Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ hoa tươi Việt Nam giai đoạn 2006 - 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.75 KB, 24 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Hiện nay thu nhập của người dân nước ta đã tăng lên đáng kể. Nhu cầu của họ
không chỉ là “ăn no mặc ấm” nữa mà đã nâng lên một mức mới đó là “ăn ngon mặc đẹp”
và các nhu cầu về vui chơi giải trí, thăm quan du lịch trở nên rất cần thiết. Chính những
nhu cầu đó đã làm phát sinh và thúc đẩy cho ngành hoa tươi Việt Nam trong những năm
gần đây phát triển mạnh. Qui mô hiện nay không chỉ giới hạn ở những hộ gia đình trồng
hoa nhỏ lẻ với mục đích vui chơi nữa mà ngày nay nó đã trở thành một ngành kinh doanh
chính thức và có mức lợi nhuận tương đối cao nên đã xuất hiện những công ty, tập đoàn,
khu vực trồng hoa chuyên canh với qui mô lớn như:Hà Nội, Đà lạt…
Hoa tươi không chỉ cung cấp cho nhu cầu trong nước đặc biệt là những ngày lễ
lớn như: ngày Valentine, ngày 8 tháng 3, ngày 20 tháng 10… mà nó còn mở rộng sang
lĩnh vực xuất khẩu ra nước ngoài như: thị trường Trung Quốc, Nhật Bản…Việc xuất
khẩu này không chỉ làm tăng GDP của quốc gia mà còn giải quyết được công ăn việc làm
và góp phần cải thiện mức sống của người dân nước ta. Chính vì lý do nóng bỏng và thiết
thực của đề tài nên em đã quyết định chọn đề tài “Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu
thụ hoa tươi Việt Nam giai đoạn 2006 - 2008 ” làm đề tài nghiên cứu chuyên đề kinh
tế.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
2.1. Mục tiêu chung:
Phân tích và đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ hoa tươi Việt Nam giai đoạn
2006 - 2008, trên cơ sở đó để định hướng và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao khả
năng tiêu thụ hoa tươi của Việt Nam trong thời gian tới.
2.2. Mục tiêu cụ thể:
 Phân tích khái quát tình hình sản xuất và tiêu thụ hoa tươi Việt Nam.
 Đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ hoa tươi Việt Nam.
 Đề xuất một số giải pháp nâng cao khả năng tiêu thụ hoa tươi của Việt Nam
trong thời gian tới.
3. Phương pháp nghiên cứu:
3.1. Phương pháp thu thập số liệu:
Thu thập số liệu thứ cấp trên sách, báo, tạp chí kinh tế, tivi và Internet…


3.2. Phương pháp phân tích số liệu:
CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ Trang 1

Sử dụng phương pháp phân tích dựa trên các con số tương đối và tuyệt đối kết
hợp với phân tích SWOT để thấy được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và đe doạ của ngành
hoa tươi Việt Nam. Dựa vào số liệu đó để đưa ra một số giải pháp nâng cao khả năng tiêu
thụ hoa tươi của Việt Nam trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu:
4.1. Không gian: đề tài tập trung nghiên cứu mặt hàng hoa tươi xuất trong phạm vi
cả nước.
4.2. Thời gian: Số liệu, thông tin được đề cập chủ yếu từ năm 2006 đến nay.
4.3. Nội dung: Đề tài phân tích và đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ hoa tươi
Việt Nam giai đoạn 2006 - 2008, trên cơ sở đó để định hướng và đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao khả năng tiêu thụ của ngành hoa tươi Việt Nam trong thời gian tới.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ CỦA
NGÀNH HOA TƯƠI VIỆT NAM
1.1 Khái quát tình hình sản xuất và tiêu thụ hoa tươi trên thế giới
CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ Trang 2

1.1.1. Thị trường EU:
Hiện nay, Eu là thị trường tiêu thụ trên 50% lượng hoa của thế giới. Nhiều quốc
gia thuộc Eu có mức tiêu thụ hoa cắt cành bình quân đầu người tương đối cao. Theo
thống kê, Đức là nước có mức tiêu thụ hoa lớn nhất Eu, kế đến là Anh, Pháp và Ý.
Cho đến nay Hà lan vẫn là nước sản xuất hoa chính của EU, kế đến là Italia.
Trồng hoa tại các quốc gia khác ở vùng tây bắc EU như Pháp, Anh, Đức và Phần Lan
đang giảm. Số lượng hộ nông dân trồng hoa ở Hà Lan, Italia, Tây Ban Nha, Bỉ, Thụy
Điển và Đan Mạch cũng giảm mạnh. Tuy nhiên, sản lượng trung bình/công ty lại tăng
góp phần làm tổng sản lượng hoa giữ ở mức ổn định.

Ngoài ra, sản lượng hoa cắt cành tại Ireland và các quốc gia đông âu khác như Ba
Lan, Hungari cũng đang trên đà phục hồi và thậm chí còn tăng. Xét toàn diện thì tổng sản
lượng hoa của Eu dự báo sẽ vẫn ổn định trong những năm tới.Tuy nhiên EU vẫn phải
nhập hoa tươi từ các khu vực khác nữa như: Kenya, Colombia, Ecuador, Israel…
Xu hướng biến động sản lượng hoa ở khu vực EU đã đem lại cho các doanh
nghiệp xuất khẩu hoa ở nước đang phát triển những cơ hội sau: tăng số lượng nhà sản
xuất những trang trại sản xuất Rosa ở châu ÂU đang chuyển sang sản xuất các loài hạt
mầm kích thước lớn vì chịu sự cạnh tranh mạnh từ các nhà cung cấp loại “sweethearts”
(ví dụ như các hạt mầm loại nhỏ) từ các nước đang phát triển.
Quy mô sản xuất và năng suất của các nước sản xuất hoa ở châu Âu đang tăng cao
đó là những khó khăn mà nhà xuất khẩu hoa ở các nước đang phát triển phải đối mặt.
Việc các cơ sở trồng hoa ở Eu ứng dụng công nghệ sản xuất hiện đại đã giúp họ
tăng sản lượng và chất lượng hoa, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Xu hướng
giảm lượng hoa sản xuất từ các nước Trung Âu và Bắc Âu sang các nước vùng ngoại vi
châu Âu. Nguy cơ dư cung và áp lực giảm giá đặc biệt là đối với loại hoa hồng trên thị
trường này.
Hiện nay có khoảng 50 đến 60% người tiêu dùng mua hoa chủ yếu phục vụ nhu
cầu quà tặng, 15% mua hoa để phục vụ các đám tang và khoảng 20% nhằm mục đích tiêu
dùng cá nhân. Tuy nhiên, số liệu thống kê cho từng quốc gia riêng lẻ là rất khác nhau.
Nhìn chung, mức tiêu thụ hoa nhằm mục đích tiêu dùng cá nhân ở những nước có thu
nhập cao thuộc Eu thường cao hơn so với các nước khác có mức thu nhập thấp hơn.
Trong những kỳ nghỉ, lễ lớn là những khoảng thời gian mà nhu cầu về trang trí, quà tặng
tăng cao nên đã góp phần quan trọng thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ hoa cắt và sản phẩm trang
trí. Vào những ngày đặc biệt như giáng sinh, ngày Valentine; ngày của Mẹ, ngày của Thư
ký (Secretary’s Day), doanh số kinh doanh hoa thường tăng mạnh. Bên cạnh những ngày
CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ Trang 3

nghỉ lễ quốc tế nổi tiếng, hầu hết các quốc gia còn có những ngày lễ kỷ niệm riêng của
mình.
1.1.2. Thị trường Châu Mỹ:

Ecuador là một trong những nước xuất khẩu hoa hồng lớn trong khu vực và trên
thế giới. Trong vòng chưa đầy 20 năm, với đà phát triển mạnh mẽ, ngành công nghiệp
trồng hoa Ecuador đã đóng góp tới 5% kim ngạch xuất khẩu, và trở thành một trong
những khu vực kinh tế năng động nhất, tạo việc làm cho hàng nghìn người trong bối cảnh
lúc đó Ecuador có tỷ lệ thất nghiệp lên tới 10%. Về địa lý, Ecuador nằm giữa đường xích
đạo phân chia Bắc Bán cầu với Nam Bán cầu, quanh năm tràn nắng ấm, rất thuận lợi cho
việc trồng hoa. Một trong những công ty trồng hoa hàng đầu của Ecuador, Rosadex, mỗi
năm xuất khẩu 15 triệu cành hồng thuộc hơn 20 loài, trong đó 60% vào thị trường Mỹ,
phần còn lại được xuất sang Liên minh châu Âu (EU) và Nga.
Hiện Ecuador có 14.000 ha đất trồng hoa hồng trên cả nước, chủ yếu ở vùng núi.
Các hộ gia đình trồng hoa có thu nhập khoảng 4.000 USD/người/năm, trong khi mức thu
nhập bình quân cả nước chỉ đạt hơn 1.000 USD. Hoa hồng chính là loại cây xóa đói giảm
nghèo ở Ecuador, và những ngày nghỉ lễ tết chính là dịp tăng thu nhập của người trồng
hoa.
1.1.3. Thị trường châu Á:
Theo đánh giá của giới chuyên môn hiện giao thương các sản phẩm hoa là hoạt
động được mở rộng mạnh mẽ nhất trên toàn cầu. Dự báo đến năm 2010, giá trị giao dịch
sản phẩm này trên thị trường thế giới ước đạt 16 tỷ USD, tăng 5 tỷ USD so với hiện nay.
1.1.4.Ấn Độ:
Được đánh giá là nước có tiềm năng xuất khẩu hoa lớn trong khu vực với
nhiều triển vọng tăng thị phần hoa của mình trên thị trường quốc tế. Theo thống kê, hiện
hoa Ấn Độ chiếm gần 1% trong tổng 11 tỷ USD trị giá hoa giao dịch toàn thế giới.
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu sản phẩm hoa cây cảnh của Ấn Độ đã tăng khá ấn
tượng trong thời gian qua, từ mức 188 triệu RS năm 1994 lên mức 3050 triệu RS năm
2006 (gấp trên 16 lần) nhưng nước này vẫn được coi là nước còn nhiều tiềm năng lớn để
xuất khẩu mặt hàng này.
Những loại hoa trồng nhiều ở Ấn Độ gồm hoa hồng, hoa cúc, cúc vạn thọ, hoa
nhài, heliconias và hoa cẩm chướng với tổng diện tích đạt 116 nghìn hecta chủ yếu tập
trung ở các khu vực chính như: Tamil Nadu, Karnataka, Haryana, Andhra Pradesh,
Maharashtra, West Bengal và Gujarat. Tổng sản lượng hoa thu hoạch của nước này trong

năm 2006 đạt 654 nghìn tấn.
CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ Trang 4

Phòng thương mại Ấn Độ đang rất quan tâm đến việc canh tác những sản phẩm
hoa định hướng xuất khẩu và hiện nước này có 500 hecta hoa đang được trồng trong nhà
kính. Ngoài ra, ngành hoa Ấn Độ cũng đang nỗ lực cải tổ lại những cơ sở sản xuất và
kinh doanh hoa kém hiệu quả để tập trung vào những cơ sở có tiềm năng xuất khẩu lớn
và tạo nhiều việc làm cho nước này.
1.1.5. Trung Quốc:
Là nước sản xuất và tiêu thụ hoa cắt cành lớn nhất thế giới. Diện tích trồng
hoa ở Trung Quốc là 122.400 ha, với công suất sản xuất 2,7 triệu tấn mỗi năm, đạt trị giá
6,6 tỷ USD (tiêu thụ hoa toàn cầu đạt 25 tỷ USD mỗi năm) trong đó xuất khẩu đạt 32
triệu USD.
Năm 2006 giá hoa thế giới tăng cao đẩy kim ngạch xuất khẩu hoa cắt cành của
tỉnh Vân Nam - vùng trồng hoa chính của Trung Quốc tăng mạnh. Chỉ tính đến tháng
11/2006, lượng hoa xuất khẩu của tỉnh Vân Nam đã đạt 4.362 nghìn tấn, với kim ngạch
10,45 triệu USD, tăng 8,6% về lượng và tăng 85,9% về kim ngạch so với cùng kỳ năm
2005.
Theo thống kê, giá hoa xuất khẩu trung bình của tỉnh Vân Nam trong 11 tháng
đầu năm 2006 tăng trên 73%, đạt khoảng 2,37USD/kg. Hoa hồng, cẩm chướng và lyli là
những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu ở khu vực này. Hoa cắt cành của Vân Nam chủ yếu
được xuất sang Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore, Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc...
Trong đó, thị trường xuất khẩu hoa lớn nhất của Vân Nam trong năm qua là Nhật
Bản, với kim ngạch xuất khẩu 11 tháng năm 2006 đạt 2,75 triệu USD, tăng 18% so với
cùng kỳ năm 2005.
Nhật Bản, Hồng Kông cũng là thị trường xuất khẩu hoa lớn của Vân Nam với kim
ngạch xuất khẩu trong 11 tháng năm 2006 đạt 2,71 triệu USD, gấp 3,5 lần so với cùng kỳ
năm 2005. Ngoài ra, xuất khẩu hoa sang thị trường ASEAN năm qua của Vân Nam cũng
tăng cao, đạt 3,62 triệu USD, tăng gấp 2 so với cùng kỳ năm ngoái.
Ngoài ra, trong năm 2006 kim ngạch xuất khẩu hoa tươi cắt cành của các doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 54,6% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này
của Vân Nam, tăng 26,1% so với năm 2005.
Yếu tố chính hỗ trợ kinh doanh hoa cắt cành ở Trung Quốc phát triển nhanh là
tăng trưởng kinh tế cao, làm tăng nhu cầu tiêu thụ hoa trong nước.
Trong giai đoạn tái thiết ngành nông nghiệp, Chính phủ Trung Quốc đã hỗ trợ cho
ngành trồng hoa. Ngoài ra, gia nhập WTO còn tạo cho Trung Quốc tham gia hợp tác quốc
tế để phát triển và học hỏi công nghệ hiện đại trong kinh doanh hoa. Đặc biệt trong kế
CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ Trang 5

hoạch phát triển Quốc gia lần thứ 10, lĩnh vực nghiên cứu công nghệ mới được tập trung
mạnh cho kinh doanh hoa cành. Ngành này đã phát triển rất nhanh từ mấy năm nay, đây
vẫn là cơ hội hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, vì tới 70% hạt và củ giống hoa, và 80%
máy móc dùng trong kinh doanh hoa cành, được nhập từ nước ngoài.
Ngoài ra, Chính phủ cũng đang khuyến khích sử dụng công nghệ cao trong gieo
trồng hoa như trồng trong nhà kính. Đây là nền tảng để dự đoán kinh doanh hoa cành ở
Trung Quốc sẽ rất khả quan trong những năm tới. Đây cũng sẽ là thị trường rộng lớn cho
hoa nhập khẩu, nhất là từ các nước trong khu vực như: Thái Lan, Việt Nam. Đồng thời,
ngành kinh doanh hoa cắt cành ở Trung Quốc cũng sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh lớn so
với các nước sản xuất hoa trong khu vực và thế giới. Vì giá sản phẩm của Trung Quốc
luôn rẻ.
Bắt đầu hoạt động từ 10/12/2002, Trung tâm đấu giá hoa tươi quốc tế Côn Minh -
tỉnh Vân Nam đã trở thành trung tâm giao dịch hoa lớn với khối lượng giao dịch hàng
ngày từ 600.000 đến 800.000 bông, có ảnh hưởng lớn tới giá hoa hồng, loa kèn, cẩm
chướng và hoa cúc châu Phi. Côn Minh có quy định chặt chẽ hơn nhiều so với các trung
tâm bán hoa khác, với quy định người có số hoa giao dịch tối thiểu 300.000 bông/ngày
mới được tham gia. Hiện nay có khoảng 100 doanh nghiệp kinh doanh hoa, 300 người
trồng hoa vừa và lớn cung cấp hoa thường xuyên cho trung tâm này và hơn 70 thương gia
mua hoa mỗi ngày.
Tỉnh Vân Nam cung cấp hơn 50% tổng sản lượng hoa Trung Quốc. Trên 80% sản
lượng hoa của tỉnh được bán cho hơn 70 thành phố trên toàn quốc, xuất khẩu 15% ra

nước ngoài. Vân Nam có 7.864,7 ha đất trồng hoa, cho sản lượng hoa trị giá 0,4 tỷ USD,
trong đó xuất khẩu hoa khoảng 18 triệu USD, chủ yếu sang Thái Lan, Singapore,
Malaixia, Philipin và Hàn Quốc.
Zhangzhou, tỉnh Phúc Kiến, đã đề ra kế hoạch phát triển ngành trồng hoa từ nay
tới năm 2010, theo đó sẽ xuất khẩu khoảng 26,9 triệu USD. Hiện Zhangzhou trồng 1.400
loại hoa, trong đó có 800 giống nhập từ nước ngoài. Zhangzhou là trung tâm sản xuất và
xuất khẩu hoa lớn nhất của tỉnh Phúc Kiến, đồng thời cũng là trung tâm thông tin và hợp
tác giữa Trung Quốc lục địa và Đài Loan.
Ngành kinh doanh hoa ở Trung Quốc phát triển mạnh từ mấy năm qua và Internet
có vai trò ngày càng quan trọng trong ngành này. Hiện Trung Quốc đã có trên 20.000
website của các vườn hoa cũng như nhà kinh doanh hoa chuyên nghiệp.
1.1.6. Các nước khác trong khu vực như:
CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ Trang 6

Thái Lan, Việt Nam… cũng có tiềm năng để trở thành những cường quốc sản
xuất và xuất khẩu hoa tươi cắt cành lớn trong khu vực và thế giới dựa vào điều kiện khí
hậu thuận lợi, nguồn nhân lực rẻ, đặc biệt là sự phong phú của các chủng loại hoa…
1.2 Tình hình sản xuất và tiêu thụ hoa tươi trong nước.
1.2.1. Tình hình sản xuất:
Hoa cắt cành các loại là một trong những điểm mạnh của các nhà xuất khẩu hoa
Việt Nam trong những năm gần đây đã thu được một lượng ngoại tệ đáng kể cho quốc
gia. Mở rộng diện tích sản xuất trồng hoa của cả nước đạt 8000 ha với sản lượng 4,5 tỷ
cành trong đó mục tiêu xuất khẩu 1 tỉ cành hoa, trị giá trên 60 triệu USD vào năm 2010,
tương đương với Hà Lan. Trong đó Đà Lạt là nơi sản xuất hoa lớn nhất cả nước. Đó là
thông điệp của Bộ Thương mại đưa ra từ chiến lược phát triển hoa xuất khẩu.
Hiện nay, cả nước có khoảng 4.000 ha diện tích sản xuất hoa cắt cành với sản
lượng khoảng 3 tỷ cành hoa. Quy mô về diện tích này tương đương Tây Ban Nha, nước
đứng thứ 5 châu Âu về sản xuất hoa. Sản xuất hoa cắt cành ở nước ta hiện nay tập trung
xung quanh một số đô thị lớn. Ở Hà Nội và vùng lân cận có trên 1.000 ha trong đó vùng
hoa Tây Tựu- Từ Liêm- Hà Nội với diện tích trồng hoa đạt 330 ha chủ yếu là hoa hồng,

cúc, đào, lay ơn, cẩm chướng. Ở Hải Phòng có 300 ha. vùng trồng hoa hàng hóa Trung du
miền núi phía Bắc với diện tích gần 136ha gồm: vùng trồng hoa Lao Cai; vùng trồng hoa
Hoành Bồ- Quảng Ninh...
Khu vực duyên hải Miền Trung mới bắt đầu sản xuất hoa cắt cành, chủ yếu phục
vụ thị trường tại chỗ. Vùng trồng hoa tập trung tp Hồ Chí Minh với diện tích 700ha, các
tỉnh Nam Bộ… là nơi sản xuất hoa và cây cảnh đáng kể nhưng chủ yếu là các loại hoa
nhiệt đới. Riêng tỉnh Lâm Đồng có diện tích hoa cắt cành trên 1.100 ha với sản lượng
không dưới 800 triệu cành mỗi năm. Với khả năng sản xuất quanh năm, Lâm Đồng có thể
được coi là trung tâm sản xuất hoa cắt cành lớn nhất cả nước. Tuy nhiên, ngòai một số
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có ứng dụng các yếu tố công nghệ tiên tiến và
quan trọng hơn cả là có đầu ra, xuất khẩu (số này không nhiều), hoa của Lâm Đồng nói
riêng và cả nước nói chung hầu hết để phục vụ thị trường trong nước, lượng xuất khẩu
tiểu ngạch cho các nước láng giềng như Trung Quốc, Campuchia hầu như không đáng kể.
Tại các vùng trồng hoa tập trung này, hoa hồng và hoa cúc vẫn là hai loại hoa cắt
chủ đạo, với đa dạng chủng loại và phẩm cấp, từ hoa phục vụ trang trí hàng ngày, tặng
trong dịp lễ tết, hoa cúng, hoa khuôn viên cho đến các loại hoa xuất khẩu cao cấp.
Tại vùng trồng hoa Tây Tựu-Từ Liêm-Hà Nội, hoa hồng và hoa cúc là hai loại
hoa có diện tích trồng và sản lượng cao nhất. Hoa hồng cho thu hoạch quanh năm và tạo
CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ Trang 7

thu nhập thường xuyên. Hoa cúc đứng hàng thứ hai với chu kỳ 3 tháng một lần cho thu
hoạch. Hoa cúc của vùng không chỉ được tiêu thụ tại các thị trường phía Bắc mà đang
được đưa dần vào thị trường phía Nam và xuất khẩu sang Nhật Bản,Đài Loan.
Vùng trồng hoa công nghệ cao Đà Lạt được mệnh danh là thiên đường hoa của
Việt Nam, hoa hồng và hoa cúc cũng là hai loại hoa chủ đạo. Hoa cúc có tới 40 loại khác
nhau, chia thành 3 nhóm lớn và cúc đại đóa màu vàng anh, tím, cúc giống nhỏ và cúc có
nhóm tia có muỗng. Hoa hồng cũng có tới trên 15 loại với chất lượng nổi trội. Hoa hồng
Đà Lạt không chỉ được đánh giá cao bởi người tiêu dùng Việt Nam mà còn bởi cả các bạn
hàng thế giới với ưu điểm hoa to, cành thẳng, bền, thơm, sinh trưởng và phát triển tốt,
khả năng kháng bệnh cao…

Trong diện tích gần 136 ha trồng hoa của vùng Trung du và miền núi phía Bắc,
diện tích trồng hoa hồng đã chiếm tới trên 55,27% với sản lượng 26,53 triệu bông/năm.
Diện tích trồng hoa cúc lớn thứ hai với 14,5 ha, sản lượng 5 triệu cành/năm.
Với tỷ lệ hoa hồng và hoa cúc khá cao, cơ cấu ngành hoa Việt Nam tương đối phù
hợp với thị hiếu của các thị trường cao cấp trên thế giới như Nhật Bản, Trung Quốc và
Tây Âu. Tuy nhiên, đây đều là những thị trường khó tính với những yêu cầu về chất
lượng, mẫu mã và an toàn thực vật rất cao. Các tiêu chuẩn về hàm lượng thuốc trừ sâu,
thuốc bảo vệ, bảo quản thực vật được đặt lên hàng đầu. Bên cạnh đó, để có thể thâm nhập
các thị trường này, hoa Việt Nam còn phải cạnh tranh về hình thức, giá cả và độ tươi lâu.
1.2.2 Tình hình xuất khẩu - tiêu thụ:
Đà Lạt được xem là trung tâm sản xuất hoa lớn nhất của cả nước với sản lượng,
chủng loại hoa phong phú và đa dạng. Việc hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra những cơ hội
thuận lợi cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu hoa tươi Việt Nam ra thị trờng thế giới.
Mà chủ yếu là xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản với các loại hoa chủ lực như: cúc, cẩm
chướng, hồng, lan, lys, kỳ lân.
CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ Trang 8

Kim ngạch xuất khẩu hoa của Đà lạt từ năm 2004 đến 2006
năm 2004 2005 2006
Sản lượng (ngàn cành) 31000 29000 32000
giá tri xk (ngàn USD) 6920 7510 8100
Tỷ trọng % 11 9.5 7
(Nguồn: tác giả tự tổng hợp từ vnnet)
(Nguồn: tác giả tự tổng hợp từ vnnet)
Thị trường Nhật Bản:
Nhu cầu hoa tươi của thị trường Nhật Bản những năm gần đây liên tục tăng. Sự
gia tăng này đang mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp trồng hoa Việt Nam. Cụ thể là
năm 2002, nhập khẩu hoa tươi của Nhật chỉ chiếm tỷ trọng 10,6%, nhưng đã tăng lên
11,4% trong năm 2003, 12,9% trong năm 2004 và kim ngạch nhập khẩu hoa tươi của
Nhật trong năm 2005 đã lên tới 500 triệu USD.

Những con số trên chứng tỏ hoa nhập khẩu ngày càng có ưu thế tại thị trường
Nhật do nhiều loại hoa không được trồng phổ biến hoặc rất khó trồng vào thời tiết thu và
đông ở quốc gia này.
Bình quân hàng năm, kim ngạch xuất khẩu hoa tươi của Việt Nam sang Nhật Bản
khoảng 6,2 triệu USD, chiếm 1,4% trong tổng kim ngạch nhập khẩu hoa của Nhật. Con
số này đã tăng lên 6,5 triệu USD trong năm 2005, nhưng trên thực tế vẫn chưa tương
xứng với tiềm năng vốn có của Việt Nam và chưa phản ánh hết sự nỗ lực, tận dụng triệt
để mọi cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam.
Nguyên nhân là do các doanh nghiệp chưa hiểu được đặc điểm và tập quán tiêu
dùng của thị trường Nhật. Việc xuất khẩu hoa tươi của Việt Nam sang Nhật trong thời
gian tới có thể tăng tới hơn 8 triệu USD/năm, đặc biệt là hoa phong lan và các loại hoa
ghép cành.
CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ Trang 9

×