Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

tiêu luận tìm hiểu về hiệp định trims

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.84 KB, 18 trang )


1








TIÊU LUẬN


TÌM HIỂU VỀ HIỆP ĐỊNH
TRIMS















2





MỤC LỤC




I) KHÁI QUÁT VỀ HIỆP ĐỊNH TRIMs 2
1)TRIMs là gì ? 2
2) Hoàn cảnh ra đời 2
3) Mục đích 2
4) Áp dụng 2
5) Ý nghĩa 4
II) NỘI DUNG CỦA HIỆP ĐỊNH 4
Điều 1 4
Điều 2 5
Điều 3 8
Điều 4 8

Điều 5 8
Điều 6 9
Điều 7 10
Điều 8 10
Điều 9 10
III) LIÊN HỆ VIỆT NAM 11
1.Cam kết của Việt Nam đối với Hiệp định TRIMs 11
2.Tình hình thực hiệp định TRIMS tại Việt Nam và vấn đề đặt ra 13
3.Các biện pháp thích nghi của Việt Nam 15
3.1) Nhóm giải pháp liên quan đến đầ

u vào của các ngành công nghiệp 15
3.2) Nhóm giải pháp liên quan đến phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ 16
3.3) Nhóm giải pháp liên quan đến quản lý vĩ mô và chiến lược doanh nghiệp 17







3





I) Khái quát hiệp định TRIMS :

1) TRIMS là gì ?
TRIMs (The Agreement on Trade-Related Investment Measures) là các biện pháp liên
quan đến thương mại bao gồm các quy định của nước nhận đầu tư đối với đầu tư nước
ngoài có tác động tới các luồng trao đổi hàng hóa nhập khẩu có tính phù hợp cao đối
với vấn đề tiếp nhận đầu tư giữa các nước

2) Hoàn cảnh ra đời :
Hiệp định TRIMs đã được ký kết vào cuối vòng đàm phán Urugoay và chính th
ức có
hiệu lực từ ngày 01/01/1995. Sự ra đời của hiệp định này được coi là bước thoả hiệp
ban đầu của quan điểm các nước phát triển và đang phát triển về việc đưa ra quy định
điều chỉnh hoạt động đầu tư nhằm hạn chế trở ngại cho thương mại quốc tế.


3) Mục đích :
Điều khoản của Hi
ệp định GATT 1994 đã đưa ra một số biện pháp dẫn đến những tác
động bóp méo và hạn chế thương mại quốc tế nên Hiệp định TRIMs đã ra đời nhằm
giúp tránh các tác động có hại đó.

TRIMs thường được áp dụng tại các nước đang phát triển, những nước mà vấn đề thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài được quan tâm hàng đầu. Vì sự phát triển của đất
nướ
c, bảo vệ và tăng cường khả năng cạnh tranh của các công ty nội địa, đồng thời để
đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán, Chính phủ các nước đang phát triển thường áp
dụng TRIMs. Trong GATT 1994 cũng đã quy định cấm áp dụng các biện pháp đầu tư
vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia và nghĩa vụ loại bỏ các hạn chế định lượng,
nhưng phạm vi không được xác định rõ ràng. Trong Hiệp đị
nh TRIMs các quy định
trở nên rõ ràng hơn bằng việc đưa ra một danh sách minh hoạ các biện pháp đầu tư
liên quan đến thương mại cấm áp dụng đối với các nước thành viên WTO.
Mục tiêu chính của hiệp định là nhằm thúc đẩy việc mở rộng, phát triển tự do hoá
đầu tư và thương mại quốc tế để tăng trưởng và phát triển kinh tế của tất cả các nước
tham gia, đặc biệt là các nướ
c đang phát triển, trên cơ sở đảm bảo tự do cạnh tranh.
Ngoài ra, hiệp định cũng có tính đến các nhu cầu cụ thể về thương mại, phát triển và
khả năng tài chính của các nước thành viên đang phát triển, nhất là các nước thành
viên kém phát triển.

4

4) Áp dụng:


Hiệp định này chỉ áp dụng đối với các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
hàng hoá. Trong GATT 1994 cũng đã quy định cấm áp dụng các biện pháp đầu tư vi
phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia và nghĩa vụ loại bỏ các hạn chế định lượng, nhưng
phạm vi không được xác định rõ ràng. Trong Hiệp định TRIMs các quy định trở nên
rõ ràng hơn bằng việ
c đưa ra một danh sách minh hoạ các biện pháp đầu tư liên quan
đến thương mại cấm áp dụng đối với các nước thành viên WTO.
Nhóm biện pháp Ví dụ minh họa
Những yêu cầu về hàm lượng nội địa Yêu cầu doanh nghiệp phải sử dụng một tỷ lệ
nhất định nguyên liệu đầu vào có xuất xứ
trong nước hoặc từ các nguồn nội địa
Những yêu cầu về cân đối thương mại Yêu cầu doanh nghiệp phải đảm bảo khối
lượng hoặc trị giá sản phẩm nhập khẩu tương
đương với khối lượng, trị giá sản phẩm xuất
khẩu
Những yêu cầu về cân đối ngoại hối Quy định ngoại hối phục vụ nhập khẩu phải
ở một tỷ lệ nhất định so với giá trị ngoại hối
mà doanh nghiệp thu được từ xuất khẩu và từ
các nguồn khác
Những yêu cầu về ngoại hối Hạn chế việc tiếp cận nguồn ngoại hối của
doanh nghiệp - hạn chế nhập khẩu
Những yêu cầu về tiêu thụ trong nước Yêu cầu doanh nghiệp phải đảm bảo rằng
khối lượng hoặc trị giá sản phẩm tiêu thụ
trong nước tương đương với sản phẩm xuất
khẩu – hạn chế xuất khẩu
Những yêu cầu về sản xuất Yêu cầu một số loại sản phẩm phải được sản
xuất trong nước
Những yêu cầu về xuất khẩu Yêu cầu tỷ lệ xuất khẩu tối thiểu
Những yêu cầu bắt buộc về loại sản phẩm Yêu cầu nhà đầu tư phải cung cấp cho những
thị trường nhất định một hoặc một số sản

phẩm được chỉ định hoặc được sản xuất/cung
cấp bởi một nhà sản xuất/cung cấp nhất định
Những hạn chế về sản xuất Quy định cấm doanh nghiệp không được sản
xuất một số sản phẩm hoặc loại sản phẩm
nhất định ở nước nhận đầu tư
Những yêu cầu về chuyển giao công nghệ Yêu cầu phải chuyển giao bắt buộc một số
loại công nghệ nhất định (không theo các
điều kiện thương mại thông thường) và/hoặc
yêu cầu các loại hoặc mức độ nghiên cứu và
phát triển (R&D) phải được thực hiện ở nước
nhận đầu tư
Những yêu cầu về việc chuyển giao quyền sử
dụng bằng sáng chế (li-xăng)
Quy định buộc nhà đầu tư phải chuyển giao
công nghệ tương tự hoặc không liên quan
đến công nghệ mà họ đang sử dụng tại nước

5
đầu tư cho doanh nghiệp tại nước nhận đầu
tư.
Những hạn chế về chuyển lợi nhuận ra nước
ngoài
Hạn chế quyền của nhà đầu tư trong việc
chuyển lợi nhuận thu được từ đầu tư về nước
Những yêu cầu về tỷ lệ vốn trong nước Ấn định một tỷ lệ nhất định vốn của doanh
nghiệp phải do nhà đầu tư trong nước nắm
giữ.


5) Ý nghĩa :


Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại là vấn đề có ý nghĩa to lớn. Thực
hiện nghĩa vụ của hiệp định TRIMs sẽ xoá bỏ rào cản đối với đầu tư nước ngoài
(FDI), tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư tham gia vào các ngành công nghiệp, chế biến
nông sản và nhất là dịch vụ có lợi thế. Việc điều chỉnh chính sách nhằm xoá bỏ
yêu
cầu cân đối thương mại và cân đối ngoại tệ cũng là điều kiện thuận lợi để thu hút vốn
đầu tư nước ngoài vào các ngành hàng có lợi thế xuất khẩu. Từ thực tiễn ở nhiều quốc
gia, trong thu hút đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp FDI thường mở mang những
ngành nghề mới, thực hiện chuyển giao công nghệ và kỹ năng sản xuất kinh doanh
cho lao động của nước s
ở tại nhằm thu được lợi nhuận cao. Mở mang phát triển những
ngành nghề mới áp dụng công nghệ hiện đại đòi hỏi lao động có trình độ kỹ thuật cao,
buộc lực lượng lao động trẻ phải tự học hỏi vươn lên để có việc làm.
Đây cũng chính là là cơ hội để nâng cao trình độ nguồn nhân lực nước ta khi vào
WTO. Gia nhập WTO, dịch vụ sẽ là khu vực có độ mở cao.
Đón nhận dòng đầu tư
trực tiếp nước ngoài, FDI sẽ đến cùng với công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến
của các nhà đầu tư, xu hướng này cũng tạo nhiều thuận lợi để đa dạng hoá và nâng cao
chất lượng phát triển các ngành dịch vụ. Sự tăng trưởng các ngành dịch vụ, đến lượt
mình lại tạo điều kiện để tăng sức hấp dẫn và nâng cao khả
năng cạnh tranh trong thu
hút nguồn vốn FDI. Các nguồn đầu tư được phân phối lại theo hướng hiệu quả cho
phép phát triển nhanh những ngành hàng có lợi thế cạnh tranh, đi theo hướng này,
nước ta có thể mở rộng một số dịch vụ du lịch và xuất khẩu lao động. Khi vào WTO,
thị trường mở rộng, người tiêu dùng trong nước được tiếp cận với những dịch vụ đa
ngành với giá thấ
p và chất lượng tốt sẽ là cơ hội để giảm chi phí sản xuất và quan
trọng là nâng cao được sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ Việt Nam.




6
II) NỘI DUNG CỦA HIỆP ĐỊNH

Điều 1: Phạm vi.
Hiệp định này chỉ áp dụng đối với các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
hàng hoá (trong Hiệp định này được gọi là "TRIMs").
Điều 2:
Đối xử quốc gia và những hạn chế về số lượng.
Khoản 1: Không làm phương hại đến quyền lợi và nghĩa vụ qui định tại GATT
1994, không một Thành viên nào được phép áp dụng TRIMs trái với các qui định tại
Điều III hoặc Điều XI của GATT 1994.
Điều III GATT 94 (Đối xử quốc gia về thuế và quy tắc trong nước) quy định:
- Thuế và các khoản thu nội địa áp dụng cho các doanh nghi
ệp nước ngoài đầu
tư trong nước không được cao hơn thuế và các khoản thu nội địa áp dụng cho
các doanh nghiệp nội địa. Trừ trường hợp khoản thuế hoặc khoản thu nội địa
đó có thoả thuận cụ thể cho phép duy trì căn cứ vào một Hiệp định thương mại
có giá trị hiệu lực vào ngày 10 tháng 4 năm 1947, theo đó các khoản thuế và
khoản thu nội địa này đã được cam kế
t trần, không tăng lên cho đến khi hiệp
định thương mại này hết hiệu lực.
- Các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào trong nước sẽ được hưởng đãi
ngộ không kém phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ dành cho các doanh nghiệp nội
địa về mặt luật pháp, quy tắc và các quy định tác động đến bán hàng, chào
bán, mua, chuyên chở, phân phối hoặc sử dụng hàng trên thị trường nội địa.
-
Nước nhận đầu tư không được áp dụng hay duy trì một quy tắc định lượng nội
địa nào với pha trộn, chế biến hay sử dụng sản phẩm tính theo khối lượng cụ

thể hay theo tỷ lệ, trực tiếp hay gián tiếp đòi hỏi một khối lượng hay tỷ lệ nhất
định của bất cứ một sản phẩm nào chịu sự điều chỉnh củ
a quy tắc đó phải được
cung cấp từ nguồn nội địa. Tuy nhiên, quy định này sẽ không áp dụng với
những quy tắc (định lượng nội địa) có hiệu lực trên lãnh thổ của bất cứ bên ký
kết nào vào ngày 1 tháng 7 năm 1939, ngày 10 tháng 4 năm 1947 hay ngày 24
tháng 3 năm 1948 tuỳ bên ký kết liên quan chọn; miễn là các quy tắc đó sẽ
không bị điều chỉnh bất lợi hơn cho doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và chúng
s
ẽ được xem như là một khoản thuế quan để tiếp tục đàm phán.

7
- Nước nhận đầu tư không được áp dụng hay duy trì một quy tắc định lượng nội
địa nào điều chỉnh việc pha trộn, chế biến tính theo khối lượng hay tỉ lệ để
phân bổ các khối lượng hay tỷ lệ nêu trên theo xuất xứ của nguồn cung cấp.
- Các quy định của Điều khoản này sẽ không áp dụng với việc các cơ quan chính
phủ mua sắm nh
ằm mục đích cho tiêu dùng của chính phủ chứ không phải để
bán lại nhằm mục đích thương mại hay đưa vào sản xuất nhằm mục đích
thương mại.
- Các quy định của điều khoản này sẽ không ngăn cản việc chi trả các khoản trợ
cấp chỉ dành cho các nhà sản xuất nội địa, kể cả các khoản trợ cấp dành cho
các nhà sản xuất n
ội địa có xuất xứ từ các khoản thu thuế nội địa áp dụng phù
hợp với các quy định của điều khoản này và các khoản trợ cấp thực hiện thông
qua việc chính phủ mua các sản phẩm nội địa.
- Các quy định của điều này không ngăn cản các bên ký kết định ra hay duy trì
các quy tắc hạn chế số lượng nội địa liên quan tới số lượng phim trình chiếu áp
d
ụng theo đúng các quy định của Điều IV GATT 1994

- Điều XI GATT 1994 (Đối xử quốc gia về thuế và quy tắc trong nước) quy
định:
1) Ngoại trừ thuế quan và các khoản thu khác (thủ tục hải quan…), không
được áp dụng các hình thức hạn chế nhập khẩu, xuất khẩu khác như hạn
ngạch, giấy phép nhập khẩu hay xuất khẩu…
2) Các quy định của Khoản 1 trong điều khoản này s
ẽ không được áp dụng với
các trường hợp dưới đây:
a) Cấm hay hạn chế xuất khẩu tạm thời áp dụng nhằm ngăn ngừa hay khắc
phục sự khan hiếm trầm trọng về lương thực hay các sản phẩm khác
mang tính trọng yếu đối với với bên ký kết đang xuất khẩu.
b) Cấm hay hạn chế xuất khẩu cần thiết
để áp dụng các tiêu chuẩn hay quy
chế về phân loại, xếp hạng hay tiếp thị các sản phẩm trên thị trường quốc
tế.
c) Hạn chế nhập khẩu nông sản hay thuỷ sản dù nhập khẩu dưới bất cứ hình
thức nào nhằm triển khai các biện pháp của chính phủ được áp dụng:

8
-để hạn chế số lượng các sản phẩm nội địa tương tự được phép tiêu thụ trên thị
trường hay sản xuất, hoặc là nếu không có một nền sản xuất trong nước đáng kể, thì
để hạn chế số lượng một sản phẩm nội địa có thể bị sản phẩm nhập khẩu trực tiếp
thay thế; hoặc
-để loại tr
ừ tình trạng dư thừa một sản phẩm nội địa tương tự, hoặc nếu không có
nền sản xuất một sản phẩm nội địa tương tự, thì để loại trừ tình trạng dư thừa một
sản phẩm nhập khẩu trực tiếp thay thế, bằng cách đem số lượng dư thừa để phục vụ
một nhóm người tiêu dùng miễn phí hay gi
ảm giá dưới giá thị trường; hoặc
- để hạn chế số lượng cho phép sản xuất với một súc sản mà việc sản xuất lại phụ

thuộc trực tiếp một phần hay toàn bộ vào một mặt hàng nhập khẩu, nếu sản xuất mặt
hàng đó trong nước tương đối nhỏ.
Bất cứ một bên ký kết nào khi áp dụng hạn chế nhập khẩu bấ
t cứ một sản phẩm
nào theo nội dung điểm (c) của khoản này sẽ công bố tổng khối lượng hay tổng trị
giá của sản phẩm được phép nhập khẩu trong một thời kỳ nhất định trong tương
lai và mọi thay đổi về số lượng hay trị giá nói trên.
Khoản 2. Một danh mục minh họa TRIMs không phù hợp với các nghĩa vụ về đối
xử quốc gia qui định t
ại Khoản 4, Điều III của GATT 1994 và nghĩa vụ loại bỏ
chung các biện pháp hạn chế về số lượng qui định tại Khoản 1, Điều XI của GATT
1994 được nêu tại Phụ lục của Hiệp định này.
Danh mục minh họa các biện pháp TRIMs trái với nghĩa vụ đãi ngộ quốc gia

1. TRIMs không phù hợp với các nghĩa vụ về đối xử quốc gia được qui định tại Điều
III của GATT 1994 bao gồm những biện pháp hoặc các điều kiện mà chỉ khi tuân thủ
các điều kiện này mới được hưởng một ưu đãi nào đó, và biện pháp này qui định:
a. Yêu cầu tỉ lệ nội địa hóa:
doanh nghiệp nước ngoài phải mua hoặc sử dụng các
sản phẩm có xuất xứ trong nước hoặc từ một nguồn cung cấp trong nước, dù
yêu cầu đó được xác định theo sản phẩm nhất định, theo số lượng hoặc giá trị
sản phẩm hoặc theo tỷ lệ về số lượng hoặc giá trị của sản xuất trong nước; hoặc
b. Yêu cầu cân bằng thương m
ại: doanh nghiệp nước ngoài chỉ được mua hoặc sử
dụng các sản phẩm nhập khẩu được giới hạn trong một tổng số tính theo số
lượng hoặc giá trị sản phẩm nội địa mà doanh nghiệp này xuất khẩu.

9
2. TRIMs không phù hợp với nghĩa vụ loại bỏ chung các biện pháp hạn chế về số
lượng được qui định tại Khoản 1, Điều XI của GATT 1994 bao gồm những biện pháp

hoặc các điều kiện mà chỉ khi tuân thủ với các điều kiện này mới được hưởng một ưu
đãi nào đó, và biện pháp này là:
a. Hạn chế về nhập khẩu
: hạn chế doanh nghiệp nước ngoài nhập khẩu sản phẩm
để sử dụng liên quan đến việc sản xuất ,dưới hình thức hạn chế chung hoặc đưa
ra hạn nghạch nhập khẩu theo số lương hoặc giá trị sản xuất trong nước của
loại hàng hóa mà doanh nghiệp này sản xuất;
b. Hạn chế về giao dịch ngoại hối:
hạn chế khả năng tiếp cận đến nguồn ngoại hối
liên quan đến nguồn thu ngoại hối của doanh nghiệp nước ngoài;
c. Hạn chế về xuất khẩu:
hạn chế doanh nghiệp nước ngoài xuất khẩu hoặc bán để
xuất khẩu các sản phẩm, dưới hình thức sản phẩm cụ thể, số lượng, giá trị sản
phẩm, tỷ lệ về số lượng hoặc giá trị sản xuất trong nước của doanh nghiệp.

Điều 3:
Các ngoại lệ
Trong trường hợp thích hợp, tất cả các ngoại lệ qui định tại GATT
1994 được áp dụng đối với các qui định của Hiệp định này.

Điều 4
:Các Thành viên đang phát triển
Một Thành viên là nước đang phát triển được phép tạm thời chưa hoàn toàn tuân thủ
các qui định của Điều 2 trong chừng mực và theo cách thức mà Điều XVIII của
GATT 1994, Bản Ghi nhớ về Các điều khoản về Cán cân Thanh toán của GATT 1994
và Bản Tuyên bố về các Biện pháp Thương mại được áp dụng cho các mục đích về
cán cân thanh toán thông qua ngày 28/11/1979 (BISD 26S/205-209) cho phép Thành
viên được phép làm trái các qui định của Đ
iều III và XI của GATT 1994.
Điều 5:

Thông báo và các thoả thuận về thời kỳ quá độ
Khoản 1. Các Thành viên, trong vòng 90 ngày kể từ ngày Hiệp định WTO có
hiệu lực, phải thông báo cho Hội đồng thương mại hàng hoá tất cả các TRIMs đang
áp dụng không phù hợp với qui định của Hiệp định này. Các TRIMs này, dù được áp
dụng chung hay áp dụng trong một số trường hợp cụ thể, phải được thông báo cùng
với các đặc điểm chính của các biện pháp đó.

10
Khoản 2. Mỗi nước Thành viên phải loại bỏ các TRIMs đã thông báo theo khoản
1 trong vòng hai năm kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực đối với các Thành viên
phát triển, trong vòng 5 năm đối với Thành viên đang phát triển và trong vòng 7
năm đối với Thành viên kém phát triển.
Khoản 3. Khi được yêu cầu, Hội đồng thương mại hàng hoá có thể kéo dài thời
hạn quá độ để loại bỏ TRIMs đã thông báo theo khoản 1 đối với Thành viên
đang
phát triển (bao gồm cả nước kém phát triển) nếu những nước này có thể chứng tỏ là
đang gặp phải những khó khăn đặc biệt trong quá trình thực thi Hiệp định này. Trong
quá trình xem xét các yêu cầu trên, Hội đồng thương mại hàng hoá sẽ tính đến nhu cầu
phát triển, tài chính và thương mại của Thành viên đang được xem xét.
Khoản 4. Trong thời kỳ quá độ, một Thành viên không được phép sửa đổi nội
dung TRIMs đã thông báo theo Khoản 1, khác vớ
i nội dung đã áp dụng trước ngày
Hiệp định WTO để làm tăng thêm mức độ không phù hợp với các qui định của Điều
2. TRIMs được đưa ra trong vòng 180 ngày trước ngày Hiệp định WTO có hiệu lực sẽ
không được hưởng thời gian quá độ qui định tại Khoản 2.
Khoản 5. Cho dù có các qui định tại Điều 2, một Thành viên có thể áp dụng trong
thời kỳ quá độ TRIMs tương tự cho các dự án đầu tư
mới nhằm mục đích không tạo
bất lợi cho các doanh nghiệp đã được thành lập trước đây đã phải tuân thủ qui định
của TRIMs được thông báo theo Khoản 1 trong các trường hợp sau:

(i) Các sản phẩm của dự án đầu tư mới là các sản phẩm tương tự với các sản
phẩm của doanh nghiệp đã được thành lập; và
(ii) Khi cần thiết áp dụng để tránh bóp méo, làm sai lệ
ch các điều kiện cạnh
tranh giữa các dự án đầu tư mới và các doanh nghiệp đã được thành lập.
Bất kỳ TRIMs nào được áp dụng cho các dự án đầu tư mới đều phải được thông báo
cho Hội đồng thương mại hàng hoá. Nội dung của TRIMs này phải có ảnh hưởng
tương đương với nội dung áp dụng cho doanh nghiệp đã được thành lập và TRIMs
này sẽ phải được loại bỏ đồ
ng thời.
Điều 6:
Minh bạch hóa
Khoản 1. Đối với các TRIMs, các Thành viên khẳng định lại cam kết thực hiện
nghĩa vụ về minh bạch hóa và thông báo tại Điều X của GATT 1994, về việc thực thi
"Thông báo" qui định tại Bản Diễn giải về thông báo, tham vấn, giải quyết tranh

11
chấp và giám sát được thông qua ngày 28 tháng 11 năm 1979 và tại Quyết định của
các Bộ trưởng về các thủ tục thông báo thông qua ngày 15 tháng 4 năm1994.
Khoản 2. Mỗi Thành viên phải thông báo cho Ban Thư ký về các ấn phẩm trong
đó có thể tìm thấy các biện pháp TRIMs, bao gồm cả các biện pháp được chính quyền
khu vực hoặc chính quyền địa phương áp dụng tại địa phương mình.
Khoản 3. Mỗi Thành viên sẽ xem xét một cách thân thiện các yêu cầu về thông tin
và dành c
ơ hội tham vấn như nhau liên quan đến các vấn đề phát sinh từ Hiệp định
này khi một Thành viên khác đưa ra. Phù hợp với Điều X của GATT 1994, không
Thành viên nào bị yêu cầu công bố các thông tin nếu việc công bố đó có thể ngăn cản
việc thực thi pháp luật hoặc vi phạm lợi ích công cộng hoặc gây phương hại đến lợi
ích thương mại hợp pháp của một số doanh nghiệp nhất định, dù doanh nghiệ
p đó là

doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp quốc doanh.
Điều 7:
Uỷ ban về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
Khoản 1. Uỷ ban về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (trong Hiệp
định này được gọi là "Uỷ ban") được thành lập theo Hiệp định và sẽ để ngỏ cho tất cả
các Thành viên tham gia. Uỷ ban sẽ bầu ra Chủ tịch và Phó Chủ tịch Uỷ ban và sẽ
họp ít nhất mỗi năm một lần và họp trong trườ
ng hợp có yêu cầu của bất kỳ Thành
viên nào.
Khoản 2. Uỷ ban sẽ thực thi các trách nhiệm do Hội đồng thương mại hàng hoá
giao phó và tạo cơ hội cho các nước Thành viên được tham vấn về bất kỳ vấn đề nào
liên quan đến hoạt động và thực thi Hiệp định này.
Khoản 3. Uỷ ban sẽ giám sát quá trình hoạt động và thực thi Hiệp định này và sẽ
báo cáo định kỳ hàng năm cho Hội đồng th
ương mại hàng hoá.
Điều 8
: Tham vấn và giải quyết tranh chấp
Các qui định của Điều XXII và Điều XXIII Hiệp định GATT 1994 được chi tiết hóa
và áp dụng tại Bản Diễn giải về giải quyết tranh chấp sẽ được áp dụng cho việc tham
vấn và giải quyết những tranh chấp phát sinh từ Hiệp định này.
Điều 9: Rà soát của Hội đồng Thương mại hàng hoá

12
Không muộn hơn 5 năm kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực, Hội đồng thương
mại hàng hoá sẽ rà soát lại quá trình hoạt động của Hiệp định này và nếu cần thiết sẽ
đề nghị lên Hội nghị Bộ trưởng sửa đổi văn bản của Hiệp định này. Trong quá trình rà
soát, Hội đồng thương mại hàng hoá sẽ xem xét liệu có cần bổ sung thêm vào Hiệp
định này các qui định về
chính sách đầu tư và chính sách cạnh tranh hay không.



III) LIÊN HỆ VIỆT NAM:
1. Cam kết của Việt Nam đối với Hiệp định TRIMs
Việc thực hiện TRIMs đã đặt ra nhiều thách thức lớn cho các nước đang phát triển khi
tham gia WTO, trong đó có Việt Nam. Đối với các nước đang phát triển, thời hạn đó
là 5 năm, các nước chậm phát triển là 7 năm. Tuy nhiên, thời gian này thường vẫn
không đủ để các quốc gia hoàn thành việc xóa bỏ những chính sách đi ngược lại
TRIMs. Khó khăn là ở
chỗ nhiều nước không đủ khả năng để xác định đâu là các biện
pháp không phù hợp với TRIMs, nên không thể hoàn thành việc xóa bỏ như TRIMs
quy định đúng thời hạn.
Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO từ 1/2007 và chúng ta đã cam kết
thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quy định trong TRIMs kể từ thời điểm gia nhập.Và hiện
nay, chúng ta vẫn chưa thực hiện các biện pháp trong Hiệp đị
nh như chính sách nội
địa hóa, yêu cầu cân đối ngoại tệ… do chúng ta có thời gian quá độ 5 năm theo quy
định của TRIMs.
Đối với Việt Nam, các nghĩa vụ theo Hiệp định TRIMs không phải là điều mới mẻ.
Trong Hiệp định Thương mại song phương ký với Hoa Kỳ (BTA), Việt Nam về cơ
bản đã cam kết thực hiện đầy đủ các quy định như của Hiệp định TRIMs, theo đó sẽ
loạ
i bỏ dần các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại không phù hợp với WTO
(ví dụ tỷ lệ nội địa hóa, phát triển nguồn nguyên liệu trong nước …) trong 5 năm, và
các TRIMs khác (yêu cầu xuất khẩu sản phẩm) trong khung thời gian tương tự.
Trong gần 05 năm thực hiện BTA, hệ thống pháp luật Việt Nam đã liên tục được
hoàn thiện nhằm đáp ứng hầu hết các nghĩa vụ theo BTA. Đặc bi
ệt, Luật Đầu tư năm
2005, có hiệu lực từ 1/7/2006, đã nội luật hóa đầy đủ các cam kết của Việt Nam trong
BTA. Theo đó, Việt Nam cam kết mở cửa thị trường, đầu tư liên quan đến thương
mại, không bắt buộc nhà đầu tư thực hiện các yêu cầu như: (i) ưu tiên mua, sử dụng


13
hàng hóa, dịch vụ trong nước hoặc phải mua hàng hóa, dịch vụ từ nhà sản xuất hoặc
cung ứng dịch vụ trong nước; (ii) xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ đạt một tỷ lệ nhất định,
hạn chế số lượng, giá trị hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu hoặc sản xuất, cung ứng hàng
hóa trong nước;(iii) nhập khẩu hàng hóa với số lượng và giá trị tương
ứng với số
lượng và giá trị hàng hóa xuất khẩu hoặc phải tự cân đối ngoại tệ từ nguồn xuất khẩu
để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu;(iv) đạt được tỷ lệ nội địa hóa nhất định trong hàng
hóa sản xuất.
Việt Nam đã cam kết tuân thủ hoàn toàn Hiệp định TRIMs ngay khi trở thành viên
chính thức của WTO, cam kết xoá bỏ các rào cản về đầu tư
, với mục tiêu tổng thể để
tăng cường tính hấp dẫn, thông thoáng và minh bạch của môi trường đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam. Nhìn chung mức độ cam kết đối với TRIMs trong WTO cao hơn
nhiều so với cam kết của Việt Nam trong Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.
Việc thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của Hiệp định TRIMs góp phần xóa bỏ các
rào cản đối vớ
i đầu tư nước ngoài, nâng cao sức hấp dẫn của Việt Nam trong thu hút
nguồn này, đặc biệt là đầu tư trong các ngành trước nay vẫn phải thực hiện các yêu
cầu nói trên (như công nghiệp lắp ráp, sản xuất ô tô, xe máy, hàng điện tử, chế biến
đường mía, dầu thực vật, sữa, gỗ ). Mặt khác, việc xóa bỏ những yêu cầu về cân đối
thương mại và cân đối ngoại tệ cũng tạ
o điều kiện để thu hút đầu tư nước ngoài vào
các ngành sản xuất, chế biến các sản phẩm có lợi thế xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài
ra, việc thực hiện Hiệp định này cũng không đòi hỏi phải điều chỉnh phải Luật Đầu tư
cũng như các Luật có liên quan.
Tuy nhiên, để duy trì mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đẩy mạnh xuất khẩu,
nâng cao giá trị gia tăng và phát triển nguồn nguyên liệu trong nước, cũng cần nghiên
cứu áp dụng một số biện pháp mới thay thế cho các biện pháp trước đây theo nguyên

tắc bảo đảm mục tiêu phát triển nhưng vẫn phù hợp với quy định của WTO. Chính
phủ đang nghiên cứu áp dụng một số biện pháp thay thế, trong đó có việc thay tiêu chí
xuất khẩu (để được hưởng ưu đãi) bằng các tiêu chí khác (về s
ử dụng lao động, về địa
bàn đầu tư ); khuyến khích các dự án đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ, khuyến
khích đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và vùng nguyên liệu tập trung, nhất là ở các địa
bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn để hỗ trợ nguyên liệu cho các dự án nuôi
trồng, chế biến các sản phẩm nông, lâm nghiệp v.v…
Từ thực tế th
ực hiện TRIMs ở các nước đang phát triển và kinh nghiệm sau hơn bốn
năm gia nhập WTO, Việt Nam cần phải rút ra cho mình những bài học quý giá. Trước
hết chúng ta cần tạo lập một môi trường đầu tư đồng bộ và tốt hơn, tích cực xây dựng
năng lực, từ nguồn nhân lực đến cơ sở vật chất và tài chính, nhằm đảm bảo năng lực
đàm phán và thực thi hiệu qu
ả những cam kết kinh tế đa phương.

14
Việt Nam cũng cần tranh thủ tối đa những lợi thế và cơ hội trong vai trò là thành viên
chính thức của WTO trong thời gian một năm còn lại, cũng như đặt ra một lộ trình để
thực hiện thành công những biện pháp cần thiết nhằm tạo dựng cho mình một nội lực
mạnh về kinh tế, đảm bảo đủ khả năng thực hiện TRIMs một cách thành công.
2. Tình hình thự
c hiệp định TRIMS tại Việt Nam và vấn đề đặt ra:

Thực tế cho thấy, TRIMs (các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại)
thường được áp dụng tại các nước đang phát triển, những nước mà trong chiến lược
phát triển kinh tế của mình, vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài được quan tâm
hàng đầu. Đặc điểm cơ bản của các nước này là nền kinh tế
phát triển ở trình độ thấp,
công nghệ sản xuất lạc hậu và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế kém.


Xuất phát từ nhận thức cần phải tránh những hạn chế do hoạt động của các
MNCs gây ra, vì sự phát triển của đất nước, bảo vệ và tăng cường khả năng cạnh tranh
của các Công ty nội địa, đồng thời để đảm bảo cân b
ằng cán cân thanh toán, Chính
phủ các nước đang phát triển thường áp dụng TRIMs. Đó là những công cụ quan trọng
và cần thiết đối với nền kinh tế của các nước này, mặc dù chúng có những ảnh hưởng
tiêu cực đến thương mại và đầu tư quốc tế. Khi gia nhập WTO, các nước phải cam kết
loại bỏ TRIMs, điều này đồng nghĩa với việc các nước phải tìm các biện pháp vừa
tuân thủ các quy
định của WTO, nhưng đồng thời vẫn tạo cơ hội phát triển cho các
ngành công nghiệp trong nước.

Việt Nam đã có một quá trình áp dụng TRIMs với các mục tiêu cơ bản là vừa
thu hút được đầu tư trực tiếp nước ngoài, vừa đẩy mạnh phát triển sản xuất trong
nước. Các biện pháp Việt Nam đã sử dụng trong thời gian qua là yêu cầu về tỷ lệ nội
địa hoá, yêu cầu cân đối ngoạ
i tệ, yêu cầu phải gắn với phát triển nguồn nguyên liệu
trong nước và yêu cầu tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc. Trong đó, biện pháp được tập trung áp
dụng nhiều nhất là yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá trong các ngành sản xuất, lắp ráp ôtô
và phụ tùng ôtô; sản xuất, lắp ráp xe máy và phụ tùng xe máy; sản xuất, lắp ráp sản
phẩm hoàn chỉnh và phụ tùng thuộc ngành điện tử, c
ơ khí-điện. Ngoài ra, các dự án
chế biến gỗ, sữa, dầu thực vật, đường mía cũng thuộc đối tượng các ngành phải thực
hiện chương trình nội địa hoá nhằm phát triển nguồn nguyên liệu trong nước. Song,
do tính đặc thù nên phần lớn các dự án thuộc ngành này được xây dựng với mục đích
sử dụng nguồn nguyên liệu rẻ, sẵn có trong nước. Do vậy, các nhà đầu tư sẽ tự
nguyện
thực hiện chính sách nội địa hoá, kể cả trong trường hợp không được khuyến khích
hoặc ưu đãi.


3. Các biện pháp thích nghi của Việt Nam.
3.1)Nhóm giải pháp liên quan đến đầu vào của các ngành công nghiệp:
Thứ nhất, xây dựng cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành
kinh tế.

15
Điều kiện phát triển cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng quan trọng đến chi phí và rủi ro
của các hoạt động đầu tư. Để có thể phát triển cơ sở hạ tầng, Việt Nam cần một
lượng vốn rất lớn. Muốn huy động đủ vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng cần có quy
hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, đa d
ạng hoá các nguồn vốn trong đó cần cố gắng
giảm vốn nhà nước, tăng các nguồn vốn từ các thành phần khác như vốn nước
ngoài, vốn tư nhân (PPI – Private Participation Infrastrycture) theo phương thức
BOT, BT…. Đối với nguồn vốn nhà nước dùng cho phát triển cơ sở hạ tầng, cần
tuân thủ nghiêm ngặt quy chế đấu thầu nhằm tránh thất thoát, lãng phí vốn đầu tư
và nâng cao chất lượng hạ tầng cơ
sở.
Thứ hai, phát triển các khu công nghiệp, khu công nghệ cao nhằm tăng
cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thực tế cho thấy, phát triển các khu công nghiệp và công nghệ cao tỏ ra rất có hiệu
quả trong thu hút đầu tư nước ngoài. Đầu tư trong các khu vực này, các nhà đầu tư
không những được đáp ứng cơ sở hạ tầng kỹ thuật chuyên dụng, dịch vụ thuận
lợi… mà s
ản phẩm của họ còn được tiêu thụ ở thị trường nội địa. Khi đầu tư có
quy mô tăng lên thì yêu cầu phát triển các khu công nghiệp, khu công nghệ cao của
Việt Nam cần được quy hoạch và có những chính sách thu hút đầu tư hợp lý cả về
xây dựng cơ sở hạ tầng lẫn đầu tư vào khu công nghiệp, khu công nghệ cao từ đó
làm giảm giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả sản xuấ
t kinh doanh.

Thứ ba, Việt Nam cần có chiến lược khuyến khích chuyển giao công nghệ,
đầu tư nghiên cứu và ứng dụng nhằm nâng cao năng lực công nghệ quốc gia.
Trong điều kiện tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn thấp, khả năng tài chính của các
doanh nghiệp trong nước còn hạn hẹp, việc đầu tư vốn đổi mới công nghệ ở quy
mô lớn rất khó thực hiện. Do đó, việ
c hướng đến kỹ thuật và công nghệ từ đầu tư
nước ngoài trở thành yêu cầu tất yếu cho quá trình phát triển, nhất là việc tiếp cận
công nghệ nguồn từ các nước phát triển.
Qua nghiên cứu Hiệp định TRIMs, có thể nhận thấy việc khuyến khích hoặc yêu
cầu chuyển giao công nghệ không bị cấm. Do đó, Việt Nam cần phải triệt để khai
thác khía cạnh này. Tốc độ tăng trưở
ng kinh tế của Việt Nam tạo ra nhu cầu rất lớn
về các sản hạn, trung gian hoặc sản phẩm phụ trợ. Đây là cơ hội tốt cho các nhà
đầu tư. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ sẵn sàng chuyển giao các công nghệ nếu việc
chuyển giao đem lại lợi nhuận cho họ và được bảo vệ các lợi ích chính đáng. Điều
này đòi hỏi cần phải có các quy định hợ
p lý, rõ ràng về quyền lợi mà họ được
hưởng, đồng thời, chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phải được thực thi

16
nghiêm ngặt, vì các yêu cầu này thường dễ bị phản ứng bởi các nhà đầu tư.
Thứ tư, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
Đây là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sự hấp dẫn của môi trường đầu tư cũng
như là điều kiện cần thiết cho việc chuyển giao công nghệ và cải tiến kỹ thuật.
Việc đào tạo
đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề và đội ngũ kỹ sư có trình độ
cao, có khả năng ứng dụng và cải tiến công nghệ cao là vấn đề cấp bách đặt ra đối
với sự nghiệp đổi mới giáo dục – đào tạo hiện nay.
Thứ năm, quy hoạch và phát triển vùng nguyên liệu
Quy hoạch vùng nguyên liệu có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình vận hành và các

dự án đầu tư. Do đó, Vi
ệt Nam cần có quy hoạch phát triển ngành, vùng căn cứ vào
các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của ngành, vùng đó. Trong quy hoạch
cần xác định rõ quy mô các vùng nguyên liệu để từ đó đề ra các giải pháp đầu tư
phát triển các vùng nguyên liệu phù hợp. Sớm khắc phục triệt để tình trạng “quy
hoạch treo”, “đền bù treo”, đặc biệt là khắc phục tình trạng quy hoạch mang tính
chủ quan, dàn trải…. như
thời gian qua, làm kém hiệu qua đầu tư nói riêng, phát
triển kinh tế xã hội nói chung.
3.2) Nhóm giải pháp liên quan đến phát triển các ngành công nghiệp phụ
trợ
Thứ nhất, xây dựng quy hoạch phát triển cho các ngành, trong đó định
hướng sự phát triển ngành công nghiệp phụ trợ. Chẳng hạn, khi xây dựng quy
hoạch cho ngành sản xuất, lắp ráp ôtô, xe máy, Việt Nam cần có chính sách
khuyến khích, định hướng phát triển các doanh nghiệp sản xuất phụ tùng, linh
kiện; các nhà máy sản xuấ
t phôi thép, thép tấm, thép lá; nhà máy sản xuất các chế
phẩm từ cao su tự nhiên.
Thứ hai, nhà nước tạo điều kiện cho công nghiệp phụ trợ phát triển bằng
cách tạo các điều kiện về đầu vào như đất đai và nguyên vật liệu, hỗ trợ đào tạo
phát triển nguồn nhân lực, cung cấp thông tin công nghệ, tham gia triển lãm sản
phẩm; không phân biệt đối xử doanh nghiệp trong nước với n
ước ngoài, doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Thứ ba, xây dựng các trung tâm đào tạo kinh doanh và công nghệ cũng như
các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ tư, đối với các doanh nghiệp trong nước, cần tạo dựng các sản phẩm
chủ đạo, nổi trội. Bên cạnh đó, cần tạo dựng hình ảnh sản phẩm của mình nhằm
thu hút các nhà đầu tư
(người mua) như xây dựng thương hiệu, khuếch trương sản


17
phẩm. Một giải pháp quan trọng nữa là cần nâng cao trình độ công nghệ, trình độ
quản lý cho ngang tầm với các doanh nghiệp nước ngoài cùng loại.
3.3) Nhóm giải pháp liên quan đến quản lý vĩ mô và chiến lược của doanh
nghiệp
Thứ nhất, tăng cường hơn nữa tính minh bạch và chiến lược của doanh
nghiệp.
Để tăng cường tính minh bạch và khả năng dự đoán của pháp luật, ngoài việc công
khai lộ trình cam kế
t gia nhập WTO, Việt Nam cần công bố các chương trình luật
pháp có liên quan cho tất cả các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, nhằm tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động trong lập kế hoạch xây dựng chiến lược
sản xuất kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, cần cải cách các chính sách liên quan
đến đầu tư theo hướng giảm thiểu, tiến tới xoá bỏ các rào cản trái với quy định của
WTO.
Thứ hai, xây dựng quy chế phê duy
ệt và quản lý dự án đầu tư thông thoáng
đơn giản và hiệu quả.
Quá trình thực hiện Hiệp định TRIMs khi gia nhập WTO đòi hỏi cần cải cách
mạnh mẽ hành chính, nâng cao năng lực của các cơ quan có thẩm quyền liên quan,
tạo dựng môi trường pháp lý ổn định ràng buộc trách nhiệm của cả cơ quan chức
năng và nhà đầu tư… từ đó giảm được tối đa các rào cản hành chính và cũng
đồng
thời làm giảm chi phí đầu tư, tận dụng được các cơ hội đầu tư thuận lợi, nâng cao
hiệu quả đầu tư cho các nhà đầu tư.
Thứ ba, các doanh nghiệp trong nước cần chuẩn bị tốt các điều kiện cần
thiết để đáp ứng yêu cầu của các đối tác nước ngoài nói riêng và quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế nói chung.
Hội nhập là con đường phát triể

n tất yếu nhưng không dễ dàng, bằng phẳng. Để
hội nhập thành công, các doanh nghiệp phải chuẩn bị tốt về mọi mặt. Các chính
sách biện pháp hỗ trợ (nếu có) của Chính phủ chỉ đóng vai trò là chất “xúc tác”, tạo
điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tổ chức sản xuất kinh doanh một cách có hiệu
quả. Bản thân mỗi doanh nghiệp mới thực sự là người đ
óng vai trò quyết định đối
với sự thành bại của chính mình trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Doanh
nghiệp cần xác định đúng đắn chiến lược đầu tư phát triển của mình phù hợp với
tiến trình hội nhập quốc tế nói chung của nền kinh tế. Trước hết, cần chú trọng tới
việc phát triển nguồn nhân lực, đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị
công nghệ sản
xuất, thay thế kịp thời các thiết bị công nghệ lạc hậu, tạo nên bước đột phá về chất

18
lượng và giá cả sản phẩm, nânng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đáp
ứng tốt yêu cầu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong việc cung cấp các
yếu tố đầu vào cho sản xuất từ đó phát huy được lợi thế cạnh tranh và có thể tồn tại
bền vững trong điều kiện hội nhập.


×