Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Tài liệu dạy tiếng Việt cho HSDT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.62 KB, 44 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẮKLẮK
TÀI LIỆU TẬP HUẤN
TĂNG CƯỜNG TIẾNG VIỆT
CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ
1
ĐẮKLẮK, NĂM 2013
Modul 1. NGUYÊN TẮC DẠY TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH DTTS
Nguyên tắc 1: Hiểu chính xác nghĩa từ vựng, cấu trúc cú pháp
Học ngôn ngữ thứ hai yêu cầu học sinh cần hiểu nghĩa và thực hiện chính xác (phát âm,
nghe, nói, đọc, viết). Học Tiếng Việt như là học ngôn ngữ thứ hai, HS cần hiểu nghĩa từ vựng,
cấu trúc câu và nội dung câu trong Tiếng Việt , sử dụng đúng mẫu câu Tiếng Việt. Vì vậy
giáo viên khi dạy Tiếng Việt cần giúp trẻ hiểu nghĩa của từ, phát âm đúng, biết cấu trúc từ và
câu. Việc học chỉ có hiệu quả khi học sinh học nội dung kiển thức mới của Tiếng Việt dựa
trên vốn từ vựng đã biết . Việc dạy cần hướng học sinh tập trung đến nghĩa của từ/ nội dung
kiến thức chứ không phải là hình thức, bắt chước một cách máy móc. Vì thế GV nên thực
hiện bài dạy với tiến trình chậm, hiệu quả, kĩ càng, nên sử dụng những ngôn từ đơn giản,
thông thường, sử dụng những câu đơn ngắn và nhắc lại, nhấn mạnh những từ trọng tâm.
Nguyên tắc 2: Phát triển kỹ năng tư duy theo cấp độ nhận thức
Phát triển kỹ năng tư duy, sử dụng ngôn ngữ thiết kế các câu hỏi theo các tầng bậc khác
nhau, chú trọng tầng bậc có vai trò rất quan trọng đối với quá trình học lâu dài và hiệu quả
(ghi nhớ, hiểu, vận dụng, phân tích, sáng tạo và đánh giá). HS học ngôn ngữ thứ hai cần
có sự hỗ trợ một cách hệ thống nhằm phát triển năng lực học tập của HS và giúp các em
tiếp tục theo học các mức độ tiếp theo. Các ví dụ, các hoạt động hỗ trợ cung cấp cho HS
những chỉ dẫn cụ thể, rõ ràng nhằm giúp HS đạt được kết quả học tập tốt hơn, đơn giản
hóa các bài tập, hoạt động, giảm thiểu mức độ khó/ phức tạp và xác định rõ yêu cầu cần
đạt được của các họat động. Để giúp học sinh phát triển các kĩ năng Tiếng Việt trong
những năm đầu đi học, các em cần được học một khối lượng từ vựng nhất định, và sử
dụng từ vựng theo mẫu câu đơn giản dễ hiểu. Những từ khó đối với học sinh khi học ngôn
ngữ thứ hai là trạng từ, tính từ, các em cần có những hỗ trợ, giúp đỡ chi tiết để hiểu những
từ này, vận dụng đúng nhằm đạt được khả năng ngôn ngữ cần thiết cho việc học tập.
Nguyên tắc 3: Rèn luyện kỹ năng nghe nói, đọc, viết


Quá trình học diễn ra hiệu quả sẽ bao gồm các hoạt động nghe, nói, đọc và viết tập
trung vào cả hiểu nghĩa và tính chính xác. Học ngôn ngữ là học các kỹ năng Nghe, Nói,
Đọc, Viết. HS cần hiểu nghĩa của từ trước khi học âm vần trong từ. Học sinh cần hiểu
Nghĩa các từ trong bài học, những từ khó là trạng từ, tính từ, danh từ trìu tượng không nên
giới thiệu cho học sinh lớp 1 hoặc đầu lớp 2. Mắc lỗi là một phần tất yếu của việc học
ngôn ngữ. Học ngôn ngữ thứ hai không cần thiết phải theo một trình tự nhất định nào đó.
Khi mục đích của bài học là giao tiếp, nếu học sinh có mắc lỗi về sự chính xác hoặc từ
phát âm chưa được chuẩn thì không nhất thiết sửa ngay lập tức, ngoại trừ lỗi đó gây trở
ngại cho việc giao tiếp của các em (hoặc khi trọng tâm của bài học là ngữ pháp)
Nguyên tắc 4: Tăng cường hoạt động học tập tương tác
Học sinh học hiệu quả hơn thông qua tương tác với các bạn học, các em cùng nhau học hỏi,
cùng nhau khám phá và giải quyết vấn đề. Giao tiếp/ trao đổi cùng nhau sẽ giúp học sinh phát
triển tư duy, ngôn ngữ, lắng nghe người khác và tự phát triển.
Các hoạt động học tập được thiết kế trong giờ học phải có mục đích cụ thể. HS cũng
phải hiểu/ biết rõ các em đang được học cái gì và biết được GV yêu cầu các em làm những
gì trong bài học đó. Các hoạt động cần phải thể hiện rõ yêu cầu giao tiếp, tương tác với
mục đích phát triển ngôn ngữ, cùng nhau xây dựng câu chuyện đã qua trải nghiệm, chia sẻ
hoạt động trong nhóm, cùng nhau xây dựng bài học, trang trí trường lớp nâng cao sản
phẩm của mình, biết rõ yêu cầu ý nghĩa nội dung hoạt động, mục đích các sản phẩm bài
học sẽ giúp HS hứng thú, ham học hỏi, yêu trường lớp.
2
Nguyên tắc 5: sử dụng phương pháp đa dạng
Học sinh những năm đầu đến trường cần có sự tự tin trong việc học ngôn ngữ mới, thông
qua việc GV sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, nhưng tốt nhất nên bắt đầu bằng việc “
Nghe-Quan sát-Làm theo” (phương pháp học ngôn ngữ qua hành động).

Nguyên tắc 6: xây dựng môi trường học tập thân thiện
Học sinh sẽ học hiệu quả nếu được học trong môi trường học tập an toàn, thân thiện,
được hỗ trợ và được tôn trọng. GV cần giúp học sinh tự tin học Tiếng Việt, nếu các em
chưa sẵn sàng, cần tìm mọi cách giúp các em hiểu từng câu trong Tiếng Việt, thông qua

nhân viên hỗ trợ giáo viên( là người dân tộc thiểu số)/ người trong cộng đồng hoặc giáo
viên cần học thêm tiếng dân tộc thiểu số của học sinh. Cần tạo cơ hội cho các em có cơ
hôi để học tập giáo tiếp tiêng việt. khả năng học tiếng Việt của mỗi HS khác nhau có thể
khác nhau, phụ thuộc vào những yếu tố như khả năng, sự tự tin và hứng thú ở mỗi em. Coi
trọng ngôn ngữ cũng như văn hóa của HS, đánh giá cao các sản phẩm học sinh tự sáng
tạo, sẽ giúp các em tiến bộ trong việc học Tiếng Việt.
Nguyên tắc 7: Học sinh học hiệu quả với các ngữ liệu học tập mang tính khuyến
khích và hứng thú
chủ đề của môn học quen thuộc gắn liền đời sống của HS, có liên quan chặt chẽ đến khả
năng của HS. Nội dung môn học cần phải phù hợp với nhu cầu, khả năng của HS và gắn
với thực tế, đời sống xung quanh HS. Điều này có thể cần có sự điều chỉnh lại ngữ liệu có
trong chương trình sách giáo khoa hiện tại, xây dựng bổ sung các chủ đề phù hợp vùng
miền, lược bỏ những chủ đề nội dung khó, chưa phù hớp với học sinh. Thay đổi tranh ảnh
minh họa trong sách giáo khoa, viết lại các bài tập đọc, câu chuyện kể đơn giản hơn để
học sinh có thể hiểu được, v.v.
Nguyên tắc 8: Học sinh sẽ học tốt hơn khi các em được vận dụng những gì đã học, đã
biết để vào học nội dung mới.
Tất cả các em đến trường đã có vốn kiến thức sẵn có: dạy/ học cần dựa trên những gì các
em đã biết. Trẻ có vốn kiến thức tự tích lũy được từ gia đình, cộng đồng và truyền thống
văn hóa dân tộc. Giáo viên nên khơi gợi và phát triển vốn kiến thức đã có này để hình
thành vốn kiến thức mới cho trẻ. Nên khuyến khích các em nhớ lại và học những kiến
thức mới từ những gì các em đã biết.
Nguyên tắc 9: Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá
Phương pháp kiểm tra hiệu quả sẽ làm cho quá trình học tập ngày một phát triển cũng như
xác định được quá trình học đang diễn ra như thế nào. Các bài kiểm tra giúp cho việc học
có hiệu quả hơn và xác định được trình độ của HS. Kết quả bài kiểm tra cho thấy HS đang
ở mức độ nào và cần những hỗ trợ gì. Phương pháp kiểm tra nên kết hợp nhiều dạng bài
nhằm mang lại kết quả đánh giá toàn diện. Hình thức kiểm tra thành phần thông qua
những tương tác trong hoạt động dạy/ học nên kết hợp với hình thức kiểm tra tổng thể sẽ
mang lại kết quả toàn diện của HS về khả năng và kiến thức.

Nguyên tắc 10: Nhận xét mang tính xây dựng của GV
Việc học tập sẽ có hiệu quả khi có những nhận xét, đánh giá. GV nên là người công bằng
khi đưa ra những nhận xét, khen ngợi HS bởi vì bất kỳ bài kiểm tra đánh giá nào cũng có
tác động tình cảm tới HS. GV cần phải nhận thức rõ được tác động của những nhận xét,
điểm tới sự tự tin và hứng thú học tập của HS.


3
Modul 2. XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG GIÀU CHỮ VIẾT VÀ THƯ VIỆN THÂN
THIỆN; CÁC LOẠI TÀI LIỆU CẦN HỖ TRỢ HỌC SINH DÂN TỘC
I. Xây dựng môi trường giàu chữ viết và thư viện thân thiện
1. Xây dựng môi trường giàu chữ viết
1.1. Thế nào là môi trường giàu chữ viết?
Môi trường giàu chữ viết là các điều kiện tự nhiên, xã hội, các phương tiện, hoạt
động trong và ngoài nhà trường có tác động đến quá trình học tập, rèn luyện và sử dụng
ngôn ngữ.
- Môi trường giàu chữ viết trong nhà trường bao gồm: Cảnh quan trường lớp; thư viện;
Hoạt động dạy - học; Phương tiện dạy và học; các hoạt động bổ trợ (Đọc sách, xem băng
hình, trò chơi, văn nghệ…)
- Môi trường học tiếng ngoài nhà trường bao gồm:Đặc điểm dân cư (Dân số, thành phần dân
tộc, tình trạng cư trú…); Môi trường văn hoá - xã hội (Trình độ dân trí, sinh hoạt văn hoá, ngôn
ngữ giao tiếp trong cộng đồng, tình hình sử dụng tiếng Việt, tiếng dân tộc…); Môi trường gia
đình (Ngôn ngữ giao tiếp trong gia đình, các phương tiện nghe nhìn…)
1.2.Vì sao phải thường xuyên xây dựng môi trường giàu chữ viết
- GV không thể dạy trực tiếp được tất cả các từ vựng HS cần để học được tiếng Việt và
dùng tiếng Việt để học các môn học kiến thức khác
- Thời gian luyện tập từ vựng trên lớp giới hạn, vì vậy, cần có môi trường ngôn ngữ
thuận lợi.
1.3. Mục đích xây dựng môi trường giàu chữ viết
- Giúp học sinh thường xuyên có ý thức củng cố và hiểu thêm về các từ vựng đã học

- Giúp học sinh mở rộng vốn từ vựng tiếng Việt
- Duy trì và phát triển thái độ hứng thú học tiếng Việt của học sinh
- Phát triển các kỹ năng học và xử lý từ mới cho học sinh
1.4. Một số định hướng phương pháp phát triển môi trường giàu chữ viết thuận lợi
a. Khuyến khích thói quen đọc sách:
Xác định ý nghĩa của việc thường xuyên đọc sách rất quan trọng trong việc phát triển
vốn từ vựng và kỹ năng học từ, dùng từ. Không gian lớp học cần có góc đọc (thư viện lớp
học) tạo điều kiện cho học sinh thường xuyên có cơ hội đọc; Xây dựng mô hình thư viện
thân thiện trong lớp học
b. Sử dụng các hoạt động để duy trì hứng thú học tập:
- GV tổ chức các hoạt động học vui - vui học, trò chơi, các hoạt động lớp hoặc
nhóm, cuộc thi, phong trào, v.v. cho cả lớp hoặc nhóm thực hiện bên ngoài giờ học để vừa
giúp học sinh học tiếng Việt, vừa duy trì hứng thú của học sinh.
Một số ví dụ:
• Hướng dẫn học sinh tìm và sử dụng “Từ của ngày/tuần”: khuyến khích HS sử dụng
một số từ lựa chọn trong ngày/tuần càng nhiều càng tốt
• Viết nhật ký: HS viết nhật ký học tập bằng tiếng Việt ghi lại những gì các em đọc
được, hoặc những sự vật, sự kiện quan sát được
• Tổ chức hình thức trò chơi từ vựng: ví dụ: đoán từ, tìm từ trái nghĩa, v.v.
• Các cuộc thi đua hoặc phong trào: ví dụ: thi đua sưu tầm từ vựng theo chủ điểm Học
vui -Vui học.Tất cả các thành viên cùng tham gia, tạo không khí hứng thú trong lớp/nhóm
c. Sử dụng các giáo cụ trực quan trong không gian phòng học. Ví dụ: bức tường từ
vựng, báo tường, thư viện lớp, v.v.
Áp dụng sáng tạo kỹ thuật “Bức tường từ vựng”
• Đây là kỹ thuật phổ biến để tạo môi trường thuận lợi cho học tiếng Việt
4
• GV bài trí không gian lớp học để tăng cường sự tiếp xúc của HS với các từ vựng quan
trọng của bài học trong ngày/tuần/chủ đề.
• Làm cho việc học từ và ngôn ngữ gắn với sinh hoạt thường xuyên ở lớp và gắn với
cuộc sống

Ví dụ về Bức tường từ vựng trang trí các từ theo chủ điểm đang học sẽ giúp học sinh tiếp
xúc với các từ vựng cần học nhiều lần hơn. Bức tường được bài trí đẹp và khoa học. Có
thể trang trí từ vựng theo các cách sau:
+Theo quan hệ giữa các từ/cụm từ: quan hệ Toàn bộ/Bộ phận, quan hệ Nhân-quả, đồng
nghĩa/trái nghĩa, Từ/cụm từ cùng chủ đề (gần nghĩa), Từ/cụm từ có cùng vần/âm hoặc từ
đồng âm ….
+ Theo thứ tự các từ/cụm từ xếp theo thứ tự chữ cái , theo từ loại
+ Các từ/cụm từ khó đối với học sinh
+ Các từ/cụm từ học sinh thích học (có thể do giáo viên hoặc học sinh chọn, hoặc cả hai)
1.5. Một số biện pháp tạo ra môi trường giàu chữ viết
a.Tạo môi trường giàu chữ viết trong nhà trường
- Tạo cảnh quan tiếng Việt trong và ngoài lớp học
Những ấn tượng trực giác hết sức quan trọng đối với trẻ em, đặc biệt là giai đoạn đầu
của cấp Tiểu học. Một lớp học sạch sẽ, được trang trí "bắt mắt" sẽ thu hút được sự chú ý,
yêu thích của HS. Trưng bày không chỉ có tác dụng trang trí, làm đẹp lớp học mà cần phải
tạo ra môi trường cảnh quan tiếng Việt để tạo tâm thế giúp HSDT học tiếng Việt. Nếu
hằng ngày HS được "tắm mình" trong một không gian lớp học tiếng Việt thì chắc chắn
tiếng Việt sẽ dần dần "thấm" vào trí nhớ của các em. Ngoài cờ Tổ quốc, ảnh Bác Hồ, khẩu
hiệu (quy định chung), các sản phẩm trưng bày để tạo cảnh quan tiếng Việt rất đa dạng,
phong phú (Danh sách lớp, khẩu hiệu theo chủ đề, truyện tranh, sách đọc thêm ); Đồ
dùng dạy học (Mô hình, tranh ảnh, mẫu vật, bản đồ, bảng chữ cái ); Sản phẩm của HS
(Vở sạch chữ đẹp, tranh vẽ, bài kiểm tra, sản phẩm thủ công )
Tuỳ vào điều kiện không gian trường lớp để chọn lựa và trưng bày các sản phẩm cho phù
hợp. Có những sản phẩm được trưng bày cố định suốt cả năm học (khẩu hiệu, danh sách
lớp ) nhưng lại có nhiều sản phẩm khác cần được thay đổi theo tháng, tuần, ngày cho phù
hợp với chủ đề, nội dung học và khả năng nhận thức của HS. Sự đơn điệu, thiếu linh hoạt
trong trưng bày sẽ dẫn đến tâm lí nhàm chán đối với HS. Cần thay đổi, phối hợp giữa các
môn học trong bài trí không gian lớp học, không nên chỉ trưng bày sản phẩm của môn tiếng
Việt. Trong khuôn viên nhà trường có thể có bản tin, khẩu hiệu, panô, áp phích
Điều quan trọng là phải tổ chức cho HS "tiếp cận" với sản phẩm. Bởi nếu không, trưng

bày chỉ dừng lại ở trang trí hình thức mà không đạt được hiệu quả giáo dục tiếng Việt.
Trong quá trình dạy học, GV cần tổ chức cho HS tham gia vào các hoạt động như : làm
các sản phẩm để trưng bày, trao đổi về các sản phẩm, thực hành trên sản phẩm nhằm
hướng đến mục đích rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt cho HSDT.
- Tăng cường hoạt động giao tiếp


HSDT thường ít có cơ hội giao tiếp tiếng Việt ở gia đình và ngoài xã hội. Tâm lí nhút
nhát, thiếu tự tin, ngại giao tiếp với người lạ thường thấy ở HSDT. Do vậy, GV cần tạo
nhiều cơ hội để HS được thực hành giao tiếp tiếng Việt bằng nhiều cách :
Tận dụng tối đa tình huống giao tiếp thực : Trong quá trình dạy học thường xuyên đặt
câu hỏi và hướng dẫn HS đặt câu hỏi; dạy cách giao tiếp với người lớn trong trường (GV,
cán bộ, phụ huynh, khách đến thăm trường); tăng cường tổ chức các hoạt động tập thể
như: trò chơi, văn nghệ
Xây dựng các tình huống giả định : Cho HS đóng vai các nhân vật trong bài học, tạo ra
các tình huống và hướng dẫn HS xử lí tình huống/đóng vai nhân vật trong tình huống

Các hoạt động giao tiếp của HS cần theo hướng mở rộng dần vòng giao tiếp :
5
+ Từ gần đến xa : HS với HS, HS với GV trực tiếp dạy, HS với các GV khác, HS với
cán bộ, công nhân viên, HS với khách đến thăm trường
+ Từ hẹp đến rộng : Từ giao tiếp với một người đến giao tiếp với nhiều người. Chú
trọng giao tiếp giữa HS - HS thông qua hình thức mở rộng nhóm : nhóm 2, nhóm 3 - 4 ,
nhóm cùng tuổi, nhóm cùng sở thích, theo tổ Và mở rộng hơn là giao tiếp với HS các
lớp khác. Chú ý nhắc nhở HS triệt để sử dụng tiếng Việt để giao tiếp với bạn bè trong giờ
ra chơi, nhất là ở những trường HS gồm nhiều thành phần dân tộc. Nội dung giao tiếp cần
gắn với chủ điểm đã được học (về bản thân, bạn bè, gia đình ) và các sinh hoạt thường
nhật của HS.
b.Tạo môi trường chữ viết ở gia đình
Cùng với sự phát triển chung của xã hội, đời sống đồng bào vùng dân tộc từng bước

được cải thiện. Các phương tiện nghe nhìn như ti vi, ra đi ô, sách báo, Internet đã có
trong nhiều gia đình. Hơn nữa, số phụ huynh trẻ biết tiếng Việt ngày càng tăng. Đây là
những tín hiệu tốt làm cơ sở cho việc xây dựng môi trường tiếng Việt ở gia đình HS. Tuy
nhiên, nhiều phụ huynh HS chưa có ý thức và cũng chưa biết cách tạo điều kiện giúp đỡ
con em học tập ở nhà. Do vậy, GV cần điều tra khảo sát để nắm được điều kiện cụ thể của
từng gia đình HS: tivi, đài, sách báo tiếng Việt, tình hình sử dụng tiếng Việt, góc học tập,
nghề nghiệp của bố mẹ

Vận động phụ huynh tạo góc học tập cho con em
Họp phụ huynh hoặc đến từng gia đình vận động, hướng dẫn phụ huynh tạo góc học
tập cho con em: Đóng bàn học bằng vật liệu có ở gia đình (có thể chỉ là tre nứa, gỗ, ván
đơn giản ) Chú ý độ cao, độ rộng của bàn ghế phải vừa tầm với HS. Chọn vị trí đặt bàn
học ở nơi đủ ánh sáng, thoáng, yên tĩnh. Trang trí góc học tập : Thời khoá biểu, giấy khen
(nếu có), hoa giấy tự làm, dán báo, tranh ảnh (Hướng dẫn HS tự làm)
Hướng dẫn cụ thể, phù hợp với điều kiện và khả năng nói tiếng Việt của phụ huynh.
Các hoạt động cần hướng dẫn phụ huynh thực hiện là :Tạo điều kiện về thời gian và nhắc
nhở con em học bài (dành khoảng thời gian cố định trong ngày để con em học, không bắt
làm việc nhà). Thỉnh thoảng quan sát việc học của con em : Sách vở có ngăn nắp, gọn
gàng không? Có chăm chú khi học không ? Vở viết như thế nào ? Thỉnh thoảng hỏi con
em về việc học ở trường (bằng tiếng Việt). Nhắc nhở con em nghe đài, xem tivi, đọc sách
báo (nếu gia đình có) và trao đổi nội dung nghe, đọc được cho người thân trong gia đình.
c. Tạo môi trường tiếng Việt trong đời sống cộng đồng
Giao thông, đường sá ở vùng dân tộc từng bước được cải thiện, nhiều vùng dân tộc đã
có người Kinh sống xen kẽ, các phương tiện thông tin bằng tiếng Việt ngày càng nhiều.
Nhu cầu giao lưu văn hoá, trao đổi mua bán ngày càng phát triển. Do đó, số người biết
tiếng Việt trong cộng đồng ngày càng tăng. Có thể huy động cộng đồng tham gia vào việc
tạo môi trường tiếng Việt bằng cách :
- Vận động cộng đồng giao tiếp với HS bằng tiếng Việt: Phối hợp với Hội cha mẹ HS,
chính quyền địa phương tuyên truyền, vận động những người biết nói tiếng Việt có ý thức
giao tiếp bằng tiếng Việt với HS trong sinh hoạt cộng đồng (đặc biệt là cán bộ xã, cán bộ

các đoàn thể trong xã). Hướng dẫn cộng đồng một số biện pháp giao tiếp đơn giản với HS
như : Khi gặp HS đi học về : nhắc các em chào bằng tiếng Việt/chào các em bằng tiếng
Việt hoặc hỏi HS một số câu đơn giản như : Cháu học lớp mấy ? Cô nào dạy ? Hôm nay
cháu được mấy điểm ? Yêu cầu các em đọc các câu khẩu hiệu, áp phích, bảng tin, sách
trong điều kiện có thể.
- Mở chuyên mục phát thanh bằng tiếng Việt dành cho thiếu nhi: GV kết hợp với tổng
phụ trách đội; chính quyền địa phương, đài phát thanh xã để phát chương trình thiếu nhi
hằng tuần vào một ngày cố định, giờ cố định. Nội dung chương trình phát có thể là đọc
truyện, kể chuyện, đọc thơ, hát, kịch, nêu gương tốt của HS Chọn những HS có năng
khiếu, tập dượt để thực hiện chương trình phát thanh; Thông báo cho HS, GV toàn trường
6
và phụ huynh về chương trình, thời gian để họ có ý thức lắng nghe.
- Phối hợp với Đoàn Thanh niên xã tổ chức các hoạt động tập thể : Tổ chức lễ hội, văn
nghệ, thể thao, tổ chức cho HS tham gia dán, viết các khẩu hiệu, áp phích quảng cáo,
tuyên truyền ở nơi công cộng yêu cầu HS đọc cho gia đình và người khác cùng biết.
2. Mô hình thư viện trường học thân thiện
2.1. Giới thiệu về thư viện trường học thân thiện
a. Thư viện trường học thân thiện là gì?
- Thư viện trường học thân thiện là hình thức tổ chức thư viện lấy học sinh làm trung
tâm cho mọi hoạt động nhằm đáp ứng Quyền trẻ em, đặc biệt là quyền tiếp cận thông tin,
quyền được hưởng một nền giáo dục có chất lượng và tôn vinh văn hóa địa phương.
- Thư viện trường học thân thiện còn được hiểu là một không gian mở:
+ Người sử dụng một cách linh hoạt, hiệu quả.
+ Tạo cơ hội cho học sinh tiếp cận thông tin, xây dựng thói quen đọc sách và tích cực
tham gia các hoạt động của thư viện.
+ Hỗ trợ việc dạy và học tích cực.
+ Phát triển mối quan hệ thân ái, cởi mở, tích cực giữa thủ thư và học sinh, giáo viên
và học sinh, giáo viên và giáo viên, thủ thư và giáo viên
+ Tăng cường sự tham gia của các cấp lãnh đạo, giáo viên, cha mẹ học sinh và thành
viên cộng đồng

b. Tại sao cần có thư viên trường học thân thiện?
- Nhằm đáp ứng quyền tiếp cận thông tin, tiếp cận giáo dục của học sinh.
- Góp phần hình thành và phát triển thói quen đọc sách của học sinh.
- Góp phần tạo ra môi trường học tập tích cực cho học sinh.
- Nơi lưu giữ những nét đặc sắc của văn hóa địa phương.
c. Hướng tiếp cận của thư viện trường học thân thiện:
- Thư viện trường học thân thiện đáp ứng Quyền trẻ em và sự tham gia của trẻ
- Thư viện trường học thân thiện hỗ trợ dạy và học tích cực. Là nơi tạo điều kiện tốt nhất
cho giáo viên và học sinh chủ động khám phá và tìm tòi kiến thức. Là nền tảng cho sự
sáng tạo của học sinh. Là cơ sở cho giáo viên áp dụng các phương pháp dạy học mới (Học
theo dự án, học theo hợp đồng, học theo góc…)
d. Sự khác biêt giữa thư viện trường học thân thiện và thư viện truyền thống xưa nay:
- Bài trí hấp dẫn, khoa học.
- Hệ thống quản lí thuận tiện.
- Nguồn sách đa dạng, phong phú, hấp dẫn, phù hợp.
- Hoạt động đa dạng, phong phú, phù hợp.
- Sự tham gia tích cực, chủ động của học sinh, giáo viên, BGH, cha mẹ học sinh, thành
viên cộng đồng.
2.2. Các hình thức tổ chức thư viện trường học thân thiện
a.Thư viện đa năng:
Không gian của thư viện đa năng được chia thành các góc theo chức năng, nội dung
sử dụng: Góc đọc, Góc viết, Góc nghệ thuật. Góc văn hóa địa phương, Góc trò chơi…
b. Thư viện góc lớp: Có thể là giá sách, tủ sách nhỏ, thường đặt ở cuối lớp.
* Tác dụng :
- Là giải pháp cho các trường có phòng thư viện hẹp, không đủ chỗ cho học sinh ngồi
đọc sách.
- Học sinh dễ dàng tiếp cận với sách và tài liệu.
- Hỗ trợ giáo viên trong việc tổ chức các hoạt động trong lớp học
- Tăng cường tính tự quản của học sinh.
*Tổ chức hoạt động:

7
- Giáo viên dùng nguồn tài liệu có trong thư viện góc lớp để tổ chức các hoạt động trong
môn kể chuyện, tập làm văn, vẽ, thủ công…;thi đọc sách, sáng tác truyện, vẽ minh họa…
- Học sinh có thể đọc sách để giải trí trong các giờ ra chơi để tạo tinh thần thoải mái
cho các em trong những tiết học tiếp theo.
- Tổ chức quyên góp sách….
* Tổ chức quản lí :
- Xây dựng nhóm hỗ trợ, chịu trách nhiệm cho các bạn mượn sách, trả sách, luân
chuyển sách với các lớp khác hoặc mượn sách từ thư viện trường nhằm xác định vai trò tự
chủ của các em trong hoạt động.
c.Thư viện lưu động:
- Là thư viện có thể di chuyển được, dưới hình thức là một tủ sách có bánh xe.
- Thư viện lưu động có thể sử dụng ở các trường không có đủ không gian phòng đọc
hoặc có nhiều dãy lớp học
- Thư viện lưu động sẽ do nhóm hỗ trợ quản lí.
d.Thư viện ngoài trời:
- Thư viện được đặt dưới tán cây xanh , chòi lá cọ hoặc hành lang lớp học.
- Thư viện ngoài trời sẽ do nhóm hỗ trợ hoặc lớp trực tuần quản lí.
- Thư viện ngoài trời nên chọn những loại sách mỏng, hấp dẫn có những thông tin khoa
học, lịch sử, tự nhiên thú vị vì giờ giải lao thường không nhiều.
3. Cách xây dựng thư viện thân thiện tại nhà trường
3.1. Bài trí thư viện trường học theo hướng thân thiện
a.Tại sao cần bài trí thư viện theo hướng thân thiện?
- Cách bài trí kiểu “cũ” học sinh khó tìm sách, không tạo cảm giác thoải mái khi đến
thư viện. Tạo ra một khoảng cách lớn giữa thư viện với người đọc.
- Việc thay đổi cách bài trí trên bằng một không gian hấp dẫn, khoa học, thuận tiện cho
việc sử dụng sẽ tạo cảm giác vui vẻ, hấp dẫn gần gũi. Giúp người đọc dễ dàng tiếp cận với
sách. Tạo bầu không khí thân thiện giữa người đọc với cán bộ thư viện, nhằm thu hút học
sinh và giáo viên sử dụng thư viện một cách hiệu quả.
b. Tiêu chí của bài trí theo hướng thân thiện:

- Hấp dẫn - Thuận lợi cho sử dụng
- Thoải mái - Khoa học
- Gọn gàng - Phù hợp
c. Cách bài trí:
- Không gian dành cho thư viện cần đạt tối thiểu bằng một phòng học (50 m
2
), sạch, đủ
ánh sáng, thoáng mát, an toàn.
- Chia các góc hoạt động rõ ràng, mỗi góc có dán tiêu đề, đủ dụng cụ phù hợp với đặc
thù của từng hoạt động, thuận tiện cho việc di chuyển.
- Các bảng biểu được trình bày một cách khoa học, hấp dẫn.
- Có chỗ cho học sinh trưng bày sản phẩm.
- Kích cỡ, kiểu dáng, chất liệu của bàn ghế, giá sách phải phù hợp. Nên có nhiều loại
giá sách khác nhau…
3.2. Xây dựng hệ thống quản lí thân thiện
Tiêu chí của hệ thống quản lí theo hướng thân thiện: Khoa học, dễ sử dụng đối với
người đọc và thuận tiện cho người quản lí.
a. Việc phân loại sách:
Một hướng giúp học sinh dễ tiếp cận, dễ tìm sách là kết hợp giữa phân loại đang sử
dụng với phân loại theo mã màu và có bảng hướng dẫn để giúp học sinh, giáo viên tìm
sách dễ dàng.
b. Hệ thống mượn, trả:
Mượn trả sách theo hướng tự phục vụ ( ví dụ một thẻ mượn sách )
8
Trường
THẺ MƯỢN SÁCH NĂM HỌC:

Họ và tên:
Lớp:
BGH Cán bộ thư viện

Đóng dấu Kí
c. Xây dựng lịch hoạt động
Khi xây dựng lịch hoạt động của thư viện thân thiện cần dựa vào một số căn cứ sau:
- Bám sát phân phối chương trình, kế hoạch chuyên môn của nhà trường.
- Chú ý đến nguyện vọng của học sinh, đề xuất của giáo viên.
- Thời gian của cán bộ thư viện, số lượng người sử dụng mà thư viện có thể phục vụ
trong một khoảng thời gian.
- Hiệu quả của các hoạt động.
- Cần có sự tham gia của học sinh và giáo viên.
d. Xây dựng nội qui thư viện
Thành phần tham gia xây dựng nội qui gồm: Học sinh, giáo viên, cán bộ thư viện.
Khi xây dựng nội qui thư viện cần chú ý các bước sau:
- Lớp và giáo viên thảo luận, đề xuất.
- Nhóm hỗ trợ, cán bộ thư viện tổng hợp ý kiến.
- Ban giám hiệu phê duyệt.
- Viết nội qui và trưng bày tại thư viện.
- Phổ biến nội qui đã thống nhất tới các thành viên.
e. Chọn sách
Khi chọn lựa loại sách để trang bị cho thư viện thân thiện cần chú ý một số căn cứ:
- Mục đích sử dụng.
- Nhu cầu, hứng thú, sở thích của người sử dụng thư viện (giáo viên và học sinh).
- Điều kiện sư phạm, khả năng tài chính của nhà trường.
4. Tổ chức hoạt động của thư viện thân thiện
4.1. Góc đọc
Mục đích: Góc đọc trong thư viện thân thiện hướng tới mục đích sau:
- Hình thành và phát triển thói quen đọc sách.
- Góp phần nâng cao kĩ năng đọc.
- Bổ sung kiến thức bài học.
- Tạo điều kiện để học sinh giải trí
Cách tổ chức: Các hoạt động có thể tổ chức ở góc đọc là:

- Đọc cá nhân, đọc theo nhóm.
- Bình luận sách.
- Thi đọc nhiều sách; thi kể chuyện theo sách.
- Tóm tắt sách.
- Câu lạc bộ đọc sách….
STT
Tên
sách
Ngày
Mượn

Ngày
trả
Kí( n
hóm
hỗ
trợ)
9
Bài trí góc đọc:
- Nên sử dụng bàn ghế đơn có thể kê được nhiều kiểu khác nhau, màu sơn tươi sáng
- Đồ dùng ở góc đọc: Giấy A4, Giấy bìa màu, Mẫu bình luận sách, Bút ( bút chì, bút bi,
Bút màu, màu sáp), Thẻ đánh dấu sách…
4.2. Góc viết
Mục đích: góc viết nhằm hướng tới mục đích:
- Hình thành và phát triển kĩ năng viết (đúng câu, đúng chính tả, đúng ngữ pháp, đúng
thể loại).
- Phát triển năng khiếu viết, rèn luyện viết chữ đẹp, cung cấp thông tin, thúc đẩy tư duy
sáng tạo
Cách tổ chức: Các hoạt động có thể tổ chức ở góc viết là:
- Viết thư - Làm thơ, viết văn

- Viết báo - Viết bảng tin
- Sáng tác truyện - Làm sách
- Thi viết đẹp-……
Bài trí góc viết:
- Bàn ghế nên kê ở vị trí yên tĩnh, Chiều cao đúng kích cỡ để học sinh có thể ngồi viết
thoải mái, bảng ghi rõ “góc viết”
- Đồ dùng: Giấy A4, Bút chì, bút bi,Giấy bìa màu A4, Kéo,Hồ dán-……
4.3. Góc nghệ thuật
Mục đích: góc nghệ thuật nhằm hướng tới mục đích:
- Tạo không gian cho HS được thư giãn, được thực hiện các sở thích về nghệ thuật.
- Tạo cơ hội cho HS thể hiện sự khéo léo, tính kiên trì, tỉ mỉ, phát huy tưởng tượng sáng
tạo nghệ thuật.
- Phát triển khả năng quan sát, cảm nhận, sáng tạo, thẩm mĩ và năng khiếu về hội họa,
tạo hình.
- Giúp tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp
Các hoạt động của góc nghệ thuật:
- Vẽ tranh - Làm thẻ đánh dấu sách
- Làm đồ chơi - Nặn tượng
- Nghe nhạc, đóng kịch, múa rối, hát…
Bài trí góc nghệ thuật:
- Trang trí bằng sản phẩm do chính HS làm ra để tạo cảm hứng nghệ thuật cho các em.
- Đồ dùng góc nghệ thuật: Giấy A4, giấy bìa màu, Bút chì, tẩy, kéo, hồ dán, Con rối tay,
con rối que, Đất nặn, Giấy vẽ, Bút vẽ, màu vẽ…
4.4. Góc văn hóa địa phương
Mục đích
- Bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống.
- Phát triển kĩ năng thu thập thông tin, xử lí thông tin, thuyết trình.
- Tự hào về bản sắc văn hóa địa phương.
Các hoạt động của góc văn hóa địa phương
- Sưu tầm, trưng bày nhạc cụ, trang phục, sản phẩm, các loàn điệu dân ca, món ăn, trò

chơi dân gian…
- Tìm hiểu về lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, phong tục tập quán địa phương…
Bài trí góc văn hóa địa phương
- Hình ảnh về danh lam thắng cảnh, lễ hội của địa phương, trưng bày các sản phẩm,
trang phục, nhạc cụ độc đáo của địa phương….
- Đồ dùng góc văn hóa địa phương: Giấy A4, gấy bìa màu, bút chì, màu, kim chỉ, vải….
4.5. Góc vui chơi
Mục đích
10
- Giải trí, thư giãn - Phát triển, củng cố kiến thức
- Rèn luyện kĩ năng tư duy, khả năng vận động.
- Tăng cường kĩ năng giao tiếp, tự nhận thức, hợp tác.
Các hoạt động
- Ghép tên tác phẩm với hình minh họa.
- Ghép tên tác giả với tác phẩm.
- Một số trò chơi phù hợp: Cờ vua, cá ngựa, xếp hình…
5. Các hoạt động đặc biệt của thư viện thân thiện
5.1. Hoạt động nghiên cứu dự án
- Lựa chọn chủ đề vừa sức (thủ thư lựa chọn và giao cho một nhóm học sinh có khả năng
làm việc)
- Lập kế hoạch nghiên cứu (học sinh)
- Thực hiện thu thập và xử lí thông tin (học sinh)
- Xây dựng sản phẩm (học sinh)
- Trình bày, chia, sẻ (thủ thư, học sinh)
2.Tổ chức ngày hội sách
- Giới thiệu sách mới
- Chia sẻ về phương pháp đọc sách
6. Sự tham gia tích cực, chủ động của học sinh và các đối tượng liên quan
6.1. Học sinh
Thường xuyên tạo cơ hội cho học sinh tham gia hoạt động thư viện để đáp ứng quyền

được tham gia; tăng cường tính tự chủ của học sinh; tăng cường lòng tự trọng, tự tin của
học sinh; phát triển các kĩ năng tư duy, kĩ năng xã hội cho học sinh
6. 2. Sự tham gia của nhóm hỗ trợ (cộng tác viên)
Nhóm hỗ trợ ( cộng tác viên) tham gia vào các hoạt động như:
- Trang trí, sắp đặt, dọn dẹp vệ sinh thư viện.
- Sắp xếp các đồ dùng, thiết bị trong các góc, sắp xếp lại giá sách.
- làm thẻ mượn sách, làm mã màu.
- Hướng dẫn các bạn hoạt động trong các góc, nhắc nhở mượn, trả sách
- Phụ trách thư viện ngoài trời, phân phối sách về thư viện góc lớp
- Tổ chức một số hoạt động của thư viện
- Hỗ trợ thư viện giới thiệu sách mới…
6. 3. Sự tham gia của cán bộ giáo dục, cán bộ giáo viên, nhân viên nhà trường
- Cấp quản lí: làm công tác tuyên truyền, chỉ đạo triển khai xây dựng thư viện thân thiện.
- BGH, nhân viên: Xây dựng kế hoạch, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ thư viện và học
sinh thực hiện.
6.4. Sự tham gia của cha mẹ học sinh, thành viên cộng đồng
- Hỗ trợ thư viện tổ chức các hoạt động.
- Hỗ trợ xây dựng thư viện (tự nguyện góp kinh phí xây dựng thư viện)
- Tham gia đánh giá thư viện….
7. Đánh giá thư viện trường học thân thiện
7.1. Nguyên tắc
Tất cả mọi thư viện trường học đều có khả năng trở thành thư viện thân thiện vì yếu tố
quyết định là chính sách và thái độ của cán bộ, nhân viên và giáo viên nhà trường.
7.2. Các thành tố đánh giá
Thành tố 1: Cơ sở vật chất đảm bảo cơ hội tiếp cận cho tất cả học sinh.
Thành tố 2: Bài trí hấp dẫn, khoa học.
Thành tố 3: Hệ thống quản lí thuận tiện cho ngừời sử dụng và quản lí.
Thành tố 4: Hoạt động đảm bảo sự phát triển toàn diện của học sinh và đáp ứng
nhu cầu của các em.
11

Thành tố 5: Sự tham gia tích cực, chủ động của cac đối tượng liên quan vào quá
trình xây dựng và hoạt động của thư viện.
Thành tố 6: Môi trường tâm lí xã hội thân thiện trong thư viện
II. Các loại tài liệu cần hỗ trợ học sinh dân tộc
1. Các loại tài liệu
1.1.Tài liệu cần cho Tiểu học
- Sách giáo khoa các môn lớp 1,2,3
- Sách chương trình: tài liệu chỉ ra những mối liên hệ giữa những kế hoạch bài giảng
với chuẩn kiến thức, kỹ năng cần đạt của chương trình
- Kế hoạch bài giảng hàng ngày
- Bảng từ của từng môn, từng năm học
- Giáo án mẫu các phân môn
1.2. Tài liệu bổ trợ phát triển Tiếng Việt như ngôn ngữ 2 cho học sinh dân tộc
thiểu số các lớp 1,2,3
a. Tài liệu phục vụ phát triển ngôn ngữ nghe và nói tiếng Việt
- Tranh khổ lớn với các khung cảnh quen thuộc (khoảng 20 tranh)
• Tranh khổ lớn theo chủ đề học trong SGK
• Tranh, ảnh phục vụ từng tiết học cụ thể, đặc biệt các tiết kể chuyện
• Những thẻ tranh về đồ vật, người hoặc động vật đang trong hành động, hoạt động nào
đó (đạp xe, cưỡi ngựa, thổi sáo…)
- Truyện khổ lớn và truyện đọc tham khảo các cấp độ
• Các sách hướng dẫn trò chơi, hướng dân hoạt động tình huống và các hoạt động tăng
cường ngôn ngữ nói tiếng Việt
• Các bài hát, bài thơ, ca dao tục ngữ
b. Tài liệu phát triển ngôn ngữ đọc và viết tiếng Việt
- Bảng chữ cái tiếng Việt
- Bảng âm vần tiếng Việt
- Từ điển tranh
- Truyện đọc tham khảo các cấp độ (khoảng 40 truyện cho cấp độ 1; 40 truyện cho cấp
độ 2; 40 truyện cho cấp độ 3)

- Vở luyện tập cho việc viết sáng tạo hàng ngày/ nhật ký ghi chép
- Các loại sách bài tập, sách hướng dẫn trò chơi phát triển ngôn ngữ…
c. Tài liệu phát triển vốn Văn hoá cộng đồng
Nguồn tài liệu tận dụng các nguyên liệu có sẵn trong cộng đồng làm đồ dùng trực quan
dạy học
- Các đồ dùng địa phương, đồ thủ công mỹ nghệ, trang phục và các đồ vật khác nhằm
thôi thúc, khuyến khich trẻ thảo luận và học tập
- Những bức tranh của cộng đồng nhằm khuyến khích trẻ thảo luận
- Những bài hát, bài thơ, câu truyện, tục ngữ …của địa phương.
2. Hướng dẫn cách sử dụng các nguồn tài liệu hỗ trợ học tiếng Việt
2.1. Cách xây dựng, sử dụng truyện tranh khổ nhỏ
a. Mục đích sử dụng
- Phát triển vốn ngôn ngữ tiếng Việt của học sinh DTTS
- Tăng cường kỹ năng đọc hiểu tiếng Việt
- Tăng trí tưởng tượng thông qua các hình ảnh và trải nghiệm diễn ra trong truyện
- Có thêm về kiến thức, văn hoá của dân tộc mình cũng như các dân tộc khác;
- Góp phần xây dựng thói quen và niềm ham thích đọc sách.
b. Hình thức thể hiện
- Tranh vẽ rõ ràng, dễ hiểu, thông điệp của tranh chính xác, dễ hiểu với học sinh, giúp
truyền đạt nội dung truyện;
12
- Kiểu chữ: chữ in thường;
- Tranh ở trên, chữ ở dưới, tách ngoài tranh. Đối với học sinh mới tập đọc, tranh chiếm
khoảng ½ -2/3 trang giấy để chữ viết được to, rõ ràng.
c. Nội dung miêu tả
Tranh miêu tả những chủ đề, địa điểm, tên nhân vật quen thuộc với HS
- Nội dung đơn giản, dễ nhớ
- Cốt truyện hấp dẫn, gây hứng thú;
- Nội dung giữa tranh và lời phù hợp;
- Từ ngữ sử dụng tự nhiên, trong sáng, tránh các từ trừu tượng, các từ khoá chính là

những từ HS đã biết;
- Cấu trúc ngữ pháp đơn giản, dễ hiểu, phù hợp với trình độ tiếng Việt của HS
d. Phân loại tranh
Cấp độ 1:
- Giai đoạn đầu: 6-8 trang, mỗi trang 1 câu
- Giai đoạn sau: 8-12 trang, mỗi trang 2-3 câu
Cấp độ 2:
- Giai đoạn đầu: 10-15 trang, mỗi trang 3-6 câu
- Giai đoạn sau: 15 –30 trang, mỗi trang 3-6 câu
Đối với học sinh DTTS lớp 1,2,3 mới bắt đầu học tiếng Việt, truyện đọc tham khảo nên là
những truyện đọc ở cấp độ 1. Cấp độ 3 - 4: không giới hạn số tranh và số trang, tuỳ thuộc
vào trình độ ngôn ngữ, lứa tuổi và loại văn bản
d. Cách sáng tác, xây dựng truyện tranh
- Giáo viên và học sinh có thể tự sáng tác truyện theo những chủ đề quen thuộc trong
cộng đồng và trong chương trình, sử dụng các vốn từ vựng, cấu trúc ngữ pháp mà học sinh
đã được học.
- Giáo viên dựa vào vốn văn hoá dân gian để rút gọn thành các câu chuyện đơn giản cho
học sinh đọc vì những nội dung này quen thuộc và dễ nhớ đối với trẻ.
- GV dựa vào những truyện kể, truyện đọc, bài đọc trong SGK để điều chỉnh, rút gọn lại
cho phù hợp với trình độ của học sinh. Thông qua đó, học sinh có thể hiểu bài, ôn luyện để
nhớ lại các ý chính của bài.
- GV huy động sự tham gia của các thành viên cộng đồng cùng sưu tầm, viết, vẽ các câu
chuyện gần gũi với trẻ, sử dụng vốn văn hoá địa phương.
- Giáo viên chỉnh sửa/biên soạn lại giúp học sinh những truyện các em tự sáng tác thông
qua trí tưởng tượng hoặc các trải nghiệm của mình.
* Chú ý : Đối với lớp 1,2 HS tưởng tượng và kể chuyện bằng ngôn ngữ thứ nhất, GV ghi
lại bằng tiếng Việt và sử dụng tranh của HS tự vẽ.
Ở lớp 3, HS có thể bắt đầu sáng tác truyện bằng tiếng Việt và GV hỗ trợ các em về ngôn ngữ
d. Cách sử dụng truyện tranh
- Dùng như truyện đọc tham khảo cho học sinh đọc cá nhân, theo cặp hay theo nhóm

nhỏ. Nên để học sinh được đọc truyện trong môi trường quen thuộc, thoải mái để tăng sự
thích thú khi đọc truyện.
- Khuyến khích các em thảo luận để nắm vững nội dung truyện (các nhân vật, các hoạt
động, chuyện gì sẽ xảy ra nếu…thay đổi cách kết truyện). Học sinh có thể thảo luận bằng
tiếng mẹ đẻ nếu chưa đủ vốn từ tiếng Việt ; học sinh có thể đọc diễn cảm, nhìn tranh kể
chuyện, sắm vai diễn theo các nhân vật trong truyện bừng tiếng Việt.
- Để phát triển ngôn ngữ cho học sinh, giáo viên cũng nên khuyến khích học sinh học
một số từ ngữ/câu hay cách diễn đạt mà trẻ thích; đoán nghĩa của từ mới dựa vào tranh
minh hoạ hoặc ngữ cảnh; trả lời các câu hỏi đọc hiểu; tập kể lại truyện một cách sinh
động, diễn cảm; giao cho học sinh một số bài tập về ngôn ngữ như "tìm từ diễn tả …",
"tìm cách nói khác của …", "đặt câu với …"
13
- Hướng dẫn trẻ viết cảm nghĩ của mình sau khi đọc truyện. Nếu vốn từ của trẻ chưa đủ,
giáo viên có thể trợ giúp học sinh về từ ngữ, hoặc trẻ cũng có thể "vẽ" lại những ý mà
mình muốn diễn đạt.
2.2. Cách xây dựng, sử dụng truyện tranh khổ lớn
a. Mục đích sử dụng
- Truyện tranh khổ lớn dùng để luyện cấu trúc và tập đọc,dành cho đối tượng trẻ mới
bắt đầu học tiếng Việt.
- Truyện tranh khổ lớn dùng để nâng cao vốn từ vựng, cấu trúc tiếng Việt, luyện kỹ
năng đọc cho trẻ, khơi gợi niềm ham thích đọc sách và phát huy trí tưởng tượng.
b. Phân loại
- Truyện tranh khổ lớn luyện cấu trúc:có cấu trúc hoặc câu được lặp đi lặp lại trong các
trang. Một trang truyện có thể có 4-5 câu trong đó có 1 -2 câu hoặc cấu trúc được nhắc lại
nhiều lần.
- Truyện tranh khổ lớn bình thường: là loại truyện tranh đơn giản được phóng to cho trẻ
cùng xem và cùng đọc với nhau
c. Hình thức thể hiện
- Khổ giấy lớn: dễ nhìn (thường là khổ giấy A3), tranhvà chữ in to, rõ ràng
- Tranh sinh động, bắt mắt, dễ hiểu, nét vẽ đơn giản

- Kiểu chữ: chữ in thường
- Dùng bìa cứng để có thể để truyện dựng trên bàn, trên giá
c. Nội dung miêu tả
- Chủ đề quen thuộc, thân thiện gần gũi với đời sồng
- Nội dung truyện dễ nhớ, hấp dẫn
- Lời dẫn truyện đơn giản, sử dụng từ ngữ tự nhiên, địa danh quen thuộc, gần gũi với
học sinh
- Từ, ngữ, cấu trúc câu sử dụng tự nhiên, dễ hiểu. Các từ khoá chính là các từ học sinh
đã được học
- Nội dung giữa tranh và lời phù hợp
- Mỗi trang truyện có thể tới 4-5 câu, trong đó có từ 1-2 câu/cấu trúc được lặp đi lặp
lại.
d. Cách làm
- Giáo viên lựa chọn các cấu trúc câu học trong sách tiếng Việt (trong phần Luyện từ
và Câu hoặc trong các bài đọc)
- Sáng tác các câu chuyện dựa trên cấu trúc đóvới các chủ đề phù hợp và quen thuộc
với học sinh
- GV tự vẽ tranh minh hoạ đơn giản
- Sử dụng giấy khổ A3(hoặc các cuốn lịch treo tường để có khổ giấy lớn, và dùng bìa
cát tông dán giấy để làm bìa sách)
- Tranh bên trái và lời truyện bên phải
e. Cách sử dụng
* Đọc cá nhân, đọc theo nhóm
Giáo viên có thể để học sinh xem tranh và đọc truyện theo hình thức đọc cá nhân hoặc
đọc nhóm như truyện tranh bình thường để xây dựng sự hứng thú đọc truyện hoặc luyện
các cấu trúc câu mà các em đã được học.
- Giới thiệu truyện: Trước khi bắt đầu vào truyện, giáo viên nên có phần dẫn dắt đến nội
dung truyện, hỏi các câu hỏi liên quan đến chủ đề truyện.
- Đọc truyện
Các bước đọc truyện

+ Giáo viên đọc toàn bộ truyện cho học sinh nghe.
+ Giáo viên đọc lại truyện cùng với học sinh.
14
+ Giáo viên đọc từng phần lời truyện cùng với1 hoặc 2 học sinh xung phong.
+ Giáo viên gọi 1 hoặc 2 học sinh xung phong tựđọctừng phần lời truyện.
+ Giáo viên đọc lại toàn bộ truyện cùng với học sinh.
Phương pháp tiến hành đọc :
+ Khi lần đầu đọc cho học sinh nghe, giáo viên cho học sinh xem bức tranh thứ nhất, hỏi
trẻ tranh vẽ về cái gì? Sau đó giáo viên đọc lời cho tranh thứ nhất.
+ Trước khi sang tranh thứ 2, giáo viên cần gợi trí tò mò, sáng tạo của học sinh bằng
cách đặt ra các câu hỏi: “Em nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra? Tại sao?” để tăng tính hấp dẫn.
+ Khi vào nội dung tranh thứ 2, GV chỉ vào bức tranh và hỏi các câu hỏi: Ai, Cái gì?
Khi nào? Như thế nào? (theo nội dung tranh) rồi mới đọc lời tranh thứ 2.
+ Giáo viên thực hiện các bước tương tự đối với các tranh tiếp theo.
*Các hoạt động luyện tập
- Học sinh kể/diễn lại truyện, thay đổi kết thúc truyện hoặc thay đổi nhân vật trong
truyện
- Khai thác truyện tranh cho các hoạt động: phát triển ngôn ngữ nói, tìm từ, tìm câu,
phát triển câu mới.
- Học sinh có thể tự vẽ về câu chuyện, tự bổ sung lời và kể lại cho các bạn khác nghe.
*Kể chuyện theo tranh
- Dùng truyện tranh khổ lớn trong giờ kể chuyện, GV chỉ sử dụng và khai thác phần
tranh, còn phần chữ nên che không để HS nhìn thấy
- Dùng các tranh để kể như một giờ học kể chuyện thông thường, nhấn mạnh vào các
cấu trúc câu lặp lại.
- Khi kể chuyện cho HS, giáo viên cần bảo đảm là học sinh đã nắm chắc và hiểu tường
minh nghĩa các từ khóa và cấu trúc bằng tiếng Việt trước khi được nghe kể chuyện.
- Sau khi kể, giáo viên có thể đưa ra phần lời có chữ khổ to để học sinh học đọc bằng
tiếng Việt.
2.3. Cách xây dựng, sử dụng tranh chủ đề

a. Thế nào là tranh chủ đề ?
Tranh chủ để là tranh thể hiện một chủ đề cụ thể có liên quan đến đời sống hàng ngày;
Khổ tranh lớn (A2 hoặc A3); Tranh vẽ rõ ràng.
b. Mục đích sử dụng
- Giúp HS phát triển kỹ năng ngôn ngữ nói và viết (từ vựng, cách nói/viết liền mạch, có
nghĩa),
- Giúp HS học/củng cố lại vốn từ vựng cấu trúc câu dùng để miêu tả, trình bày hoặc viết
về một chủ đề cụ thể
- Hình ảnh trong tranh giúp trẻ phát triển nhận thức, nâng cao kỹ năng giải thích, liên hệ
và tích hợp thông tin
- Nâng cao kỹ năng tư duy và phát triển trí tưởng tượng
c. Cách lựa chọn chủ đề cho tranh
- Các chủ đề quen thuộc: các cảnh, sự kiện trong cộng đồng (cảnh lễ hội, cảnh chợ, cảnh
sinh hoạt cộng đồng, cảnh lên rẫy, cấy lúa, ….)
- Minh họa các chủ đề trong SGK: gia đình, trường học, bạn bè, quê hương, động vật,
cây cối….
- Các chủ đề khác: các mùa, thời tiết, các khoảng thời gian trong ngày; các trải nghiệm
hàng ngày của học sinh
d. Cách sử dụng
- Dùng trong các hoạt động:phát triển ngôn ngữ nói tiếng mẹ đẻ, phát triển ngôn ngữ
nói tiếng Việt.
- Giới thiệu từ mới, giới thiệu bài tập đọc
- Hoạt động động não tìm ý trong bài tập làm văn.
15
- Hoạt động vẽ/viết sáng tạo
- Hình thức thực hiện:hoạt đông tập thể lớp, hoạt độngnhóm
* Một số lưu ý khi sử dụng tranh chủ đề
- GV sử dụng các câu đơn giản để miêu tả, so sánh, …
- GV có thể chuẩn bị một số từ vựng hoặc các cụm từ/cấu trúc liên quan đến chủ đề
- GV dựa vào nội dung bài học và yêu cầu chuẩn kiến thức và kỹ năng cần đạt của học

sinh ở giai đoạn đó để đưa ra các yêu cầu phù hợp.
- Có thể sử dụng tiếng mẹ đẻ nếu HS chưa tự tin và chưa đủ vốn từ tiếng Việt
2.4. Một số cách xây dựng truyện tham khảo cho học sinh dân tộc thiểu số
a.Tự sáng tác truyện
Đây là những câu chuyện do giáo viên, học sinh, người cộng đồng tự sáng tác. Chủ
đề phản ánh về con người, cảnh vật, hoạt động quen thuộc, phù hợp với văn hoá cộng
đồng và lứa tuổi HS
Ví dụ: Truyện do các thành viên trong cộng đồng tự sáng tác; Truyện trải nghiệm của
các thành viên trong cộng đồng
b. Điều chỉnh, lược sửa truyện
Truyện có sẵn trong và ngoài cộng đồng được điều chỉnh lại cho phù hợp với trình độ
ngôn ngữ và vốn sống của học sinh
Ví dụ:Truyện cổ tích của các dân tộc được rút ngắn,Truyện trong SGK được lược bớt,
Truyện đọc/ truyện tranh tiếng Việt được điều chỉnh
c. Dịch truyện
Những câu chuyện của dân tộc khác hoặc truyện nước ngoài: Ngôn ngữ, lời văn, nhân
vật, cốt truyện được dịch trực tiếp sang tiếng Việt; Chủ yếu dành cho đối tượng đã tương
đối thành thạo ngôn ngữ tiếng Việt
Ví dụ:Truyện của các dân tộc khác dịch sang tiếng Việt, Truyện nước ngoài dịch sang
tiếng Việt
d. Mua truyện in sẵn ngoài thị trường
Truyện sẵn có trên thị trường phù hợp với đối tượng học sinh đã tương đối thành thạo
ngôn ngữ tiếng Việt
Ví dụ:Truyện mua trực tiếp từ các nhà xuất bản hoặc các hiệu sách

16
Modul 3. PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG NGHE, NÓI, ĐỌC, VIẾT CHO
HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ
A. Đặt vấn đề : Thực tế việc học tiếng Việt của học sinh dân tộc thiểu số
I. Đặc điểm học sinh dân tộc thiểu số khi học tiếng Việt

1. Học sinh dân tộc thiểu số học tiếng Việt là học ngôn ngữ thứ hai
Ở bậc Mầm non tuy HS có học tiếng Việt nhưng bậc Tiểu học tiếng Việt vẫn là một
ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ. Nguyên nhân là do đời sống sinh hoạt đồng bào sử dụng ngôn
ngữ mẹ đẻ rất tự nhiên, bản năng. Họ ngại sử dụng tiếng Việt (vốn kiến thức về tiếng Việt
ở họ quá ít ỏi, cũng có lẽ vì bản năng ngôn ngữ mẹ đẻ luôn tồn tại trong tâm thức họ). Học
sinh vẫn chỉ sử dụng tiếng mẹ đẻ khi rời trường, rời lớp; nhiều em không thể sử dụng tiếng
Việt, quên ngay những kiến thức về tiếng Việt đã học trên lớp; thụ động, thiếu linh hoạt
khi giao tiếp bằng tiếng Việt.
2. Mặc cảm của học sinh dân tộc thiểu số khi đến trường học tiếng Việt
Vốn kiến thức về tiếng Việt ở các em hạn chế, ít ỏi nên các em rất ngại phải giao tiếp
bằng tiếng Việt, lo sợ phải phát biểu xây dựng bài trong giờ học, lo ngại phải giao tiếp với
giáo viên ngoài giờ học, đặc biệt là các em rất khó tiếp thu bài ở những môn học khác.
Điều này đồng nghĩa với việc hạn chế sự phát triển tư duy ở các em, khó tạo ra một môi
trường giáo dục thân thiện! Học sinh đã bắt đầu lo lắng cho mỗi giờ đến lớp, "sợ" phải đến
trường. Học tập tiếng Việt lúc này là công việc quá khó khăn đối với các em.
3. Đội ngũ giáo viên
Đa số giáo viên người Kinh ở nơi khác đến giảng dạy ở buôn làng các tỉnh Tây Nguyên đều
không biết ngôn ngữ dân tộc (nếu biết thì cũng chỉ dừng ở mức độ rất ít), nên họ không thể so
sánh, đối chiếu, liên hệ khi gặp những tình huống cần thiết trong dạy học tiếng Việt cho đối
tượng học sinh đặc biệt này. Mặt khác họ không có điều kiện tìm hiểu phong tục tập quán, nên
khó có thể tiếp cận với phụ huynh, gia đình các em, khó rút ngắn khoảng cách, xóa ranh giới
không cần thiết giữa thầy và trò, để dạy tiếng Việt hiệu quả. Trong khi đó số lượng giáo viên
bản địa còn quá ít không thể đáp ứng nhu cầu dạy song ngữ
II. Những điểm khác biệt giữa HSDT với HS
người Ki
nh khi học
tiếng Việt
1. Về điểm xuất phát khi học tập
- HS người Kinh đã có vốn tiếng Việt đủ để tìm hiểu thế giới xung quanh. Các em được
học một ngôn ngữ đã sử dụng trong khoảng 5 năm trước khi tới trường với một vốn từ

khoảng 4.000 - 4.500 từ và những cấu trúc câu cơ bản. Ngoài ra, các em có điều kiện thời
gian và cơ hội sử dụng tiếng Việt liên tục với nhiều người trong gia đình, cộng đồng dân cư;
được tham gia giao tiếp với nhiều mục đích khác nhau trong cuộc sống ngoài nhà trường.
- HSDT trước khi đi học các em mới chỉ nắm vững tiếng mẹ đẻ và phát triển nhận
thức bằng tiếng mẹ đẻ chứ không phải bằng tiếng Việt. Vốn tiếng Việt của các em rất ít,
chưa chuẩn xác trong cách phát âm và sử dụng. Khi đến trường các em mới bắt đầu học
tiếng Việt và các em phải học tiếng Việt trên cơ sở kinh nghiệm của tiếng mẹ đẻ (chịu tác
động của hiện tượng giao thoa ngôn ngữ).
2. Môi trường học tiếng Việt bị bó hẹp
Khi học tiếng Việt, HS người Kinh có rất nhiều cơ hội giao tiếp với người lớn ở mọi
lúc, mọi nơi, trong và ngoài nhà trường. Những lĩnh vực được tiếp cận khi đối thoại rất đa
dạng và phong phú. HSDT chỉ giao tiếp tiếng Việt duy nhất với thầy, cô giáo qua môi
trường lớp học. Do số HS trong lớp thì đông mà lại chỉ có một GV nên cơ hội giao tiếp
bằng tiếng Việt giữa HS và GV rất có hạn. Nội dung các vấn đề được đề cập trong các
17
cuộc giao tiếp chủ yếu chỉ liên quan tới bài học, trong khi các vấn đề của đời sống ngôn
ngữ lại luôn sôi động và đa dạng.
3. Quá trình học tiếng việt của HSDT luôn chịu cộng hưởng từ tiếng mẹ đẻ
Theo một xu hướng tự nhiên, những thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ được HSDT đưa
vào trong quá trình học tiếng Việt. Hệ quả tất yếu là, những yếu tố giống nhau giữa tiếng
Việt và tiếng dân tộc tạo điều kiện thuận lợi, còn những yếu tố khác nhau lại cản trở, gây
khó khăn cho HSDT khi học tiếng Việt. Đây chính là nguyên nhân khiến HSDT mắc các
lỗi khi sử dụng tiếng Việt như: lỗi phát âm, lỗi dùng từ, lỗi sử dụng câu.
B. Định hướng phương pháp phát triển kỹ năng nghe, nói, đọc, viết trong dạy tiếng
Việt cho học sinh dân tộc thiểu số :
I. Kỹ năng phát âm, đánh vần
1.Tầm quan trọng của việc dạy HS phát âm đúng
- Bất kì một ngôn ngữ nào cũng bao gồm hệ thống ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Để
nắm được một ngôn ngữ nào đó, trước hết phải nắm được hệ thống ngữ âm. Người học phải
phát âm được các âm đơn lẻ cũng như những đơn vị cao hơn là tiếng, từ, câu. Cuối cùng là

cách sử dụng chúng để người khác hiểu thông qua ngôn ngữ nói và viết. Mục đích của việc
học một ngôn ngữ nào đó là để có thêm một phương tiện giao tiếp, để học tập Việc học
phát âm và phát âm đúng chính là điều kiện cơ bản đầu tiên để đảm bảo cho người học chiếm
lĩnh được ngôn ngữ đó. Nếu phát âm không đúng trước hết làm cho người khác không hiểu
được điều mình nói. Từ phát âm lệch chuẩn dẫn tới viết sai. Như vậy người học sẽ không sử
dụng có hiệu quả ngôn ngữ mà mình đang học.
- Trẻ bắt đầu học nói tiếng mẹ đẻ khi được một năm tuổi. Đứa trẻ được bố mẹ, ông bà,
anh chị dạy nói từng âm, từng từ. Như vậy, đứa trẻ được lớn lên trong môi trường ngôn
ngữ đó một cách rất tự nhiên. Nó bắt đầu biết nói những mẫu câu đơn giản để bày tỏ ý muốn
của mình. Đến sáu tuổi đứa trẻ đã có một vốn từ khá phong phú và những mẫu câu cơ bản để
có thể giao tiếp được trong môi trường sống của mình. Người lớn và cộng đồng luôn là người
hướng dẫn đứa trẻ trong quá trình sử dụng tiếng mẹ đẻ. HSDT khi tới trường mới bắt đầu tiếp
xúc, làm quen và học tập bằng tiếng Việt (ngôn ngữ thứ 2-một ngôn ngữ hoàn toàn mới lạ).
Các em không có thời gian để học nói tiếng Việt trước, cũng không có điều kiện để tiếp xúc,
để được mọi người xung quanh dạy nói một cách tự nhiên như HS người Kinh. Ngay lập tức
khi tới trường, các em phải học đồng thời cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Các em phải
làm quen với một hệ thống âm không hoàn toàn giống với tiếng mẹ đẻ.
Với người học ngôn ngữ 2 thì khâu phát âm đóng vai trò quan trọng, khi đã quen với cách
phát âm thì những khâu tiếp theo như đọc tiếng, từ, câu sẽ dễ dàng hơn. Bởi vậy, cần phải
dạy cho các em phát âm đúng ngay từ khi học âm vần tiếng Việt
- GV cần quan tâm tới việc phát âm đúng với những âm, vần, tiếng, từ cụ thể ngay từ
những bài học âm, vần đầu tiên. Nếu các em phát âm không tốt sẽ ảnh hưởng tới chất lượng
đọc, viết và ảnh hưởng tới chất lượng các môn học khác. Để phát âm đúng đòi hỏi các em
phải được hướng dẫn theo những phương pháp phù hợp, có thời gian thực hành luyện tập.
GV là người có vai trò quan trọng trong các hoạt động tiếp nhận hệ thống âm vần tiếng Việt
của các em, ngoài ra sự nỗ lực của bản thân người học cũng rất cần thiết.
2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến việc học sinh dân tộc phát âm không đúng
- Khả năng nghe để phân biệt về mặt âm thanh ngôn ngữ của HS hạn chế, đặc biệt là
những âm, vần, tiếng, từ đọc gần giống nhau.
- Khó thực hiện các thao tác phát âm với những âm khó hoặc những âm khác lạ với tiếng

mẹ đẻ của các em như điểm đặt lưỡi, cách bật hơi, độ mở của miệng Sự điều khiển luồng
hơi và các bộ phận của bộ máy phát âm chưa nhịp nhàng linh hoạt.
3. Định hướng phương pháp rèn luyện HSDT phát âm đúng
3.1.Yêu cầu rèn luyện
18
3.1.1. Luyện khả năng tri giác âm thanh ngôn ngữ cho HS
Khi nghe phát âm, âm thanh ngôn ngữ truyền đến tai HS tạo ra những xung động ở
bán cầu đại não khiến HS nhận biết và phân biệt được các âm thanh ngôn ngữ khác
nhau. Hoạt động đó được gọi là sự tri giác âm thanh ngôn ngữ. Trẻ chỉ có thể phát âm
lại được khi nó nghe được một cách chính xác, rõ ràng, vì vậy việc luyện kĩ năng nghe
cho trẻ là hết sức quan trọng.
Mục tiêu môn tiếng Việt ở Tiểu học là dạy cho HS cả bốn kĩ năng nghe, nói, đọc,
viết. Trong SGK của chương trình Tiểu học mới, kĩ năng nghe thường xuất hiện dưới
dạng yêu cầu nghe và kể lại nội dung một đoạn truyện hay một câu chuyện nào đó
trong giờ kể chuyện
Với HSDT việc rèn kĩ năng nghe là yêu cầu quan trọng hàng đầu bởi nghe có một
vai trò hết sức quan trọng. Nếu không nghe tốt, HS không thể nhận diện được âm, tiếng,
từ, câu để phát âm lại. HS phải nghe và hiểu tốt mới có thể tiếp thu bài học và có thể
giao tiếp được. Để rèn luyện kĩ năng này, cần phải có một số bài tập bổ trợ, đặc biệt
là những lớp đầu cấp tiểu học. GV có thể thông qua những trò chơi vận động, khởi
động đầu giờ, giữa giờ, trò chơi học tập để rèn kĩ năng nghe, hiểu, xử lí thông tin
nhanh và phản xạ ngôn ngữ cho HS.Nội dung các bài tập có thể là :
- Nghe, phân biệt các từ có âm vần giống nhau : be, bè, bé, bẻ, bẽ, bẹ
- Nghe và nhận diện hai âm, vần gần nhau : cái kẻng/ cái xẻng
- Nghe và nhận biết các vần có trong tiếng, từ
- Nghe và ghép đúng các mảnh thẻ từ được cắt rời thành tiếng, từ
Để HS nhận biết chính xác các âm thanh ngôn ngữ đòi hỏi việc phát âm mẫu của GV
phải chuẩn xác, tròn vành rõ tiếng, HS được thực hành luyện tập nghe nhiều và thường
xuyên. Trong giao tiếp với HS, lời nói của GV phải chậm rãi rõ ràng, dễ hiểu, nên sử
dụng nhiều câu đơn hơn là câu phức, nhiều thành phần để HS dễ nghe, dễ hiểu.

3.1.2. Luyện vận động các bộ phận của cơ quan phát âm
Cơ quan phát âm gồm: phổi, các dây thanh, lưỡi, răng, môi, ngạc cứng, ngạc mềm.
Các âm được phát ra chuẩn chỉ trên cơ sở các bộ phận của bộ máy phát âm hoàn chỉnh
và HS có khả năng điều khiển bộ máy phát âm. Một trong những bộ phận nào đó của cơ
quan phát âm có khuyết tật như lưỡi ngắn, môi hớt, răng thưa sẽ làm cho sự phát âm
trở nên khó khăn, các âm được phát ra sẽ thiếu chính xác.
Trước khi hướng dẫn HS phát âm, GV cần phát âm mẫu nhiều lần, thật chậm để HS
quan sát khuôn miệng cũng như cách cử động của môi, lưỡi, hàm của GV. GV nên
hướng dẫn HS vận động các bộ phận của cơ quan phát âm như : độ uốn của lưỡi, độ mở
của miệng, hình dạng của môi, độ mạnh của hơi trước khi tập phát âm một âm, vần cụ
thể nào đó.
3.1.3. Luyện giọng để phát âm tròn vành rõ tiếng
Cường độ âm thanh khi phát âm rất quan trọng để phát âm tròn vành rõ tiếng. Phát
âm nhỏ quá luồng hơi không thoát ra hết sẽ rất khó nghe. Phát âm quá to sẽ gây cảm
giác chói tai khó chịu cho người nghe mà vẫn không rõ. Cần luyện giọng phát âm vừa
phải, phát âm bằng chính giọng thật của mình, không lí nhí trong cổ họng, không the
thé Muốn HSDT phát âm đúng, cần luyện cho các em cách lấy hơi, bật hơi, há
miệng chuẩn xác.
3.2. Phương pháp và hình thức rèn luyện phát âm
3.2.1. Phương pháp luyện phát âm theo mẫu
Mẫu có thể từ băng hình, băng tiếng hoặc là giọng phát âm mẫu của GV. Với vùng
dân tộc, miền núi do thiếu các phương tiện dạy học thì mẫu phổ biến nhất là phát âm
trực tiếp của GV. Đây là một phương pháp chủ đạo trong việc dạy phát âm cho HSDT.
Thực hiện phương pháp này, khi dạy phát âm, GV phát âm mẫu vài ba lần một âm
19
hoặc một từ nào đó, miệng hướng về phía HS cho tất cả HS đều thấy và nghe rõ. GV
yêu cầu HS nhắc lại nhiều lần (cá nhân và đồng thanh). GV theo dõi HS phát âm và sửa
lỗi phát âm cho HS. Được trực tiếp quan sát, nghe và bắt chước cách phát âm của GV,
HS sẽ nhanh chóng học được cách phát âm đúng.
Việc luyện tập phát âm được tiến hành với các mức độ khác nhau: phát âm âm, vần

rời, phát âm tiếng, từ có chứa âm vần đó, đọc câu, bài khoá có tiếng chứa âm, vần đó.
Bởi vì trong thực tế giao tiếp âm, vần tiếng Việt không đứng độc lập riêng lẻ mà
nằm trong các đơn vị ngôn ngữ trên nó (đơn vị tiếng).
Khả năng bắt chước của trẻ rất lớn. GV cần động viên HS nghe và tập phát âm theo
thầy, cô ; nghe và tập phát âm theo bạn ; tập phát âm trong giờ học, ngoài giờ
học thông qua các tình huống giao tiếp cụ thể, thông qua các trò chơi Để thay đổi
hình thức hoạt động, tăng sự hấp dẫn đối với học trò, GV có thể sử dụng băng, đĩa
cát sét có ghi âm sẵn cho các em nghe và luyện tập theo.
3.2.2. Phương pháp quan sát và giải thích cách phát âm
Với những âm, tiếng khó phát âm, khi phát âm GV có thể mô tả bằng cách: nêu rõ
cách đặt lưỡi, vị trí của lưỡi với răng, độ mở của môi Ở giai đoạn đầu học tiếng Việt
của HS, do khả năng nghe của HSDT chưa tốt nên GV cần sử dụng các từ ngữ mô
tả dễ hiểu, kết hợp với việc cho HS quan sát GV phát âm. Thông qua quan sát GV
phát âm, kết hợp với việc điều chỉnh các bộ phận của cơ quan phát âm của mình, HS
sẽ dễ dàng phát âm đúng một âm nào đó.
3.3.3. Phương pháp tổ chức trò chơi học tập
Trò chơi học tập là một phương pháp cung cấp kiến thức hoặc củng cố khắc sâu nội
dung kiến thức của bài thông qua một trò chơi. Có thể tận dụng trò chơi học tập để
luyện phát âm cho HS.
Trò chơi học tập là hình thức hoạt động rất phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi của HS
tiểu học. Trò chơi phù hợp, gắn với nội dung bài, hấp dẫn sẽ có tác dụng tốt với việc
luyện phát âm của HS. Trong việc đổi mới phương pháp dạy học, trò chơi học tập được
coi là một nội dung học tập, một hoạt động không thể thiếu trong mỗi giờ học.
Các trò chơi học tập nhằm luyện phát âm rất phong phú đa dạng sinh động. Từ một mô
hình trò chơi, GV có thể sáng tạo ra rất nhiều trò chơi để vận dụng cho từng bài cụ thể.
Ví dụ :
- Trò chơi nghe và đọc vần, tiếng, từ theo giai điệu : cao, thấp, nhanh, chậm
- Nghe và nhận biết các vần có trong tiếng, từ và đọc lại
- Nghe, đọc lại và ghép đúng các mảnh thẻ từ được cắt rời thành tiếng, từ
- Tìm bạn có từ cùng vần với mình và đọc.

- Đọc đúng vần, tiếng hoặc từ được tạo thành khi bánh xe vần dừng lại trên
băng vần.
- Dùng tranh, hình vẽ che từ có nghĩa tương ứng trong bài đọc ứng dụng cho
HS
đoán từ và đọc.
II. Kỹ năng nghe, nói tiếng Việt
1. Dạy nói tiếng Việt thông qua dạy từ
1.1. Những hình thức phát triển ngôn ngữ nói
Trong Chương trình tiếng Việt Tiểu học, tuy không có phân môn dành riêng cho phát
triển kĩ năng nói nhưng phân môn Học vần, Luyện tập tổng hợp (lớp 1), Tập làm văn và
Kể chuyện đều có nội dung phát triển ngôn ngữ nói. Chương trình có những hình thức
phát triển ngôn ngữ nói như sau :
Luyện nói ở lớp 1 : luyện nói theo chủ đề (kể chuyện); luyện nói câu có tiếng chứa âm vần
đã học ; hội thoại theo nội dung bài đọc hoặc về một chủ đề đơn giản, gần gũi với trẻ em.
- Rèn luyện các nghi thức lời nói trong giao tiếp thông thường (Tập làm văn): chào hỏi,
20
cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu
- Thực hành trao đổi, trò chuyện với người khác (Tập làm văn): họp lớp, họp Đội; giải
thích vấn đề đang trao đổi; tán thành, bác bỏ hay bảo vệ một ý kiến
- Nói thành bài (Tập làm văn): giới thiệu về bản thân, gia đình, bạn bè; thông báo tin
ngắn; thuật lại câu chuyện hoặc sự việc đã nghe, đã chứng kiến
1.2. Tầm quan trọng của việc dạy nói thông qua dạy từ
- Lời nói là một hoạt động của con người, là sự thể hiện tư duy dựa vào phương tiện ngôn
ngữ (từ, cụm từ, câu ). Muốn nói tốt, ngoài yêu cầu phát âm còn phải có vốn từ ngữ vì từ
ngữ là chất liệu được sử dụng để nói ; nếu không có vốn từ HS sẽ không thể nói được.
- Trong dạy nghe, nói tiếng Việt thì việc dạy từ là bước đi đầu tiên và có vai trò quan
trọng. Đối với HSDT thì công việc này lại càng cần thiết vì vốn từ tiếng Việt của trẻ em
dân tộc trước khi tới trường rất hạn chế; phần lớn các em trước khi đi học chưa nói được
tiếng Việt thành thạo. Số trẻ nói được chút ít thì phát âm cũng chưa chuẩn, hiểu nghĩa từ
chưa chính xác

1.3. Phương pháp dạy nói thông qua dạy từ
1.3.1. Cung cấp nghĩa từ
Có nhiều phương pháp cung cấp nghĩa từ khác nhau. Do đặc điểm của việc dạy từ
trong dạy nói, có thể sử dụng các phương pháp cung cấp nghĩa từ sau :
a. Phương pháp trực quan : Sử dụng vật thật, mô hình, tranh ảnh, điệu bộ, cử chỉ, nét
mặt, mô phỏng các việc làm, hành động; quan sát các hoạt động của người, vật; sử dụng
các sự vật, hiện tượng của môi trường xung quanh
b. Phương pháp giải thích bằng lời (mô tả mở rộng trong vài ba câu kết hợp với lấy ví
dụ câu có từ đó).
c. Phương pháp dịch ra tiếng dân tộc.
1.3.2 Luyện phát âm từ ngữ
a. Sử dụng phương pháp quan sát và giải thích cấu âm: Đối với HS tiểu học, phương
pháp này cũng có thể sử dụng nhưng chỉ với mức độ nhất định. Cách giải thích đơn giản
kết hợp với việc cho HS quan sát. Chủ yếu giải thích cách đặt lưỡi, môi khép mở ra sao ,
tức là những cơ quan tham gia cấu âm mà HS có thể quan sát được.
b. Sử dụng phương pháp so sánh: So sánh âm khó trong tiếng Việt với nhau và với âm
trong tiếng dân tộc. Lưu ý : Chỉ so sánh những âm có sự tương đồng nhất định trong cách
cấu âm và chỉ khác nhau ở một vài điểm như độ mở của miệng, tính hữu thanh và vô
thanh của phụ âm
1.3.3. Các bước dạy từ
Bước 1: Cho HS quan sát tranh, vật thật : Bước này nhằm giúp HS có một hình ảnh
chung về từ mà mình sẽ học. GV chỉ tranh, đồ vật hoặc làm động tác cho HS quan sát
(giáo viên có thể vừa chỉ, vừa nói).
Bước 2: GV giới thiệu từ - phát âm mẫu (lần 1) Bước này nhằm giúp HS chú ý hơn
vào hình ảnh tương ứng với từ cần cung cấp. Đây là bước quan trọng nhằm giúp HS vừa
nắm được nghĩa từ vừa biết được cách phát âm. Thực hiện bước này, giáo viên vừa chỉ
vào hình ảnh trong tranh, vào vật thật hoặc làm động tác, cử chỉ đồng thời phát âm từ ;
HS lắng nghe.
Bước 3: GV phát âm mẫu (lần 2); HS phát âm theo
* Lưu ý : Khi dạy từ nên :

- Tiến hành đồng thời việc phát âm đúng từ và cung cấp nghĩa từ.
- Sử dụng phương pháp dịch ra tiếng dân tộc khi giải nghĩa từ trừu tượng.
- Không nên cho HS nhắc lại từ nhiều lần, vì việc lặp lại nhiều lần dễ gây nhàm chán
và không đem lại hiệu quả trong việc hiểu nghĩa của từ ; chỉ lặp lại nhiều lần trong trường
hợp cần luyện phát âm.
- Phối hợp các phương pháp và luôn thay đổi cách cung cấp nghĩa từ.
21
2. Dạy dạy nói thông qua dạy câu
2.1. Tầm quan trọng của dạy câu
- Trong dạy nói, không thể dạy HS nói từng từ riêng lẻ mà tối thiểu phải bắt đầu từ
đơn vị câu.
- Dạy nói cho HSDT không dừng lại ở những phát ngôn đơn lẻ mà dạy lời nói liên kết;
dạy kĩ năng giao tiếp. Để thực hiện giao tiếp, HS buộc phải phát ngôn được câu hoàn chỉnh
theo các nội dung chào hỏi, làm quen, giới thiệu; yêu cầu (hỏi mượn, hỏi xin, xin phép )
- Câu cũng là đơn vị tối thiểu để GV có thể đánh giá được khả năng ngôn ngữ của HS
ở dạng nói.
2.2. Đặc điểm của dạy nói thông qua dạy câu
2.2.1. Đặc điểm của câu trong lời nói và văn bản viết
- Câu trong lời nói sử dụng âm thanh, ngữ điệu làm phương tiện biểu hiện, còn câu
trong văn bản viết sử dụng kí tự.
- Dạng nói thường sử dụng kiểu câu ngắn gọn; dùng nhiều biến thể câu đơn giản. Loại
câu này giúp người nghe dễ theo dõi, dễ hiểu nội dung cần truyền đạt. Câu trong lời nói
thường có các yếu tố dư như: hình thức lặp, nghi vấn, cảm thán, các phụ từ Dạng viết
thường sử dụng câu dài hơn, câu có nhiều thành phần phong phú.
- Các loại câu sử dụng trong lời nói thường phong phú hơn trong văn bản viết.
- Ngữ điệu của câu đóng vai trò hết sức quan trọng, làm cho câu giàu sắc thái biểu cảm và
có thể làm thay đổi cả ý nghĩa của câu. Câu trong văn bản viết không có đặc điểm này.
2.2.2. Sự khác nhau giữa dạy câu trong dạy nói và dạy viết
- Do phương tiện biểu hiện và các điều kiện giao tiếp khác nhau nên dạy nói câu chủ
yếu dựa vào nghe và dường như không có điều kiện để chuẩn bị, "nháp" hoặc sửa chữa;

trong khi đó, dạy viết có thể thực hiện được điều này.
- Trong dạy viết có thể dễ dàng thiết kế và thực hiện các bài tập luyện đặt câu hơn so
với trong dạy nói.
2.3. Phương pháp dạy nói thông qua dạy câu
2.3.1 . Cách chọn mẫu câu
Chọn những mẫu câu chuẩn, tường minh, tránh cách nói vòng vo, sử dụng những
từ ngữ chêm xen không cần thiết.
Ví dụ : Khi dạy nghi thức chào với người trên, nên dạy mẫu câu?: Con/Cháu/Em
chào bố mẹ, ông bà, anh chị ạ !, còn những cách chào khác sẽ được bổ sung sau khi vốn
tiếng Việt của các em đã phong phú.
2.3.2. Có thể hướng dẫn học luyện nói câu theo trình tự sau :
- Giáo viên nêu tình huống câu cần nói.
- Giáo viên giới thiệu câu nói mẫu (lần 1).
- Giáo viên nói mẫu (lần 2); HS nói theo.
- HS luyện nói (cá nhân, trong nhóm ).
* Lưu ý :
- Cũng như dạy từ, dạy câu trong dạy nói chủ yếu dựa vào nghe nên giáo viên phải rất
chú trọng vào khâu nói mẫu; ở một mức độ nào đó cần nói chậm, nói rõ từ (chấp nhận lời
nói có thể không được tự nhiên), nhấn vào các từ ngữ đánh dấu các dạng câu, ví dụ như :
ai, gì, như thế nào (đối với câu hỏi); hãy, chớ, đừng (đối với câu cầu khiến).
- Với mỗi loại câu cần có cách dạy phù hợp.
- Yêu cầu về phát âm trong giai đoạn đầu học nói tiếng Việt: chú ý đến những phát âm
khác biệt làm sai lạc thông tin; cần chấp nhận sự gần đúng và các lỗi trong lời nói của HS;
không nên có những đòi hỏi quá sức của các em, dễ gây tâm lí nhàm chán hoặc sợ sệt dẫn
đến làm mất nhu cầu nói tiếng Việt ở HS.
3. Dạy nói thông qua hoạt động hội thoại
3.1. Đặc điểm các dạng hội thoại trong dạy nói
22
3.1.1. Yêu cầu kĩ năng nói trong hội thoại
Hình thành những nghi thức lời nói trong giao tiếp thông thường như: chào hỏi, cảm

ơn, xin lỗi, đề nghị giúp đỡ, chúc mừng, chia buồn, nói chuyện qua điện thoại , đáp lại
trong những tình huống nói trên và trong giao tiếp nghi thức chính thức trong sinh hoạt ở
trường tiểu học, nơi công cộng
3.1.2. Dạng hội thoại thường sử dụng trong các tình huống
- Tình huống giao tiếp hằng ngày (bao gồm tình huống có thật, tình huống giả định
Ví dụ : để dạy chào hỏi, có thể sử dụng tình huống thực như chào thầy giáo, cô giáo,
các bạn khi vào lớp, lúc ra về ; hoặc tình huống giả định - HS vẫn ngồi trong lớp, đóng
vai ông bà, cha mẹ, người lớn tuổi, các em nhỏ , rồi cho các em chào ông bà, cha mẹ khi
đi học và lúc đi học về ).
- Tình huống trên cơ sở văn bản trong dạy kể chuyện. Trong trường hợp này, tình
huống được mô tả trong văn bản và khi thực hành nói, HS ngoài việc dựa vào nghe và
quan sát còn có thể dựa vào văn bản.
- Lưu ý những yếu tố tham gia vào hội thoại : nhân vật giao tiếp, hoàn cảnh giao
tiếp, hiện thực được nói tới, đích giao tiếp, ngôn ngữ giao tiếp.
3.2. Những khó khăn của học sinh dân tộc trong hội thoại
- Tâm lí HSDT rụt rè, hay xấu hổ; các em chưa có thói quen nói tiếng Việt nên thường
ngại nói, khi có cơ hội, các em thường quay về với tiếng mẹ đẻ quen thuộc của mình, kể
cả trong lớp học.
- HSDT vì chưa làm chủ được tiếng Việt nên thiếu chủ động, thường thụ động trả lời
câu hỏi, không mấy khi dám đặt câu hỏi.
- Do ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ trong hội thoại, HSDT thường sử dụng không chính
xác đại từ nhân xưng hay từ xưng hô và một số từ khác do không hiểu nghĩa; nói câu
không đầy đủ ; trả lời trống không, câu thiếu chủ ngữ
- Do thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ khi nói tiếng Việt, HSDT khó nói đúng ngữ điệu câu
và khó có thể sử dụng điệu bộ, cử chỉ, nét mặt ; lời nói của các em thiếu hẳn tính tự nhiên.
- HSDT thiếu môi trường thực hành giao tiếp tiếng Việt ngoài nhà trường nên kĩ năng
nói trong hội thoại được hình thành và phát triển chậm.
3.3. Phương pháp dạy nói thông qua hoạt động hội thoại
3.3.1 . Cung cấp cho HS những mẫu câu cơ bản
Câu hỏi và câu trả lời là những loại mẫu câu cần cung cấp cho HS nhằm thực hiện các

cuộc đối thoại. Nếu HS không làm chủ các loại câu này thì khó có thể thực hiện các cuộc
đối thoại cũng như giao tiếp trong các tình huống ngôn ngữ khác nhau. Hoạt động cung
cấp mẫu câu cần yêu cầu: HS nắm được mục đích câu; nói được theo câu mẫu.
3.3.2. Các hình thức tổ chức hội thoại
a. Hội thoại theo tình huống: Để hội thoại thường sử dụng phương pháp thực hành
giao tiếp mà cốt lõi của nó là xây dựng nên các tình huống giao tiếp, sau đó dùng cách
đóng vai để thực hiện các tình huống giao tiếp đó. Có thể tiến hành hoạt động này theo
các bước sau:
- Giới thiệu tình huống.
- Phân vai cho HS.
- Hướng dẫn tham gia tình huống (kết hợp làm mẫu).
- HS đóng vai thực hiện tình huống.
* Lưu ý :
Khi tổ chức thực hành theo tình huống, giáo viên nên lưu ý đến bước giới thiệu tình
huống và hướng dẫn tham gia tình huống (kết hợp làm mẫu). Vốn tiếng Việt của HSDT
còn hạn chế, nếu HS không hiểu thì sẽ không thể tham gia tình huống. Do đó, để hướng
dẫn có hiệu quả cần lựa chọn ngôn ngữ phù hợp với trình độ hiểu biết của HS. Cần có kĩ
năng trình bày ngắn gọn, rõ ràng, kết hợp với kĩ năng sử dụng đồ dùng dạy học. Lời
23
hướng dẫn càng đơn giản càng tốt và theo trình tự rõ ràng để HS dễ làm theo.
* Một số cách giới thiệu tình huống
- Giới thiệu tình huống dựa vào tranh.
- Giới thiệu tình huống dựa vào thực tế hoạt động trong lớp, thực tế sinh hoạt
thường ngày của HS.
- Giới thiệu qua tình huống được tạo trong lớp.
- Giới thiệu tình huống qua mô tả bằng lời.
Đối với các tình huống thực thì chỉ cần giáo viên hướng dẫn HS tham gia vào tình
huống và gợi ý các mẫu câu cần nói trong những tình huống đó.
b. Tổ chức trò chơi
Trò chơi đóng vai là hoạt động tốt cho việc luyện đối thoại. Để tổ chức trò chơi đóng

vai, GV thiết kế trước dưới dạng một hoạt cảnh (xác định những từ ngữ, mẫu câu sẽ được
sử dụng trong trò chơi ; trình tự chơi) và chuẩn bị những "đạo cụ" giúp cho việc sắm vai
thêm sinh động.
Tổ chức trò chơi có thể tiến hành theo trình tự sau :
- Giới thiệu trò chơi.
- Phân công vai cho HS "hoá trang".
- Hướng dẫn đóng vai : dùng lời nói và hành động.
- HS tập đóng vai (chơi thử).
- Đóng vai thực hiện trò chơi.
Cũng như dạy từ và dạy câu, dạy hội thoại cần kết hợp với dạy nghe. Khi dạy hội thoại,
GV nên lưu ý đến việc rèn kĩ năng nghe hiểu cho HS: nghe hiểu trả lời câu hỏi; nghe hiểu
nội dung hội thoại để có lời đáp, có câu hỏi phù hợp; nghe hiểu hướng dẫn để tham gia trò
chơi, tham gia tình huống ; nghe hiểu một ngôn bản nói kết hợp với ngôn bản viết (trong
kể chuyện) để tái tạo lại theo những yêu cầu khác nhau.
c. Thực hành dạy nói tiếng Việt cho HSDT
Khi thiết kế hoạt động dạy hội thoại, bạn cần lưu ý một số điểm sau
- Chuẩn bị để giới thiệu tình huống (tranh ảnh, vật dụng ).
- Lựa chọn mẫu câu phù hợp với tình huống và với đối tượng HS (bao gồm cả mẫu
câu hỏi và câu trả lời) ; các từ ngữ cần luyện nói và cung cấp nghĩa.
- Nội dung cụ thể từng bước cho HS thực hành hội thoại.
Trong chương trình TV có yêu cầu rèn luyện một số nghi thức lời nói trong giao tiếp
thông thường. Chương trình có giới thiệu những mẫu câu dùng để nói lời chào, lời chia
tay, lời tự giới thiệu; lời cảm ơn, xin lỗi; yêu cầu, đề nghị Các loại câu thường được sử
dụng là: Câu trần thuật (câu khẳng định, câu phủ định); Câu hỏi; Câu cầu khiến.
*Chú ý: Một số đặc điểm về cú pháp của TDT khác với tiếng Việt có thể ảnh hưởng tới
việc dạy câu
- Trong một số ngôn ngữ dân tộc, trật tự từ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc
biểu hiện các mối quan hệ ngữ pháp. Trong các thành phần câu, trạng ngữ thường có vị trí
tự do hơn.
- Ở một số ngôn ngữ dân tộc, các đại từ nghi vấn đâu, gì thường được đặt ở đầu câu hỏi.

Ví dụ: Tiếng Gia-rai : Pơcă ami naw ? (Đâu mẹ đi = Mẹ đi đâu ?) Tiếng Ba-na :
Tơyơ ih năm ? (Đâu anh đi = Anh đi đâu ?) Tiếng Ê-đê : Ya ih ngă ? (Gì anh làm = Anh
làm gì ?).
4. Dạy làm văn nói
4.1. Nhiệm vụ làm văn nói
- TLV nói có tác dụng to lớn trong việc hình thành kĩ năng nói tiếng Việt cho HS.
Nhờ kĩ năng nói tiếng Việt, HSDT sẽ trở nên hoạt bát, tự tin và giao tiếp đạt hiệu quả tốt
hơn, giúp các em hoà nhập cộng đồng thuận lợi hơn.
- Việc dạy TLV nói sẽ giúp cho HS làm văn viết chủ động, đạt kết quả tốt hơn.
24
- Các bài TLV nói thường gắn chặt với các hoạt động cần thiết mà hằng ngày HS
tiếp xúc và giải quyết ; vì vậy những kiến thức và kĩ năng đòi hỏi phải hình thành cho các
em dễ chấp nhận và tiếp thu.
- Các bài TLV nói được dạy trong Chương trình Tiểu học mới giúp các em hình
thành được những thói quen cần thiết và bổ ích, phục vụ trực tiếp cho cuộc sống trước
mắt và lâu dài của các em.
4.2. Những khó khăn của HSDT khi làm văn nói
- Những nội dung TLV nói được trình bày trong chương trình có nhiều điểm mới,
khó và khá xa lạ với thói quen giao tiếp hằng ngày của các em HSDT như : cách nói lời
cám ơn, xin lỗi, chúc mừng, từ chối, đồng ý, thưa gửi, thảo luận, thuyết trình, báo cáo,
giới thiệu Chương trình chưa đề ra các biện pháp thỏa đáng để dạy nói tiếng Việt cho
HSDT.
- Trình độ tiếng Việt của HSDT có hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng bài
văn nói. Vốn từ của các em nghèo nàn, nhiều khi không đủ từ để diễn đạt những nội dung
cần trình bày. Do nắm chưa vững ngữ pháp tiếng Việt nên các em thường mắc nhiều lỗi
về câu. Khả năng sử dụng câu phức, câu ghép nhiều thành phần là rất hạn chế. Khả năng
sắp xếp ý, nghệ thuật tổ chức câu, lập dàn ý còn nhiều lúng túng.Thêm nữa, vốn sống của
các em bị hạn chế nên thiếu chất liệu để có thể tạo các văn bản
- Do chưa làm chủ được tiếng Việt nên các em thường có tâm lí tự ti, rụt rè, ngại bộc lộ ý
kiến. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động trong giờ tập làm văn nói. Sự chủ động

trong xây dựng bài hiếm thấy ở các em. Do vậy, giờ TLV nói dễ trở nên buồn tẻ.
4.3. Định hướng phương pháp dạy
4.3.1. GV cần thống kê các lỗi thường mắc của HSDT để có kế hoạch giúp đỡ. Để có
thể thống kê được chính xác, GV nên có sổ ghi chép các lỗi thường mắc của HS qua các
giờ dạy Tập đọc, TLV nói và cả trong giao tiếp hằng ngày. Cần phân loại các lỗi : lỗi
dùng từ, lỗi dùng câu, lỗi diễn đạt Sau khi nắm được tình trạng lỗi, cần có các biện pháp
giúp HS sửa lỗi cho phù hợp. Cách tốt nhất là sửa lỗi trực tiếp cho từng em, bởi vì nguyên
nhân dẫn tới lỗi trong làm văn miệng khá đa dạng. Việc sửa lỗi có thể diễn ra trong giờ
học, hoặc trong các hoạt động khác của nhà trường.
4.3.2. Tạo ra một môi trường giao tiếp tiếng Việt ở trong trường học, trước hết trong
các giờ học tiếng Việt. Nhờ có môi trường giao tiếp thì trình độ tiếng Việt của các em
mới được nâng cao. GV thường xuyên động viên khuyến khích các em giao tiếp bằng
tiếng Việt. Có những biện pháp phối hợp với gia đình và xã hội để các em được nâng cao
kĩ năng nói tiếng Việt.
4.3.3. Cách sửa lỗi văn miệng trong việc dạy các nghi thức lời nói: Nghi thức lời nói
là những khuôn mẫu đã được cộng đồng chấp nhận, rất cần thiết với đời sống hằng ngày
của HS. Tuy nhiên, những nghi thức lời nói này lại mới lạ với thói quen giao tiếp của số
đông HSDT. GV cần giúp HSDT giải quyết những khó khăn này. Một số cách hướng dẫn
HS sửa lỗi :
• Tăng cường thực hành theo mẫu của GV. Bố trí đủ thời gian để HS được nói theo
mẫu và thực hành ở trên lớp. Những hình thức đối thoại tay đôi, nhóm, tổ đều có tác dụng
giúp ích cho việc hình thành kĩ năng nói của các em.
• Sửa lỗi khi dạy các nghi thức lời nói chính là giúp các em biết sử dụng các mẫu câu
giao tiếp, các nghi thức lời nói phù hợp với đối tượng giao tiếp.
• GV cần chú ý giới thiệu các mẫu câu kèm theo ngữ điệu phù hợp để sử dụng trong
giao tiếp với các đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp khác nhau. Nói với bậc trên như ông
bà, bố mẹ, thầy cô thì thái độ, lời lẽ phải tỏ ra kính trọng, lễ phép, nói với bạn bè thì ngôn
ngữ phải gần gũi, ấm áp, thân thiện, chân thành, nói với em thì lời lẽ phải mềm mại, yêu
thương.Yêu cầu HS học thuộc một số từ, ngữ thường dùng khi giao tiếp như: thưa, kính
thưa, xin lỗi, cám ơn, làm ơn, mong rằng Đồng thời giúp các em biết chọn được từ ngữ

25

×