Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

cauhoiontap_luatquocte

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.34 KB, 25 trang )

---oOo---
1. Luật quốc tế là một hệ thống pháp luật độc lập
Luật quốc tế hiện đại là tổng thể những nguyên tắc, những qui phạm pháp luật quốc
tế do các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế xây dựng trên cơ sở tự nguyện &
bình đẳng, thông qua đấu tranh & thương lượng nhằm điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt
(chủ yếu là quan hệ chính trò) giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau (trước tiên & chủ yếu
giữa các quốc gia) trong những trường hợp cần thiết pháp luật quốc tế được bảo đảm thi
hành bằng những biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thể do chính các chủ thể pháp luật
quốc tế thi hành hoặc bằng sức đấu tranh của nhân dân cùng dư luận tiến bộ thế giới. Hệ
thống là bao gồm tổng thể cơ quan, bộ phận mà nó bổ sung, hổ trợ trong một chỉnh thể
thống nhất.
Pháp luật quốc gia cũng được hiểu là một hệ thống, mỗi quốc gia có một hệ pháp luật
riêng & theo nghóa nầy luật quốc tế cũng được coi là một hệ thống pháp luật bao gồm
những hệ thống nguyên tắc, những qui phạm pháp luật quốc tế nhằm điều chỉnh các mối
quan hệ giữa các quốc gia với nhau
Luật quốc tế được coi là một hệ thống pháp luật độc lập bởi vì so với hệ thống pháp
luật của từng quốc gia, luật quốc tế có những đặc thù cơ bản mà các dấu hiệu của luật mỗi
quốc gia không có các dấu hiệu đặc thù đó( nói thêm về đặc điểm của luật quốc tế ở câu 2)
2. Khái niệm & đặc điểm cơ bản của luật quốc tế
Khái niệm: Luật quốc tế hiện đại hay còn gọi là công pháp quốc tế là tổng thể những
nguyên tắc, những qui phạm pháp luật quốc tế do các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp lí
quốc tế xây dựng trên cơ sở tự nguyện & bình đẳng, thông qua đấu tranh & thương lượng
nhằm điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt (chủ yếu là quan hệ chính trò) giữa các chủ thể
luật quốc tế với nhau (trước tiên & chủ yếu giữa các quốc gia) trong những trường hợp cần
thiết luật quốc tế được bảo đảm thi hành bằng những biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc
tập thể do chính các chủ thể luật quốc tế thi hành hoặc bằng sức đấu tranh của nhân dân
cùng dư luận tiến bộ Thế giới.
Đặc điểm: Từ khái niệm nêu trên, luật quốc tế có những đặc điểm cơ bản như sau:
 Đối tượng điều chỉnh : nếu như luật trong nước điều chỉnh về quan hệ xã
hội phát sinh trong phạm vi lãnh thổ quốc gia & quan hệ có iếu tố nước ngoài thì luật quốc
tế chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống uốc tế như quan hệ chính


trò ,kinh tế,văn hóa,khoa học-kỷ thuật,môi trường…giữa các chủ thể của luật quốc tế với
nhau mà chủ yếu là những quan hệ chính trò. Tuy nhiên không phải tất cả quan hệ quốc tế
đều là đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế
(VD: quan hệ quốc tế theo con đường các tổ chức chính trò –xã hội…không do luật
quốc tế chính trò điêù chỉnh)
 Trình tự xây dựng các qui phạm pháp luật quốc tế: trong hệ thống quốc tế
1/25
dựa trên nguyên tắc cơ bản bình đẳng về chủ quyền các quốc gia nên không có cơ quan
làm luật. Con đường duy nhất để hình thành các qui phạm pháp luật quốc tế đó là sự thỏa
thuận giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau dưới hình thức ký kết các điều ước quốc tế
( qui phạm thành văn) ; cùng nhau thừa nhận những tập quán quốc tế trong quan hệ giữa
họ( qui phạm bất thành văn). Đây là đặc trưng quan trọng nhất.
 Chủ thể của luật quốc tế:
• Các quốc gia có chủ quyền: chủ quyền quốc gia trong lónh vực đối nội là quyền tối
cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình, quyền làm luật, quyền giám sát việc thi
hành pháp luật, quyền xét xử những hành vi vi phạm pháp luật của quốc gia.
Trong lónh vực đối ngoại đó là quyền độc lập trong hệ thống quốc tế ,tự do quan hệ
không lệ thuộc vào bất cứ thế lực nào, hai mối quan hệ này có quan hệ mật thiết với
nhau,chỉ vì khi quốc gia có quyền tối cao trong quan hệ đối ngoại thì mới có quyết đònh
trong quan hệ đối ngoại, Quốc gia là chủ thể đặc biệt khi tham gia vào họat động tư pháp
quốc tế, được miễn trừ về tư pháp quốc tế: quyền miễn trừ về xét xử, quyền miễn trừ về tài
sản, quyền miễn trừ về thi hành án.
• Các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập được xem là quốc gia đang hình thành,
đứng lên đấu tranh giành độc lập, thành lập quốc gia có chủ quyền, có quyền tham gia đại
diện ký kết các điều ước quốc te ávới các quốc gia khác, tự do không bò lệ thuộc vào bất cứ
quốc gia nào.
• Các tổ chức quốc liên chính phủ ( liên quốc gia) là tổ chức thành lập trên sự liên kết
giữa các quốc gia, & họat động dưới sự thỏa thuận giữa các quốc gia (VD: LHQ, Asian,
EU…).
• Tổ chức phi chính phủ được thành lập dưới sự thỏa thuận giữa các thể nhân với pháp

nhân thì không được coi là chủ thể của luật quốc tế, không được thừa nhận của luật quốc tế
(VD: Hội luật gia thế giới, Hội Liên hiệp phụ nữ thế giới…).
• Tư cách chủ thể của tòa thánh Vatican tòa thánh Vatican không phải là một quốc gia,
tư cách chủ thể của Vatican được đặt ra
 Biện pháp bảo đảm thi hành luật quốc tế khi xây dựng các điều ước quốc tế các bên
thường thỏa thuận các biện pháp cưỡng chế để áp dụng cho các quốc gia vi phạm. Đó là
những quan hệ mà tự các chủ thể thỏa thuận xây dựng các biện pháp nhất đònh vì lợi ích
của chính họ. Các chủ thể bò hại được quyền sử dụng một số biện pháp nhất đònh cho quốc
gia gây hại. Biện pháp cưỡng chế được thể hiện dưới hai hình thức:
 Cưỡng chế cá thể : trên bình diện quốc tế không có cơ quan cưỡng chế tập trung
thường trực, những biện pháp do chính chủ thể của luật quốc tế thực hiện dưới hình thức cá
thể, riêng lẻ tức là chủ thể bò hại được quyền sử dụng những biện pháp cưỡng chế trả đũa
hay biện pháp tự vệ đối với chủ thể gây hại cho mình (rút đại sứ về nước, cắt đứt quan hệ
ngoại giao, bao vây kinh tế, giáng trả…)
 Biện pháp cưỡng chế tập thể tức là quốc gia bò hại có quyền liên minh các quốc gia
trên cơ sở các cam kết phù hợp để chống lại quốc gia gây hại cho mình.
LHQ giao cho HĐBA LHQ có nhiệm vụ giữ gìn hòa bình & an ninh của các quốc gia
trong khuôn khổ tuân thủ hiến chương LHQ, có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng
chế & trừng phạt kể cả dùng vũ lực chống lại các quốc gia vi phạm.
Ngoài ra vấn đề dư luận tiến bộ trên thế giới & sự đấu tranh của nhân dân các nước
2/25
cũng là biện pháp để cho pháp luật quốc tế phải tuân theo.
3. So sánh điều ươcù quốc tế & tập quán quốc tế
 Điều ước quốc tế : được coi là văn bản pháp lí quốc tế do các chủ thể của
luật quốc tế thỏa thuận xây dựng trên cơ sở tự nguyện & bình đẳng nhằm ổn đònh thay đổi
hay chấm dứt quyền & nghóa vụ pháp lí đối với nhau trong bang giao quốc tế phù hợp với
những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế
 Tập quán quốc tế: là qui tắc xử sự chung được hình thành trong quan hệ
quốc tế do một hoặc một số quốc gia đưa ra & áp dụng lâu dài trong thực tiễn (được áp
dụng từ hai chủ thể trở lên)

 Giống nhau
 Cả hai đều là nguồn chính của luật quốc tế, là những hình thức chứa đựng
các qui phạm pháp luật quốc tế, đều có giá trò hiệu lực như nhau.
 Bản chất như nhau đều là dựa trên sự thỏa thuận giữa các chủ thể với
nhau, điều ước quốc tế thỏa thuận ký kết, tập quán quốc tế thỏa thuận thừa nhận.
 Nội dung của cả điều ước quốc tế & tập quán quốc tế phải phù hợp với
những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế .
 Đều điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể của luật
quốc tế với nhau như những quan hệ về chính trò, văn hóa, kinh tế…
 Khác nhau
Nội dung Điều ước quốc tế
Tập qn quốc tế
Hình thức thể hiện
- Là sự thỏa thuận ký kết những quy
phạm pháp luật tồn tại dưới dạng văn
bản, thể hiện rõ ràng cụ thể.
- Còn sự thỏa thuận của tập quán quốc tế
là để đi đến thừa nhận những qui phạm
pháp luật bất thành văn
Quá trình hình thành
- Trình tự lập pháp là chính xác & cụ thể
hơn thông qua một thủ tục kí kết bao gồm
các quá trình đàm phán, sọan thảo văn
bản, thông qua văn bản, ký điều ước
quốc tế, phê chuẩn hoặc phê duyệt
- Trình tự lập pháp thông qua sự áp dụng
thừa nhận những qui tắc xử sự trong thực
tiễn trãi qua một thời gian dài lặp đi lặp
lại nhiều lần trong một thời gian liên tục.
Phạm vi điều chỉnh - Rộng - Hẹp

4. So sánh luật quốc tế & luật quốc gia
Luật quốc tế hiện đại là tổng thể những nguyên tắc, những qui phạm pháp luật quốc
tế do các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế xây dựng trên cơ sở tự nguyện &
bình đẳng, thông qua đấu tranh & thương lượng nhằm điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt
(chủ yếu là quan hệ chính trò) giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau (trước tiên & chủ yếu
giữa các quốc gia) trong những trường hợp cần thiết cần thiết luật quốc tế được bảo đảm thi
hành bằng những biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thểà do chính các chủ thể luật quốc
tế thi hành hoặc bằng sức đấu tranh của nhân dân cùng dư luận tiến bộ Thế giới.
 Về đối tượng điều chỉnh pháp luật quốc gia điều chỉnh những quan hệ xã hội
phát sinh trong nội bộ phạm vi lãnh thổ , còn pháp luật quốc tế điều chỉnh những quan hệ
xã hội phát sinh trong đời sống sinh họat quốc tế giữa các chủ thể luật quốc tế.
 Về chủ thể chủ thể luật quốc gia là thể nhân, pháp nhân & nhà nước tham gia
3/25
với tư cách là chủ thể đặc biệt khi nhà nước là một bên trong quan hệ, còn chủ thể của
pháp luật quốc tế là các quốc gia có chủ quyền, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập,
các tổ chức liên chính phủ & các chủ thể khác.
 Về trình tự xây dựng Pháp Luật: việc xây dựng pháp luật & trình tự xây đựng
pháp luật của pháp luật quốc gia do cơ quan lập pháp thực hiện còn xây dựng & trình tự
xây dựng pháp luật quốc tế do không có cơ quan lập pháp nên khi xây dựng các qui phạm
thành văn bất thành văn chủ iếu do sự thỏa thuận giữa các chủ thể có chủ quyền quốc gia
của luật quốc tế.
 Về biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật quốc gia có bộ máy cưỡng chế tập
trung thường trực như quân đội, cảnh sát,tòa án nhà tù…làm biện pháp bảo đảm thi hành,
còn pháp luật quốc tế thì không có bộ máy cưỡng chế tập trung thường trực mà chỉ có một
số biện pháp cưỡng chế nhất đònh mang tính tự cưỡng chế dưới hình thức riêng rẽ hoặc tập
thể
 Về phương pháp điều chỉnh các ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc gia có
phương pháp điều chỉnh khác nhau còn các ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc tế thì
chỉ có một phương pháp điều chỉnh là sự thỏa thuận.
5. Phân tích bản chất của luật quốc tế hiện đại trên cơ sở so sánh với LQT c ũ .

Luật quốc tế hiện đại là tổng thểnhững nguyên tắc, những qui phạm pháp luật quốc tế
do các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế xây dựng trên cơ sở tự nguyện &
bình đẳng, thông qua đấu tranh & thương lượng nhằm điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt
(chủ yếu là quan hệ chính trò) giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau (trước tiên & chủ yếu
giữa các quốc gia) trong những trường hợp cần thiết luật quốc tế được bảo đảm thi hành
bằng những biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thểà do các chủ thể luật quốc tế thi hành
hoặc bằng sức đấu tranh của nhân dân cùng dư luận tiến bộ Thế giới.
Như ta biết, nếu như luật quốc gia đều có liên quan chặt chẽ đến hạ tầng kỷ thuật nhất
đònh & sự phát triển của nó gắn với một hình thái kinh tế – xã hội cụ thể thì luật quốc tế
cũng vậy. Do ảnh hưởng của CM tháng10 Nga, do kết quả đấu tranh của các lực lượng tiến
bộ cách mạng & yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Luật quốc tế đã có những thay đổi sâu
sắc & thực chất là luật quốc tế mới về chất. Luật quốc tế hiện đại & bản chất tiến bộ khác
hẳn với luật quốc tế cũ. Điều này dễ nhận thấy qua qúa trình tham gia vào quan hệ pháp lý
quốc tế & là chủ thể của luật quốc tế. Luật quốc tế củ còn có những nguyên tắc, chế đònh
phản động như quyền tiến hành chiến tranh, quyền của kẻ chiến thắng, chế đònh chiếm cứ
đầu tiên, chế đònh thuôc đòa, chế đònh bảo hộ…
Từ sau CM tháng10 Nga, Luật quốc tế hiện đại không còn là pháp luật bò áp đặt bởi
sức mạnh, bởi các quốc gia mạnh, các qui phạm của luật quốc tế đã & đang xây dựng trên
cơ sở thỏa thuận, đàm phán, thương lượng. Do đó không một quốc gia nào có quyền áp đặt
các qui phạm pháp luật cho các quốc gia khác khi không cósự đồng ý thỏa thuận của họ,
“quyền chiến tranh” không còn tồn tại trong luật quốc tế hiện đại & thay vào đó các
nguyên tắc, các chế đònh mới hết sức quan trọng, tiến bộ, dân chủ như: cấm chiến tranh
xâm lược, cấm dùng vũ lực & đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Đồng thời luật quốc tế hiện đại kế thừa & phát triển tiến bộ thêm các nguyên tắc &
qui phạm mang tính dân chủ của luật quốc tế cũ như : nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền
4/25
giữa các quốc gia, không can thiệp vào nội bộ của nhau, tận tâm thực hiện các cam kết
quốc gia, điều này có thể hiện đại đã loại trừ sự phân biệt giữa các quốc gia, giữa các nước
văn minh & các nước lạc hậu, giữa các nước phát triển & các nước chậm phát triển. Các
nước lớn nhỏ đều có quyền tham gia vào quan hệ quốc tế & trở thành chủ thể luật quốc tế

hiện đại.
Sự phân tích trên cho ta thấy rằng luật quốc tế chỉ có thể được xây dựng trên nền tảng
dân chủ, tiến bộ chung & chỉ có trên cơ sở được thoả thuận chấp nhận của tất cả các quốc
gia. Tuy nhiên, mức độ dân chủ tiến bộ của từng qui phạm luật quốc tế còn tùy thuộc vào
sự tương quan lực lượng giữa tiến bộ & phản dân chủ trên chiến trường quốc tế & trong nội
bộ của mỗi quốc gia.
6 .Phân tích các yếu tố cấu thành quốc gia
Sự tồn tại của một quốc gia chủ thể cơ bản của luật quốc tế có liên quan mật thiết với
hình thức tổ chức nhà nước, mặc dù hình thức tổ chức của nhà nước rất đa dạng, tuy nhiên ở
mọi giai đọan phát triển của lich sử nhà nước & pháp luật quốc gia được thừa nhận là chủ
thể cơ bản của luật quốc tế
Cho đến nay dù chưa có một đònh nghóa thống nhất về quốc gia, tuy nhiên theo luật
quốc tế hiện đòa thì để coi quốc gia là một thực thể của luật quốc tế, quốc gia phải có các
tiêu chí sau:
- Có lãnh thổ xác đònh - Có dân cư ổn đònh - Có chính phủ có chủ quyền- Có khả năng
thiết lập & thực hiện các quan hệ đối ngoại.
 Lãnh thổ quốc gia là một phần của trái đất bao gồm vùng đất, vùng
nước, vùng trời, dưới lòng đất, lãnh thổ của quốc gia phải được xác đònh rõ ràng bởi đường
biên giới trên đất liền với các quốc gia lân cận hay vùng không thuộc quốc gia nào, quốc
gia đó phải được xác đònh trên bản đồ đòa lí hành chánh thế giới với vò trí & đòa danh rõ
ràng, tuy nhiên giữa các quốc gia có thể có các vùng lãnh thổ tranh chấp, nhưng để đảm
bảo yếu tố lãnh thổ xác đònh thì quốc gia đó phải có vùng lãnh thổ hòan tòan được xác đònh
rõ ràng thuộc chủ quyền của mình.
 Một quốc gia không thể tách rời yếu tố con người nghóa là có dân cư ổn
đònh trên lãnh thổ đó, đa phần dân cư phải là công dân nước sở tại, sinh sống ổn đònh lâu
dài là những người có đòa vò pháp lí có quyền & nghóa vụ đối với quốc gia, quốc gia cũng
thực hiện quyền & nghóa vụ của mình đối với công dân của mình, có lich sử truyền thống
văn hóa gắn bó lâu dài với quốc gia sở tại.
 Chiùnh phủ là yếu tố cần phải có để điều hành xã hội, có chủ quyền được
nhân dân tín nhiệm có đầy đủ chủ quyền & quyền lực trong việc thực hiện các quan hệ đối

nội , đối ngoại, nghóa là có thực quyền điều hành quốc gia trong lập pháp, hành pháp & tư
pháp quyết đònh vận mệnh chính trò của dân tộc, tự do lựa chọn hình thức, thể chế chính trò,
kinh tế, văn hóa – xã hội cho đất nước mình, chính phủ đó phải nắm được quyền lực đối
ngoại nghóa là nắm quyền đại diện quốc gia tham gia vào các quan hệ quốc tế.
 Quốc gia phải có khả năng thiết lập & thực hiện các quan hệ đối ngoại
trong cả mặt thể hiện vai trò một chủ thể luật quốc tế, có khả năng về chính trò, kinh tế,
văn hóa – xã hội để có thể thực hiện quyền quyết đònh mọi vấn đề của quốc gia mà các
quốc gia khác không có quyền can thiệp, đồng thời quốc gia ấy phải tôn trọng & thực thi
5/25
đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế khi tham gia vào các quan hệ quốc tế.
7. Q uốc gia là chủ thể đầu tiên, chủ thể cơ bản & chủ yếu luật quốc tế
Quan hệ pháp luật quốc tế là những quan hệ phát sinh tồn tại & phát triển chủ yếu
giữa các quốc gia với nhau. Quốc gia là chủ thể đầu tiên, chủ thể trước hết xây dựng pháp
luật quốc tế. Trong quá trình thi hành luật quốc tế, quốc gia cũng là chủ thể đầu tiên cho
việc thi hành pháp luật quốc tế
Chủ thể của luật quốc tế hiện đại là những thực thể đang tham gia quan hệ pháp lí
luật quốc tế một cách đôc lập có đầy đủ quyền & nghóa vụ pháp luật quốc tế đồng thời
phải gánh chòu trách nhiệm pháp lí quốc tế một cách độc lập do chính hành vi vi phạm
pháp luật quốc tế gây ra trên cơ sở các qui phạm pháp luật quốc tế. Hầu hết các nhà làm
luật công nhận quốc gia là chủ thể chủ yếu cơ bản của luật quốc tế hiện đại bởi vì :
 Quốc gia cũng là chủ thể cơ bản của luật quốc tế bởi vì nếu không có
quốc gia thì bản thân luật quốc tế không có cơ sở tồn tại và phát triển.Khi các quốc gia ra
đời có mối quan hệ mật thiết với nhau và chòu sự điều chỉnh trong quan hệ quốc tế, quốc
gia được coi là hạt nhân của tòan bộ hệ thống pháp luật quốc tế.
 Quốc gia là chủ thể đầu tiên, chủ thể trứơc hết xây dựng pháp luật quốc
tế; quốc gia là chủ thể ban đầu của luật quốc tế bởi vì nó xuất hiện như một chủ thể đầu
tiên của luật quốc tế. Trong quá trình thi hành luật quốc tế, quốc gia cũng là chủ thể đầu
tiên cho việc thi hành pháp luật quốc tế.
 Quốc gia cũng là chủ thể cơ bản & chủ yếu trong việc thi hành áp dụng
biện pháp cưỡng chế việc tuân thủ áp dụng pháp luật quốc tế .

 Quốc gia là chủ thể duy nhất có quyền tạo lập ra & khả năng tạo lập ra
chủ thể mới luật quốc tế đó là các tổ chức liên chính phủ.
 Quốc gia là chủ thể cơ bản, chủ thể ban đầu luật quốc tế bởi vì quốc gia là một thực
thể bao gồm 3 yếu tố cơ bản:
• Lãnh thổ: là một trong những yếu tố cần thiết cho sự ra đời tồn tại & phát
triển của mỗi quốc gia. Lãnh thổ quốc gia là một phần của trái đất bao gồm vùng đất,
vùng nước, vùng trời, dưới lòng đất, lãnh thổ của quốc gia phải được xác đònh rõ ràng bởi
đường biên giới trên đất liền với các quốc gia lân cận hay vùng không thuộc quốc gia nào,
quốc gia đó phải được xác đònh trên bản đồ đòa lí hành chánh thế giới với vò trí & đòa danh
rõ ràng, tuy nhiên giữa các quốc gia có thể có các vùng lãnh thổ tranh chấp, nhưng để đảm
bảo yếu tố lãnh thổ xác đònh thì quốc gia đó phải có vùng lãnh thổ hòan tòan được xác đònh
rõ ràng thuộc chủ quyền của mình.
• Dân cư : một quốc gia không thể tách rời yếu tố con người nghóa là có dân
cư ổn đònh trên lãnh thổ đó, đa phần dân cư phải là công dân nước sở tại, sinh sống ổn đònh
lâu dài là những người có đòa vò pháp lí có quyền & nghóa vụ đối với quốc gia, quốc gia
cũng thực hiện quyền & nghóa vụ của mình đối với công dân của mình, có lich sử truyền
thống văn hóa, nguồn gốc gắn liền với lãnh thổ mà họ đang sinh sống ,gắn bó lâu dài với
quốc gia sở tại.
• Chiùnh phủ : là yếu tố cần phải có để điều hành xã hội, có chủ quyền được
nhân dân tín nhiệm có đầy đủ chủ quyền & quyền lực trong việc thực hiện các quan hệ đối
nội , đối ngoại, nghóa là có thực quyền điều hành quốc gia trong lập pháp, hành pháp & tư
6/25
pháp quyết đònh vận mệnh chính trò của dân tộc, tự do lựa chọn hình thức, thể chế chính trò,
kinh tế, văn hóa – xã hội cho đất nước mình, chính phủ đó phải nắm được quyền lực đối
ngoại nghóa là nắm quyền đại diện quốc gia tham gia vào các quan hệ quốc tế, có khả năng
thiết lập quan hệ pháp luật quốc tế
 Khi một quốc gia đáp ứng được các điều kiện về lãnh thổ,dân cư ổn đònh, quốc gia
có chủ quyền, chính phủ có khả năng quan hệ pháp luật quốc tế thì kể từ thời điểm đó quốc
gia trở thành chủ thể đương nhiên, chủ thể mới của luật quốc tế mà không phụ thuộc bất kỳ
sự công nhận nào.

8.Vì sao tổ chức liên chính phủ là chủ thể phái sinh, thứ sinh không có chủ quyền
Chủ thể của luật quốc tế hiện đại là một thực thể đang tham gia quan hệ pháp lí luật
quốc tế một cách độâc lập có đầy đủ quyền & nghóa vụ pháp luật quốc tế đồng thời phải
gánh chòu trách nhiệm pháp lí quốc tế một cách độc lập do chính hành vi vi phạm pháp luật
quốc tế gây ra trên cơ sở các qui phạm pháp luật quốc tế.
Luật quốc tế công nhận quốc gia là chủ thể chủ yếu của luật quốc tế, bên cạnh đó còn
các tổ chức liên chính phủ, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập & tư cách chủ thể
Vatican cũng được xem là chủ thể luật quốc tế, trong đó tổ chức liên chính phủ là chủ thể
phái sinh, thứ sinh không có chủ quyền vì những lý do sau:
Tổ chức liên chính phủ được thành lập do sự thỏa thuận của các quốc gia, tư cách chủ
thể của các tổ chức liên chính phủ có từ thời điểm các văn bản, hiến chương, điều lệ phát
sinh hiệu lực.
Quyền năng chủ thể của tổ chức liên chính phủ không giống nhau, quyền năng đó dựa
trên các văn bản, hiến chương điều lệ,quy chế của các tổ chức đó.
Các tổ chức liên chính phủ xuất hiện & tồn tại do các quốc gia thành lập nên, không
tự nhiên mà có, mà do thỏa thuận của các quốc gia có chủ quyền với nhau.Các quốc gia
thỏa thuận thành lập cũng như thỏa thuận, quyền & nghóa vụ của các tổ chức liên chính
phủ phải dựa trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản luật quốc tế hiện đại. Vì chỉ được xem là
chủ thể của luật quốc tế hiện đại khi các tổ chức này được thøanh lập phù hợp với những
nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại.
Các tổ chức liên chính phủ được thành lập nhằm những mục đích nhất đònh & trong
những lónh vực họat động, phạm vi họat động của tổ chức đó do các quốc gia thành viên qui
đònh cho nó. Vì mỗi tổ chức liên chính phủ chỉ giải quyết một công việc cụ thể & trong
khuôn khổ sự thỏa thuận của các quốc gia giao cho nó.
 Là chủ thể chuyên biệt bởi vì nó chỉ họat động gói ghém trong phạm vi
hiến chương điều lệ của tổ chức đó qui đònh, nếu họat động ra ngoài điều lệ thì vi phạm
hiến chương điều lệ của tổ chức, họat động trong một số lónh vực chuyên môn, trong lónh
vực họat động nhất đònh.
 Là chủ thể hạn chế luật quốc tế bởi vì chủ thể nó rộng lớn nhưng không
thể so sánh với chủ thể của luật quốc gia.

 Là chủ thể không có chủ quyền của luật quốc tế bởi vì tổ chức quốc tế liên
chính phủ không phải là chủ thể có chủ quyền của luật quốc tế, vì chủ quyền quốc gia là
chủ quyền độc lập trong luật quốc tế mà tổ chức liên chính phủ không thể có được chủ
quyền đó.
7/25
Tư cách chủ thể của tổ chức liên chính phủ có từ thời điểm khi các văn bản hiến
chương, điều lệ phát sinh hiệu lực.
Tư cách chủ thể luật quốc tế cũng nằm trong hai phạm trù năng lực pháp luật & năng
lực hành vi, tuy nhiên quyền năng chủ thể được gọi là thuộc tính tự nhiên vốn có của quốc
gia, bởi vì sự tồn tại của nó khẳng đònh tư cách chủ thể, không cần bất kì một sự cộng nhận
nào.
Quyền năng chủ thể của tổ chức liên chính phủ nó không dựa vào thuộc tính “ tự
nhiên “ vốn có như quốc gia mà quyền năng này được ghi nhận ngay chính trong hiến
chương, điều lệ thành lập nên tổ chức do các quốc gia thỏa thuận thành lập.
9.Tại sao thể nhân, pháp nhân không là chủ thể của luật quốc tế hiện đại
Theo các nhà làm luật quốc tế thì chủ thể luật quốc tế hiện đại là các quốc gia có chủ
quyền, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập, các tổ chức liên chính phủ & Vatican.
Ngoài 4 chủ thể trên luật quốc tế hiện đại không có chủ thể nào khác. Vì vậy thể nhân,
pháp nhân không được xem là chủ thể luật quốc tế hiện đại .
Nói thể nhân, pháp nhân không được xem là chủ thể luật quốc tế hiện đại vì
những lý do sau:
 Các tổ chức liên chính phủ xuất hiện & tồn tại do các quốc gia thành lập
nên, không tự nhiên mà có, mà do thỏa thuận của các quốc gia có chủ quyền với nhau. Các
quốc gia thỏa thuận thành lập cũng như thỏa thuận, quyền & nghóa vụ của các tổ chức liên
chính phủ phải dựa trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản luật quốc tế hiện đại. Tư cách chủ
thể của tổ chức liên chính phủ có từ thời điểm khi các văn bản hiến chương, điều lệ phát
sinh hiệu lực.
 Quyền năng chủ thể có giới hạn được gọi là chủ thể hạn chế, vì vậy các tổ
chức quốc tế khác nhau sẽ có quyền năng chủ thể luật quốc tế không giống nhau
 Là chủ thể không có chủ quyền của luật quốc tế bởi vì tổ chức quốc tế liên

chính phủ không phải là chủ thể có chủ quyền của luật quốc tế, vì chủ quyền quốc gia là
chủ quyền độc lập trong luật quốc tế mà tổ chức liên chính phủ không thể có được chủ
quyền đó.
Trong quan hệ pháp luật quốc tế là quan hệ bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
với nhau vì khi ngồi vào bàn đàm phán thỏa thuận ký kết điều ước quốc tế các quốc gia
đều là những con người cụ thể, đây là những người được quốc gia giao cho họ, ủy quyên
cho họ được xây dựng nên những qui phạm pháp luật quốc tế. Đây là những con người luôn
đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu, không tính đến lợi ích cá nhân .Nếu con người đó vượt
qua thẩm quyền được quốc gia giao cho họ thì những điều ước quốc tế sẽ không đựơc thực
hiện .
Thể nhân, pháp nhân chỉ là người đại diện một tổ chức nào đó, người này hoạt động
nhân danh cho một nhóm người, một tổ chức phi chính phủ, nhóm người này không có tư
cách chủ thể luật quốc tế, không thể ngang hàng với quốc gia được. Như vậy thể nhân,
pháp nhân không xếp ngang hàng với quốc gia cho nên nó không là chủ thể luật quốc tế
hiện đại. Với những lý lẽ trên, tổ chức liên chính phủ là chủ thể phái sinh, thứ sinh & chủ
thể hạn chế không có chủ quyền
8/25
10.Cơ sở để công nhận chính phủ Defacto (chính phủ thực tế đó) là hợp pháp
Công nhận trong luật quốc tế hiện đại được hiểu là hành vi pháp lí mang tính chính trò
của quốc gia công nhận, dựa trên ý chí độc lập của các bên công nhận nhằm thể hiện thái
độ của mình đối với đường lối chủ trương chính sách, chế độ kinh tế, chính trò, văn hoá, xã
hội của quốc gia được công nhận, tạo tiền đề cho việc thiết lập các quan hệ pháp lí quốc tế,
mong muốn thiết lập quan hệ bình thường với quốc gia được công nhận.
Hình thức công nhận chính phủ Defacto: là hình thức công nhận chính thức nhưng ở
mức độ không đầy đủ & toàn diện có nghóa là quan hệ với nhau ở một vài lónh vực nào đó.
Việc công nhận quốc gia mới này bao hàm cả việc công nhận chính phủ mới nằm
trong quốc gia đó. Đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên của hai thể loại, song trong sự trùng lắp
đó tồn tại sự đối lập nhau vì quốc gia mới vẫn là một ,nhưng chính phủ mới có thể thay đổi.
Chính phủ mới ra đời có 2 loại:
 Chính phủ hợp hiến hợp pháp (chính phủ De Jure) chính phủ này được

thành lập thông qua qui đònh trong hiến pháp hoặc trong pháp luật quốc gia đó. Những
chính phủ này được thông qua trong việc bầu cử, luật quốc tế hiện đại không đặt ra việc
công nhận chính phủ hợp hiến hợp pháp.(VD: HP Pháp qui đònh 7 năm bầu tổng thống một
lần, tổng thống không được làm quá 2 nhiệm kỳ)
 Chính phủ thực tế (chính phủ De Facto ): chính phủ này được thành lập
không phù hợp với hiến pháp & pháp luật của quốc gia đó ,được thành lập thông qua cuộc
đảo chính, luật quốc tế hiện đại chỉ đặt ra việc công nhận chính phủ De Facto (VD: 5/ 97
Tướng quân Cavena lật đổ tống thống nước Côngô, làm tống thống phải tò nạn ở nước
ngoài & chết ở nước ngoài)
Công nhận chính phủ mới này không phải là công nhận chủ thể mới của luật quốc tế
mà là công nhận người đại diện “ hợp pháp” cho một quốc gia trong bang giao quốc tế.
Sự công nhận chính phủ thực tế (CP Defacto) là hợp pháp phải dựa trên những tiêu chí
sau:
 Chính phủ mới phải được đông đảo quần chúng nhdân tự nguyện, tự giác ủng hộ.
 Chính phủ mới phải khả năng duy trì & thực hiện được quyền lực của mình trong
một thời gian dài ổn đònh, tự giải quyết được các công việc của đất nước
 Chính phủ mới phải có khả năng kiểm soát được toàn bộ hoặc phần lớn lãnh thổ
của quốc gia đó một cách độc lập & tự quản lí được mọi công việc của quốc gia.
Căn cứ vào 3 điều kiện trên, tùy thuộc vào sự nhìn nhận của từng quốc gia để có sự
công nhận chính phủ thực tế đó là hợp pháp, điều này cũng có nghóa là sẽ có những quốc
gia công nhận thực tế đó là hợp pháp nhưng cũng có những quốc gia sẽ không công nhận
thực tế đó.
11.So sánh phê chuẩn, phê duyệt & gia nhập
• Phê chuẩn là sự đồng ý chính thức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
của các bên ký kết (thông thường là cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước đó) xác nhận
điều ước quốc tế đã có hiệu lực đối với mình. Thông thường những điều ước quốc tế liên
quan đến vấn đề chính trò, ANQP, biên giới lãnh thổ thì phải phê chuẩn.(VD: Ở VN vấn đề
này được qui đònh tại điều 10 Pháp lệnh về ký kết thực hiện điều ước quốc tế năm 1993)
• Phê duyệt là tuyên bố đơn phương ( hành vi pháp lí đơn phương)của cơ
9/25

quan có thẩm quyền trong nước công nhận một đều ước quốc có hiệu lực đối với quốc gia
mình.
• Gia nhập là tuyên bố đơn phương của cơ quan có thẩm quyền của quốc
gia, công nhận một điều ước quốc tế có hiệu lực đối với quốc gia mình, chính thức ràng
buộc quyền và nghóa vụ của mình đối với một điều ước quốc tế mà mình chưa phải là thành
viên của điều ước quốc tế đó.
 Giống nhau :
Phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập đều là hành vi đơn phương nhằm công nhận hiệu lực
điều ước quốc tế đối với quốc gia mình. Phê chuẩn, phê duyệt xác nhận điều ước quốc tế Ù
đã có hiệu lực đối với quốc gia mình. Gia nhập chính thức ràng buộc quyền và nghóa vụ
của mình đối với một điều ước quốc tế mà mình chưa phải là thành viên điều ước quốc tế
đó.
 Khác nhau :
 Về thời điểm Thời điểm gia nhập khác với thời điểm phê chuẩn, phê
duyệt. Phê chuẩn, phê duyệt được thực hiện đối với quốc gia sáng lập ra điều ước quốc tế,
trong thời điểm kí kết điều ước quốc tế theo trình tự thủ tục phức tạp. Gia nhập điều ước
quốc tế chỉ diễn ra trong khi điều ước quốc tế đã phát sinh hiệu lực & chỉ áp dụng đối với
quốc gia chưa là thành viên tham gia ký kết điều ước quốc tế.
 Về phạm vi: Phê chuẩn, phê duyệt diễn ra cả đối với điều ước quốc tế đa
phương & song phương. Gia nhập điều ước quốc tế chỉ diễn ra đối với điều ước quốc tế đa
phương
 Về thẩm quyền(điều 32 điêu 44): Thẩm quyền phê chuẩn điều ước quốc
tế thuộc thẩm quyền của cơ quan lập pháp là sự đồng ý chính thức của cơ quan có thẩm
quyền (cơ quan quyền lực tối cao) của nhà nước đó. Thẩm quyền phê duyệt thuộc thẩm
quyền cơ quan hành pháp, thường tiến hành ở cơ quan nhà nước thấp hơn như Chính phủ,
cấp Bộ... Gia nhập thì thuộc thẩm quyền của cả cơ quan lập pháp & cơ quan hành pháp.
 Về mức độ quan trọng: điều ước quốc tế cần phải phê chuẩn ở mức độ
quan trọng cao hơn, điều ước quốc tế cần phê duyệt ở mức độ quan trong thấp hơn.
12.Phân biệt bãi bỏ điều ước quốc tế & huỷ bỏ điều ước quốc tế
• Bãi bỏ hiệu lực của điều ước quốc tế là tuyên bố đơn phương mà quốc

gia đưa ra tuyên bố nhằm chấm dứt hiệu lực của Điều ước quốc tế nào đó đối với quốc gia
mình.
• Huỷ bỏ hiệu lực điều ước quốc tế là tuyên bố đơn phương của một quốc
gia nhằm chấm dứt hiệu lực của điều ước nào đó đối với quốc gia mình mà không được qui
đònh trong Điều ước.
 Giống nhau : đều là tuyên bố đơn phương mà quốc gia đưa ra
tuyên bố nhằm chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế nào đó đôí với quốc gia mình.
 Khác nhau:
 Tuyên bố hủy bỏ điều ước phải được điều ước cho phép.
 Tuyên bố bãi bỏ điều ước không cần được điều ước cho phép.
Có 5 cơ sở tuyên bố hủy bỏ điều ước:
 Có sự vi phạm về thẩm quyền &ø thủ tục ký kết theo qui đònh của pháp luật
10/25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×