Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

tiểu luận mối quan hệ giữa bội chi ngân sách và lạm phát nhìn từ lý giảng viên hướng dẫn pgs.ts nguyễn văn luân thuyết và thực tiễn việt nam giai đoạn 2004-2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.16 KB, 22 trang )

0

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
XoOoW

ĐỀ TÀI



Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Văn Luân



Giảng viên hướng dẫn:
PGS.TS. Nguyễn Văn Luân
Sinh viên thực hiện đề tài:
Nguyễn Hữu Trường K084010091





TP.HCM, Tháng 06/2011

MỐI QUAN HỆ GIỮA BỘI CHI NGÂN
SÁCH VÀ LẠM PHÁT NHÌN TỪ LÝ
THUYẾT VÀ THỰC TIỄN VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2004-2008

1




MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
2
1. Cơ sở lý luận 3
1.1. Ngân sách nhà nước và vấn đề bội chi ngân sách nhà nước 3
1.1.1. Ngân sách Nhà nước 3
1.1.2. Bội chi ngân sách nhà nước 3
1.1.2.1. Thế nào là bội chi ngân sách nhà nước 3
1.1.2.2. Nguyên nhân bội chi ngân sách nhà nước 4
1.1.2.3. Các giải pháp xử lý bội chi ngân sách nhà nước 4
1.2. Lạm phát 6
1.2.1. Khái niệm lạm phát 6
1.2.2. Cách tính lạm phát 6
1.2.3. Nguyên nhân lạm phát 7
1.3. Mối quan hệ giữa bội chi ngân sách và lạm phát 8
2. Thực tiễn tại Việt Nam giai đoạn 2004-2008 9
2.1. Thực trạng lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2004-2008 9
2.2. Tình hình bội chi ngân sách tại Việt Nam giai đoạn 2004-2008 9
2.3. Mối quan hệ giữa bội chi ngân sách và lạm phát 13
3. Nhữ
ng vấn đề đặt ra về xử lý bội chi NSNN nhằm kiềm chế lạm phát tại
Việt Nam 16
KẾT LUẬN
20
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO 21

2



MỐI QUAN HỆ GIỮA BỘI CHI NGÂN SÁCH VÀ LẠM PHÁT NHÌN TỪ LÝ
THUYẾT VÀ THỰC TIỄN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2004-2008
F×G

LỜI MỞ ĐẦU

Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới và ở
Việt Nam, lạm phát nổi lên là một vấn đề đáng quan tâm về vai trò của nó đối với sự
nghiệp phát triển kinh tế. Nghiên cứu lạm phát, kiềm chế và chố
ng lạm phát được thực
hiện bởi nhiều nàh kinh tế trên nhiều nước. Càng ngày cùng với sự phát triển đa dạng
và phong phú của nền kinh tế, nguyên nhân của lạm phát cũng ngày càng phức tạp.
Tình hình lạm phát năm 2010 (11,75%) và bốn tháng đầu năm 2011 (9,64%) ở nước ta
đã và đang đặt ra đòi hỏi làm thế nào để kiểm soát được lạm phát, đưa tỷ lệ lạm phát
xuống thấp ở mức có thể ch
ấp nhận được. Nguyên nhân gây ra lạm phát thì có nhiều,
nhưng trong bài viết này chỉ tập trung vào phân tích mối quan hệ giữa bội chi ngân
sách nhà nước (NSNN) với lạm phát ở nước ta hiện nay, nhằm tìm ra một lời giải nhỏ
trong lời giải tổng thể cho kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô của nền kinh tế.











3


1. Cơ sở lý luận
1.1. Ngân sách nhà nước và vấn đề bội chi ngân sách nhà nước
1.1.1. Ngân sách Nhà nước
Căn cứ luật ngân sách số 01/2002/QH11 ngày 16/12/2002, được sửa đổi và có
hiệu lực từ 01/01/2004 thì Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà
nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong
một năm để bảo đảm thực hiện các chức n
ăng, nhiệm vụ của Nhà nước.
1.1.2. Bội chi ngân sách nhà nước
1.1.2.1. Thế nào là bội chi ngân sách nhà nước
Bội chi Ngân sách Nhà nước trong một thời kỳ (1 năm, 1 chu kỳ kinh tế) là số
chênh lệch giữa chi lớn hơn thu của thời kỳ đó.
Bội chi ngân sách Nhà nước có thể do ngoài tầm kiểm soát nhưng cũng có thể nằm
trong chiến lược phát triển kinh tế của chính phủ nhằm thực hiện chính sách kinh tế

mô.
Theo thông lệ quốc tế, có thể tóm tắt báo cáo về Ngân sách Nhà nước hằng năm
như sau:
Bảng: Tóm tắt nội dung cân đối ngân sách nhà nước hằng năm
Tổng Thu Tổng Chi
A. Thu thường xuyên (thuế, phí, lệ phí).
B. Thu về vốn (bán tài sản nhà nước).

D. Chi thường xuyên.
E. Chi đầu tư.
F. Cho vay thuần (= cho vay mới - thu nợ
gốc).

C. Bù đắp thâm hụt

- Viện trợ.
- Lấy từ nguồn dự trữ.
- Vay thuần (= vay mới - trả nợ gốc).

4

Nguyên tắc cân bằng ngân sách là: A + B +C = D + E + F
Công thức tính bội chi Ngân sách Nhà nước của một năm sẽ như sau:
Bội chi Ngân sách Nhà nước = Tổng chi - Tổng thu = (D + E + F) - (A + B) = C
(khoản bù đắp thâm hụt).
1.1.2.2. Nguyên nhân bội chi ngân sách nhà nước
Có 2 nhóm nguyên nhân cơ bản gây ra bội chi NSNN:
- Do tác động của chu kỳ kinh doanh:
Khủng hoảng làm cho thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng
lên nhằm giải quyết những khó khăn mới về kinh tế và xã hội. Đi
ều đó làm cho mức
bội chi NSNN tăng lên. Ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà nước sẽ tăng lên,
trong khi chi không phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi NSNN. Mức
bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội chi chu kỳ.
- Do tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Nhà nước. Khi Nhà nước thực
hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm t
ăng mức bội chi NSNN.
Ngược lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và tiêu dùng của Nhà nước thì mức bội
chi NSNN sẽ giảm bớt. Mức bội chi do tác động của chính sách cơ cấu thu chi gây ra
được gọi là bội chi cơ cấu.
Trong điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai lớn, ),
tổng hợp của bội chi chu kỳ và bội chi cơ cấu sẽ là bội chi NSNN.
1.1.2.3. Các giải pháp xử lý bội chi ngân sách nhà n

ước
Để duy trì sự phát triển bền vững và duy trì được tốc độ tăng trưởng của nền kinh
tế thì chắc chắn cần có sự can thiệp của nhà nước bằng các chính sách, trong đó chính
sách tài khóa. Tuy nhiên do nguồn lực có hạn vì vậy đòi hỏi phải có chính sách tài
khóa phù hợp với yêu cầu phát triển thực tế và sự phát triển trong tương lai. Từ sự lựa
chọn này sẽ đưa ra mức bội chi "hợp lý", b
ảo đảm nhu cầu tài trợ cho chi tiêu cũng
như đầu tư phát triển kinh tế, đồng thời bảo đảm cho nợ quốc gia ở mức hợp lý.
Có nhiều cách để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu từ thuế, phí,
lệ phí; giảm chi ngân sách; vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài; phát hành tiền để
bù đắp chi tiêu; Sử dụng phương cách nào, nguồn nào tùy thuộc vào điều kiện kinh
5

tế và chính sách kinh tế tài chính trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia. Tuy nhiên mỗi
giải pháp bù đắp bội chi ngân sách nhà nước đều có sự tác động đến nền kinh tế vĩ mô.
Về cơ bản, các quốc gia trên thế giới thường sử dụng các giải pháp chủ yếu nhằm
xử lý bội chi NSNN như sau:
Thứ nhất: Nhà nước phát hành thêm tiền. Việc xử lý bội chi NSNN có thể thông
qua việc nhà nước phát hành thêm tiền và
đưa ra lưu thông. Tuy nhiên, giải pháp này
sẽ gây ra lạm phát nếu nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội chi
NSNN. Đặc biệt, khi nguyên nhân bội chi NSNN là do thiếu hụt các nguồn vốn đối
ứng để đầu tư cho phát triển gây "tăng trưởng nóng" và không cân đối với khả năng tài
chính của quốc gia.
Thứ hai: Vay nợ cả trong và ngoài nước. Để bù đắp thâm hụt NSNN, nhà nước có
thể vay nợ nước ngoài và trong nước. Việc vay nợ nướ
c ngoài quá nhiều sẽ kéo theo
vấn đề phụ thuộc nước ngoài cả về chính trị lẫn kinh tế và làm giảm dự trữ ngoại hối
quá nhiều khi trả nợ, làm cạn dự trữ quốc gia sẽ dẫn đến khủng hoảng tỷ giá. Vay nợ
trong nước sẽ làm tăng lãi suất, và cái vòng nợ - trả lãi - bội chi sẽ làm tăng mạnh các

khoản nợ công chúng và kéo theo gánh nặng chi trả của NSNN cho các thời kỳ
sau
Thứ ba: Tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế. Việc tăng các khoản thu, đặc biệt là
thuế có thể sẽ bù đắp sự thâm hụt NSNN và giảm bội chi NSNN. Tuy nhiên, đây
không phải là giải pháp cơ bản để xử lý bội chi NSNN, bởi vì nếu tăng thuế không hợp
lý sẽ dẫn đến làm giá cả hàng hóa tăng gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống
nhân dân, nghiêm trọng hơn s
ẽ triệt tiêu động lực của các doanh nghiệp trong các
ngành sản xuất kinh doanh và làm mất đi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đối với
các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ tư: Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường xuyên từ NSNN.
Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với mỗi quốc
gia khi xảy ra bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệ
t để tiết kiệm các khoản đầu tư
công có nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra
những đột phá cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc
không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt khác, bên cạnh việc triệt
để tiết kiệm các khoản đầu tư công, nhữ
ng khoản chi thường xuyên của các cơ quan
6

nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự
cần thiết.
Thứ năm: Tăng cường vai trò quản lý nhà nước nhằm bình ổn giá cả, ổn định
chính sách vĩ mô và nâng cao hiệu quả hoạt động trong các khâu của nền kinh tế. Để
thực hiện vai trò của mình, nhà nước sử dụng một hệ thống chính sách và công cụ
quản lý vĩ mô
để điều khiển, tác động vào đời sống kinh tế - xã hội, nhằm giải quyết
các mối quan hệ trong nền kinh tế cũng như đời sống xã hội, nhất là mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với giữ gìn môi

trường v.v Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi lạm phát là một vấn nạn của các
nướ
c trên thế giới, vấn đề tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với quản lý NSNN
nói chung và xử lý bội chi NSNN nói riêng có ý nghĩa vô cùng cấp thiết.
1.2. Lạm phát
1.2.1. Khái niệm lạm phát
Trong kinh tế học, thuật ngữ “lạm phát” được dùng để chỉ sự tăng lên theo thời
gian của mức giá chung hầu hết các hàng hoá và dịch vụ so với thời điểm một năm
trước đó. Như v
ậy tình trạng lạm phát được đánh giá bằng cách so sánh giá cả của một
loại hàng hoá vào hai thời điểm khác nhau, với giả thiết chất lượng không thay đổi.
Khi giá trị của hàng hoá và dịch vụ tăng lên, đồng nghĩa với sức mua của đồng
tiền giảm đi, và với cùng một số tiền nhất định, người ta chỉ có thể mua được số lượng
hàng hoá ít hơn so với năm trướ
c.
Có nhiều dạng lạm phát khác nhau, như lạm phát một con số (single-digit
inflation), lạm phát hai con số (double-digit inflation), lạm phát phi mã (galloping
inflation), siêu lạm phát (hyper inflation)
1.2.2. Cách tính lạm phát
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một
lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ
liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước).
7

Các giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một
chỉ số giá cả để đo mức giá cả trung bình, là mức giá trung bình của một tập hợp các
sản phẩm. Tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ phần trăm mức tăng của chỉ số này.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ
số
này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như

phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Tuy nhiên, thước đo
lạm phát phổ biến nhất chính là CPI - Chỉ số giá tiêu dùng (consumer price index) đo
giá cả của một số lượng lớn các loại hàng hoá và dịch vụ khác nhau, bao gồm thực
phẩm, lương thực, chi trả cho các dịch vụ y tế , được mua bở
i "người tiêu dùng thông
thường".
1.2.3. Nguyên nhân lạm phát
Theo lý thuyết kinh tế học hiện đại, lạm phát do ba nguyên nhân: cầu kéo, chi phí
đẩy và quá thừa mức tiền cung ứng trong lưu thông. Tuy nhiên trong thực tế, lạm phát
gia tăng còn do một số nguyên nhân nữa, thí dụ: Tâm lý của dân chúng, sự mất cân đối
trong cơ cấu đầu tư
Căn cứ vào nguyên nhân gây ra lạm phát, người ta chia ra 2 loại lạm phát là lạm
phát tiền tệ và lạm phát giả cả.
Lạm phát ti
ền tệ được hiểu là do mức tiền cung ứng cho lưu thông vượt quá mức
cần thiết dẫn đến tình trạng mất giá của đồng bản tệ.
Lạm phát giả cả được hiểu là giá cả của hàng hóa và dịch vụ nói chung tăng lên do
cầu lớn hơn cung (cầu kéo), hoặc do chi phí sản xuất hàng hóa và dịch vụ tăng lên (chi
phí đẩy).
Trong thực tế hai loại lạm phát nói trên ít khi xảy ra cùng một lúc, mà thường
hoặc là lạm phát giá cả, hoặc là lạm phát tiền tệ.
Nếu điều tiết lạm phát ở mức độ ổn định và hợp lý sẽ có tác dụng thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế, hay nói cách khác là điều kiện đủ cho tăng trưởng kinh tế, điều
kiện cần là vấn đề của Chính phủ trong việc phát triển nguồn lực, vốn và công nghệ kỹ
thu
ật Nghiên cứu bước đầu của IFM (2006) về mức độ lạm phát ở Việt Nam với
các nước Đông Nam á cũng đã chỉ ra răng, mức lạm lạm phát tối ưu cho tăng trưởng
8

kinh tế ở các nước vùng Đông Nam á, trong đó có Việt Nam khoảng 3.6% trong khi

các nước phát triển chọn mức lạm phát gần 2% là mức tối ưu cho tăng trưởng.
1.3. Mối quan hệ giữa bội chi ngân sách và lạm phát
Chi ngân sách là một trong những công cụ chính sách quan trọng của Nhà nước
nhằm tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi sản lượng của nền kinh tế thấp
dưới mức sản lượng tiề
m năng, thì Chính phủ có thể tăng mức chi ngân sách, chấp
nhận bội chi để thúc đẩy hoạt động kinh tế. Vì vậy, bội chi ngân sách không chỉ diễn
ra phổ biến đối với các nước nghèo, kém phát triển mà xảy ra ngay cả đối với những
nước thuộc nhóm các nền kinh tế phát triển nhất (nhóm OECD). Đối với các nước
đang phát triển, bội chi ngân sách thường để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầ
u tư cơ sở
hạ tầng ban đầu như: Giao thông, điện, nước Nhiều nước phát triển và đang phát
triển trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á cũng vẫn bội chi ngân sách. Tuy nhiên
chính mức tăng chi tiêu của Chính phủ sẽ kéo theo hiệu ứng tăng giá ở một số các lĩnh
vực hàng hóa và dịch vụ do gia tăng cầu dẫn đến tình trạng lạm phát do cầu kéo, song
song với việc giá cả hàng hóa và dịch vụ
tăng cũng sẽ kéo theo các chi phí sản xuất
tăng dẫn đến lạm phát do chi phí đẩy.
Mặt khác khi các nhu cầu về đầu tư cơ sở hạ tầng tăng cao mà ngân sách nhà nước
lại thiếu hụt dẫn đến không đủ nguồn vốn đối ứng để đầu tư cho phát triển. Để bù đắp
phần thiếu hụt, Nhà nước có thể sử dụng chính sách phát hành thêm tiền và đưa ra lưu
thông. Tuy nhiên việ
c tăng chi tiêu của Chính phủ trong trường hợp này sẽ gây "tăng
trưởng nóng" và không cân đối với khả năng tài chính của quốc gia. Nếu nhà nước
phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội chi NSNN thì sẽ gây ra tình trạng lạm
phát tiền tệ.

9



2. Thực tiễn tại Việt Nam giai đoạn 2004-2008
2.1. Thực trạng lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2004-2008
Thay đổi CPI qua các năm
Nguồn: IMF, International Financial Statistics
Nhìn vào số liệu cho thấy tình hình lạm phát tại Việt Nam có chiều hướng gia
tăng cao từ giữa cuối năm 2007 và đạt đỉnh cao vào tháng 8/2008 với mức tăng CPI là
hơn 30%. Tính trung bình tỷ lệ lạm phát năm 2007 là 8.86% (nhưng nếu tính riêng 4
tháng cuối năm 2007 là gần 12%) và năm 2008 là 22,97%. Đây có thể nói là mức tăng
cao nhất kể từ năm 2004 trở về đây.
2.2. Tình hình bội chi ngân sách tại Việt Nam giai đoạn 2004-2008
Do việc xem xét là c
ăn cứ thực tế tại Việt Nam, do đó các số liệu về bội chi
ngân sách được nghiên cứu ở đây là lấy số liệu được tính theo cách tính riêng của Việt
Nam và công bố trong nước, không sử dụng số liệu công bố quốc tế ( số liệu của Bộ
tài chính công bố tại website: />.
0
5
10
15
20
25
30
35
M1 2004
M
5
2004
M
9
2004

M
1
2005
M5 2005
M9 2005
M1 2006
M5 2006
M9
2006
M1 2007
M
5
2007
M
9
2007
M
1
2008
M
5
2008
M9 2008
PCI (% change over previous year)
10


Mức bội chi ngân sách qua các năm
Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ tài chính và Bộ kế hoạch đầu tư
Từ năm 2004-2007, tình hình bội chi NSNN tăng lên qua các năm và về cơ bản

đuợc cân đối ở mức 5% GDP và thực hiện ở mức 4,9%-5,5% GDP và nằm trong mức
mà quốc hội đã thông qua từ đầu năm. Tuy nhiên nếu chỉ xem xét bội chi NSNN so
với GDP thì chưa thấy hết sự tăng lên của nó trong những năm này; đặc biệt những
năm gần đây, ngoài NSNN được cân đối, đã có một lượng vố
n lớn được đưa ra đầu tư
các công trình giao thông và thuỷ lợi thông qua hình thức phát hành trái phiếu Chính
phủ không cân đối vào NSNN. Ngoài ra, phải kể đến lượng công trái giáo dục được
phát hành để thu hút tiền cho đầu tư kiên cố hoá trường lớp học cũng là một lượng tiền
lớn cân đối ngoài NSNN. Nếu cộng cả hai loại trên vào cân đối NSNN, bội chi NSNN
trong những năm qua không phải chỉ 5% GDP mà cao hơn (khoảng 5,8-6,2% GDP).
Tốc độ tăng bộ
i chi NSNN là khá cao, trung bình ở mức 18%/ năm trong các năm
2005- 2006 và đột biến ở năm 2007 với mức là 33% so với năm 2006. Tốc độ này nếu
trừ đi yếu tố tăng trưởng thì còn cao hơn tỷ lệ lạm phát từ 2004 – 2007 (năm 2004:
7,8%; năm 2005: 8,3%; năm 2006: 7,4%; năm 2007: 8,86% ). Riêng năm 2008 tốc độ
tăng bội chi giảm hẳn xuống so với 2007, đây là do chính sách cắt giảm chi tiêu của
Chính phủ nhằm kiềm chế lạ
m phát.
11


Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ tài chính và Bộ kế hoạch đầu tư
Về bù đắp bội chi ngân sách, trong những năm gần đây, mặc dù chúng ta đã kiểm
soát bội chi NSNN từ hai nguồn là vay nước ngoài và vay trong nước nên sức ép tăng
tiền cung ứng thêm ra thị trường là không có, nhưng sức ép tăng chi tiêu của Chính
phủ cho tiêu dùng thường xuyên và cho đầu tư là tăng lên.

Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ tài chính và Bộ kế hoạch đầu tư
Bội chi ngân sách Nhà nước cả năm 2004 bằng 16,2% tổng số chi, chiếm
khoảng 4.85% GDP và bằng mức dự toán cả năm đã được Quốc hội thông qua đầu

12

năm, trong đó 79% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và 21% từ nguồn vay
nước ngoài.
Bội chi ngân sách Nhà nước cả năm 2005 bằng 15,5% tổng số chi, chiếm
khoảng 4,86% GDP và bằng mức dự toán cả năm đã được Quốc hội thông qua đầu
năm, trong đó 80% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và 20 % từ nguồn vay
nước ngoài.
Bội chi ngân sách Nhà nước cả năm 2006 bằng 15,8% tổng số chi, chiếm
khoảng 5,64% GDP và bằng mức dự toán cả năm đã được Quốc hội thông qua đầu
năm, trong đó 74,2% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và 25,8% từ nguồn vay
nước ngoài.
Bội chi ngân sách Nhà nước năm 2007 bằng 16,2 % tổng số chi, chiếm khoảng
5% GDP và bằng mức bội chi dự toán năm đã được Quốc hội thông qua đầu năm,
trong đó 76,1% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và 23,9% từ nguồ
n vay nước
ngoài.
Bội chi ngân sách Nhà nước năm 2008 ước tính bằng 13,6% tổng số chi chiếm
4.95% GDP và bằng 97,5% mức bội chi dự toán năm đã được Quốc hội thông qua đầu
năm, trong đó 77,3% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và 22,7% được bù đắp
từ nguồn vay nước ngoài.
Tình hình bội chi ngân sách tại Việt Nam tăng lên qua các năm cũng là dễ hiểu
khi Việt Nam là đất nước đang phát triển. Để khẳng đị
nh điều này hãy xem xét việc
chi từ ngân sách cho 3 nội dung chủ yếu đó là: Chi đầu tư phát triển, Chi trả nợ và
viện trợ, Chi phát triển sự nghiệp KT-XH, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính
nhà nước, Đảng, đoàn thể.
13



Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ tài chính và Bộ kế hoạch đầu tư
Ta có thể nhận thấy rằng chi cho hoạt động thường xuyên là chiếm chủ yếu và
có sự gia tăng khá mạnh, tốc độ tăng trung bình là 23% /năm trong giai đoạn 2004 –
2008 ; các khoản trả nợ vay cũng như viện trợ cũng chiếm đáng kể trong số chi của
Chính phủ (nhằm trả các khoản nợ vay nhằm bù đắp cho thâm hụt ngân sách), ngoài ra
chi cho đầu tư phát triển (chi cho đầu tư xây dựng cơ bản là ch
ủ yếu) tuy không phải
chiếm chủ yếu trong nguồn chi ngân sách nhưng lại có tốc độ tăng mạnh qua các năm
với tốc độ tăng trung bình là 25%/năm trong giai đoạn 2004 – 2008, đặc biệt năm 2008
đã tăng 43% so với 2007.

Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ tài chính và Bộ kế hoạch đầu tư
2.3. Mối quan hệ giữa bội chi ngân sách và lạm phát
Số liệu thống kê cho thấy khi mức bội chi ngân sách nhà nước tăng thì tỷ lệ lạm
phát cũng có chiều hướng gia tăng. Nếu như tỷ lệ lạm phát trung bình năm 2006 là 7,4
14

%, mức bội chi ngân sách ở mức 48,61 ngàn tỷ đồng, đến năm 2007 tỷ lệ lạm phát
trung bình tăng lên là 8,9% thì mức bội chi ngân sách cũng tăng lên 64.56 ngàn tỷ
đồng và năm 2008 tỷ lệ lạm phát trung bình tăng đột biến lên 22,97% thì mức bội chi
ngân sách cũng tăng lên 66,2 ngàn tỷ đồng.
Ngoài ra khi nhìn vào khoản bù đắp thâm hụt ngân sách cho thấy phần lớn nguồn
bù đắp là từ nguồn vay trong nước (trung bình chiếm trên 75%), phần còn lại là từ
nguồn vay nướ
c ngoài và hoàn toàn không có việc bù đắp thâm hụt thông qua việc
phát hành thêm tiền và đưa ra lưu thông. Tuy nhiên phần huy động từ vay nước ngoài
đã làm tăng cung lượng tiền vào thị trường trong nước, vì số tiền vay nước ngoài về để
bù đắp thâm hụt NSNN phải đổi ra VND để chi tiêu trên cơ sở bán cho NHNN là
chính, mà NHNN lại cung ứng tiền ra để mua ngoại tệ là cơ bản. Đây chính là phần
làm cho lạm phát tăng lên nếu lượng vay từ bên ngoài vào bù đắp thâm hụt NSNN quá

lớ
n. Thực tế trong những năm qua, lượng vay tiền từ bên ngoài vào bù đắp thâm hụt
NSNN chiếm khoảng 1/3 số thâm hụt, tức là khoảng 1,5%-1,7% so với GDP. Nếu
cộng thêm cả phần vay về cho vay lại, lượng tiền từ bên ngoài vào nền kinh tế nước ta
qua bù đắp thâm hụt NSNN khoảng 2%-2,5% GDP. Đây chính là một nguyên nhân
gây ra lạm phát cao của nước ta trong năm 2007 và năm 2008. Còn phần bù đắp thâm
hụt NSNN từ nguồn vay trong dân về cơ bản, chỉ thu tiề
n từ trong lưu thông vào
NSNN và sau đó, lại chuyển ra lưu thông nên không làm tăng lượng tiền cơ bản trên
thị trường mà chỉ làm cho vòng quay tiền tệ có thể tăng nhanh hơn, tạo ra hệ số nở tiền
cao hơn mức cần thiết. Điều này, cũng tạo ra tăng cung tiền tệ do vòng quay tiền tệ
lớn, có tạo ra tác động một phần gây ra lạm phát, nhưng không lớn bằng vay vốn từ
bên ngoài để bù đắp thâm hụt NSNN.
Tuy nhiên nhìn nhận một cách thẳng thắn thì ngay từ đầu năm 20 06, những dấu
hiệu của lạm phát đã xuất hiện, nhưng trong quản lý và điều hành NSNN vẫn chưa
đánh giá hết tác động của nó nên việc đầu tư công vẫn còn quá lớn và chưa hiệu quả.
Chi thường xuyên chưa được giám sát chặt chẽ nên còn lãng phí, xử lý bội chi NSNN
vẫn còn chưa quyết liệt. Cụ th
ể là bội chi ngân sách còn tăng qua các năm. Do vậy, để
kiềm chế lạm phát, ngoài các biện pháp kiềm chế lạm phát mà Chính phủ, cũng như
các bộ, ngành đang thực thi, vấn đề quản lý chặt tình hình chi NSNN như: chi thường
xuyên của các cơ quan nhà nước, đầu tư công thông qua việc xử lý bội chi NSNN là
15

vô cùng cấp thiết và có ý nghĩa rất quan trọng. Nhận thức được vấn đề này ngay từ
những tháng đầu năm 2008, Chính phủ áp dụng các biện pháp cắt giảm đầu tư công và
chi tiêu thường xuyên từ ngân sách nhà nước. Theo báo cáo của Chính phủ tại kỳ thứ
4, quốc hội khóa XII ngày 16/10/2008, trong năm 2008 Chính phủ đã đình hoãn, giãn
tiến độ thi công trên 3.100 công trình dự án với khoảng 31.000 tỷ đồng vốn từ nguồn
ngân sách và vốn của doanh nghi

ệp nhà nước, cắt giảm khoảng 9.000 tỷ đồng vốn trái
phiếu chính phủ, tiết kiệm 2.700 tỷ đồng chi thường xuyên của các cơ quan đơn vị thụ
hưởng ngân sách. Những động thái này đã góp phần làm cho tỷ lệ lạm phát 3 tháng
cuối năm 2008 giảm so với những tháng giữa năm 2008.

















16

3. Những vấn đề đặt ra về xử lý bội chi NSNN nhằm kiềm chế lạm phát tại
Việt Nam
Thực tế trong những năm qua (2004-2008), chúng ta đã kiểm soát được mức bội
chi NSNN ở giới hạn cho phép (không quá 5% GDP/năm) và nguồn vay chủ yếu chi
đầu tư phát triển. Ngoài ra, chúng ta cũng tích lũy được một phần từ nguồn thu thuế,
phí, lệ phí chi đầu tư phát triển. Đây là những thành công bướ
c đầu đáng ghi nhận

trong công tác quản lý cân đối NSNN cũng như kiểm soát vấn đề bội chi NSNN. Tuy
nhiên, trong quá trình xử lý bội chi NSNN, đặc biệt trong tình hình hiện nay khi vấn đề
lạm phát đang gây ra những khó khăn rất lớn cho nền kinh tế và đời sống nhân dân,
chúng ta cần lưu ý đến những vấn đề sau trong việc xử lý bội chi NSNN:
- Sự thiếu hụt ngân sách do nhu cầu vốn tài trợ cho sự phát triển nền kinh tế quá
l
ớn đòi hỏi phải đi vay để bù đắp. Điều này được thể hiện qua việc chúng ta chỉ vay để
đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình trọng điểm quốc gia phục vụ lợi ích
phát triển của đất nước. Nhưng, trên thực tế số tiền vay, đặc biệt của nước ngoài, chưa
được quản lý chặt chẽ. Tình trạng đầu tư dàn tr
ải ở các địa phương vẫn chưa được
khắc phục triệt để, tiến độ thi công những dự án trọng điểm quốc gia còn chậm và
thiếu hiệu quả. Chính vì vậy, các khoản đầu tư phát triển lấy từ nguồn vốn vay (cả
trong và ngoài nước) cần bảo đảm các quy định của Luật NSNN và mức bội chi cho
phép hằng năm do Quốc hội quyết định.
- S
ự thiếu hụt ngân sách trong những năm qua được sử dụng như một công cụ
trong chính sách tài khóa để kích thích sự tăng trưởng kinh tế. Chúng ta có thể dễ dàng
nhận ra điều này thông qua cân đối NSNN hằng năm. Về nguyên tắc, sau khi lấy tổng
thu trừ đi tổng chi trong năm sẽ xác định được số thặng dư hoặc thiếu hụt ngân sách
trong năm. Tuy nhiên, khi cân đối ngân sách chúng ta thường xác định số bội chi trước
(thông th
ường tương đương với mức Quốc hội cho phép) và nguồn còn lại được Quốc
hội cho phép chuyển nguồn sang năm sau. Đây là chính sách ngân sách thận trọng khi
áp dụng lý thuyết bội chi một cách chủ động và điều đó không gây xáo trộn trong
chính sách kinh tế vĩ mô, nhưng phải cân nhắc và kiểm tra xem toàn bộ số bội chi có
được sử dụng để chi đầu tư phát triển cho các dự án trọng điểm và hiệ
u quả qua đó tạo
thêm công ăn việc làm, tạo đà cho nền kinh tế phát triển, tăng khả năng thu NSNN
trong tương lai hay không.

17

- Chưa chú trọng mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Đây
là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách áp lực bội chi ngân sách
(nhất là ngân sách các địa phương). Chúng ta có thể thấy, thông qua cơ chế phân cấp
nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách và cơ chế bổ sung từ ngân sách cấp
trên cho ngân sách cấp dưới. Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu ứng với
các nhiệm vụ chi cụ thể
và được xác định cụ thể trong dự toán ngân sách hằng năm. Vì
vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư sẽ đòi hỏi bảo đảm nguồn chi thường xuyên
để bố trí cho việc vận hành các công trình khi hoàn thành và đi vào hoạt động cũng
như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công trình, làm giảm hiệu quả đầu tư. Chính điều đó
luôn tạo sự căng thẳng về ngân sách, để công trình vận hành và phát huy tác dụ
ng,
luôn phải đòi hỏi nhu cầu kinh phí cho hoạt động. Để có nguồn kinh phí này hoặc phải
đi vay để duy trì hoạt động hoặc yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách, cả hai trường hợp
đều tạo áp lực bội chi NSNN.
- Liệu có tồn tại vấn đề bội chi ngân sách địa phương ở Việt Nam hay không?
Biện pháp xử lý ra sao? Quản lý vấn đề này thế nào? Đó là những vấn đề cần được
xem xét kỹ càng h
ơn. Theo khoản 3, Điều 8, Luật NSNN năm 1996, ngân sách địa
phương được cân đối theo nguyên tắc tổng số chi không vượt quá tổng số thu, trường
hợp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhu cầu đầu tư kết cấu hạ tầng thì được
phép huy động vốn theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và phải cân đối vào
ngân sách địa phương để trả nợ khi đến hạn. Luậ
t NSNN sửa đổi năm 2002 mở rộng
thêm quyền chủ động trong việc huy động vốn của ngân sách địa phương. Vay vốn
đầu tư thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm do hội đồng nhân dân tỉnh quyết
định (không phải theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định như trước đây).
Như vậy, mặc dù chúng ta chấp nhận về nguyên tắc là không có việc bội chi ngân sách

địa phương nhưng thực tế lại vẫn cho phép địa phương vay để đầu tư.
Vấn đề là ở chỗ, hiện nay, các địa phương vay vốn để đầu tư theo quy định tại
khoản 3 Điều 8 của Luật NSNN tương đối lớn và chưa được quản lý một cách chặt
chẽ. Với nhiều địa phương đây là điều kiện để tăng c
ường cơ sở vật chất, tạo điều kiện
phát triển kinh tế. Điều đáng lưu ý là trong khi nguồn vốn ngân sách hiện có chưa tận
dụng hết, các địa phương vẫn tiến hành vay vốn; tỷ lệ vốn vay chiếm tỷ trọng khá lớn
trong tổng chi đầu tư phát triển. Trong khi phải đi vay thì ngân sách địa phương lại để
18

kết dư lớn, có tỉnh cuối năm kết dư bằng 78,5% số bổ sung từ ngân sách trung ương và
bằng 24,9 % so với tổng chi ngân sách địa phương. Mặt khác, còn một số khoản vay
không cân đối vào ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tạo nên khoản thu
chi ngoài ngân sách và khi đến hạn, ngân sách địa phương không có nguồn để thanh
toán gốc và lãi.
Thực chất các khoản vay của ngân sách địa phương chính là bội chi NSNN. Một
trong những nguyên tắc qu
ản lý NSNN ở Việt Nam là tuân theo theo nguyên tắc thống
nhất, tổng thể NSNN bao gồm ngân sách các cấp, điều đó đòi hỏi các khoản bội chi
của ngân sách địa phương phải được tổng hợp để tính bội chi NSNN. Tuy nhiên khi
vay, các địa phương phải cân đối ngân sách nên không thể hiện đầy đủ bội chi khi
quyết toán NSNN. Mức bội chi NSNN hằng năm trình Quốc hội mới chỉ phản ánh
được mức bội chi củ
a ngân sách trung ương. Đây là một trong những mắt xích cần
phải được giải quyết trong việc xử lý bội chi NSNN.
Để giải quyết tổng thể vấn đề bội chi NSNN ở Việt Nam theo có lẽ cần thiết phải
có những quy định chặt chẽ hơn, theo đó có thể áp dụng các giải pháp sau:
Thứ nhất, tập trung các khoản vay do Trung ương đảm nhận. Các nhu cầu đầu tư
của địa ph
ương cần được xem xét và thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên. Thực

hiện như vậy tránh được đầu tư tràn lan, kém hiệu quả và để tồn ngân sách quá lớn và
quản lý chặt chẽ số bội chi NSNN. Hiện tại, chúng ta đang đứng trước mâu thuẫn giữa
nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển với nguồn lực hạn hẹp. Nếu thực hiện thắt chặt, hạn
chế
vay để đầu tư sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế đang có nhu cầu vốn rất
cao. Nhưng nếu chúng ta không kiểm soát chặt chẽ các khoản vay nợ của NSNN, nhất
là vay của ngân sách địa phương, thì nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh tài chính quốc
gia, sự bền vững của NSNN. Thực hiện đầu tư tập trung cũng có lợi là bảo đảm phát
triển hài hoà, cân đối giữa các vùng, miền trong toàn quốc. Kinh nghi
ệm của Trung
Quốc: nghiêm cấm ngân sách các địa phương vay vốn dưới bất kỳ hình thức nào, các
khoản chi đầu tư của địa phương được xem xét tính toán và bổ sung từ ngân sách trung
ương.
Thứ hai, giải quyết tốt mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên,
nhất là ngân sách các địa phương. Do vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư, sẽ
kiên quyết không bố trí nguồn chi thường xuyên cho việc v
ận hành các công trình khi
19

hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công trình,
làm giảm hiệu quả đầu tư. Có như vậy, các địa phương phải tự cân đối nguồn kinh phí
này chứ không thể yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách.
Thứ ba, nếu chấp nhận bội chi ngân sách địa phương thì cần quản lý và giám sát
chặt chẽ việc vay vốn. Các khoản vốn vay chỉ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và phát
triển các cơ sở kinh tế. Các khoản vay của ngân sách địa phương cần được tổng hợp và
báo cáo Quốc hội để tổng hợp số bội chi NSNN hằng năm. Vấn đề vay vốn của các địa
phương không được kiểm soát chặt chẽ chẳng những tạo ra nguy cơ vay vốn tràn lan,
đầu tư kém hiệu quả mà còn ảnh hưởng đến tính bền vững của NSNN trong tương lai.
Bội chi NSNN hằ
ng năm không được kiểm soát chặt chẽ trước khi trình Quốc hội,

mức bội chi thực tế khác với mức bội chi báo cáo cáo Quốc hội. Điều đó tạo nên gánh
nặng nợ cho NSNN, bởi NSNN là một thể thống nhất và đa số các địa phương trông
chờ chủ yếu vào ngân sách trung ương, do vậy suy cho cùng, các khoản nợ của ngân
sách địa phương sẽ là gánh nợ của NSNN trong khi việc đầu tư l
ại dàn trải, kém hiệu
quả.

20


KẾT LUẬN
Nhìn lại toàn bộ quá trình nhiều năm qua cho thấy, mối quan hệ giữa bội chi
NSNN với lạm phát có thể rút ra một số kết luận sau:
- NSNN có mối quan hệ nhân quả với lạm phát. Nếu thâm hụt NSNN quá mức có
thể dẫn đến lạm phát cao. Đặc biệt, nếu bù đắp thâm hụt NSNN bằng việc phát hành
tiền sẽ tất yếu dẫn đến lạm phát.
- Tăng chi NSNN để kích thích tiêu dùng và tă
ng cầu tiêu dùng, sẽ kích thích đầu
tư phát triển và tăng đầu tư phát triển sẽ đưa đến tăng trưởng cao. Tuy nhiên, nếu tăng
chi quá mức cho phép, tức là tăng chi đến mức làm cho thâm hụt NSNN quá cao và để
bù đắp thâm hụt này phải đi vay nợ quá lớn thì sẽ đưa đến gánh nặng nợ. Kết quả là
đưa đến kích thích tiêu dùng (kích cầu quá mức) thì ở chu kỳ sau sẽ kéo theo lạm phát,
mà lạm phát cao lại làm giảm đầu t
ư phát triển và giảm đầu tư phát triển kéo theo giảm
tăng trưởng. Như vậy, thực tế ở đây là cần có liều lượng của chi tiêu NSNN ở mức cho
phép nhằm thúc đẩy đầu tư phát triển tăng lên và tiếp theo là đưa tăng trưởng kinh tế
lên cao mà không kéo theo lạm phát cao.

21



DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] PGS.TS Nguyễn Văn Luân (2011), “Giáo trình Kinh tế Vĩ mô”, Trường ĐH Kinh
Tế - Luật.
[2] Paul A Samuelson, Wiliam D. Nordhalls (2007), “Kinh Tế Học tập 2”, Nhà xuất
bản Tài Chính.
[3] Nguyễn Văn Ngọc (2009), “Lý thuyết chung về thị trường tài chính, ngân hàng và
chính sách tiền tệ”, NXB Đại học Kinh Tế Quốc Dân.
[4] Tổng cục thống kê (2011), “Lạm phát tăng cao trong 4 tháng đầu năm”
[5] PGS.TS Lê Quốc Lý (2008), “Bội chi ngân sách nhà nước trong mối quan hệ với
lạm phát ở Việt Nam hiệ
n nay”, Tạp chí ngân hàng số 10 năm 2008.
[6] Báo cáo hội thảo “Bội chi ngân sách nhà nước trong mối quan hệ với lạm phát ở
Việt Nam” do Uỷ ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội và Chương trình phát triển
Liên hiệp quốc (UNDP) phối hợp tổ chức tại Hà Nội ngày 5/5.

×