Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Hội nhập kinh tế thương mại Asean – Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.17 KB, 31 trang )

Hội nhập kinh tế thương mại Asean – Việt Nam
Chương 1: Tiến trình hội nhập kinh tế thương mại khu vực và thế giới của Việt Nam.
1. Xu hướng hội nhập kinh tế của khu vực và thế giới.
2. Tiến trình hội nhập kinh tế khu vực của Việt Nam.
3. Lý luận chung về quá trình hội nhập và phát triển kinh tế thương mại trong khu vực
Asean.
3.1. Hội nhập Asean : Mục đích và kết cấu .
3.2. Nguyên tắc và nội dung các phương pháp tiến trình tham gia hội nhập kinh tế
thương mại Asean.
3.2.1. Nguyên tắc và nội dung quá trình tham gia hội nhập.
3.2.2. Các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam khi gia nhập Asean.
4. Sự cần thiết để tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu vực Asean.
Chương II: Thực trạng tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu vực Asean – lộ trình thự
hiện khi tham gia khu vực kinh tế thương mại Asean của Việt Nam.
1. Thực trạng quá trình tham gia hội nhập kinh tế của Việt Nam.
Thực trạng quá trình tham gia hội nhập kinh tế
Đánh giá quá trình tham gia hội nhập của Việt Nam
1.2.1. Những ưu điểm.
1.2.2. Những nhược điểm
2. Một số tác động của việc tham gia quá trình hội nhập kinh tế
2.1. Tác động của doanh nghiệp
2.2. Tác động của nhà nước
3. Lộ trình thực hiện khi tham gia khu vực kinh tế thương mại Asean.
3.1.Qúa trình phát triển khu vực kinh tế thương mại Asean.
3.2. Xây dựng lộ trình tham gia hội nhập thương mại Asean.
Chương III: Giải pháp xúc tiến khi tham gia hội nhập khu vực kinh tế thương mại Asean.
1. Một số khó khăn vướng mắc trong lộ trình tham gia hội nhập.
2. Các giải pháp tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu vực Asean
Đối với nhà nước.
Đối với doanh nghiệp.
Kết luận.


1
1
Chương 1: Tiến trình hội nhập kinh tế thương mại khu vực và thế giới
của Việt Nam.
Hội nhập kinh tế quốc tế là thực hiện mở cửa kinh tế quốc gia, phát triển kinh tế quốc gia,
phát triển kinh tế quốc gia gắn liền với kinh tế khu vực và thế giới, là tham gia ngày càng
nhiều vào các hoạt động kinh tế quốc tế vào hệ thống thương mại đa phương.
Thực chất của hội nhập kinh tế quốc tế là phát triển kinh tế quốc gia trong sự cạnh tranh
với kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới. Do vậy, tiêu chuẩn để đánh giá quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia phải thể hiện ở việc thực hiện được các
mục tiêu phát triển ở mức độ cao trong điều kiện nền kinh tế, của các doanh nghiệp trong
nước.
Trong bối cảnh hiện nay, hôi nhập là qui luật tất yếu khách quan đối với sự phát
triển kinh tế của các nước do:
Do sự tác động của xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa đời sống kinh tế thế
giới nên không có một nước nào có thể phát triển kinh tế một cách độc lập rõ rang được.
Do sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã vượt ra khỏi phạm vi
quốc gia mang tính quốc tế thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phân công lao động quốc
tế. Từ đó nó đòi hỏi nền kinh tế mỗi quốc gia phải hội nhập với kinh tế khu vực và kinh tế
thế giới.
Do sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo
điều kiện và đòi hỏi nền kinh tế của mỗi quốc gia cần phải khai thác có hiệu quả những
thành tựu khoa học công nghệ của thế giưới để phát triển nền kinh tế quốc gia.
Do xu hướng hòa bình, hợp tác cùng phát triển đòi hỏi các quốc gia trên thế
giới cần phải thực hiện sự đối thoại thay cho đối đầu về quốc gia.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế, trên thế giới không một quốc gia nào có đủ
lợi thế tất cả các nguồn lực, do hội nhập kinh tế quốc tế là cần thiết để giải quyết những
vấn đề khó khăn của các nguồn lực cho việc phát triển kinh tê mà mỗi nước sẽ không thể
tự giải quyết được từ những nguồn lực bên trong của mình.
Trong quá trình phát triển, nền kinh tế các nước đều không muốn tự mình bị tụt

hậu quá xa nên phải tìm mọi cách hội nhập vào xu hướng chung. Hội nhập là một cuộc
cạnh tranh gay go, khốc liệt để phát triển nền kinh tế quốc gia, tạo điều kiện củng cố an
ninh quốc phòng, giữ vững độc lập kinh tế và bản sắc dân tộc thong qua việc thết lập các
mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, đan xen nhiều chiều, ở nhiều mức độ khác nhau với các
quốc gia khác.
Tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới để phát triển kinh tế , trên cơ sở nhận thúc
được vai trò quan trọng của việc mở rộng quan hệ đối ngoại đối với việc phát triển nền
kinh tế. Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục khẳng định thực hiện nhát quán đường lối đối
ngoại độc lập và phát triển.
Trong quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế, chúng ta muốn hợp tác lâu dài, có hiệu
quả, tin cậy lẫn nhau với các nước trên cơ sở các nguyên tắc:

2
2
Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, không dung vũ lực hoặc đe dọa dung vũ lực,
Bình đẳng cùng có lợi.
Giải quyết các bất đồng, các tranh chấp bằng thương lượng hòa bình.
Không có âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt và cường quyền với các
nước khác.
Việc chủ động hôi nhập phải trên tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiẹu
quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng phát triển và mở rộng trên
phạm vi toàn thế giới, Việt Nam cần phải tiến hành các bước cải cách kinh tế mạnh mẽmẽ
hơn.Với mục tiêu hội nhập là tự do hóa thương mại và đầu tư có ý nghĩa quyết định đối với
tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế - xã hội. Muốn vậy, để hội nhập kinh tế, các nước
cần thực hiện các hiệp định thương mại, thực hiện các liên kết kinh tế quốc tế và các tổ
chức kinh tế quốc tế. Trong các Hiệp điịnh chính phủ, các quốc gia đưa ra và thực hiện các
cam kết

Cam kết dành ưu đãi cho các nước khác.
Cam kết về mức độ và tiến trình mở cửa hội nhập thị trường nội địa
Cam kết về mức độ và tiến trình cắt giảm thúê quan, từng bước dỡ bỏ hang
rào phi thuế quan nhằm thực hiện tự do hóa thương mại và đầu tư.
Cam kết thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử đãi ngộ tối huệ quốc
và đãi ngộ quốc gia, nguyên tắc sự minh bạch chính sách và pháp luật lien quan đến
thương mại.
1. Xu hướng hội nhập kinh tế của khu vực và thế giới.
Ngày nay xu hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế đang gia tăng mạnh mẽ. Đây
là xu hưứong tích cực nhằm khai thác tối đa hiệu quả về kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi
quốc gia. Phù hợp với xu thế này, Việt Nam đã và đang tham gia tích cực và hiệu quả vào
Hiệp hội Đông Nam Á (ASEAN), khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á – AFTA ( Asean
Free Trade Area), diễn đàn hợp tác châu Á – Thái Bình Dương APEC, hiệp hội thương mại
Việt – Mỹ và tổ chức thương mại thế giới WTO. Đây là bước ngoặt quan trọng trong chính
sách đổi mới toàn diện của Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực hợp tác thương mại, kể từ sau
Đại hội Đảng VI (1986) – Việt Nam đã xác định con đường phát triển kinh tế - xã hội cho
riêng mình.
Việc gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực cũng như các tổ chức kinh tế thế giới được đánh
giá : Đó vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với Việt Nam. Bên cạnh những lợi ích kinh tế -
xã hội khi tham gia vảtở thành thành viên các tổ chức thì Việt Nam phải tự điều chỉnh cải
cách chính sách quốc gia như chính sách thuế, thương mại, ngân hàng cho phù hợp với luật
chơi của các tổ chức này. Hay nói cách khác là để có được những lợi íchvà tránh khỏi
những thiệt hại không đáng có thì Việt Nam phải có đường lối chính sách và điều chỉnh hệ
thống pháp luật cho phù hợp với cam két của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Nhận thức rõ vấn đề này, chính phủ Việt Nam trong thời gian qua đã không ngừng đổi mới
chính sách để phù hợp với yêu cầu phát triển cũng như để thực hiện những cam kinh tếết
quốc tế. Chính phủ đã giao cho các bộ các ngành từng nhiệm vụ chiến lược cụ thể nhằm
thực hiện cải cách, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
2. Tiến trình hội nhập kinh tế khu vực của Việt Nam:
3

3
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay, thế giới đã có những sự biến đổi to lớn,
tiêu biểu là sự xuất hiện của các khu vực kinh tế khổng lồ như : Liên minh châu âu ( EU),
khối thị trường chung khu vực Đông và Nam Phi, tổ chức thương mại thế giới WTO.
Sự xuất hiện của các khu vực và tổ chức kinh tế này là kinh tếết quả của xu thế khu vực
hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Đây là sự liên kết giữa các quốc gia với nhau
nhằm mục đích mang lại một khối lượng sản phẩm thế giới lớn hơn, thỏa mãn nhu cầu cao
hơn cho mỗi quốc gia.
Trong quá trình hình thành và phát triển tự nhiên, mỗi quốc gia có một lợi thế so sánh riêng
vè nguồn lực con người, tài nguyên thiên nhiên, đất đai, khí hậu, địa lý đã tạo ra ức tranh
đa dạng trong nền kinh tế thế giới và chỉ khi nào có sự phối hợp giữa các nguòn lực của
các quốc gia thì mới có thể phát triển toàn diện được. Lợi thế so sánh của quốc gia này sẽ
hỗ trợ bổ sung cho thiếu hụt, hạn chế của quốc gia kia, làm cho thé giới phụ thuộc lẫn
nhau, đưa các quốc gia gắn kinh tếết lại gần nhau trở thành một thực thể kinh tế thông
nhất.
Mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ, sức sản xuất
ngày càng phát triển kéo theo sự đòi hỏi cấp bách về thị trường tiêu thụ khiến cho quá trình
cạnh tranh giành giật thị trường giữa các quốc gia và các thực thể kinh tế ngày càng trở nên
gay gắt hơn. Nếu như mỗi quốc gia tồn tại độc lập, đơn phương trong cả thị trường thế giới
rộng lớn sẽ không thể tách khỏi sức ép quá lớn thậm chí còn lâm vào suy thoái, thui chột
sức phát triển đất nước. Do vậy, tất cả các nước, để khỏi bị gạt ra ngoài lề của sự phát
triển, đều phải tham gia liên kinh tếết kinh tế, nỗ lực hội nhập vàp xu thế khu vực hóa toàn
cầu hóa hiện nay, ra sức cạnh tranh kinh tế và sự tồn tại và phát triển của chính mình.
Đứng trước đòi hỏi cấp bách của tình hình quốc tế, Việt Nam đã và đang cố gắng thay đổi
một nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp trước đây bằng một nền kinh tế mở cửa hòa nhập
với vận hội phát triển kinh tế thế giới.
Việt Namới đường lối đổi mới và hòa nhập kinh tế quốc tế đúng đắn. Việt Nam đã đi
những bước đi thành công và vững chắc trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới của mình.
Ngày 17/10/1994 Việt Nam chính thức gửi đơn gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam

Á (Asean), từ ngày 25/7/1995 đã chính thức tham gia tổ chức này và từ 1/1/1996 bắt đầu
thi hành nghĩa vụ thành viên chính thức của khu vực mậu dịch tự do Asean.
3.Lý luận chung về quá trình hội nhập và phát triển kinh tế thương mại trong
khu vực Asean.
Tham gia các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam đã có một vị thế mới trên diễn
đàn quốc tế, Thế giới biết đến Việt Nam voiứ tư cách một quốc ga đang trong giai đoạn nỗ
lực cải cách nhằm tìm kiếm cho mình những cơ hội để phát triển kinh tế. Khi tham gia
Asean, Việt Nam sẽ có cơ hội được hợp tác, giúp đỡ kinh tế trên các phương diện như:
thương mại, hải quan, công nghiệp, nông – lâm – ngư nghiệp, lương thực, hợp tác về đầu
tư, trong các lĩnh vực khoáng sản, năng lượng, tài nguyên để dần dần phát triển ngang bằng
voiứ các thành viên trong khu vực.
Việt Nam tham gia hội nhập ASEAN Việt Nam với các hoạt động kinh tế nhằm thúc đẩy
phát triển kinh tế trong hiệp hội phát triển mạnh mẽ và vững chắc.Với các chính sách về
kinh tế được hội nhập,các chương trình phối hợp lập trường đối với các vấn đề thương mại
của ASEAN.
4
4
Trong những năm qua, ASEAN đã có nhiều biến chuyển to lớn trong xây dựng khu vực tự
do thương mại. Bên cạnh thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ đang có vai trò ngày
càng lớn hơn trong đời sống kinh tế khu vực.
Lãnh đạo các nước ASEAN đặt ra lộ trình tự do hoá hoàn toàn thị trường dịch vụ khu vực
vào năm 2020. Trước mắt, phấn đấu năm 2010, tự do hóa hoàn toàn các lĩnh vực ưu tiên.
Hiện, các nước ASEAN đã kết thúc 3 vòng đàm phán, ký kết được 4 gói cam kết thuộc
khuôn khổ Hiệp định khung ASEAN về thương mại dịch vụ (AFAS) và đang tiến hành
vòng đàm phán thứ tư, thể hiện sự cố gắng của các thành viên. Tuy nhiên, do dịch vụ đang
là lĩnh vực mới mẻ với nhiều nước thành viên nên còn không ít khó khăn, trở ngại, đòi hỏi
các nước phải nỗ lực hơn nữa để có thể phát triển thành công thị trường tự do của khu vực.
Phó thủ tướng Vũ Khoan khẳng định: “Việt Nam luôn xem dịch vụ là lĩnh vực đặc biệt
quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với việc hình thành một thị trường tự do của
ASEAN. Việt Nam đã, đang và sẽ tích cực, chủ động trong việc cùng các nước tiến hành

đàm phán, tìm ra giải pháp để tự do hoá nhanh, sâu, rộng thị trường dịch vụ khu vực”.
Đây là cơ hội cho khu vực nhà nước và khu vực doanh nghiệp trao đổi thông tin, ý tưởng,
nhằm góp phần thúc đẩy việc hình thành thị trường dịch vụ tự do của khu vực.
Việc hình thành và tăng cường các cơ chế, hình thức hợp tác và lien kinh tế mới này đã và
đang tạo nhiều cơ hôi thách thức cho ASEAN, trong đó có Việt Nam :
Thứ nhất, việc thiết lập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) sẽ đưa ASEAN trở thành một
khối có sự liên kết vững chắc, một thị trường duy nhất có cơ sở sản xuất thống nhất, trong
đó có sự lưu thông tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư vốn và nhân công có tay nghề sẽ
thúc đẩy cải cách hệ thống pháp luật và nền hành chính quốc gia trong nước, tiếp cận được
nhiều hơn các yếu tố bên ngoài, nhất là vốn, thị trường và công nghệ hiện đại, làm tăng cơ
hội việc làm và nâng nhanh mức sống của dân chúng.
Thứ hai, sự thiết lập Cộng đồng an ninh ASEAN sẽ lam tăng nhanh mức độ tin cậy và ý
thức cộng đồng trong ASEAN, thúc đẩy hợp tác chính trị , khinh tế an ninh nội khối lên
tầm quan trọng mới.Điều này sẽ tạo ra sự thăng bằng trong hợp tác khu vực và quốc tế,
giúp ASEAN vừa tăng cường tính mở, vừa duy trì được bản sắc, phong cách ứng xử truyền
thống của mình, làm tăng khả năng phòng ngừa và tiến tới giải quyết các xung đột có thể
xảy ra trong tương lai.
Thứ ba, sự gia tăng giành ưu thế kiểm soát – chính trị giưa các nước lớn tại Đông Nam Á,
đặc biệt hơn là giữa Mỹ và Trung Quôc cùng với cơ hội phát triển của thể chê thương mại
tự do đa phương, song phương về một mặt nào đó, cũng mở ra cơ hội rộng lớn về hợp tác
và tăng sức mặc cả của ASEAN trong các vấn đề quốc tế khu vực. Điều này sẽ có lợ thế
cho Việt Nam – nước có vị trí chiến lược, đang thu hút sự chú ý của các nước lớn.
Tham gia ASEAN Việt Nam đã thực hiện các chính sách kinh tế đường lối chính trị tạo
điều kiẹn cho sự phát triển bền vững nền kinh tế khu vực.Việt Nam tham gia vào xây dựng
khu vực tụ do thương mại tạo điều kiện cho quá trình phát triển kinh tế.
3.1. Hội nhập Asean : Mục đích và kết cấu :
Việt Nam tham gia ASEAN với các mục đích:
Một là, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác với các quốc gia thành viên, thúc đẩy xu thế hoà
bình, ổn định và hợp tác ở khu vực, duy trì môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, thúc đẩy hơn nữa quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư, tham khảo kinh nghiệm phát
triển, trình độ khoa học-kỹ thuật, kỹ năng điều hành quản lý, tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt
5
5
Nam hội nhập, phát triển thuận lợi, nâng cao khả năng cạnh tranh, góp phần hỗ trợ thúc đẩy quá
trình cải cách và công cuộc Đổi mới.
Ba là, đẩy mạnh hợp tác giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên ASEAN khác đóng góp vào
việc củng cố hoà bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Bốn là, thông qua hợp tác ASEAN thúc đẩy quan hệ song phương và đa phương của Việt Nam với
các đối tác trong và ngoài khu vực, nhất là các Bên Đối thoại của ASEAN, nhằm cải thiện và nâng
cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ với các nước lớn.
Năm là, tham gia ASEAN cũng là bước chuẩn bị, tích luỹ kinh nghiệm và tranh thủ sự ủng hộ tích
cực nhằm tạo thuận lợi cho Việt Nam tham gia hội nhập khu vực và quốc tế sâu rộng hơn và tham
gia hiệu quả các thể chế hợp tác khác như Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Diễn đàn hợp tác
kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Á - ÂU (ASEM), Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO).
3.2. Nguyên tắc và nội dung các phương pháp tiến trình tham gia hội nhập
kinh tế thương mại Asean.
3.2.1. Nguyên tắc và nội dung quá trình tham gia hội nhập.
Nguyên tắc chủ đạo trong Asean là đồng thuận.
ASEAN sẽ không giống EU khi Hiến chương chung của Hiệp hội ra đời. Khác với Liên
minh Châu Âu (EU), một tổ chức mang tính chất siêu quốc gia, Hiến chương ASEAN xác
định tính chất hợp tác của ASEAN là một tổ chức hợp tác khu vực liên chính phủ, dựa trên
nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của các nước thành viên. Tính chất liên chính phủ của
ASEAN là nền tảng, quyết định nhiều vấn đề cơ bản của ASEAN.
Tạo cơ sở pháp lý chung cho Hiệp hội nhưng Hiến chương ASEAN không đề cập đến việc
thành lập Quốc hội ASEAN, Toà án ASEAN, trừng phạt hoặc treo tư cách thành viên khi
có vi phạm, ra quyết định bằng bỏ phiếu….
Mục đích và nguyên tắc của ASEAN là hoà bình, an ninh, ổn định và hợp tác khu vực, tôn
trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

Không cho phép sử dụng lãnh thổ để chống lại nước thành viên
Cũng theo Hiến chương, ASEAN có mục tiêu liên kết, thu hẹp khoảng cách phát triển,
hướng về nhân dân và vai trò trung tâm của ASEAN ở khu vực.
Nguyên tắc việc các nước không tham gia và không cho phép bất kỳ quốc gia/đối tượng
nào được sử dụng lãnh thổ của một nước thành viên để chống lại một nước thành viên
khác. Mọi tranh chấp, bất đồng được quy định giải quyết thông qua biện pháp hoà bình,
thương lượng dựa trên các thoả thuận đã có của ASEAN.
Trường hợp bất đồng không giải quyết được hoặc có vi phạm nghiêm trọng Hiến chương,
vấn đề sẽ được trình lên cấp cao quyết định.
Các nước thành viên tuy không phải thay đổi luật, nhưng sẽ cần có sự điều chỉnh nhất định
về một số quy định và thủ tục hành chính trong nước để phù hợp hơn với các quy định của
Hiến chương và thực tiễn của hợp tác ASEAN. Mỗi nước thành viên phải cải tiến tổ chức
bộ máy trong nước, đồng thời đầu tư nguồn lực và nhân lực để tham gia hợp tác ASEAN
một cách chủ động và hiệu quả. ASEAN sẽ có “quốc ca” chung.Hiến pháp ASEAN quy
định Hiệp hội sẽ có một "quốc ca chung" gọi là “ASEAN ca”. Sẽ có cuộc thi tuyển sáng
tác “ASEAN ca” ở mỗi nước thành viên để sau đó lãnh đạo cấp cao các nước chọn ra
“ASEAN ca” chính thức.
Hiến chương ASEAN cũng phê chuẩn lá cờ của ASEAN gồm bốn màu: xanh da trời, đỏ,
trắng, vàng, thể hiện bốn màu chủ đạo trên quốc kỳ của các nước thành viên ASEAN.
6
6
Trong đó, màu xanh da trời biểu hiện cho hoà bình và ổn định. Màu đỏ thể hiện dũng khí
và sự năng động. Màu trắng là sự thuần khiết và màu vàng là biểu trưng cho sự thịnh
vượng. Bó lúa in trên lá cờ tượng trưng cho ước mơ của các thành viên sáng lập ASEAN
về một ASEAN gắn bó bằng tình hữu nghị và đoàn kết..
Các nguyên tắc và nội dung gia nhập được thể hiện trong hiến chương Asean:
Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 10 (năm 2004), lãnh đạo các nước ASEAN nhất trí
xây dựng Hiến chương ASEAN; đến Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 11 (năm 2005) đề
ra các nguyên tắc chỉ đạo và quyết định lập Nhóm các nhân vật nổi tiếng (EPG) để tư vấn
cho việc xây dựng Hiến chương.

Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 13 (tháng 11-2007), lãnh đạo các nước thành viên ký
thông qua Hiến chương ASEAN và ra Tuyên bố chung khẳng định quyết tâm hoàn tất việc
phê chuẩn Hiến chương trong một năm, đến cuối năm 2008.
Hiến chương ASEAN gồm Lời nói đầu và 13 chương, 55 điều.
Về mục đích, nguyên tắc, Hiến chương khẳng định lại các mục đích và nguyên tắc cơ bản
của ASEAN, nhất là mục đích hòa bình, an ninh, ổn định và hợp tác khu vực, nguyên tắc
tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp công việc nội bộ của nhau; bổ sung một
số mục đích và nguyên tắc mới phù hợp tình hình, trong đó có liên kết ASEAN, thu hẹp
khoảng cách phát triển, hướng về nhân dân và vai trò trung tâm của ASEAN ở khu vực,
nguyên tắc về việc các nước không tham gia và không cho phép bất kỳ quốc gia, đối tượng
nào sử dụng lãnh thổ của một nước thành viên để chống nước thành viên khác.
Về cơ cấu tổ chức, Hiến chương nêu rõ: Bộ máy sẽ bao gồm Hội nghị cấp cao (là cơ quan
quyết định chính sách cao nhất, mỗi năm họp hai lần, thay vì mỗi năm một lần trước đây);
bốn Hội đồng cấp Bộ trưởng, trong đó ba Hội đồng về ba trụ cột của Cộng đồng ASEAN
(gồm chính trị - an ninh; kinh tế; văn hóa - xã hội) và một Hội đồng điều phối chung (gồm
các Bộ trưởng Ngoại giao); các hội nghị bộ trưởng chuyên ngành; Ủy ban đại diện thường
trực các nước tại ASEAN; Ban Thư ký ASEAN và Tổng Thư ký ASEAN; Ban Thư ký
ASEAN quốc gia. Ngoài ra, ASEAN cũng sẽ lập Cơ quan nhân quyền ASEAN.
Về cách thức ra quyết định, nguyên tắc chủ đạo là đồng thuận; khi không đạt đồng thuận,
Hội nghị cấp cao sẽ quyết định về cách thức phù hợp.
Về giải quyết tranh chấp, bất đồng, Hiến chương khẳng định nguyên tắc giải quyết hòa
bình, thông qua thương lượng, dựa trên các thỏa thuận đã có của ASEAN. Nếu không giải
quyết được, hoặc có vi phạm nghiêm trọng Hiến chương, vấn đề được trình Hội nghị cấp
cao quyết định.
Hiến chương ASEAN do những người đứng đầu Nhà nước hoặc Chính phủ các nước thành
viên ký phê chuẩn; có hiệu lực 30 ngày sau khi tất cả các quốc gia thành viên phê chuẩn.
Hiến chương được xem xét, bổ sung, sửa đổi 5 năm một lần để phù hợp tình hình thực tế.
Năm 1967, ASEAN được thành lập trên cơ sở một tuyên bố chính trị. Hiến chương
ASEAN ra đời là một văn kiện pháp lý, làm cho ASEAN trở thành một tổ chức hợp tác khu
vực có tư cách pháp nhân. Hiến chương tạo cơ sở pháp lý và khuôn khổ thể chế cho Hiệp

hội gia tăng liên kết khu vực, trước hết là thực hiện mục tiêu hình thành Cộng đồng
ASEAN vào năm 2015, giúp xây dựng ASEAN trở thành một tổ chức gắn kết hơn và hoạt
động hiệu quả hơn, một thực thể chính trị - kinh tế liên kết hơn và có vai trò quan trọng
trong khu vực.
Sự ràng buộc về pháp lý, cùng với sự đổi mới về bộ máy tổ chức, phương thức hoạt động
của ASEAN sẽ giúp việc thực hiện các thỏa thuận nghiêm túc và kịp thời, nâng cao chất
lượng và hiệu quả hợp tác. ASEAN ngày càng liên kết chặt chẽ và vững mạnh trên cơ sở
7
7
pháp lý là Hiến chương ASEAN, giúp duy trì môi trường hòa bình và ổn định ở khu vực,
đồng thời hỗ trợ các nước thành viên phát triển kinh tế, xã hội, hội nhập khu vực và thế
giới.
Hiến chương tạo thế tốt hơn cho ASEAN trong hợp tác với các đối tác bên ngoài khu vực,
cũng như trong khuôn khổ khu vực rộng lớn hơn. Bởi lẽ, tổ chức ASEAN có tư cách pháp
nhân trở thành một chủ thể trong quan hệ đối ngoại, nâng cao hình ảnh và vị thế quốc tế
của Hiệp hội.
Việt Nam đã chủ động tham gia và đóng góp tích cực vào việc xây dựng Hiến chương
ASEAN ngay từ những ngày đầu khi mới xuất hiện ý tưởng về văn kiện này. Ðiều đó thể
hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, góp
phần thúc đẩy hợp tác, phát triển trong ASEAN và khu vực.
Hiến chương ASEAN là một nhu cầu tất yếu khách quan, phản ánh sự trưởng thành của
ASEAN, thể hiện tầm nhìn và quyết tâm chính trị mạnh mẽ của các nước thành viên, nhất
là của các nhà lãnh đạo ASEAN, về mục tiêu xây dựng một ASEAN liên kết chặt chẽ và
vững mạnh hơn trên cơ sở pháp lý là Hiến chương, hỗ trợ mục tiêu hòa bình và phát triển
của cả khu vực, cũng như của từng nước thành viên.
3.2.2. Các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam khi gia nhập Asean.
Cùng với các nước ASEAN, Việt Nam đã tham gia tích cực vào việc xây dựng Hiến
chương ASEAN ngay từ những ngày đầu. Trong quá trình soạn thảo Hiến chương, Việt
Nam đã góp phần bảo vệ những mục tiêu và nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội như các mục
tiêu hòa bình, ổn định và liên kết khu vực, thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN;

các nguyên tắc cơ bản như đồng thuận và không can thiệp, khẳng định tính chất liên chính
phủ của Hiệp hội; và một số nguyên tắc mới như các thành viên không được sử dụng lãnh
thổ của một nước thành viên để chống lại một nước thành viên khác. Những đóng góp của
Việt Nam đã góp phần định hướng quan trọng trong quá trình soạn thảo nội dung Hiến
chương, tạo điều kiện để Hiến chương đáp ứng tốt hơn những yêu cầu đặt ra cho ASEAN
trong giai đoạn phát triển mới, được bạn bè hoan nghênh và đánh giá cao.
Những đóng góp trên là sự tiếp nối của quá trình tham gia tích cực và đóng góp to lớn của
Việt Nam kể từ khi gia nhập ASEAN tháng 7/1995. Trong hơn 12 năm qua, với dân số hơn
84 triệu người và vị trí địa-chiến lược và địa - kinh tế quan trọng, chính trị - xã hội ổn định,
thế và lực ngày càng gia tăng và chính sách đối ngoại rộng mở, Việt Nam được các nước
ASEAN và các đối tác bên ngoài nhìn nhận là thành viên đóng vai trò tích cực đối với hòa
bình, hợp tác và phát triển trong ASEAN.
Hướng về tương lai, chúng ta cần nhận thức rõ những tác động nhiều chiều, cả mặt thuận
lợi và những thách thức của việc thực hiện Hiến chương ASEAN và tiến trình xây dựng
cộng đồng ASEAN đối với tương lai phát triển của Hiệp hội cũng như sự tham gia của
từng nước thành viên, trong đó có Việt Nam. Sự ràng buộc về pháp lý cùng với sự đổi mới
về bộ máy tổ chức và phương thức hoạt động của ASEAN sẽ giúp việc thực hiện các thỏa
thuận nghiêm túc và kịp thời hơn, nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác. Một ASEAN
ngày càng liên kết chặt chẽ và vững mạnh trên cơ sở pháp lý là Hiến chương sẽ giúp duy
trì môi trường hòa bình và ổn định ở khu vực, hỗ trợ đắc lực cho Việt Nam và các nước
ASEAN khác phát triển kinh tế-xã hội cũng như hội nhập khu vực và quốc tế, gia tăng vị
thế quốc tế trong quan hệ với các đối tác bên ngoài.
Song, việc thực hiện Hiến chương ASEAN cũng đòi hỏi mỗi nước thành viên phải nghiêm
túc hơn và chuyên nghiệp hơn trong việc tham gia đàm phán và thực hiện các quyết định,
thỏa thuận hợp tác của ASEAN, quan tâm hơn đến các mục tiêu chung của ASEAN nhằm
8
8
đảm bảo sự gắn kết và lồng ghép hài hòa giữa các ưu tiên phát triển của quốc gia và khu
vực, điều chỉnh tổ chức bộ máy trong nước cũng như đầu tư nguồn lực và nhân lực thích
đáng hơn, để tham gia hợp tác ASEAN một cách có chủ động và hiệu quả.

Tận dụng những mặt thuận lợi và khắc phục những thách thức kể trên, chúng ta cần cần
quán triệt những phương châm và định hướng sau đây.
Một là, cần xác định tham gia hợp tác trong ASEAN có tầm quan trọng chiến lược. Một
ASEAN ổn định, đoàn kết, liên kết chặt chẽ và vững mạnh là nhân tố quan trọng đảm bảo
lợi ích an ninh và phát triển của Việt Nam.
Hai là, cần có những suy nghĩ mới, cách làm mới, phương thức mới về sự tham gia của ta
trong ASEAN trên cơ sở kiên trì giữ vững các vấn đề có tính nguyên tắc, nhưng linh hoạt
về biện pháp và cách thức tiến hành. Với thế và lực của đất nước tăng lên, Việt Nam đang
có những cơ hội rất thuận lợi đóng vai trò tích cực, có trách nhiệm và chủ động hơn trong
việc thực hiện Hiến chương ASEAN, xây dựng cộng đồng ASEAN cũng như các thể chế,
quy tắc, quy định và các cơ chế ra quyết định của ASEAN nhằm nâng cao vị thế, ảnh
hưởng của Việt Nam trong ASEAN.
Ba là, cần có sự chỉ đạo tập trung và thống nhất của Chính phủ, sự tham gia tích cực và
phối hợp chặt chẽ của các Bộ/ngành, đầu tư thích đáng về nhân lực và nguồn lực, vì hợp
tác ASEAN rất đa dạng và phức tạp, không chỉ trong phạm vi khu vực Đông Nam Á và 10
nước thành viên, mà gồm cả hợp tác Đông Á và với các đối tác quan trọng trong khuôn
khổ hợp tác ASEAN+1, ASEAN+3, Tiến trình Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) và
Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), trong đó ASEAN giữ vai trò chủ đạo.
Bốn là, cần củng cố và tăng cường các bộ phận và cán bộ chuyên trách về ASEAN của
từng cơ quan; có kế hoạch cử cán bộ tham gia và đảm nhận một số chức vụ trọng yếu trong
ASEAN, khẩn trương xúc tiến công tác chuẩn bị để Việt Nam đảm nhận tốt vai trò Chủ
tịch ASEAN trong cả năm 2010, trong đó có việc tổ chức Hội nghị Cấp cao ASEAN và
nhiều Hội nghị cấp Bộ trưởng. Đây sẽ là cơ hội lớn để chúng ta tiếp tục khẳng định sự
đóng góp quan trọng trong việc thúc đẩy liên kết ASEAN, đồng thời nâng cao vai trò, vị
thế quốc tế của Việt Nam.
Cuối cùng, chúng ta cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền rộng rãi cho các tầng
lớp nhân dân về tình hình hợp tác ASEAN và sự tham gia của Việt Nam trong ASEAN, qua
đó nắm bắt nguyện vọng và nhu cầu của người dân Việt Nam nhằm đưa các hoạt động hợp
tác ASEAN theo hướng thiết thực và hiệu quả.
4. Sự cần thiết để tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu vực Asean:

Các nước ASEAN có vị trí đặc biệt đối với Việt Nam vì có nhiều nét tương đồng về văn
hóa, có quan hệ láng giềng, truyền thống và gắn bó chặt chẽ về an ninh, chính trị kinh tế
với Việt Nam.
Quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam với các nước ASEAN và sự lớn mạnh của Hiệp hội trong
đó có đóng góp tích cực của Việt Nam đã góp phần củng cố môi trường hòa bình, ổn định
và phát triển ở khu vực, hỗ trợ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của
Việt Nam ở khu vực và trên thế giới. Trong những năm tới, Việt Nam tiếp tục nỗ lực thúc
đẩy quan hệ với các nước ASEAN đi vào chiều sâu, hiệu quả, đồng thời tích cực góp phần
thực hiện mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, nâng cao vai trò của
ASEAN ở trong khu vực và trên thế giới.
9
9
Thế giới đánh giá cao vai trò của ASEAN. ASEAN đã trở thành một tổ chức khu vực rất
thành công, phát triển năng động, hợp tác chặt chẽ, có quan hệ đối tác mật thiết với nhiều
quốc gia, và tổ chức quan trọng hàng đầu thế giới. Sức mạnh và uy tín của ASEAN ngày
càng gia tăng khi Hiệp hội bao gồm cả 10 quốc gia Đông Nam Á. Điều đó góp phần củng
cố hòa bình, ổn định và sự phồn vinh ở khu vực, tăng cường hợp tác và liên kết giữa các
nước thành viên, nâng cao vị thế của Hiệp hội trên trường quốc tế, tạo tiền đề cho những
bước phát triển mạnh mẽ tiếp theo. ASEAN đóng vai trò nòng cốt trong đẩy mạnh sự hợp
tác ở Đông Á và Châu Á - Thái Bình Dương vì hòa bình và phát triển thông qua các hoạt
động của APEC, Diễn đàn Đông Á, Diễn đàn khu vực ASEAN".ASEAN đã đạt được nhiều
thành tích nổi bật trong phát triển kinh tế và đẩy mạnh hòa hợp khu vực. ASEAN đã có
nhiều đóng góp quan trọng cho hòa bình, phát triển và thịnh vượng trong khu vực.
Chương II: Thực trạng tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu vực Asean – lộ trình thự
hiện khi tham gia khu vực kinh tế thương mại Asean của Việt Nam:
ASEAN hiện có 11 nước (Brunei, Campuchia, Đông Timo, Indonesia, Lào, Malaysia,
Myanmar, Philippines, Thái Lan, Việt Nam, Singapore). Diện tích toàn khối là 4.492.443
km2, chiếm 14,1% lãnh thổ châu Á và chiếm 3,3% diện tích toàn thế giới.
Quốc gia rộng nhất là Indonesia, tiếp đến là Myanmar, Thái Lan, Malaysia, Việt Nam,
Philippines, Lào, Campuchia, Đông Timo, Brunei, Singapore. Dân số giữa năm 2004 là

548,2 triệu người, chiếm dân số 14,1% châu Á và gần 8,6% toàn thế giới; đông nhất là
Indonesia, tiếp đến là Philippines, Việt Nam, Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào,
Singapore, Đông Timo, Brunei.
Mật độ dân số đạt 122 người/ km2, tương đương với châu Á và gấp 2,6 lần thế giới. Tỷ lệ
dân số thành thị đạt 38,4%, xấp xỉ tỷ lệ của châu Á và thấp hơn tỷ lệ 48% của toàn thế
giới; cao nhất là Singapore, tiếp đến là Brunei, Malaysia, Philippines, Indonesia, Thái Lan,
Myanmar, Việt Nam, Lào, Campuchia, Đông Timo.
Tỷ lệ sinh đạt 2,2%, tỷ lệ chết 0,7%, tỷ lệ tăng tự nhiên 1,5%, cao hơn tỷ lệ 1,3% của châu
Á và tỷ lệ 1,2% của toàn thế giới; thấp nhất là Singapore, tiếp đến là Thái Lan, Đông Timo,
Myanmar, Việt Nam, Indonesia, Brunei, Philippines, Malaysia, Campuchia, Lào.
Tuổi thọ bình quân đạt 68, cao hơn mức 67 của châu Á và thấp hơn mức 69 của toàn thế
giới; cao nhất là Singapore, tiếp đến là Brunei, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam, Philippines,
Indonesia, Myanmar, Campuchia, Lào, Đông Timo.
GDP tính bằng USD theo tỷ giá thực tế của ASEAN năm 2003 đạt khoảng 687 tỷ USD,
chiếm 1,9% toàn thế giới; bình quân đầu người đạt khoảng 1.253,2USD, thấp xa so với
mức 5.684,2 USD của toàn thế giới.
Nếu tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương, thì GDP bình quân đầu người năm
2001 cuả các nước trong khu vực như sau: Singapore 22.680 USD, (năm 2002 là 24.040),
tiếp đến là Brunei 19.210, Malaysia 8.750 (năm 2002 đạt 9.120), Thái Lan 6.400,
Philippines 3.840, Indonesia 2.940, Việt Nam khoảng 2.100, Campuchia 1.860, Lào 1.620
(năm 2002 đạt 1.720), Myanmar 1.027.
1.Thực trạng quá trình tham gia hội nhập kinh tế của Việt Nam.
Sự hội nhập kinh tế của ASEAN diễn ra trên diện rộng, nhưng đến thời điểm này, trong
con mắt của các nhà đầu tư và cộng đồng quốc tế, hình ảnh hội nhập của ASEAN gắn liền
với CEFT/AFTA (AFTA- Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN). Đó là vì, CEFT/AFTA là
chương trình có những cam kết cụ thể và những cam kết này, bước đầu, cũng đã có những
tác động tới nền kinh tế các nước thành viên. Các chương trình khác, như: đầu tư, dịch vụ,
công nghiệp, cũng đặt ra những mục tiêu cụ thể, nhưng các cam kết ràng buộc chưa cao
10
10

(đối với hầu hết các quốc gia, cam kết mới dừng lại ở mức độ các thể chế, quy định hiện
hành của quốc gia mình), và chưa thực sự khuyến khích được cộng đồng doanh nghiệp và
các nhà đầu tư tham gia. Trong các lĩnh vực khác, như: giao thông vận tải, sở hữu trí tuệ
hay hợp tác chuyên ngành, mục tiêu của các chương trình khá tham vọng, nhưng thực chất,
các cam kết hầu như không sâu sắc và mới chỉ dừng lại ở các chương trình hợp tác, trao
đổi thông tin, và đề ra những biện pháp tăng cường hợp tác hơn nữa.
Sau 4 năm hội nhập kinh tế, ASEAN đã vấp phải cuộc khủng hoảng tài chính (1997-1998).
Qua cuộc khủng hoảng này, đã bộc lộ rõ những yếu kém và tính dễ bị tổn thương của các
nước ASEAN nói chung; cũng như những khiếm khuyết cơ bản trong hệ thống tài chính
quốc tế. Điều này càng thể hiện sự phụ thuộc của các nền kinh tế ASEAN vào các nền kinh
tế lớn trên thế giới và sự hội nhập kinh tế của ASEAN chưa đủ mạnh để có thể làm “trợ
lực” cho các nền kinh tế thành viên phát triển ổn định và bền vững, tránh được những va
đập của những “cú sốc” đến từ bên ngoài. Trong bối cảnh như vậy, ASEAN nhận thấy cần
nỗ lực đẩy nhanh tiến trình hội nhập sâu rộng để hướng tới một nền kinh tế khu vực thể
hoá cao. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN (ngày 15/12/1997), các nhà lãnh đạo ASEAN đã
thông qua Tầm nhìn 2020, đưa ra viễn cảnh cho đến năm 2020, ASEAN sẽ là “Một nhóm
hài hoà các dân tộc Đông-Nam Á, rộng mở với bên ngoài, sống trong hoà bình, ổn định và
thịnh vượng, gắn bó với nhau bằng quan hệ đối tác trong phát triển năng động và trong một
cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn nhau”. Để thực hiện Tầm nhìn 2020, ASEAN đã đưa ra
Chương trình hành động Hà Nội (HPA), được thông qua tại Hội nghị cấp cao ASEAN 6 tại
Việt Nam (tháng 12/1998). Chương trình này đã được thực hiện trong 6 năm, từ 1999 đến
2004. Đến nay, HPA đã đi gần đến đích, mặc dù kết quả dường như vẫn còn khiêm tốn do
nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Về thương mại hàng hoá: Về cơ bản, quá trình cắt giảm thuế xuống từ 0-5%, theo AFTA,
được thực hiện đúng tiến độ, thậm chí còn được đẩy nhanh theo tiến độ thoả thuận tại Hội
nghị cấp cao 1998. Tất cả 6 nước thành viên đầu tiên tham gia Hiệp định CEPT/AFTA đã
giảm thuế xuống từ 0-5% đối với hầu hết các mặt hàng trong Danh mục Giảm thuế (trừ
Malaixia còn 213 mặt hàng linh kiện ôtô, Philipin và Inđônêxia còn một số các sản phẩm
hoá dầu). Các nước thành viên mới cũng đã đạt được những tiến bộ tương tự.
Đối với các sản phẩm công nghệ thông tin và viễn thông (ICT), ASEAN đã nhất trí một lộ

trình riêng nhanh hơn (để thực hiện Hiệp định Khung e-ASEAN). Các nhà lãnh đạo
ASEAN đã thống nhất mục tiêu cuối cùng của AFTA là loại bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu
vào năm 2010 đối với 6 nước thành viên như đã nói ở trên gồm Brunây, Inđônêxia,
Malaixia, Singapo, Philipin và Thái Lan và năm 2015 đối với các nước thành viên khác,
với một số linh hoạt cho tới năm 2018. Để thực hiện quyết định này, 6 nước thành viên trên
đã đồng ý xoá bỏ thuế quan đối với 60% mặt hàng trong danh mục giảm thuế vào năm
2003 và hiện nay, 4 trong 6 nước thành viên đó đã đạt được mục tiêu trên.
Nhằm tạo thuận lợi cho thương mại nội khối ASEAN, Biểu thuế hài hoà chung ASEAN
(AHTN) đã hoàn thành và đã bắt đầu thực hiện từ ngày 1/7/2003. Việc triển khai xây dựng
và ký kết các thoả thuận công nhận lẫn nhau chuyên ngành (MRAs) cũng đã được ASEAN
triển khai một cách tích cực.
Về hợp tác công nghiệp (Chương trình AICO): Với mục đích hợp tác, chia sẻ nguồn lực
trong việc trao đổi các sản phẩm công nghiệp, đến nay, AICO mới có những kết quả bước
đầu. Phần lớn các cơ cấu AICO đều tập trung vào lĩnh vực sản xuất ôtô, còn lại là trong các
lĩnh vực điện tử, hoá chất và hoá mỹ phẩm. Tuy nhiên, cơ cấu này mới chỉ tập trung ở các
nước ASEAN 6 và các công ty tham gia cơ cấu AICO thường là các tập đoàn xuyên quốc
11
11
gia của các quốc gia ngoài ASEAN có cơ sở sản xuất tại các nước ASEAN. Như vậy, về
thực chất, các ngành sản xuất của các nước ASEAN chỉ được hưởng lợi gián tiếp từ
chương trình này.
Về dịch vụ: Tiến bộ đạt được trong đàm phán về thương mại dịch vụ rất chậm. Không phải
tất cả các nước thành viên đều đưa ra bản chào rõ ràng đối với những phân ngành dịch vụ
chung đã xác định. Các cam kết được đem ra, cho tới nay, còn mang tính hình thức và
nhiều cam kết không đạt được mục tiêu tự do hoá nhanh. Các thông tin về pháp luật và quy
định quản lý việc hành nghề còn chưa có. Một số nước thiếu quy định điều chỉnh dịch vụ
để có thể đưa ra cam kết. Giá trị của thương mại dịch vụ tự do dường như không được
công nhận một cách phổ biến.
Về đầu tư: Với mục đích là tăng dòng đầu tư nội khối, Hiệp định Khu vực đầu tư (AIA)
đã ra đời. Tuy nhiên cho đến nay, tình hình đầu tư của ASEAN không mấy sáng sủa. Các

dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ASEAN liên tục giảm. Đầu tư nội khối không
tăng là bao. ASEAN đã đưa ra nhiều sáng kiến để thu hút đầu tư, kể cả các biện pháp mạnh
bạo (năm 1998) và tổ chức các đoàn xúc tiến đầu tư của ASEAN, nhưng kết quả chưa đạt
được như mong muốn.
Các chương trình hợp tác trong các lĩnh vực thuộc kết cấu hạ tầng: như giao thông vận tải,
đường xá, năng lượng, nước, cũng đã được triển khai với mục đích tạo các yếu tố cơ sở,
nền móng cho quá trình hội nhập kinh tế của ASEAN. Tuy nhiên, đây là những lĩnh vực
đòi hỏi nguồn lực lớn, trong khi đó, ASEAN vẫn phải phụ thuộc vào nguồn vốn và trợ giúp
kỹ thuật bên ngoài. Mặt khác, mức độ sẵn sàng tham gia của các nước thành viên vào các
chương trình kết cấu hạ tầng quy mô lớn ở tầm khu vực là khác nhau, và chính sách liên
quan của từng quốc gia cũng còn nhiều điểm khác biệt. Vì vậy, trong các lĩnh vực này, sự
hợp tác hầu như chưa được triển khai trên thực tế.
Trong bối cảnh như vậy, các nước ASEAN đã nhận thấy sự cần thiết phải có định hướng
cho hội nhập kinh tế thời kỳ “Hậu AFTA”. Một mặt, ASEAN đã gần như kết thúc Chương
trình CEFT/AFTA (ASEAN 6 vào năm 2002, Việt Nam: 2006). Mặt khác, ASEAN đang
đứng trước quá nhiều thử thách như đã nêu ở trên, kể cả ở góc độ chủ quan lẫn khách
quan. Chính vì vậy, ý tưởng “Cộng đồng kinh tế ASEAN-AEC” đã ra đời và được thể hiện
trong Tuyên bố hoà hợp Ba-li II do các nhà lãnh đạo ASEAN ký tại Hội nghị cấp cao lần
thứ 9 tại Ba-li (Inđônêxia tháng 11/2003).
Như vậy, nhìn tổng thể, bức tranh hội nhập kinh tế của ASEAN là toàn diện, bao trùm hầu
hết các lĩnh vực quan trọng có tác động trực tiếp tới sự tăng trưởng kinh tế. Mức độ hội
nhập trong các lĩnh vực là rất đa dạng, từ các cam kết mang tính ràng buộc đến các hoạt
động hợp tác một cách đơn thuần hay hợp tác trong các chương trình cụ thể. Tuy nhiên,
cho đến nay, ASEAN vẫn chỉ là một liên kết kinh tế lỏng lẻo và rời rạc, tính liên kết thấp.
Các nước ASEAN dường như chưa coi hội nhập kinh tế ASEAN là một mục tiêu quan
trọng và gắn với chiến lược phát triển quốc gia của mình. Mỗi nền kinh tế thành viên vẫn
lấy lợi ích quốc gia làm trọng và chưa nhìn nhận hết nguy cơ tiềm ẩn gây bất lợi cho ngay
các quốc gia thành viên khi ASEAN chưa thực sự là một khối gắn kết. Các chương trình
đẩy mạnh hội nhập của ASEAN không phải là ít (Tầm nhìn 2020, Chương trình Hành động
Hà Nội, Lộ trình hội nhập của ASEAN), nhưng mới chỉ là quyết tâm mang tính “khẩu

hiệu”, chưa mang tính thực tiễn. Với thực trạng hiện nay, nếu ASEAN không quyết tâm hội
nhập sâu sắc hơn để hướng tới một khu vực kinh tế thống nhất, thì ASEAN khó có thể tiếp
cận được những mục tiêu đã đặt ra trong Tầm nhìn 2020, hướng tới một Cộng đồng kinh tế
ASEAN vào 2020.
12
12

×