiệm là việc áp dụng nguyên si rập khuôn mô hình của nước khác, của địa
phương khác vào địa phương mình mà không sáng tạo, chọn lựa … Ví dụ như trước đây ta
bắt chước rập khuôn mô hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ
máy nhà nước (ở Liên Xô có bao nhiêu Bộ, Ngành ta cũng có bấy nhiêu Bộ ngành), hoặc
về công nghiệp hóa cũng vậy, ta chỉ chú ý tập trung phát triển công nghiệp nặng mà không
chú ý phát triển công nghiệp nhẹ … Để khắc phục bệnh giáo điều. ta cần từ bỏ lối nghiên
cứu một cách kinh viện, thuần túy chỉ biết giải thích bằng kinh nghiệm, chứng minh lý luận
bằng lý luận cần chống đối lối tư duy bắt chước, sao chép rập khuôn, thoát ly thực tế, bất
chấp những đặc điểm, truyền thống và điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước, của dân tộc
tăng cường tổng kết thực tiễn bổ sung phát triển lý luận.
Để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng, Đại hội Đảng
lần VI đã đề ra công cuộc đổi mới trên cơ sở vận dụng nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác-
LêNin, trong đó có nguyên lý mối liên hệ phổ biến, quan điểm toàn diện và quan điểm lịch
sự. Phương hướng đổi mới do Đảng đề ra là phải “Đổi mới toàn diện, đồng bộ triệt để với
những bước đi, hình thức, cách làm phù hợp” (Văn kiện ĐH Đảng lần IX).
Thực tiễn cho thấy, trước sự khủng hoảng của hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa
giai đoạn này, nếu xã hội Việt Nam không có sự ổn định về mặt chính trị lẫn kinh tế thì đất
nước có thể gặp phải những biến động khó lường, trong đó đặc biệt là mối quan hệ biện
chứng giữa tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội trên nguyên tắc bình đẳng, công bằng, dân
chủ và văn minh được biểu hiện như là yếu tố tất yếu của sự phát triển. Như vậy, để tránh
sự bất ổn về chính trị và thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, dựa trên quan điểm toàn diện,
Đảng đã xác định “đổi mới” phải là cuộc cách mạng triệt để, sâu sắc và đồng bộ trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…), từ đổi mới quan
niệm, tư duy lý luận đến đổi mới cơ chế chính sách, tổ chức cán bộ, phong cách và lề lối
làm việc. Nếu chỉ đổi mới một lĩnh vực hoặc một khâu nào đó thì công cuộc đổi mới không
thể đạt kết quả mong muốn.
Với quan điểm lịch sử cụ thể, Đảng đã xác định mỗi một giai đoạn phải có bước đi

thích hợp, ví dụ như trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH, việc cải tạo quan hệ SX XHCN
phải chấp nhận nhiều thành phần kinh tế. Văn kiện Đại hội VI xác định: “Nay phải sửa lại
cho đúng như sau: Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục
trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích hợp,
làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn có
tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất".
Đồng thời, trong mỗi bước đi của công cuộc đổi mới đó phải xác định đúng khâu then
chốt để tập trung sức giải quyết, làm cơ sở đổi mới các khâu khác, các lực lượng khác. Điều
này được khẳng định tại Văn kiện Đại hội Đảng lần VI : “lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm
đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ các lĩnh vực khác”
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị
trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại;.không có sự đổi mới
đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Tuy nhiên, đứng trước nền kinh tế đang bị khủng
hoảng trầm trọng, Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng KT-XH, tạo tiền đề cần thiết về vật chất
và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo
thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống XH.
Bên cạnh việc đổi mới kinh tế, Đảng ta xác định nhiệm vụ chủ yếu của toàn Đảng,
toàn dân trong đổi mới là ''phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt''.
Trong việc đổi mới tổ chức và cơ chế hành động của hệ thống chính trị, chúng ta đã đi bước
thận trọng và vững chắc, bắt đầu từ việc giải quyết những vấn đề cấp bách nhất và đã chín
muồi, với việc nhìn thấy đây là việc rất cần thiết nhưng đặc biệt phức tạp, nhạy cảm và nếu
vội vã để xảy ra sai lầm sẽ phải trả giá rất đắc có khi không cứu vãn được.
Song song với việc đổi mới hệ thống chính trị là việc thực hiện tốt dân chủ XHCN,
phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Bài học lớn là dân chủ nhất thiết phải đi đôi
với kỷ luật, kỷ cương. Khắc phục những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân,
đồng thời chống khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá khích. Dứt khoát bác bỏ mọi mưu
toan lợi dụng “dân chủ”, “dân quyền” nhằm gây rối về chính trị, chống phá chế độ hoặc can
thiệp vào nội bộ nước ta. Không chấp nhận chế độ đa nguyên đa Đảng.
Trong công cuộc đổi mới, việc xác định bước đi đúng đắn phải song song với việc đổi

mới hình thức. và cách làm phù hợp tương ứng với từng giai đoạn, từng thời kỳ. Cụ thể
như trong lĩnh vực đất đai, từ sau ĐH Đảng lần VII (1991), chủ trương đổi mới của Đảng
trong quan hệ ruộng đất đã thích ứng dần với xu thế phát triển tất yếu của một nền kinh tế
đang từng bước đổi mới phù hợp với cơ chế thị trường thông qua việc thể chế hoá quan
điểm của Đảng bằng Luật đất đai năm 1993, trong đó thừa nhận đất có “giá” và quy định
người sử dụng đất có 5 quyền và đến Luật Đất đai năm 2003, quyền của người sử dụng đất
ngày càng mở rộng hơn, bình đẳng hơn với các thành phần kinh tế, với đối tượng sử dụng
đất trong và ngoài nước . Điều này đã khẳng định bước tiến quan trọng trong quan điểm và
chỉ đạo của Đảng về vấn đề đất đai, thể hiện được quan niệm tiến bộ về cấu trúc quan hệ sở
hữu đất đai, sở hữu toàn dân không còn là hành vi pháp lý chính trị đơn thuần, mà điều cốt
yếu là hướng đến nội dung kinh tế thiết thực, khơi dậy các động lực kinh tế trong việc bảo
vệ và sử dụng đất đai. Sự đổi mới này đã đem lại những thành công khá lớn trong công
cuộc đổi mới và xây dựng đất nước theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Đúng như đánh giá
trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX): "Những
đổi mới trong chính sách pháp luật về đất đai hơn 15 năm qua đã đưa đến những kết quả
tích cực, thúc đẩy kinh tế phát triển, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, góp phần giữ vững ổn
định chính trị - xã hội. “
Tóm lại, tiếp tục đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với những bước đi, hình thức
và cách làm phù hợp là sự vận dụng đúng đắn các nguyên lý, quan điểm của triết hoạch
Mác LêNin và là bài học kinh nghiệm qúy báu của Đảng ta trong công cuộc đổi mới hiện
nay, là điều kiện đảm bảo sự thành công của công cuộc đổi mới trong giai đoạn đã qua cũng
như trong thời gian tới.
Vấn đề 4 Nội dung nguyên lý về sự phát triển, từ đó rút ra quan điểm phát triển
và vận dụng quan điểm đó để phân tích, phê phán các bệnh : bảo thủ trì trệ, bệnh giáo
điều và để phân tích nhận định sau đây của Đảng ta “CNXH trên thế giới từ những
bài học thành công và thất bại cũng như từ những khát vọng và sự thức tỉnh của các
dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của
lịch sử loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” (Văn kiện Đại hội IX, trang
65)
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền

tảng tư tưởng và vận dụng tư tưởng, lý luận đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để đề ra
đường lối, cương lĩnh đúng đắn nhằm lãnh đạo đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, khó khăn, nhiều thử
thách và cũng có lúc sự lãnh đạo của Đảng mắc phải những bệnh chung của các nước xã hội
chủ nghĩa như : bệnh giáo điều, bệnh bảo thủ trì trệ, chủ quan duy ý chí … dẫn đến sự suy
thoái, khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, Đảng vẫn khẳng định ““CNXH trên thế giới
từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ những khát vọng và sự thức tỉnh của
các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa
của lịch sử loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” (Văn kiện Đại hội IX, trang
65). Nhận định này xuất phát từ nguyên lý về sự phát triển và quan điểm phát triển trong
triết học Mác Lênin và thực tiễn tình hình thế giới cũng như tình hình xây dựng CNXH ở
Việt Nam.
Nguyên lý về sự phát triển là một trong hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng
duy vật. Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự vận động có định hướng từ thấp
đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn mà kết quả là cái
mới tiến bộ ra đời thay thế cái cũ lạc hậu. Sự phát triển của sự vật mang tính phổ biến vì
trong thế giới khách quan, không có sự vật hiện tượng (SVHT) nào đã đứng im, tĩnh tại mà
nó luôn vận động, phát triển không ngừng. Sự mất đi của 1 SVHT này là điều kiện ra đời
của SVHT khác. Nguyên lý này cũng khẳng định rằng nguồn gốc của sự phát triển là sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong chính bản thân sự vật hiện tượng hay nói
cách khác đó là do mâu thuẩn nội tại bên trong SVHT, nó vạch ra cách thức của sự phát
triển là vừa có tích lũy dần về lượng, vừa có sự chuyển hóa về chất, tức là sự phát triển
chẳng qua là sự tăng giảm về lượng và chất (vừa có tính liên tục, vừa có tính gián đoạn).
Nguyên lý về sự phát triển cũng chỉ ra rằng không phải chỉ có khuynh hướng đi lên mới
được coi là sự phát triển mà quá trình phát trển thường được diễn ra quanh co, phức tạp qua
những khâu trung gian mà có lúc bao hàm cả sự thụt lùi đi xuống tạm thời : đó là khuynh
hướng tiến lên của đường “xoáy tròn ốc”. Trong xu hướng của sự phát triển luôn có tính kế
thừa và sự đi lên này là một quá trình có tính lặp lại.
Quan điểm phát triển là phương pháp luận được rút ra từ của nguyên lý trên. Quan
điểm phát triển đòi hỏi để nhìn thấy được bản chất của SVHT, chủ thể phải xem xét các

SVHT trong trạng thái, xu hướng vận động, phát triển và dự đoán được các xu hướng biến
đổi chuyển hóa của chúng, nhìn thấy được cái mới, cái tiến bộ trong hiện tại cái cũ mặc dù
cái mới nào lúc ra đời cũng còn “non yếu”, bị cái cũ lấn áp để từ đó tạo điều kiện cho nó
chiến thắng cái cũ lạc hậu.
Tuân theo những đòi hỏi đó của quan điểm phát triển sẽ góp phần khắc phục bệnh
bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều trong tư duy cũng như trong hành động thực tiễn. Bệnh
bảo thủ trì trệ là tình trạng ỷ lại, chậm đổi mới, ngại thay đổi, dựa dẫm, chờ đợi, thậm chí
cản trở cái mới, bằng lòng thỏa mãn với cái đã có. Đôi khi bệnh bảo thủ biểu hiện qua
những định kiến. Bệnh bảo thủ trì trệ cũng gắn liền với bệnh giáo điều, đó là khuynh
hướng tuyệt đối hóa lý luận, coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di bất
dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung trừu tượng, không chú ý đến
những hoàn chỉnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận. Bệnh giáo điều có 2 dạng : giáo
điều lý luận và giáo điều kinh nghiệm. Bệnh giáo điều lý luận là việc thuộc lòng lý luận,
cho rằng áp dụng lý luận áp dụng vào đâu cũng được không xem xét điều kiện cụ thể của
mình. Ví dụ như theo Mác thì phải xóa bỏ tư hữu dẫn đến việc ta tiến hành cải tạo XHCN
xóa tất cả các thành phần kinh tế nhằm mục đích chỉ còn 2 thành phần kinh tế quốc doanh
và tập thể mà không thấy được rằng "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của
thời kỳ quá độ", sự có mặt của nhiều thành phần kinh tế với các mối quan hệ tác động qua
lại của nó sẽ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế trong giai đoạn này. Bệnh giáo điều
kinh nghiệm là việc áp dụng nguyên si rập khuôn mô hình của nước khác, của địa phương
khác vào địa phương mình mà không sáng tạo, chọn lựa … Ví dụ như trước đây ta bắt
chước rập khuôn mô hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ máy
nhà nước (ở Liên Xô có bao nhiêu Bộ, Ngành ta cũng có bấy nhiêu Bộ ngành), hoặc về
công nghiệp hóa cũng vậy, ta chỉ chú ý tập trung phát triển công nghiệp nặng mà không chú
ý phát triển công nghiệp nhẹ … Bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều cùng với bệnh chủ
quan duy ý chí là những căn bệnh chung của các nước XHCN và nó gây ra hậu quả tất yếu
là làm cản trở, thậm chí kéo lùi sự phát triển của kinh tế - xã hội, đưa chúng ta đến sai lầm
nghiêm trọng.
Quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận thức sự
vật hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ trì trệ định kiến. và bệnh giáo điều. Trên cơ sở

hiểu rõ quy luật phát triển của sự vật một cách biện chứng, ta có thể khắc phục được bệnh
bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều thông qua việc từ bỏ lối nghiên cứu áp dụng lý luận một
cách kinh viện, thuần túy, chống lại tư duy bắt chước, sao chép rập khuôn; từ bỏ những
định kiến, đấu tranh với sức ỳ trong nhận thức và hành động, tăng cường tổng kết thực tiễn
từ quá trình vận động của các SVHT để bổ sung phát triển lý luận. Trong quá trình đổi mới
và xây dựng đất nước, Đảng ta luôn đấu tranh phê phán với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định
kiến. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX có viết : “ Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối
xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin tưởng lẫn nhau hướng
tới tương lai” (trang 124)
Xét về khía cạnh tư tưởng, quan điểm phát triển cũng đòi hỏi không chỉ thấy sự vật
như là cái đang có mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển trong tương lai của nó.
Trong quá trình phát triển sự vật thường có sự biến đổi tiến lên nhưng cũng có cả những
biến đổi thụt lùi. Quan điểm phát triển đúng đắn về sự vật chỉ có được khi bằng tư duy khoa
học, ta có thể khái quát được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đồng
thời thấy được tính quanh co phức tạp của quá trình phát triển, bước lùi của một sự vật hiện
tượng trong giai đoạn nào đó cũng là tất yếu trên con đường phát triển. Nhận thức đúng
được xu hướng phát triển, ta có thể tránh được những bi quan dao động trước sự thất bại
tạm thời của cái mới, tạo được niềm tin vào sự thắng lợi của cái mới, cái tiến bộ.
Việc Đảng ta kiên trì đổi mới xây dựng đất nước phát triển theo con đường XHCN là
căn cứ vào quan điểm phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng trên cơ sở tin tưởng vào
sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản mặc dù trong bối cảnh lịch sử hiện nay CNXH trên thế
giới đang ở giai đoạn thoái trào và công cuộc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta
cũng như các nước XHCN vẫn còn nhiều khó khăn, thử thách. Văn kiện Đại hội Đảng lần
IX đã nhận định : “CNXH trên thế giới từ những bài học thành công và thất bại cũng như
từ những khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước
phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa
xã hội”.
Nhận định này phát xuất từ tình hình thực tế điều kiện chính trị thế giới biến đổi một
cách căn bản; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang tạm thời lâm vào giai đoạn
thoái trào do tác động từ sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, CNTB tỏ ra

còn khả năng phát triển và đang có những âm mưu, thủ đoạn mới nhằm xóa bỏ hoàn toàn
CNXH, Sau cách mạng tháng 10 Nga (năm 1917) nhiều nước đi vào con đường xây dựng
CNXH và đã được những thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị, quân sự … Nhưng bên
cạnh đó, CNXH cũng vấp phải những sai lầm nghiêm trọng mà hậu quả của nó là tình trạng
trì trệ, khủng hoảng KTXH trầm trọng, những điểm ưu việt thuộc bản chất của CNXH
không thể hiện đầy đủ hoặc không được thể hiện và thực hiện trong thực tế. Nhận thức
được những sai lầm đó các nước XHCN đã và đang tiến hành cải tổ, đổi mới coi như một
tiến trình cách mạng nhằm khắc phục khủng hoảng đưa XH tiến lên. Nhưng bên cạnh đó,
một số nước tiếp tục mắc phải những sai lầm nghiêm trọng mới (xa rời học thuyết Mác Lê
nin, chấp nhận đa nguyên đa Đảng, thực hiện dân chủ thiểu cận nhích gần đến trình trạng
vô chính phủ, kẻ địch lợi dụng …) làm mất ổn định chính trị, làm biến chất chế độ theo
hướng tư bản chủ nghĩa mà điển hình là sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN Đông
Âu. Ngược lại với sự thoái trào tạm thời của CNXH, “trước mắt CNTB còn có tiềm năng
phát triển kinh tế nhờ ứng dụng những thành tựu mới của KH và công nghệ, cải tiến
phương pháp quản lý thay đổi cơ cấu SX, điều chỉnh các hình thức sở hữu và chính sách
XH” (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH). Bên cạnh đó, quá
trình toàn cầu hóa kinh tế đang là một xu thế khách quan, ngày càng lôi kéo nhiều nước
tham gia và nó vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh.
Tuy nhiên, do bản chất của CNTB vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công nên
cần phải thấy rằng mặc dù “CNTB hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công
nghệ, thị trường song không thể khắc phục nổi những mâu thuẩn vốn có, đặc biệt là mâu
thuẩn giữa tính chất XH hóa ngày càng cao của lực lượng SX với chế độ chiếm hữu tư nhân
TBCN về tư liệu SX, mâu thuẩn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát
triển”(VK ĐH Đảng IX,trang 64). Trong quá trình toàn cầu hóa, mâu thuẩn giữa các tầng
lớp nhân dân rộng rãi với giai cấp tư sản, giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty
xuyên quốc gia, các trung tâm tư bản lớn tiếp tục phát triển. “Chính sự vận động của tất cả
những mâu thuẩn đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động các nước sẽ quyết định số
phận của CNTB” (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH)
Ngày nay mặc dù CNXH đang ở thế thoái trào, song những cơ sở vật chất và XH của
thời đại mới ngày càng chín muồi. Từ những thành công và chưa thành công của quá trình

cải tổ, đổi mới, Đảng cộng sản các nước đã và đang rút ra những bài học cần thiết, đưa quá
trình cải tổ đổi mới diễn ra đúng hướng phù hợp quy luật phát triển của XH và đang đạt
những chuyển biến tích cực. Điển hình như Trung Quốc, từ sau Hội nghị Trung ương 3
khóa XIII (12-1978) Đảng cộng sản Trung Quốc đã mở đầu công cuộc cải cách, mở cửa
toàn diện, sâu sắc theo định hướng XHCN và từ đó đến nay, trãi qua một phần tư thế kỷ,
Trung quốc đã phát triển không ngừng và đang đứng vào hàng ngũ các cường quốc trên thế
giới. Đối với nước ta, “những thành tựu to lớn và rất quan trọng của 15 năm đổi mới làm
cho thế và lực của nước ta lớn mạnh lên nhiều”(VK ĐH Đảng lần IX, trang 66). Điều này
cho thấy rằng thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới không diễn ra
trong một thời gian ngắn và theo một con đường thẳng tấp. Cũng như mọi thời đại khác
trong lịch sử, nó có tiến, có thoái, quanh co khúc khuỷu, nhưng cuối cùng như Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của ĐCS VN nhận định “CNXH hiện
thực đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trãi qua những
bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến
hóa của lịch sử” (trang 8)
Tóm lại, sự phát triển của sự vật hiện tượng trong thực tế là quá trình biện chứng
đầy mâu thuẩn, vận dụng quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận
giúp ta tránh được những bệnh bảo thủ trì trệ, định kiến, nhận thức và hành động thực tiễn
phải thúc đẩy sự vật phát triển theo quy luật vốn có của nó và củng cố được niềm tin trước
những khó khăn, thử thách tạm thời. Chính bằng cách đó, chúng ta mới góp phần tích cực
vào sự phát triển chung của đất nước
Vấn đề 5: Nội dung của quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất và ngược lại. Vận dụng quy luật trên để phân tích, phê phán
khuynh hướng sai lầm nếu không nhận thức và áp dụng đúng quy luật này và phân
tích chủ trương đổi mới sau đây của Đảng ta :”Con đường công nghiệp hóa - hiện đại
hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có
những bước nhảy vọt”. (Văn kiện Đại hội IX, trang 91)
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền
tảng tư tưởng và vận dụng tư tưởng, lý luận đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để đề ra
đường lối, cương lĩnh đúng đắn nhằm lãnh đạo đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Từ Đại

hội Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986) đến nay, Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc
đổi mới toàn diện và sâu sắc trên toàn đất nước, trong đó chủ trương đổi mới của Đảng
được Văn kiện Đại hội IX xác định là “Con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước
ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy
vọt”. Chủ trương này thể hiện sự vận dụng đúng đắn quy luật chuyển hóa từ những thay
đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại của triết học Mách Lênin (gọi tắt là
quy luật lượng - chất) vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Việc tìm hiểu quy luật lượng -
chất cũng giúp ta tránh được những khuynh hướng sai lầm nếu không nhận thức và áp dụng
đúng quy luật này trong thực tiễn.
Quy luật lượng và chất là 1 trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó
chỉ rõ cách thức phát triển của sự vật, hiện tượng.
Chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của các sự
vật hiện tượng (SVHT), là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho nó là nó và
phân biệt nó với cái khác. Chất của sự vật phụ thuộc vào những yếu tố cấu thành và phương
thức liên kết giữa các yếu tố đó. Mỗi sự vật hiện tượng có nhiều thuộc tính nhưng chỉ có
thuộc tính cơ bản mới quy định “chất” của sự vật vì chỉ khi nào thuộc tính cơ bản thay đổi
thì chất của sự vật mới thay đổi. Tuy nhiên, việc phân biệt chất và thuộc tính cũng chỉ là
tương đối vì nó còn phụ thuộc vào những mối quan hệ cụ thể của nó với những cái khác và
mỗi thuộc tính có thể coi là một chất trong một quan hệ khác. Chất biểu hiện tính tương đối
ổn định của sự vật và là cái khách quan vốn có không tách rời sự vật.
Lượng là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu, tốc độ của sự vận động, phát triển của sự vật cũng như
của các thuộc tính, yếu tố cấu thành nên sự vật. Lượng có thể được biểu hiện thành con số,
đại lượng hoặc mức độ … cũng giống như chất, lượng là cái khách quan vốn có của sự vật.
Sự phân biệt giữa chất và lượng cũng là tương đối, nghĩa là có cái ở trong quan hệ này là
chất nhưng trong quan hệ khác lại là lượng và ngược lại.
Giữa lượng và chất có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong 1 SVHT, chất và
lượng thống nhất quy định lẫn với nhau : chất nào lượng ấy và lượng nào chất ấy. Chất
tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi. Sự biến đổi về lượng có thể làm thay
đổi về chất và ngược lại, nhưng trong một giới hạn nhất định thì sự thay đổi về lượng không

làm thay đổi căn bản chất của sự vật, phạm vi giới hạn ấy gọi là độ. Nói cách khác, không
phải bất kỳ sự thay đổi về lượng nào cũng dẫn đền sự thay đổi về chất ngay tức khắc mà chỉ
khi lượng thay đổi vượt quá giới hạn của độ thì mới dẫn đến sự thay đổi về chất. Điểm giới
hạn mà tại đó bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng đưa ngay tới sự thay đổi về chất gọi là
điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới và
tạo thành độ mới.
Sự thay đổi về chất qua điểm nút gọi là bước nhảy. Bước nhảy là một phạm triết học
để chỉ ra sự chuyển hóa về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra. Đây
là bước ngoặc căn bản kết thúc một giai đoạn trong sự biến đổi về lượng làm thay đổi chất,
là sự gián đoạn trong quá trình biến đổi liên tục của các sự vật. Không có bước nhảy tức là
không có sự thay đổi về chất. Khi chất mới ra đời nó sẽ quy định một lượng mới phù hợp
với nó để tạo sự thống nhất giữa chất và lượng ở mỗi độ nhất định và chất sẽ tác động trở
lại lượng, thúc đẩy quy mô, nhịp điệu tốc độ. Sự vật tồn tại trong sự thống nhất ấy, cứ thế
một quá trình tác động mới với quy mô, nhịp điệu mới lại bắt đầu. Do đó có thể nói, phát
triển là sự đứt đoạn trong liên tục, thông qua hình thức những bước nhảy là trạng thái liên
hợp của các điểm nút. Cách thức của sự phát triển chính là những quá trình biến đổi đó :
Thế giới sự vật hiện tượng là đa dạng, phong phú cho nên các bước nhảy cũng vậy. Có
bước nhảy đột biến hoặc dần dần, có bước nhảy toàn bộ hoặc cục bộ, tức là diễn ra với
khoảng thời gian khác nhau, quy mô khác nhau, nhưng dù với hình thức nào mỗi bước nhảy
cũng là một sự thay đổi về chất.
Từ mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất, trong đó sự phát triển của sự vật bao
giờ cũng bắt đầu từ thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và chất khi ra đời nó sẽ quy
định lại quy mô, tốc độ của lượng, chúng ta khi muốn cải tạo sự vật về chất phải quan tâm
đến quá trình tích lũy về lượng. Đồng thời phải chủ động tạo những điều kiện cần thiết để
quá trình chuyển hóa từ chất cũ sang chất mới được thực hiện hoàn hảo
Khi vận dụng quy luật mối quan hệ giữa chất và lượng vào thực tiễn, ta không được
tuyệt đối hóa mặt nào, nếu tuyệt đối hóa một trong hai mặt này thì chúng ta sẽ rơi vào tư
tưởng nôn nóng (tả khuynh) hoặc tư tưởng bảo thủ (hữu khuynh).
Khuynh hướng nôn nóng tả khuynh là khuynh hướng không quan tâm thực hiện
quá trình tích lũy về lượng mà chỉ chú ý thực hiện những bước nhảy vọt làm thay đổi về

chất trong khi chưa có đủ điều kiện tích lũy về lượng cần thiết. Những người có tư tưởng
này trong hoạt động thực tiễn thường nóng vội, chủ quan duy ý chí, họ cho rằng sự phát
triển chỉ gồm toàn những bước nhảy liên tục nên có thể đốt giai đoạn
Khuynh hướng bảo thủ hữu khuynh là khuynh hướng chí chú ý đến quá trình tích
lũy về lượng, không chú ý phát huy nổ lực của nhân tố chủ quan, không dám thực hiện
bước nhảy vọt về chất khi đã có sự tích lũy đầy đủ về lượng hoặc kéo dài sự tích lũy, chỉ
nhấn mạnh đến sự biến đổi dần về lượng.
Cả hai khuynh hướng trên đều dẫn đến những sai lầm có tác hại rất lớn làm cản trở
hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật hiện tượng. Trong thực tiễn Việt Nam trước thời kỳ
đổi mới, Đảng ta cũng có lúc phạm sai lầm của 2 khuynh hướng trên. Văn kiện Đại hội VI
đã nêu “Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình
lịch sử tương đối dài, phải trãi qua nhiều chặng đường và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan,
nóng vội muốn bỏ qua những bước đi cần thiết trên thực tế, chúng ta đẩy mạnh công
nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế đã lỗi thời”. Văn kiện còn nhận định trong công tác tổ chức thời kỳ này “khuyết
điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ. Việc lựa chọn, bố trí cán bộ vào
các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp còn theo quan niệm cũ kỹ và tiêu chuẩn không
đúng đắn, mang nặng tính hình thức ” Chính những sai lầm này là một trong những nguyên
nhân dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng ở nước ta trước thời kỳ đổi mới.
Từ những thất bại trong đường lối chỉ đạo trước thời kỳ đổi mới, Đảng đã có những
tổng kết, đánh giá kịp thời về những sai lầm trên. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đánh
dấu bước đột phá đầu tiên của tư duy lý luận của Đảng trong việc vận dụng nội dung quy
luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Công cuộc đổi mới mà Đảng đã khởi xướng từ Đại hội VI và từ đó đến nay đang diễn
ra trên đất nước ta có ý nghĩa như là một quá trình mang tính cách mạng bởi nó tạo ra sự
biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong quá trình chuyển biến đó thì
công nghiệp hóa, hiện đại hóa được xem là nhiệm vụ trọng tâm và phấn đấu đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu đề ra, Đảng đã khẳng
định “Con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt”.

Phương hướng này chỉ ra rằng bên cạnh việc thực hiện những giải pháp nhằm tích lũy
dần tiềm lực về khoa học công nghệ, về kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và chuyển biến
quy trình sản xuất từ nền sản xuất lao động thủ công sang lao động với phương tiện và
phương pháp tiên tiến có năng suất cao theo những bước đi phù hợp với quy luật phát triển,
chúng ta cần phải biết phát huy những lợi thế của đất nước, tạo điều kiện và phát huy tối đa
nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, chú trọng phát triển giáo dục
và đào tạo, Khoa học và công nghệ để làm nền tảng, động lực thúc đẩy sự nghiệp phát
triển CNH-HĐH của đất nước có những bước nhảy vọt, đột phá. Nhân tố chủ quan có ý
nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo sự đột phá về bước nhảy để rút ngắn thời gian trong
sự nghiệp CNH-HĐH đất nước là sự vận dụng đúng đắn quy luật tác động của chầt và
lượng để tạo sự đột phá trong bước nhảy. Tuy nhiên, quá trình CNH-HĐH cũng phải được
xây dựng trên những bước đi tuần tự trong việc xác định cơ chế kinh tế cũng như xây dựng
lực lượng lao động cơ bản trong hệ thống sản xuất tiên tiếncho phù hợp với điều kiện sản
xuất hiện đại, có trình độ khoa học - công nghệ, nghiệp vụ chuyên môn và tay nghề vì như
bất kỳ sự thay đổi về chất nào khác, những bước nhảy trong con đường CNH-HĐH hiện
nay cũng chỉ có thể là kết quả của quá trình thay đổi về lượng, thích hợp ở đây bất kỳ một
sự nôn nóng chủ quan, ảo tưởng nào đều có thể gây ra tổn thất cho cách mạng, cản trở sự
nghiệp đổi mới đất nước.
Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và
chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong việc xem xét và giải
quyết những vấn đề do công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN hiện nay ở nước ta đặt
ra.
Đối với người Đảng viên, công viên chức nhà nước, việc nắm vững quy luật lượng -
chất sẽ giúp chúng ta trong hoạt động chuyên môn cũng như trong quản lý, chỉ đạo: một
mặt phải biết phát huy đúng mức vai trò của nhân tố chủ quan, có quyết tâm và nghị lực cao
trong việc thực hiện đột phá trong công việc khi có điều kiện chín muồi, một mặt phải biết
cách phân tích, xác định đúng quy mô, nhịp điệu của các sự việc để có những biện pháp giải
quyết thích hợp, tránh rơi vào khuynh hướng nôn nóng chủ quan duy ý chí hoặc bảo thủ.
Vấn đề 6: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả. Vận
dụng để phân tích vai trò của những nguyên nhân chủ quan, những nguyên nhân

khách quan dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trước đổi mới cũng như
nguyên nhân của những thành tựu khởi đầu, những yếu kém và khuyết điểm sau hơn
15 năm đổi mới (chủ yếu phân tích những nguyên nhân chủ quan, những yếu kém
trong lãnh đạo của Đảng).
Bài làm
Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước và nhân
dân ta đã đạt được những thành tựu rất lớn trong công cuộc bảo vệ đất nước và xây dựng
CNXH, tuy nhiên trong quá trình xây dựng đất nước đã có lúc đất nước ta trãi qua một thời
kỳ dài bị khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng và cũng như mọi thời đại khác trong lịch
sử, quá trình quá độ tiến lên XHCN ở nước ta là một quá trình dài đầy khó khăn, thử thách
có những giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhưng cũng có lúc thoái trào, có bước tiến nhưng
cũng có bước lùi.
Theo phép biện chứng duy vật bất kỳ một sự vật hiện tượng nào trong thế giới đều
tồn tại trong mối liên hệ nhân quả vì thế giới là một chuỗi liên hệ nhân quả trong thời gian
vô tận. Do đó, trên cơ sở phương pháp luận của phép biện chứng duy vật, việc tìm hiểu
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng khủng khoảng kinh tế - xã hội kéo dài ở nước ta
trước thời kỳ đổi mới (1986) có ý nghĩa đặc biệt trong giai đoạn hiện nay - giai đoạn mà đất
nước đang đứng trước những thử thách lớn lao của thời đại, hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi Đảng
và Nhà nước ta phải không ngừng đổi mới và không cho phép mắc phải những sai lầm như
đã có trước đây
Theo triết học duy vật biện chứng, nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn
nhau giữa các mặt trong 1 sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây nên những biến đổi
nhất định. Kết quả là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn
nhau giữa các mặt bên trong sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
Trong mối liên hệ nhân - quả ấy, nguyên nhân là cái có trước và sinh ra kết quả, kết
quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện và có sự tác động. Do đó, nguyên nhân
là cái quyết định các tính chất đặc điểm, nội dung của kết quả. Tuy nhiên, không phải mọi
quan hệ nối tiếp nào về thời gian và không gian cũng là mối liên hệ nhân quả, chỉ có mối
quan hệ trước sau về mặt thời gian có quan hệ sản sinh mới là mối quan hệ nhân quả. Vì
vậy, nếu có một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra trước kết quả và có liên hệ với kết quả,

nhưng là mối liên hệ bên ngoài, không cơ bản, không sinh ra kết quả thì sự kiện đó chỉ là
nguyên cớ mang tính chất chủ quan và tuy không gây ra kết quả nhưng nguyên cớ góp
phần xúc tiến gây ra kết . Do đó, trong thực tiễn khi xem xét SVHT ta phải phân biệt giữa
nguyên nhân với nguyên cớ.
Trong thực tế, mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp, có thể cùng một nguyên
nhân dẫn đến nhiều kết quả, tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, một kết quả cũng có
thể do nhiều nguyên nhân tác động ở những mức độ điều kiện khác nhau; nếu các nguyên
nhân tác động cùng chiều với nhau dẫn đến kết quả nhanh hơn, nếu tác động ngược chiều
thì làm cho tiến trình hình thành kết quả chậm hơn, thậm chí triệt tiêu tác động của nhau.
Khi một kết quả do nhiều nguyên nhân tạo ra thì tác động, vai tròi của từng nguyên
nhân không như nhau. Do đó cần phân loại và xác định vai trò của từng loại nguyên nhân.
Triết học duy vật biện chứng đưa ra nhiều hình thức nguyên nhân : nguyên nhân bên trong
và nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân cơ bản và nguyên nhân không cơ bản, nguyên
nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu, nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan thường gắn liền với những
kết quả xuất hiện do có sự tham gia của con người. Nguyên nhân khách quan là sự tác
động các mặt, các yếu tố của hiện thực độc lập với ý thức của chủ thể trong quá trình tạo ra
kết quả. Nguyên nhân chủ quan. Nếu nguyên nhân khách quan tồn tại với tính cách là khả
năng gây ra kết quả thì nguyên nhân chủ quan sẽ quyết định việc biến kết quả ấy thành hiện
thực hay không. Ngược lại, nếu nguyên nhân khách quan có thể tự phát huy tác dụng tạo ra
kết quả thì nguyên nhân chủ quan có thể làm cho kết quả ấy đạt đến trình độ cao hơn hay
thấp hơn, nên nó sẽ tác động cùng chiều hay khác chiều với nguyên nhân khách quan. Vì
vậy, muốn tạo ra kết quả trước hết phải tạo ra nguyên nhân và điều kiện sản sinh ra nó.
Ngược lại, muốn xóa bỏ một hiện tượng thì phải xóa bỏ nguyên nhân và điều kiện sản sinh
ra nó, đồng thời quan tâm sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân và sự chuyển
hóa giữa nguyên nhân và kết quả.
Mối liên hệ nhân - quả là mối liên hệ cơ bản và quan trọng, thường gắn với tính chất
của sự vật hiện tượng là tính khách quan, tính tất yếu, tính phổ biến. Theo CNDV biện
chứng, nguyên nhân của mọi sự vật, hiện tượng là khách quan nằm ngay trong sự vận động
và tồn tại của thế giới sự vật, không phụ thuộc vào việc con người có nhận thức được nó

hay không, không có SVHT nào là không có nguyên nhân. Con người chỉ có thể phát hiện
và vận dụng mối liên hệ khách quan của nhân quả chứ không thể xóa bỏ nó. Do đó, một
trong những nhiệm vụ hàng đầu của các nhà khoa họ, xã hội học là vạch ra được những mối
liên hệ nhân quả để có một phương pháp phân tích khoa học, phân biệt các loại nguyên
nhân và tìm ra nguyên nhân của các sự vật.Trong mối liên hệ nhân quả, kết quả do nguyên
nhân gây ra phụ thuộc vào những điều kiện nhất định, những điều kiện này là những hiện
tượng cần thiết cho một biến cố nào đó xảy ra, nhưng bản thân chúng không gây ra những
biến cố ấy. Tuy nhiên, nếu thiếu chúng thì nguyên nhân không gây nên những kết quả được.
Vì vậy, trong những điều kiện nhất định thì những nguyên nhân nhất định sẽ tạo ra những
kết quả nhất định. Những điều kiện thế nào thì kết quả như thế ấy hay nói cách khác đó là
tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả.
Như đã nói ở trên, mối liên hệ nhân quả thể hiện trong thực tế rất phức tạp, đa dạng
và cùng một sự việc xảy ra có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy, khi chúng ta
giải quyết một vấn đề nào đó trước hết phải từ nguyên nhân cơ bản để có biện pháp giải
quyết đúng đắn, thích hợp, đồng thời phải biết khai thác, vận dụng các kết quả đã đạt được
để nâng cao nhận thức, tiếp tục thúc đẩy sự vật phát triển. Do đó, trong nhận thức và hành
động của con người cần phải xem xét hiện tượng một cách toàn diện và tích cực để chống
lại những quan niệm siêu hình, chật hẹp, phiến điện và áp đặt mối quan hệ nhân quả. Trong
hoạt động thực tiễn, phải phân tích sâu sắc những hạn chế của yếu tố chủ quan và đề ra
những giải pháp khắc phục, để trên cơ sở đó tác động một cách có hiệu quả làm biến đổi
những nguyên nhân khách quan theo hướng có lợi.
Trên cơ sở nhận thức nguyên tắc và phương pháp luận của phép biện chứng duy vật.
Đảng ta đã vận dụng khá thành công trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, trên cơ sở
đánh giá phân tích tình hình một các toàn diện, cụ thể vận dụng đúng quy luật khách quan,
nắm vững mối liên hệ nhân quả, nhờ đó đã tạo nên những thắng lợi to lớn. Tuy nhiên, trong
công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta trong những năm trước đổi mới, bên cạnh những
thành tựu đã đạt được, Đảng ta đã phạm những sai lầm, khuyết điểm trong sự lãnh đạo của
Đảng và quản lý Nhà nước, dẫn đến làm cho nền KT-XH của nước ta lâm vào tình trạng
khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Như bất kỳ sự kiện nào trong thế giới khách quan, sự khủng hoảng kinh tế xã hội

giai đoạn này có những nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Những nguyên
nhân khách quan có thể kế như : do xuất phát điểm của nước ta quá thấp, nền SX nhỏ với
trình độ SX lạc hậu, do hậu quả của chiến tranh kéo dài ảnh hưởng rất lớn đến không chỉ
đến tốc độ phát triển kinh tế - xã hội mà còn làm cho đội ngũ cán bộ - đảng viên không có
điều kiện để học tập nên trình độ KH công nghệ, tri thức không đáp ứng đầy đủ những yêu
cầu của sự nghiệp cách mạng, do tác động của thiên tai, hạn hán kéo dài và do sự nghiệp
xây dựng CNXH là 1 sự nghiệp hoàn toàn mới mẻ của thế giới.
Tuy nhiên, tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội không phải đều do nguyên nhân
khách quan quyết định đánh giá về nguyên nhân của tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội
thời kỳ này, ĐH lần VI của Đảng đã xác định “những sai lầm khuyết điểm ấy có những
nguyên nhân khách quan và những nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan
chi phối nguyên nhân của những sai lầm ấy là chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách
quan trong cải tạo XHCN, trong tiến trình CNH và trong cơ chế quản lý kinh tế . Những sai
lầm đó cùng với sự trì trệ trong công tác tổ chức cán bộ, đã kìm hãm lực lượng sản xuất và
triệt tiêu nhiều động lực phát triển”. Do tư tưởng chủ quan duy ý chí và bảo thủ trì trệ nên
khi đề ra, định ra những chủ trương, đường lối, chính sách, Đảng và Nhà nước ta đã có
những sai lầm, vi phạm các quy luật khách quan, biểu hiện qua một số lĩnh vực cụ thể được
nêu văn kiện Đại hội VI như sau : “Trong những năm 1976-1980, trên thực tế chúng ta chủ
trương đẩy mạnh CNH trong khi chưa có đủ các tiêu đề cần thiết. Mặt khác chậm đổi mới
cơ chế kinh tế đã lỗi thời”, trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo XHCN, quản lý kinh tế và
lĩnh vực phân phối lưu thông đã có những sai lầm “duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế
tập trung quan liêu bao cấp” - một cơ chế "gắn liền với tư duy kinh tế dựa trên những quan
niệm giản đơn về chủ nghĩa xã hội, mang nặng tính chất chủ quan, duy ý chí", “có nhiều
chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ”, “chưa nắm vững và vận dụng
đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ SX với tính chất và trình độ SX” nên “có lúc đẩy
mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp
nhẹ”, bỏ qua không thừa nhận và vận dụng những quy luật khách quan của phương thức sản
xuất, của nền kinh tế hàng hóa Bên cạnh đó, việc buông lỏng chuyên chính vô sản trong
quản lý KT-XH, trong đấu tranh tư tưởng văn hóa, trong việc chống lại những âm mưu thủ
đoạn phá hoại thâm độc của kẻ thù…cũng là nguyên nhân chủ quan dẫn đến sự khủng

hoảng trên.
Đánh giá những nguyên nhân, sai lầm chủ quan, Đảng cho rằng đó những sai lầm
nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách về chỉ đạo chiến lược, về tổ chức thực
hiện và để giải quyết những khó khăn do sai lầm khuyết điểm trên việc khắc phục những
hạn chế chủ quan được Đảng đặc biệt xem trọng “Chúng ta không đánh giá thấp những
nguyên n hân khách quan, những khó khăn đó rất lớn. Song điều quan trọng là phân tích sâu
sắc những nguyên nhân chủ quan, nêu rõ những sai lầm khuyết điểm trong hoạt động của
Đảng và Nhà nước” (VK ĐH Đảng VI). Như vậy, nguyên nhân chủ yếu và cũng là nguyên
nhân cơ bản dẫn đến kết quả là tình hình khủng hoảng KT-XH trong thời kỳ trước đổi mới
ở nước ta là những nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân bên trong.
Trên cơ sở quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả, rút kinh
nghiệm từ những sai lầm chủ quan, Đại hội VI của Đảng (1986) Đảng đã chỉ rõ bài học
kinh nghiệm và đề ra phương hướng, biện pháp khắc phục nhằm từng bước sửa chữa
những sai lầm, đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng bẳng việc khởi xướng vã lãnh đạo
công cuộc đổi mới toàn diện sâu sắc trên tất cả lĩnh vực của đời sống. Cũng từ những sai
lầm khuyết điểm chủ quan, ĐH VI của Đảng đã rút ra 4 bài học kinh nghiệm :
Một là, toàn bộ hành động của mình Đảng ta phải có những tư tưởng “lấy dân làm
gốc” xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Hai là, Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan, năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện cho sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại trong điều
kiện mới.
Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền
lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc CM-XHCN.
Từ sau khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay, qua quá trình thực hiện, nước ta đã đạt
được những thành tựu rất quan trọng. Đến ĐH VIII, đất nước ta đã khắc phục được tình
trạng khủng hoảng KT-XH và chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ CNH-HĐH đất nước.Văn
kiện Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) nhận định: “Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, tuy còn một số mặt chưa vững chắc”.

Đến ĐH Đảng lần IX, sau 15 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn và rất quan trọng đó là :
- Kinh tế tăng trưởng khá, tổng sản phẩm GDP trong nước tăng bình quân hàng năm
7%. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. Cơ chế quản lý KT đã có những thay đổi cơ
bản. Từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã chuyển sang cơ chế thị trường định
hướng XHCN; từ chổ chủ yếu chỉ có 2 thành phần KT là KT nhà nước và KT tập thể đã
chuyển sang nền KT nhiều thành phần trong đó KT Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, từ tình
trạng hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng nay SX đã đáp ứng được các nhu cầu cần thiết
- Văn hóa xã hội có những tiến bộ, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện.
Tình hình chính trị - xã hội cơ bản được ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường. Đất
nước đã ra khỏi khủng hoảng KT-XH, vượt qua được cơn chấn động chính trị và sự hụt hẩn
về thị trường do những biến động ở Liên Xô và Đông Âu gây ra; phá được thế bao cấm vận,
mở rộng được quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập KT quốc tế, không để bị cuốn sâu
vào cuộc khủng hoảng tài chính KT ở một số nước Châu Á mặc dù hậu quả của nó đối với
nước ta cũng khá nặng nề, tình hình CT XH cơ bản ổn định quốc phòng và an ninh được
tăng cường.
- Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củng cố.
- Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến
hành chủ động và đạt nhiều kết quả. Ngày nay, thế và lực của đất nước ta đã lớn mạnh lên
rất nhiều
Nguyên nhân của những thành tựu đó bao gồm nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân
khách quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
Nguyên nhân chủ quan là do Đảng ta có bản lĩnh chính trị vững vàng và đường lối
lãnh đạo đúng đắn; Đảng và Nhà nước ta đã kiên trì đổi mới theo những phương hướng,
bước đi cơ bản, đúng đắn, Nhà nước có cố gắng lớn trong việc quản lý điều hành; toàn dân
tộc đã phát huy lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm, đoàn kết nhất trí, cần cù, năng động,
sáng tạo…
Nguyên nhân khách quan là tinh thần cách mạng và sự nổ lực phấn đấu của toàn dân
với lòng yêu nước nòng nàn và niềm tin vào sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của
Đảng, chấp nhận thử thách, chịu đựng và vượt qua những khó khăn đổi mới làm chuyển

biến tình hình.
Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta còn những yếu kém cần khắc phục: nền kinh tế phát
triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Một số vấn đề văn hóa xã hội bức
xúc và gay gắt chậm được giải quyết. Cơ chế chính sách chưa đồng bộ; tình trạng tham
nhũng, suy thoái ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Đây là
những vấn đề cần phải được nhanh chóng khắc phục để đất nước phát triển bền vững
Dựa trên việc tổng kết những nguyên nhân chủ quan và khách quan từ nhân của những
thành tựu khởi đầu, những yếu kém và khuyết điểm sau hơn 15 năm đổi mới, Đảng ta đã rút
ra những bài học kinh nghiệm quý báo, đó là :
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên
nền tảng chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân phù hợp với thực tiễn,
luôn sáng tạo.
Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Bốn là, được lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp
đổi mới.
Tóm lại, việc nhận thức đúng mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả,
xác định được mức độ vai trò của những nguyên nhân ấy đối với những thất bại cũng những
thành tựu trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước để có những biện pháp khắc phục,
những tác động thích hợp nhằm đạt được những mục tiêu mong muốn là những nguyên tắc
đảm bảo sự thành công của Đảng và nhà nước ta cũng như của từng Đảng viên, công nhân
viên chức.
Vấn đề 7: Phân tích mối liên hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, từ đó rút ra
quan điểm thực tiễn; vận dụng quan điểm đó để phân tích, phê phán bệnh kinh
nghiệm, giáo điều và để phân tích phương hướng đổi mới sau đây của Đảng ta : “Đẩy
mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm làm rõ và kết
luận những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn; từng bước cụ thể hóa, bổ sung
phát triển đường lối, chính sách của Đảng, đấu tranh với khuynh hướng, tư tưởng sai
trái”(Văn kiện Đại hội IX, trang 141)
Bệnh kinh nghiệm, giáo điều là những sai lầm khá phổ biến ở nước ta trong thời kỳ

trước đổi mới, nó dẫn đến hậu quả là làm cho hành động của chúng ta không xác định được
phương hướng, hoặc xa rời với hoàn cảnh lịch sử cụ thể và gây tác hại nghiêm trọng đối
với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một trong những nguyên nhân của bệnh kinh
nghiệm và bệnh giáo điều xuất phát từ khuynh hướng nhận thức sai lệch về mối quan hệ
giữa lý luận và thực tiển.
Việc phân tích tìm hiểu mối liên hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, từ đó rút ra
quan điểm thực tiễn và vận dụng đúng đắn quan điểm đó trong hoạt động thực tiễn là rất
cần thiết đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta - như Văn kiện Đại hội Đảng lần IX đã xác
định : : “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm làm rõ
và kết luận những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn; từng bước cụ thể hóa, bổ sung
phát triển đường lối, chính sách của Đảng, đấu tranh với khuynh hướng, tư tưởng sai
trái”(Văn kiện Đại hội IX, trang 141)
Thực tiễn - theo quan điểm triết học duy vật biện chứng - là toàn bộ hoạt động vật
chất có mục đích mang tính lịch sử XH của con người làm biến đổi, cải tạo tự nhiên và xã
hội. Bản chất của hoạt động thực tiễn đó là sự tác động qua lại của chủ thể và khách thể, là
con người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào đối tượng vật chất làm biến đổi
chúng theo mục đích của mình. Thực tiễn cũng có quá trình vận động, phát triển, trình độ
phát triển của thực tiễn nói lên quá trình chinh phục tự nhiên, làm chủ xã hội của con người.
Thực tiễn mang tính lịch sử xã hội bởi nó phát triển qua các giai đoạn lịch sử. Hoạt động
thực tiễn có thể chia làm 3 hình thức cơ bản : hoạt động SX vật chất, hoạt động biến đổi
chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Ttrong đó, hoạt động SX vật chất là
hoạt động có ý nghĩa quyết định các hình thức khác, hoạt động biến đổi chính trị xã hội là
hình thức cao nhất và hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt nhằm thu nhận
những tri thức về hiện thực khách quan.
Lý luận – theo Chủ tịch Hồ chí Minh – là sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, sự
tổng hợp những tri thức về tự nhiên, xã hội đã được tích lũy lại trong quá trình lịch sử của
con người. Lý luận là sản phẩm cao của nhận thức đồng thời thể hiện trình độ cao của nhận
thức, của những tri thức về bản chất, quy luật của hiện thực và vì vậy, bản chất của lý luận
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau.

Trong mối quan hệ đó, thực tiễn có vai trò quyết định, vì thực tiễn là hoạt động vật chất,
còn lý luận là sản phẩm của hoạt động tinh thần. Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý
luận thể hiện ở chổ : chính thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích, là tiêu chuẩn để
kiểm tra nhận thức và lý luận; nó cung cấp chất liệu phong phú sinh động để hình thành lý
luận và thông qua hoạt động thực tiễn, lý luận mới được vật chất hóa, hiện thực hóa, mới có
sức mạnh cải tạo hiện thực. Lý luận mặc dù được hình thành từ thực tiễn nhưng nó có vai
trò tác động trở lại đối với thực tiễn. Sự tác động của lý luận thể hiện qua vai trò xác định
mục tiêu, khuynh hướng cho hoạt động thực tiễn (lý luận là kim chỉ nam cho hoạt động
thực tiễn), vai trò điều chỉnh hoạt động thực tiễn, làm cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả
hơn. Lý luận cách mạng có vai trò to lớn trong thực tiễn cách mạng. Lênin viết “không có
lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”. Như vậy, giữa lý luận và thực
tiễn có sự liên hệ, tác động qua lại, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển và gắn bó hữu cơ
với nhau do đó sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên lý cao nhất của triết học
Mác Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn
thì thành thực tiễn mù quáng”, “Lý luận mà không có thực tiễn là lý luận suôn”
Từ mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, ta rút ra được quan điểm thực
tiễn. Quan điểm thực tiễn đòi hỏi khi xem xét sự vật hiện tượng phải gắn với thực tiễn, phải
theo sát sự phát triển của thực tiễn để điều chỉnh nhận thức cho sự phù hợp với sự phát triển
của thực tiễn, hiệu quả của thực tiễn để kiểm tra những kết luận của nhận thức, kiểm tra
những luận điểm của lý luận. Quan điểm thực tiễn cũng đòi hỏi những khái niệm của chúng
ta về sự vật phải được hình thành, bổ sung và phát triển bằng con đường thực tiễn, trên cơ
sở thực tiễn chứ không phải bằng con đường suy diễn thuần túy, không phải bằng con
đường tự biện. Do thực tiễn luôn vận động và phát triển nên phải thường xuyên ổng kết quá
trình vận dụng lý luận vào thực tiễn, xem nó thừa thiếu nhằm bổ sung phát triển nó cho phù
hợp.
Nắm vững quan điểm thực tiễn có ý nghĩa trong việc góp phần hạn chế bệnh giáo
điều và bệnh giao điều trong tư duy và trong hoạt động thực tiễn.
Bệnh giáo điều đó là việc tuyệt đối hóa lý luận coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi
lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung trừu
tượng, không chú ý đến những hoàn chỉnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận

Bệnh kinh nghiệm là những sai lầm trong phương pháp tư duy cũng như trong cải tạo
thực tiễn. Thực chất của bệnh kinh nghiệm là sự cường điệu hoặc tuyệt đối hoá kinh
nghiệm, coi kinh nghiệm là "chìa khoá vạn năng" trong việc giải quyết những vấn đề của
cuộc sống đặt ra. Biểu hiện của những người mắc bệnh kinh nghiệm là đề cao kinh nghiệm
cảm tính, coi thường tri thức lý luận, tri thức khoa học, vận dụng kinh nghiệm để giải mã

×