Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN Kể chuyện Lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.79 KB, 17 trang )

BÀI VIẾT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NĂM
2013 - 2014
NGƯỜI VIẾT : Ngô Minh Tấn
ĐƠN VỊ : Trường Tiểu học “ Đ ” Kiến Thành
THUỘC TỔ / KHỐI : Khối 4
- 1 -
MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Trang
Bối cảnh của đề tài – lý do chọn đề tài…………………………… 3
Phạm vi nghiên cứu – Những điểm mới trong kết quả nghiên cứu…4
ĐỂ DẠY TỐT VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH
QUA PHÂN MÔN KỂ CHUYỆN LỚP 4
A.PHẦN MỞ ĐẦU
I. BỐI CẢNH CỦA ĐỀ TÀI:
“Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”.
Bất kỳ xã hội nào, nền văn hóa nào thì chuẩn mực đạo đức con người cũng
ln được chú trọng, giáo dục đạo đức con người ln là một việc cần thiết và quan
trọng trong mọi xã hội và mọi giai cấp. Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề giáo dục
đạo đức cho học sinh đang trở nên cấp bách và cần thiết. Ngay từ lứa tuổi học sinh
học tiểu học. Giáo dục đạo đức lại càng phải quan tâm và coi trọng, nó là một nhân
tố quyết định đến nhân cách con người, là ln thường đạo lý của con người. Đạo
đức gắn liền với nền văn hố của xã hội. Có thể nói đạo đức gắn liền với tâm hồn
con người tạo nên lời ăn tiếng nói, cách cư xử với cộng đồng xã hội … khiến cho
mọi người xung quanh vui vẻ, hạnh phúc. Đạo đức là các tốt, cái đúng của mỗi con
người được chuyển hố thành lời nói và hành vi tốt đẹp. Con người phải có nhận
thức đúng đắn và theo chiều hướng tích cực về một sự vật, hiện tượng nào đó để từ
đó có lời nói, hành vi tốt về sự vật hiện tượng đó. Như Bác Hồ nói “Hiền dữ phải
đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”.
II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong những năm gần đây việc giáo dục đạo đức đã được các nhà trường đặc


biệt quan tâm. Các giờ học chính khóa, các hoạt động ngoại khóa, các giờ hoạt
động tập thể đã lồng ghép chương trình giáo dục đạo đức cho học sinh. Song tình
hình đạo đức của học sinh vẫn chưa được cải thiện là bao. Đây đó vẫn còn hiện
- 2 -
tượng học sinh có những lời nói, hành động ứng xử không hay trong nhà trường.
Những vụ việc vi phạm đạo đức xảy ra ngày càng nhiều, mức độ nghiêm trọng gia
tăng. Nhiều biểu hiện: Sống ỷ lại vào cha mẹ, sống hưởng thụ, coi nặng giá trị vật
chất, tiêu xài hoang phí, lười lao động, sống ích kỷ … Nguyên nhân do hiếu sự
quan tâm chăm sóc của gia đình do hoàn cảnh khó khăn, các em không được dạy
bảo đúng cách. Vậy làm sao để giáo dục các em thành những con người có đạo đức
tốt sống có ích và biết quan tâm đến người khác. Từ những trăng trở đó tôi đã tìm
tòi và phát hiện rằng hầu hết các em đều rất thích nghe kể chuyện và nếu mượn
những mẫu chuyện tốt để giáo dục đạo đức cho các em thì các em sẽ tiếp thu tốt
gấp nhiều lần so với việc dạy bảo các em bằng lời khuyên thông thường. Vì bản
thân tôi cũng được lớn lên tốt đẹp nhờ những mẫu chuyện kể của ông bà ngày ấy.
Đây là một điểm hay có thể vận dụng. Đó cũng là lí do tôi chọn đề tài “Để dạy tốt
và giáo dục đạo đức học sinh qua phân môn kể chuyện lớp 4”
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Giáo dục đạo đức cho học sinh khối lớp 4 trường tiểu học “Đ” Kiến Thành.
IV. ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
- Sử dụng những mẫu chuyện kể để giáo dục đạo đức cho các em học sinh.
- Học sinh dễ tiếp thu và có chuyển biến tốt về đạo đức.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Khác với lớp 2 và 3, mỗi tuần học sinh chỉ kể một câu chuyện vừa học trong
bài tập đọc, lên lớp 4, mỗi tuần học sinh cũng kể một câu chuyện nhưng đó không
phải chuyện đã học trong bài tập đọc. Phân môn Kể chuyện giúp học sinh củng cố kĩ
năng kể chuyện đã được hình thành và rèn luyện ở lớp dưới, đồng thời hình thành kĩ
năng mới về kể chuyện và giúp học sinh mở rộng hiểu biết, góp phần hình thành
nhận cách con người mới.

II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
Giáo dục là quá trình kết hợp vai trò chủ đạo cuả giáo viên với sự tự giác tích
cực, tự rèn luyện cuả học sinh nhằm hình thành ý thức, tính cách và chủ yếu là hành
vi thói quen đạo đức với các chuẩn mực xã hội quy định.
Trên thực tế việc dạy các tiết học kể chuyện trên lớp ở tiểu học trong những
năm qua đã có nhiều sự chuyển biến rõ nét, đã được các trường và đội ngũ giáo viên
quan tâm. Tìm các giải pháp tích cực nhằm nâng cao chất lượng phân môn. Để qua
đó kết hợp giáo dục về đạo đức cho các em qua những mẫu chuyện hay, gương
người tốt việc tốt
Tuy nhiên bên cạnh đó, với tình hình hiện nay nội dung dạy môn kể chuyện
chưa thực sự đáp ứng nhu cầu thực tế, chương trình còn đơn điệu, cứng nhắc.Vẫn
còn Cán bộ quản lý nhà trường và giáo viên chưa thực sự quan tâm hoặc chưa quan
tâm đúng mức đến việc giáo dục đạo đức học sinh trong giờ dạy môn kể chuyện, gần
- 3 -
như cho rằng chỉ cần bám sách giáo khoa, cho các em kể thuộc lòng câu chuyện nêu
được vài ý nghĩa sơ sài từ câu chuyện là đủ. Chưa thật sự khắc sâu được yếu tố giáo
dục mà câu chuyện muốn mang đến hoặc dành thời gian sưu tầm những mẫu chuyện
hay để kể và giáo dục cho các em. Vẫn còn tồn tại các vấn đề sau :
Về phía giáo viên:
– Còn giảng giải quá nhiều trong phần hướng dẫn học sinh tìm chọn chuyện
phù hợp với chủ điểm (đối với kiểu 2 và kiểu 3) làm mất thời gian kể chuyện của
học sinh.
– Giáo viên chưa quan tâm ( hoặc còn ngại ngùng) đến thể hiện giọng điệu,
cử chỉ, nét mặt của mình khi kể chuyện cho học sinh nghe (đối với kiểu 1) nên đã
kém đi sự hấp dẫn của câu chuyện. Do đó, làm giảm hứng thú muốn kể lại câu
chuyện đó của học sinh.
– Giáo viên chưa thực sự coi trọng việc kể chuyện theo nhóm đôi hay nhóm
lớn trong học sinh.
– Giáo viên cũng chưa đưa ra được các hình thức động viên, khuyến khích
kịp thời để khích lệ sự cố gắng trong kể chuyện của học sinh.

Về phía học sinh.
– Nhiều học sinh còn rụt rè, nhút nhát, đặc biệt là những học sinh chậm.
– Các câu hỏi học sinh đưa ra để trao đổi, thảo luận quanh câu chuyện còn
đơn điệu theo lối mòn.
– Số học sinh kể chuyện diễn cảm, sống thực sự với nhân vật, hoá thân vào
câu chuyện rất ít.
– Trong một giờ kể chuyện, số học sinh được kể trước lớp chưa nhiều.
– Học sinh gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm những câu chuyện được
chứng kiến hoặc tham gia theo chủ đề.
Bản thân tôi đã ý thức được vấn đề đó nên đã sưu tầm những mẫu chuyện
ngắn và có ý nghĩa giáo dục để kể và qua đó giáo dục cho học sinh của mình không
chỉ ở các tiết kể chuyện trên lớp mà còn vận dụng trong các giờ sinh hoạt tập thể, kể
chuyện dưới cờ hàng tuần và thực tế đã mang lại những kết quả chuyển biến tích cực
trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh.
III. CÁC BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT:
1. Quá trình phát triển kinh nghiệm:
Trong quá trình dạy học của mình tôi phát hiện ra rằng khi đối diện với những
học sinh có ý thức đạo đức kém hay vi phạm nội qui. Thì phương thức hữu hiệu và
- 4 -
mạnh mẽ nhất để giáo dục các em không phải là sự trách phạt mà chính là sự yêu
thương. Tôi thường trò truyên với các em để tìm hiểu nguyên nhân và mượn một
mẫu chuyện tốt trong sách để kể cho các em nghe và giáo dục các em thành người
tốt. Vì hầu như trẻ em nào cũng thích nghe kể chuyện nên cách làm này đã trở nên
gần gũi khiến các em dễ tiếp thu các bài học giáo dục hơn. Thực tế cách làm như vậy
đã mạng lại hiệu quả tốt và tôi quyết định vận dụng nó cho phương pháp giáo dục
học sinh của mình.
Từ đó học sinh mở rộng vốn hiểu biết, góp phần hình thành nên nhân
cách con người mới.
* Với câu chuyện kể ở lớp 4 có nội dung liên quan đến 10 chủ điểm học tập:
+ Thương người như thể thương thân (Lòng nhân ái)

+ Măng mọc thẳng (Tính trung thực, lòng tự trọng)
+ Trên đôi cánh ước mơ (Mơ ước)
+ Có chí thì nên (Nghị lực)
+ Tiếng sáo diều (Vui chơi)
+ Người ta là hoa đất (Năng lực, trí tuệ)
+ Vẻ đẹp muôn màu (Óc thẩm mỹ)
+ Những người quả cảm (Lòng dũng cảm)
+ Khám phá thế giới (Du lịch thám hiểm)
+ Tình yêu cuộc sống (Lạc quan, yêu đời)
Để phương pháp trên mang lại hiệu quả đầu tiên ta cần nắm vững cách thức
triển khai các câu chuyện trong phân môn kể chuyện lớp 4.
2. Đối với từng kiểu bài kể chuyện:
2.1. Đối với kiểu bài: Nghe – Kể lại câu chuyện vừa nghe.
Với kiểu bài này thì ở chương trình lớp 4, tác dụng rèn kĩ năng nghe rất rõ vì
văn bản truyện được in trong SGV, học sinh không được đọc trước, biết trước. Khi
nghe giáo viên kể một câu chuyện hấp dẫn thì học sinh sẽ bị lôi cuốn vào câu
chuyện đó rất nhanh. Các em sẽ hồi hộp, sẽ sung sướng, sẽ buồn lo với số phận các
nhân vật trong truyện và như vậy cùng với giáo viên, các em sẽ là người đồng cảm
thụ. Sự truyền cảm ở đây giống như một phản ứng dây chuyền. Lúc đầu xuất hiện
ở tâm hồn người giáo viên rồi truyền đến trái tim ngây thơ của các em. Việc ghi
nhớ tình tiết câu chuyện cũng tự phát được hình thành, việc thấm thía ý nghĩa giáo
- 5 -
dục của câu chuyện cũng đồng thời được nảy sinh. Để thu hút sự chăm chú theo
dõi của học sinh (mà nhiệm vụ của các em sau đó kể lại và trao đổi với nhau về nội
dung, nhân vật…trong câu chuyện), tôi đã sử dụng các biện pháp sau:
* Biện pháp 1: Giáo viên đọc và tìm hiểu kĩ câu chuyện sắp kể.
Với mỗi câu chuyện, tôi thường đọc đi đọc lại nhiều lần, nghiền ngẫm, suy
nghĩ về từng nhân vật, từng chi tiết trong truyện để hiểu truyện. Tôi luôn tự hỏi:
Câu chuyện có những nhân vật nào? Tính cách của từng nhân vật ra sao? Cần làm
rõ điều gì ở từng nhân vật? Câu chuyện này nói về điều gì? Có ý nghĩa như thế

nào? Qua câu chuyện, các em học tập được điều gì?…. Khi đã trả lời được các câu
hỏi đó tức là đã hiểu truyện, câu chuyện đã “thấm” vào mình. Và như vậy là mình
đã sống với từng nhân vật, có thế lời kể của giáo viên (phương tiện trực quan quan
trọng nhất) mới có ấn tượng sâu sắc đối với học sinh.
* Biện pháp 2: Giáo viên chuẩn bị đồ dùng dạy học chu đáo và sử dụng đồ dùng
có hiệu quả.
– Tranh ảnh hay các mẫu vật có sức thu hút đặc biệt lớn đối với học sinh
Tiểu học. Để giúp học sinh nhanh nhớ và hiểu sâu sắc câu chuyện thì người giáo
viên cần chú ý đến điều này. Sử dụng tranh minh hoạ có hiệu quả sẽ có tác dụng
rất lớn đối với học sinh. Các câu chuyện ở kiểu bài 1 đều có tranh minh hoạ trong
bộ đồ dùng của Bộ Giáo Dục. Đó là những tranh vẽ đẹp được phóng to từ tranh
minh hoạ trong SGK của học sinh. Ngoài ra, giáo viên có thể sưu tầm thêm một số
bộ tranh ảnh khác liên quan đến câu chuyện.
Ví dụ: Để phục vụ cho câu chuyện “Sự tích Hồ Ba Bể” ngoài tranh có sẵn
trong bộ đồ dùng, tôi đã sưu tầm thêm một số ảnh chụp cảnh hồ Ba Bể ngày nay,
đưa cho học sinh quan sát thêm khi giới thiệu bài hoặc khi củng cố bài.
– Để phát huy tác dụng của tranh trong SGK của học sinh, trước khi kể
chuyện lần thứ nhất, tôi yêu cầu các em quan sát tranh minh hoạ và gợi ý dưới
tranh cũng như yêu cầu các em đọc yêu cầu của giờ chuyện, nhằm giúp các em có
ấn tượng chung về câu chuyện.
– Khi kể chuyện lần 2, giáo viên vừa kể vừa chỉ tranh (treo trên bảng). Lúc
này tranh minh hoạ như điểm tựa để học sinh phát huy trí tưởng tượng khi nghe kể
chuyện, tạo thêm sức hấp dẫn cho tiết học, giúp các em ghi nhớ nội dung câu
chuyện.
– Khi các em luyện kể chuyện, các em sẽ dựa vào tranh để kể theo từng đoạn
và cả truyện. Đặc biệt những học sinh có khả năng diễn đạt yếu, cùng với lời gợi ý
của giáo viên thì tranh minh hoạ giúp các em rất nhiều trong việc ghi nhớ và tái
hiện câu chuyện.
* Biện pháp 3: Giáo viên rèn luyện để có cách kể chuyện hấp dẫn:
- 6 -

Đối với học sinh, đặc biệt là học sinh Tiểu học, cô giáo, thầy giáo luôn là
“thần tượng“. Các em luôn muốn được “như cô giáo, thầy giáo”. Vậy nên, những
câu chuyện có nội dung hấp dẫn, đầy ý nghĩa giáo dục do cô giáo, thầy giáo kể kết
hợp với giọng điệu, nét mặt, cử chỉ sinh động, luôn cuốn hút học sinh và ngay lập
tức các em cũng muốn được thể hiện giống như thế. Vậy nên, người giáo viên cần
có cách kể chuyện để hấp dẫn học sinh. Muốn vậy, trước tiên, người giáo viên cần
phải biết vượt qua sự ngại ngùng vốn có trong mỗi người và cần phải rèn luyện.
Để kể chuyện mẫu thành công, tôi đã làm một số việc sau:
– Đọc kĩ câu chuyện, hiểu câu chuyện.
– Xác định và thể hiện giọng điệu của từng đoạn truyện
Ví dụ: Truyện “Sự tích Hồ Ba Bể” – Tuần 1.
Giọng kể thong thả, rõ ràng, nhanh hơn ở đoạn 4 kể về tai hoạ trong đêm
hội, chậm rãi ở đoạn kết. Nhấn giọng những từ ngữ gợi cảm, gợi tả về hình dáng
khổ sở của bà cụ ăn xin, sự xuất hiện của con giao long, nỗi khiếp sợ của hai mẹ
con bà nông dân, nỗi kinh hoàng của mọi người khi đất dưới chân rung chuyển.
– Xác định lời của từng nhân vật:
Ví dụ: Truyện “Búp bê của ai” – Tuần 14
+ Lời búp bê lúc đầu: tủi thân, sau sung sướng
+ Lời lật đật: oán trách.
+ Lời Nga: hỏi ầm lên, đỏng đảnh
+ Lời cô bé: dịu dàng, ân cần
– Tập kể:
Sau khi đã nắm chắc nội dung, xác định rõ giọng điệu của từng đoạn truyện,
từng nhân vật, tôi tiến hành bước tập kể. Đôi khi phải luyện kể đi kể lại nhiều lần
một đoạn hoặc cả câu chuyện. Cùng với giọng điệu, tôi cũng cần chú ý tới các yếu
tố phụ trợ như cử chỉ, nét mặt, điệu bộ của mình thay đổi phù hợp với tình tiết,
diễn biến câu chuyện.
* Biện pháp 4: Kể chuyện sinh động trước học sinh
- 7 -
Đây là điều cực kỳ quan trọng và có sức thuyết phục lớn, lôi cuốn được học

sinh. Khi đã chuẩn bị kĩ càng thì đạt được điều này là điều không hề khó.
2.2. Đối với kiểu bài: “Kể chuyện đã nghe đã đọc” ngoài giờ kể chuyện
Kể chuyện đã nghe, đã đọc là cách làm thường thấy trong đời sống. Ông bà,
bố mẹ kể cho con cháu truyện cổ tích đã đọc, đã biết. Một học sinh kể lại cho bạn
nghe những câu chuyện sau khi mình đã được đọc hoặc được nghe ông bà, bố mẹ
kể. Ở lớp 4, kiểu bài này gắn bó với chủ đề cụ thể của tuần học. Như vậy, không
chỉ đơn giản là tìm truyện và kể lại mà kiểu bài này yêu cầu các em phải tìm và kể
lại được những câu chuyện theo đúng chủ đề. Với kiểu bài này, ngoài
mục đích chung là rèn kĩ năng nói và nghe, mục đích riêng kích thích học sinh ham
đọc sách là rất rõ ràng. Để đạt được mục tiêu này, một số biện pháp tôi đã thực
hiện là:
* Biện pháp 1: Giao nhiệm vụ cụ thể để học sinh tìm, lựa chọn câu chuyện đã
nghe, đã đọc đúng chủ đề.
Sự định hướng của giáo viên về chủ đề của tiết kể chuyện trước đó 1 tuần
là vô cùng quan trọng, góp phần không nhỏ cho thành công của tiết dạy. Khi yêu
cầu học sinh chuẩn bị bài, tôi luôn luôn chú ý đến học sinh ở mọi trình độ đều tìm
được những câu chuyện phù hợp với khả năng của mình. Trong một vài trường
hợp cụ thể, nếu học sinh không tìm được những câu chuyện khác thì có thể gợi ý
học sinh kể lại những câu chuyện đã học trong SGK Tiếng Việt 2,Tiếng Việt
3,Tiếng Việt 4.
VD: Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Tuần 12)
Đề bài: Hãy kể lại một câu chuyện mà em đã được nghe học được đọc về
một người có nghị lực.
Học sinh có thể kể những câu chuyện trong SGK như: “Vua tàu thuỷ”, Bạch
Thái Bưởi (Tiếng Việt 4 – tập 1), Người trí thức yêu nước (Tiếng Việt 3 – tập 2);
Có công mài sắt, có ngày nên kim (Tiếng Việt 2 – tập 1)
* Biện pháp 2: Nhắc học sinh đọc kĩ câu chuyện.
– Học sinh đọc kĩ câu chuyện để nhớ, thâm chí là thuộc, để các em còn phải
kể lại.
Với kiểu bài kể chuyện này (qua chuyên đề gắn với hội giảng của tổ tôi) có

giáo viên cho rằng học sinh thuộc truyện quá thì giờ dạy sẽ mất tự nhiên. Theo tôi,
nếu quan niệm rằng giờ Kể chuyện đã nghe, đã đọc có thể thành công mà học sinh
không cần chuẩn bị, không cần thuộc truyện thì rất sai lầm. Dĩ nhiên là giờ kể
chuyện đã nghe, đã đọc không rèn kĩ năng học thuộc lòng. Tuy vậy, khi chuẩn bị
cho giờ học, học sinh phải đọc kĩ truyện, nhờ đó mà nhớ truyện, thuộc truyện. Trẻ
- 8 -
em vốn có trí nhớ tốt hơn người lớn rất nhiều nên nếu có thuộc truyện thì đó cũng
là điều bình thường. Ngay cả giáo viên, muốn kể thật trôi chảy, hấp dẫn cũng phải
thuộc, phải hiểu truyện mới kể được. Vì vậy không nên và cũng không thể cấm học
sinh thuộc lòng câu chuyện các em sẽ kể trên lớp. Nếu có học sinh do đọc kĩ mà
thuộc truyện, kể sinh động, biểu cảm như sống với câu chuyện thì giáo viên nên
đặc biệt khen ngợi học sinh đó. Nhờ thuộc lòng nhờ vậy, ngôn ngữ văn học sẽ
thấm vào trẻ, dần dần chuyển hoá, đến lúc nào đó, trẻ sẽ biết dùng lại chúng một
cách tự nhiên. Khi trẻ kể được một cách sống động nghĩa là các em đã sáng tạo, đã
đưa được cảm xúc riêng của mình vào trong câu chuyện, làm cho văn bản truyện
trở thành câu chuyện của riêng mình. Chỉ trong trường hợp kể như đọc văn bản,
vừa kể vừa cố nhớ lại một cách máy móc văn bản. Giáo viên mới nhận xét kể như
thế chưa đạt yêu cầu vì đó là cố gắng đọc thuộc, không phải là kể.
* Biện pháp 3: Dừng hợp lí.
Trong thực tế giảng dạy kể chuyện, bất kì giáo viên nào cũng từng gặp trong
trường hợp học sinh kể một câu chuyện khá dài. Nếu để các em kể hết câu chuyện
đó thì sẽ mất thời gian của các em khác mà cũng dễ gây ra cảm giác chán với học
sinh nghe. Nếu yêu cầu các em kể tóm tắt là một yêu cầu quá khó mà học sinh có
thể sẽ làm mất đi những chi tiết thú vị, những hình ảnh đẹp hay từ ngữ gợi cảm. Để
tạo điều kiện cho các em kể chuyện dễ dàng, tôi cho các em dừng hợp lí hoặc cho
các em tự chọn một hai đoạn mình thích để kể và nhắc các em sẽ kể tiếp cho nhau
nghe trong giờ ra chơi.
* Biện pháp 4: Khuyến khích học sinh ham đọc sách.
Kiểu bài đã nghe, đã đọc ngoài giờ là một hình thức gắn kết chương trình
học tập của nhà trường với đời sống văn học. Chính vì vậy, tôi khuyến khích học

sinh đọc càng nhiều truyện phù hợp với lứa tuổi các em càng tốt. Và đó cũng là
mục tiêu riêng của kiểu bài này. Để tạo ra được thói quen ham đọc sách ở học sinh
cần có sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình.
– Với phụ huynh học sinh, trong những lần gặp gỡ như: họp cha mẹ học sinh
hay đến thăm gia đình, tôi đã đề nghị gia đình mua sách, báo, truyện phù hợp với
lứa tuổi các em như: Báo thiếu niên tiền phong, Truyện cổ tích … cho các em đọc
và rèn cho các em thói quen đọc sách, truyện ở nhà.
– Ở trường, tôi luôn nhắc nhở học sinh xuống Thư viện để mượn sách, báo,
truyện hay ra Tủ sách dùng chung để đọc và cùng tham gia trao đổi, bình luận về
nhân vật, về ý nghĩa câu chuyện với các em giống như một người bạn.
– Ở lớp, tôi cũng thường có mang đến cho các em đọc những quyển sách,
báo, truyện có nội dung gần gũi với các em mà tôi đã mua hoặc mượn được.
– Học sinh kể những ngoài sách giáo khoa là điều rất đáng mừng và rất đáng
khích lệ. Để khích lệ học sinh ham đọc sách, giáo viên cần có biện pháp động viên
- 9 -
kịp thời như thưởng thêm 1 điểm “ham đọc sách” và coi trọng lời khen, hướng học
sinh trong lớp nhận ra câu chuyện bạn kể là không có trong SGK.
* Biện pháp 5: Giáo viên ham đọc sách, báo, truyện
Không chỉ với học sinh mà chính giáo viên cũng rất cần chăm đọc sách,
truyện. Qua dự giờ, tôi thấy giáo viên khi học sinh kể chuyện ngoài SGK thì rất
lúng túng khi nhận xét học sinh kể chuyện có đúng nội dung hay không? cho nên,
mỗi người giáo viên chúng ta cũng cần thường xuyên đọc truyện thiếu nhi.
Với 5 biện pháp mang tính đặc trưng của kiểu bài “Kể chuyện đã nghe,
đã đọc” nêu trên cùng với một số biện pháp chung của phân môn kể chuyện (trình
bày phần sau) tôi đã vận dụng vào dạy tiết kể chuyện cụ thể và đã được đánh giá tốt
trong đợt hội giảng cấp trường vừa qua.
2.3. Đối với kiểu bài: Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia
SGK Tiếng Việt 4 có tổng số 31 tiết kể chuyện. Trong đó kiểu bài này chỉ chiếm
có 8 tiết. Không phải vì kiểu bài này không được coi trọng mà vì kiểu bài này mới
và khó hơn nên nó chỉ bắt đầu dạy từ tuần thứ 9. Kiểu bài này đòi hỏi sự sáng tạo ở

mức cao hơn. Nếu trong hai kiểu bài trước, học sinh chỉ ghi nhớ và kể lại những
câu chuyện đã có sẵn cốt truyện, nhân vật thì ở kiểu bài thứ 3 này, các em phải nhớ
lại những câu chuyện mình được tận mắt chứng kiến hoặc chính mình tham gia, rồi
dựa vào cách thức xây dựng câu chuyện đã được học trong giờ TLV để sắp xếp lại
các chi tiết, sự kiện và kể lại, tạo nên một văn bản nói có đầu có cuối, có nhân vật,
ý nghĩa mang đậm dấu ấn cá nhân.
Để dạy kiểu bài kể chuyện này, tôi đã tiến hành một số biện pháp sau:
* Biện pháp 1: Giúp học sinh chuẩn bị được câu chuyện đã chứng kiến hoặc
tham gia theo đúng yêu cầu.
Kể chuyện có thực gắn với chủ điểm là một yêu cầu khó nhưng có thể khắc
phục được bằng sự chỉ dẫn của giáo viên. Điều kiện đầu tiên để dạy thành công tiết
kể chuyện chứng kiến hoặc tham gia là giáo viên giúp học sinh chuẩn bị tốt khâu
tìm truyện, khơi gợi suy nghĩ, vốn sống của học sinh, khuyến khích các em quan
sát, nhớ lại những sự việc có thật xảy ra trong đời sống xung quanh. Tôi luôn yêu
cầu học sinh chuẩn bị 1 tuần trước giờ kể chuyện. Mặc dù đã được chuẩn bị trước
1 tuần nhưng sự hướng dẫn của giáo viên trong phần phân tích, tìm hiểu đề là rất
quan trọng, Khâu này, tôi sử dụng triệt để những câu hỏi, gợi ý, dàn bài trong sách
giáo khoa để giúp học sinh xây dựng câu chuyện theo đúng yêu cầu của đề bài. Để
tránh khó khăn cho học sinh đại trà, tôi luôn nhắc học sinh của mình không cần tìm
những câu chuyện li kì, phức tạp. Điều cốt yếu là truyện có nhân vật, có ý nghĩa và
phù hợp với chủ điểm.
* Biện pháp 2: Lập dàn ý chi tiết cho câu chuyện
- 10 -
Đây là kiểu bài mang đầy tính sáng tạo nhưng lại phải gắn với chủ điểm nhất
định nên lập dàn ý cho câu chuyện định kể sẽ giúp giáo viên nắm bắt được câu
chuyện ấy có đúng theo yêu cầu không? Còn học sinh sẽ dựa vào đó để diễn đạt
thành câu chuyện.
Ví dụ: Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia – Tuần 9
Đề bài: Kể một câu chuyện em được nghe chứng kiến hoặc trực tiếp tham
gia thể hiện tinh thần kiên trì vượt khó.

+ Lập dàn ý cho câu chuyện.
– Mở đầu câu chuyện: Giới thiệu nhân vật, hoàn cảnh xảy ra câu chuyện.
– Diễn biến câu chuyện: Trình bày các khó khăn mà nhân vật gặp phải và
lòng kiên trì vượt khó của nhân vật.
– Kết thúc câu chuyện: Nêu kết quả mà nhân vật đạt được hoặc nêu nhận xét
về nhân vật, về ý nghĩa câu chuyện.
* Biện pháp 3: Tăng vốn hiểu biết, vốn sống cho học sinh.
Để học tốt kiểu bài này, yêu cầu học sinh phải biết quan sát cuộc sống xung
quanh và tích cực tham gia các hoạt động, và khi các em đã có thói quen quan sát
cuộc sống xung quanh và tích cực tham gia các hoạt động bổ ích phù hợp với khả
năng thì vốn hiểu biết, vốn sống của các em đã được tăng lên.
Ví dụ: Tuần 24
- Đề bài: Em (hoặc người xung quanh) đã làm gì để góp phần giữ gìn
xóm làng (đường phố, trường học) xanh, sạch, đẹp? hãy kể lại câu chuyện đó.
– Với đề bài này, học sinh có thể kể câu chuyện của chính mình về những
việc mình đã làm góp phần cho xóm làng ….sanh, sạch, đẹp hoặc người xung
quanh làm mà em đã từng quan sát.
Lần đầu tiên học sinh được làm quen với kiểu bài này ở tuần học thứ 13.
Với tôi, để gây ấn tượng tốt cho học sinh về kiểu bài Kể chuyện được chứng kiến
hoặc tham gia thì sự chuẩn bị của giáo viên (và cả học sinh ) là cực kỳ quan trọng.
Ngay từ tiết đầu tiên, tôi muốn cho học sinh thấy rằng: Đây là kiểu bài kể chuyện
khó nhưng không phải mình không làm được. Và quả thực, cùng với sự chuẩn bị chu
đáo, sự cố gắng hết mình của giáo viên và học sinh, tiết học đã diễn ra hết sức sôi
nổi và bước đầu đạt kết quả đáng khích lệ.
3. Giáo dục đạo đức cho học sinh qua nội dung câu chuyện:
Thường thì sao mỗi câu chuyện các em đã học trong chương trình Kể
chuyện lớp 4 đều có yêu cầu nêu ý nghĩa và bài học rút ra được từ câu chuyện. Ví dụ
- 11 -
: Những đức tính tốt cần học tập, những cái xấu cần nên tránh hoặc sửa đổi lại cho
tốt Một số các em rất chú ý phần này, số khác chẳng mấy quan tâm để ý do nhiều

lí do như : các em xem môn kể chuyện là môn phụ, chẳng hứng thú với câu chuyện
Vậy để giáo dục các em qua câu chuyện đòi hỏi người giáo viên phải biết cách thu
hút các em vào câu chuyện, cảm nhận được cái hay của câu chuyện. Tôi có một vài
gợi ý sau:
+ Giáo viên phải thuộc câu chuyện và thể hiện tốt câu chuyện.
+ Phải có kiến thức nhận xét tốt rỏ ưu điểm và khuyết điểm của câu chuyện
mà học sinh kể.
+ Phải chuẩn bị trước xem sẽ giáo dục các em những gì qua câu chuyện.
+ Luôn khen ngợi, động viên, khuyến khích các em bài tỏ suy nghĩ của
mình về câu chuyện.
Ngoài ra giáo viên cũng có thể kết hợp với thầy Tổng phụ trách Đội sưu tầm
những mẩu chuyện hay về người tốt việc tốt cho học sinh kể trong giờ sinh hoạt
chào cờ hàng tuẩn hoặc trong các buổi sinh hoạt tập thể Giáo viên sẽ kể cho các
em nghe những câu chuyện về lòng nhân hậu, tình đoàn kết, những gương anh hùng
trong đấu tranh chống xâm lược, đấu tranh xây dựng đất nước
Học sinh Tiểu học do tâm lí chủ yếu còn mang tính bắt chước. Do đó việc
giáo dục đạo đức các em bằng phương pháp nêu gương thông qua các câu chuyện
hay về đạo đức. Nhầm hướng các em đến việc rèn luyện bản thân để trở thành con
người tốt có ích cho xã hội. Theo tôi sử dụng phương pháp này là phù hợp và sẽ
mang lại hiệu quả cao.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SKKN:
Ngay từ đầu năm khi mới nhận lớp, tôi đã rất chú ý đến khả năng ngôn ngữ
của học sinh. Qua tìm hiểu, tôi thấy, bên cạnh rất ít số học sinh nói năng trôi chảy,
mạch lạc và mạnh dạn khi giao tiếp thì đa phần là học sinh rụt rè, nhút nhát, ngại
giao tiếp với giáo viên và ngại nói trước các bạn bởi khả năng diễn đạt của các em
rất hạn chế. Sau gần một năm tự tìm tòi nghiên cứu chương trình, học hỏi đồng
nghiệp để hoàn thiện đề tài: “Để dạy tốt và giáo dục đạo đức cho học sinh qua
phân môn kể chuyện lớp 4” tôi đã thu được những kết quả bước đầu rất đáng
khích lệ ở lớp mình chủ nhiệm. Học sinh rất hào hứng, sôi nổi trong giờ kể chuyện
với cả 3 kiểu bài. Số học sinh mạnh dạn, tự tin giao tiếp, số học sinh có khả năng

diễn đạt trôi chảy mạch lạc tăng lên nhiều. Đặc biệt, 100% số học sinh ham đọc
sách. Ngoài việc đều đặn mượn truyện, sách báo trong Thư viện nhà trường, các
em còn được bố mẹ đặt mua sách báo ở nhà. Do đó, vốn từ ngữ của các em được
bổ sung đáng kể giúp cho việc học tốt các môn học khác. Bên cạnh đó, sự hiểu biết
của các em về cuộc sống xung quanh cũng được tăng lên rõ rệt. Các em nhận thức
rất nhanh về những việc làm đúng để học tập và những việc làm sai để tránh…
Điều này rất quan trọng cho việc hình thành nhân cách con người mới, những con
người năng động, có khả năng thích ứng với đời sống xã hội luôn biến đổi.
Về phía mình, tôi cũng nắm được khá chắc các phương pháp dạy học các
kiểu bài kể chuyện, chủ động hơn trong các giờ lên lớp, khiến cho mỗi tiết kể
chuyện diễn ra nhẹ nhàng, tự tin, hiệu quả.
- 12 -
* Kết quả đạt được
Số HS tham
gia
Số HS
đạt điểm 9-10
Số HS
đạt điểm 7-8
Số HS
đạt điểm 5-6
Số HS
đạt điểm dưới 5
30 em 5em = 16,65% 10em = 33,3% 11 em = 36,6 % 4 em = 13,45%
– Năm học 2011 – 2012, tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 4B.
Khi chưa thực hiện các biện pháp nêu trên, kết quả thi kể chuyện của các em như
sau: (giai đoạn học kì I)
Sau khi thực hiện các biện pháp nêu trên, kết quả thi kể chuyện của các em
như sau: (giai đoạn cuối học kì II)
Số HS tham

gia
Số HS
đạt điểm 9-10
Số HS
đạt điểm 7-8
Số HS
đạt điểm 5-6
Số HS
đạt điểm dưới 5
30 em 10em = 33,3% 14em=46,72% 5 em = 16,65% 1 em = 3,33%
Số HS tham
gia
Số HS
đạt điểm 9-10
Số HS
đạt điểm 7-8
Số HS
đạt điểm 5 -6
Số HS
đạt điểm dưới 5
25 em 10 em = 48% 10 em= 32 % 5 em = 28 % 0 em
– Năm học 2012 – 2013, tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy 4C,
trình độ nhận thức của các em tương đương với trình độ học sinh lớp 4B năm học
trước. Sau khi tiến hành thực hiện các biện pháp nêu trên, kết quả thi kể chuyện
của các em như sau: (giai đoạn học kì I).

Nhìn vào kết quả trên ta thấy, sau khi tiến hành thực hiện các biện pháp nêu
trên, số học sinh đạt điểm giỏi cao hơn hẳn, học sinh rất nhớ truyện và kể chuyện
sinh động hơn.
C. PHẦN KẾT LUẬN

I. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Qua nghiên cứu đề tài, qua thực tế áp dụng, tôi rút ra kinh nghiệm đó là:
1- Về phía giáo viên: Muốn dạy tốt phân môn Kể chuyện
- 13 -
+ Phải nắm chắc nội dung dạy học các mục tiêu cần trang bị cho học sinh,
nắm chắc các phương pháp dạy học đặc trưng của từng kiểu bài.
* Đối với kiểu bài 1:
– Trước khi giáo viên kể chuyện cần định hướng sự chú ý của học sinh bằng
cách yêu cầu học sinh quan sát tranh trong SGK.
– Nhất thiết giáo viên phải thuộc truyện phải kể bằng lời kể của chính mình
và sử dụng các biện pháp phụ trợ như: nét mặt, cử chỉ, điệu bộ hay các thủ pháp
như: đổi giọng, kéo dài giọng, ngừng kể một giây lát để gây sự hồi hộp, chú ý của
học sinh.
– Sử dụng tranh minh hoạ trong lần kể thứ hai để mọi đối tượng học sinh đều
nắm được nội dung, tình tiết câu chuyện.
* Đối với kiểu bài 2:
– Giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị một tuần trước giờ kể chuyện.
Khuyến khích mọi đối tượng học sinh đều tìm được câu chuyện theo đúng chủ đề
để kể.
– Động viên, khuyến khích học sinh kể tự nhiên, sáng tạo bằng lời kể của
mình.
– Giáo viên cần thường xuyên đọc truyện thiếu nhi, đọc sách báo để nâng
cao hiểu biết, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của giờ kể chuyện đã nghe, đã
đọc.
* Đối với kiểu bài 3:
Giáo viên cần yêu cầu học sinh chuẩn bị bài 1 tuần trước giờ kể chuyện, cần
hướng dẫn học sinh ở mọi trình độ đều tìm được những câu chuyện phù hợp,
không yêu cầu học sinh tìm những câu chuyện li kì, phức tạp. Điều cốt yếu là
chuyện có thật, có ý nghĩa và phù hợp với chủ điểm.
Đối với cả 3 kiểu bài, giáo viên cần tổ chức tốt hoạt động kể chuyện theo

nhóm đôi, đây là bước rất quan trọng giúp học sinh tự tin hơn trước khi kể chuyện
trước lớp.
+ Trong giờ kể chuyện, giáo viên giúp cho mỗi học sinh, cả những học sinh
yếu kém cũng có cơ hội được rèn luyện và thành công, để các em có niềm tin về
vào bản thân, tạo đà cho những cố gắng tiếp theo. Trong mỗi giờ kể chuyện, càng
nhiều học sinh được kể trước lớp càng tốt.
– Giáo viên cần phải có tâm hồn “trẻ thơ” hoà mình vào câu chuyện vào suy
nghĩ của học sinh. Có như vậy, mới phá bỏ được hàng rào vô hình ngăn cách giữa
học sinh và giáo viên, phá bỏ sự sợ hãi đứng trước giáo viên của học sinh, tạo học
- 14 -
sinh tâm lí thoải mái nhẹ nhàng, tự nhiên nghe đang kể chuyện cho người thân
nghe.
– Tổ chức hoạt động trao đổi về nội dung, nhân vật, ý nghĩa câu chuyện
bằng các hình thức đa dạng, phong phú, nhiều chiều (giáo viên với học sinh, học
sinh với giáo viên, học sinh với học sinh).
+ Khi tổ chức cho lớp nhận xét lời kể của một học sinh, cần hướng các em đi
tìm cái đáng học, đáng khen, tránh chăm chăm “vạch lá tìm sâu”, tìm khuyến điểm
của bạn. Lời nhận xét của giáo viên cần nêu đúng ưu khuyết điểm trong lời kể của
học sinh nhưng diễn đạt khéo léo, tế nhị sao cho mỗi em vẫn cảm thấy mình đạt
được ít nhiều thành công, tiến bộ nhỏ nhất của các em để các em thêm tự tin, phấn
khích, càng ngày càng tiến bộ nhiều hơn. Cho học sinh tự đánh giá lẫn nhau.
Một điều cần chú ý, đối với giờ kể chuyện, giáo viên chỉ là người điều khiển
giúp đỡ học sinh trong quá trình chuẩn bị, tổ chức, khích lệ học sinh kể chuyện và
tổ chức việc đánh giá kết quả còn học sinh phải hoạt động một cách tích cực, chủ
động.
2- Đối với học sinh
– Cần xem trước các bức tranh và các yêu cầu bài tập trong SGK ( đối với
kiểu bài 1) và chuẩn bị bài trước giờ Kể chuyện.
– Tích cực hoạt động dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
– Mạnh dạn kể chuyện trước lớp, mạnh dạn trao đổi với các bạn xoay quanh

bài kể chuyện, kể kết hợp thay đổi giọng điệu, cử chỉ, nét mặt tăng thêm phần hấp
dẫn cho câu chuyện.
– Chăm đọc sách báo, quan sát cuộc sống đang diễn ra xung quanh.
II. Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Sau khi tìm tòi nghiên cứu và áp dụng một số biện pháp đã nêu trên vào thực
tế giảng dạy Kể chuyện, tôi nhận thấy bản thân tôi đã nắm chuẩn kiến thức, kĩ năng
của môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Kể chuyện nói riêng chắc hơn; khả
năng tổ chức dạy- học tiết Kể chuyện đã cao hơn trước. Tôi cảm thấy rất tự tin và
hào hứng khi tổ chức dạy- học kể chuyện cho học sinh. Qua đó, chuyên môn của
cá nhân tôi càng thêm vững vàng.
Về phía học sinh, học sinh rất hào hứng với giờ Kể chuyện. Ở đó, học sinh
được nói, được kể cho nhau nghe những điều mình biết, mình làm ( theo chủ đề).
Nhờ đó, khả năng ngôn ngữ của học sinh được nâng lên, kĩ năng giao tiếp phát
triển, học sinh trở nên mạnh dạn, tự tin hơn. Không những thế, học sinh còn được
hình thành nhiều thói quen tốt như: ham đọc sách, quan sát cuộc sống và tham gia
các hoạt động có ích phù hợp với lứa tuổi.
- 15 -
III. KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TRIỂN KHAI:
Đề tài này có thể áp dụng rộng rãi với mọi giáo viên giảng dạy lớp 4 và tất
cả học sinh lớp 4 đang học chương trình của Bộ Giáo Dục.
IV. NHỮNG KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT:
Để nâng cao chất lượng dạy – học nói chung và Kể chuyện lớp 4 nói riêng,
tơi mạnh dạn đề xuất một số ý kiến sau:
1- Đối với lãnh đạo:
– Cần tạo điều kiện quan tâm hơn nữa trong việc bồi dưỡng nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên.
– Tổ chức các chun đề dạy kể chuyện để giáo viên trao đổi, học hỏi kinh
nghiệm.
2- Đối với giáo viên
– Tự học hỏi nâng cao hiểu biết, nâng cao trình độ nghiệp vụ.

– u q học sinh bằng cả trái tim của người mẹ (người cha) và trách
nhiệm của người thầy.
Trên đây là kinh nghiệm “Để dạy tốt và giáo dục đạo đức cho học sinh qua
phân mơn kể chuyện lớp 4” mà tơi đã trình bày, nghiên cứu và áp dụng trong q
trình giảng dạy. Tuy bước đầu đã đạt những kết quả đáng khích lệ, song mức độ
thành cơng chưa phải đã là cao, nên tơi phải tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu các vấn
đề trong q trình giảng dạy lâu dài. Tuy nhiên, trong thực tế còn nhiều biện pháp
mà tơi chưa được biết đến, trong q trình nghiên cứu còn hạn chế, tơi rất mong
nhận được sự đóng góp, bổ sung của các cấp lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp để
kinh nghiệm trên được áp dụng có hiệu quả.
 Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn q vò đồng nghiệp
và Ban Giám Hiệu trường Tiểu học « Đ » Kiến Thành đã
giúp đỡ cho tôi hoàn thành đề tài này.
Rất mong nhận được sự chân thành đóng góp ý kiến
của quý đồng nghiệp.
- 16 -

Kiến Thành, ngày 29 tháng 12 năm 2013
Người viết

Ngô Minh Tấn
- 17 -

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×