Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN: Tập làm văn lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.83 KB, 14 trang )


PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO CHÂU ĐỨC
TRƯỜNG TH NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
o0o
SÁNG KIẾN – GIẢI PHÁP
ĐỀ TÀI
MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY TẬP LÀM VĂN LỚP 3
THEO HƯỚNG ĐỔI MỚI

Người thực hiện: Nguyễn Thanh Tuấn



NĂM HỌC 2013 - 2014
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
- Nói đến phân môn Tập làm văn thì mỗi chúng ta không ai có thể phủ nhận đây là
một môn học khó và rất khó đối với học sinh và việc dạy đối với giáo viên. Thật vậy ,
Tập làm văn là thành quả của các môn học: Văn học, Tiếng Việt. Học đã khó mà dạy
làm sao cho học sinh viết được một bài văn càng khó hơn. Chính vì những điều đó,
đòi hỏi người giáo viên luôn tìm tòi những phương pháp để giúp các em học tốt Tập
làm văn, có hứng thú khi học môn học này.
- Môn Tiếng Việt là một trong các môn học, có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh 4 kĩ
năng đó là: "nghe - nói - đọc - viết". Trong môn tiếng Việt gồm các phân môn như:
Tập đọc, kể chuyện, chính tả, luyện từ và câu, tập viết, tập làm văn. Phân môn Tập
làm văn là phân môn có tính chất tích hợp của các phân môn khác. Qua tiết tập làm
văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản nói, viết. Nói và viết là những hình
thức giao tiếp rất quan trọng, thông qua đó con người thực hiện quá trình tư duy -
chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau.
cùng hợp tác trong cuộc sống lao động.
- Ngôn ngữ (dưới dạng nói - ngôn bản và dưới dạng viết văn bản) giữ vai trò quan


trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn cho học sinh nói
đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng
dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn tập làm văn nói riêng.
- Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy phân môn tập làm văn là phân môn khó trong
các phân môn của môn Tiếng Việt. Do đặc trưng phân môn Tập làm văn với mục tiêu
cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn bản (nói và
viết) ở nhiều thể loại khác nhau như: miêu tả, kể chuyện, viết thư, tường thuật, kể lại
bản tin, tập tổ chức cuộc họp giới thiệu về mình và những người xung quanh. Trong
quá trình tham gia vào các hoạt động học tập này, học sinh với vốn kiến thức còn hạn
chế nên thường ngại nói. Nếu bắt buộc phải nói, các em thường đọc lại bài viết đã
chuẩn bị trước. Do đó, giờ dạy thường không đạt hiệu quả cao.
- Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi tiến hành nghiên cứu và thực nghiệm chuyên đề " Một
số biện pháp dạy tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới".
II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Mục đích:
- Đề tài nhằm rèn luyện cho học sinh các kĩ năng học tốt phân môn Tập làm văn, từ đó
học sinh có thói quen tự rèn luyện nâng cao vốn kiến thức của mình. Góp phần nâng
cao chất lượng học tập phân môn Tập làm văn cho các em
- Mục đích cuối cùng của đề tài là góp phần vào việc giáo dục học sinh ý thức tự học,
yêu thích môn Tiếng Việt góp phần vào việc gìn giữ bản sắc dân tộc.
2. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Nghiên cứu các tài liệu về lồng ghép dạy Tiếng
Việt cho học sinh, xây dựng cơ sở lí luận cho các biện pháp nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: thể nghiệm các biện pháp đã nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê toán học:
- Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp hỗ trợ khác như điều tra, phỏng vấn,
quan sát, …
- Phương pháp làm việc với SGK và các tài liệu.
III. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI:
1. Đối tượng nghiên cứu:

- Học sinh lớp 3 A trường TH Nguyễn Đình Chiểu nói riêng và học sinh các lớp 3
khác trong trường nói chung.
- Tình hình học phân môn Tập làm văn cho học sinh lớp 3
2. Khách thể nghiên cứu: Các hoạt động của giáo viên, học sinh, phụ huynh học sinh
và những vấn đề có liên quan đến dạy tập làm văn cho học sinh .
3. Thời gian nghiên cứu : Từ tháng 8 năm 2013 đến tháng 10 năm 2014.
IV. CÁC GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU:
Để đạt được mục đích trên, tôi xác định cho mình những nhiệm vụ nghiên cứu sau
đây:
1.Xây dựng cơ sở lí thuyết của đề tài.
2. Tìm hiểu thực trạng về tình hình tiếp thu phân môn Tập làm văn đối với học sinh
lớp 3.
3
3. Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy phân môn Tập làm
văn cho học sinh .
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN
1. Cơ sở lý luận
- Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng Việt.
Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng hợp từ nhiều phân
môn. Để làm được một bài văn, học sinh phải sử dụng cả bốn kỹ năng: nghe - nói -
đọc - viết. Phải vận dụng các kiến thức về tiếng việt, về cuộc sống thực tiễn.
- Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kỹ năng tạo văn bản, trong quá
trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần dạy học sinh sử dụng Tiếng Việt trong
đời sống sinh hoạt. Vì vậy, tập làm văn được coi là phân môn có tính tổng hợp, có liên
quan mật thiết đến các môn học khác. Trên cơ sở nội dung, chương trình phân môn
tập làm văn có rất nhiều đổi mới, nên đòi hỏi tiết dạy Tập làm văn phải đạt được mục
đích cụ thể hơn, rõ nét hơn. Ngoài phương pháp của thầy, học sinh cần có vốn kiến
thức, ngôn ngữ về đời sống thực tế. Chính vì vậy, việc dạy tốt các phân môn khác
không chỉ là nguồn cung cấp kiến thức mà còn là phương tiện rèn kỹ năng nói, viết,
cách hành văn cho học sinh.

2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thuận lợi
- Chương trình thay sách đã trải qua nhiều năm, bản thân cũng đã được dạy lớp 3
nhiều năm nên đã nắm được yêu cầu đổi mới phương pháp một cách cơ bản.
- Qua các phương tiện thông tin đại chúng: ti vi, đài, sách, báo bản thân được tiếp
cận với phương pháp dạy đổi mới thường xuyên hơn.
- Học sinh lớp ba đang ở lứa tuổi rất thích học và ham học.
- Môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng có nội dung phong
phú, sách giáo khoa được trình bày với kênh chữ rõ ràng, kênh hình đẹp, trang thiết bị
dạy học hiện đại, hấp dẫn học sinh, phù hợp với tâm lý lứa tuổi các em. Đây là cơ sở
giúp các em học tốt phân môn Tập làm văn ở lớp 3.
2.2. Khó khăn
+ Đối với học sinh
4
- Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng chóng quên, mức
độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao.
- Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc tiếp
thu bài học.
- Vốn từ của học sinh chưa nhiều cũng ảnh hưởng đến việc thực hành độc lập. Cụ thể
là: các em viết câu rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgíc, tính sáng tạo trong thực hành viết
văn chưa cao, thể hiện ở cách bố cục bài văn, cách chấm câu, sử dụng hình ảnh gợi tả
chưa linh hoạt, sinh động.
- Một số học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy móc, chưa
biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối hành văn của riêng mình. Ví dụ: Phần lớn học
sinh dùng luôn lời giáo viên hướng dẫn để viết bài của mình.
+ Đối với giáo viên
- Tiếng việt là môn học khó, nhất là phân môn Tập làm văn đòi hỏi người giáo viên
phải có kiến thức sâu rộng, phong phú cần phải có vốn kiến thức sống thực tế, người
giáo viên biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng dạy. Biết gợi mở óc tò
mò, khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh, giúp cho các em nói viết thành văn bản,

ngôn ngữ quả không dễ.
VI. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN
- Ngay từ đầu năm, khi họp phụ huynh học sinh lớp tôi đã nêu ra những hạn chế về
việc học Tiếng Việt của học sinh nói chung và phân môn tập làm văn nói riêng của
học sinh và tôi cũng đã mạnh dạn đề xuất hướng khắc phục ngay trong buổi họp.
- Ngay từ đầu năm học tôi đã lên kế hoạch cụ thể cho từng bài dạy và phân nhóm học
sinh theo dõi lẫn nhau và báo cáo theo từng tuần, hàng tháng có sơ kết, nhắc nhở,
tuyên dương kịp thời.
- Tôi đã tham mưu Hiệu trưởng có kế hoạch huy động các lực lượng khác trong Nhà
trường cùng tham gia hỗ trợ
B. PHẦN NỘI DUNG
I.THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG MÂU THUẪN
- Học sinh còn yếu và lúng túng mỗi khi vận dụng kĩ năng vào làm bài, nên hầu hết
bài viết của các em rất khô khan về nôi dung, thiếu ý, chấm, phẩy tùy tiện…Để làm rõ
nguyên nhân này , tôi đã tiến hành khảo sát riêng phân môn Tập làm văn ngay từ đầu
năm học. Kết quả như sau:
5
Thời điểm Số bài
Điểm kiểm tra
1 – 2 3 – 4 5 – 6 7 – 8 9 – 10
Đầu năm 25 5 8 6 4 2
- Với kết quả như trên, tôi đã tiến hành điều tra và tìm ra những nguyên nhân cơ bản
sau:
* Giáo viên còn ngại khó và lúng túng khi rèn kĩ năng cho học sinh.
* Cảm thụ văn học của học sinh còn hạn chế.
* Học sinh chưa biết cách quan sát sự vật, hiện tượng.
* Vốn từ ít nên chưa có ý hay, khả năng diễn đạt còn hạn chế, sắp xếp ý lộn xộn.
II. CÁC BIỆN PHÁP DẠY TẬP LÀM VĂN LỚP 3 THEO HƯỚNG ĐỔI MỚI
1. Tổ chức tốt việc quan sát, hướng dẫn học sinh cách dùng từ, giọng kể, điệu bộ
khi làm bài nghe, nói, viết.

- Với đặc điểm vốn từ còn hạn chế, nên học sinh lớp 3 gặp nhiều khó khăn trong việc
nghe - nói - viết - kể lại câu chuyện bằng lời văn của mình. Do vậy, giáo viên cần tổ
chức tốt hoạt động quan sát tranh: quan sát từng đường nét, màu sắc, hình ảnh, nội
dung, thể hiện của tranh. Học sinh cảm nhận được những nét đẹp của cảnh vật, con
người và muốn bày tỏ trao đổi với bạn, với thầy cô.
- Để các em làm tốt hoạt động này, trước hết giáo viên chú ý cho học sinh sử dụng
gợi ý trong sách giáo khoa, lắng nghe thầy kể, bạn kể để nhớ được các ý chính của nội
dung câu chuyện.
- Giáo viên chú trọng về lời văn kể và nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Cần hướng dẫn các
em cách chọn lựa, sử dụng từ ngữ, hình ảnh để diễn đạt sao cho dễ hiểu, sinh động. Có
như vậy người nghe, người đọc sẽ dễ dàng hình dung, tưởng tượng, nắm bắt được sự
việc, tình cảm mà các em muốn thể hiện qua bài nói, bài viết. Người nghe, người đọc
tuy không trực tiếp nhìn diện mạo của nhân vật, xem bối cảnh của sự việc qua những
hình ảnh miêu tả, so sánh cùng với những tình cảm, thái độ, sự đánh giá của các em.
Đó chính là điểm mạnh của nghệ thuật sử dụng ngôn từ.
- Thêm vào đó, những yếu tố phi ngôn ngữ như điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt, nét mặt,
giọng điệu, của các em khi nói sẽ làm tăng tính hấp dẫn, tính thuyết phục đối với
người nghe. Do đó, giáo viên cũng cần khuyến khích các em rèn luyện khả năng sử
dụng những yếu tố phi ngôn ngữ này.
2. Sử dụng linh hoạt các hình thức hoạt động trong tiết dạy tập làm văn
6
- Tổ chức tốt các hình thức dạy học nhằm cuốn hút học sinh vào các hoạt động học tập
một cách chủ động tích cực.
- Giáo viên sử dụng các hình thức tổ chức dạy học như: học sinh thảo luận nhóm, đàm
thoại với nhau và với chính thầy cô hoặc hoạt động cá nhân (độc thoại) về một vấn đề.
Các hình thức tổ chức hoạt động học có thể là: đóng các hoạt cảnh, vận dụng các trò
chơi trong tiết học, các cuộc thi tiếp sức Qua đó học sinh lĩnh hội kiến thức, tích
cực, tự giác "học mà chơi - chơi mà học". Không khí học tập thoải mái khiến học sinh
mạnh dạn, tự tin khi nói. Các em dần có khả năng diễn đạt, phát biểu ý kiến, đánh giá
trước đông người một cách lưu loát, rành mạch, dễ hiểu.

- Trong chương trình sách giáo khoa lớp 3, mỗi tiết Tập làm văn là một hệ thống bài
tập có tính định hướng, gợi mở, với nhiều dạng bài: nghe - nói, nói - viết, nghe - nói -
viết Vì vậy, giáo viên vẫn bám sát mục đích, yêu cầu của tiết dạy, bài dạy nhưng
linh hoạt, chủ động hơn trong cách tổ chức các hoạt động dạy - học, phân bố thời gian
hợp lý, vừa tránh được những nhược điểm nêu trên vừa tạo được không khí học tập
phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
- Thảo luận theo nhóm, theo cặp, học sinh dựa vào gợi ý, sách giáo khoa, tranh và việc
nghe giáo viên kể để lại nội dung câu chuyện cho nhau nghe.
- Cách tổ chức các hình thức hoạt động nêu trên huy động được tất cả học sinh tham
gia vào hoạt động học tập, tạo được không khí thi đua học tập giữa từng học sinh với
nhau, và giữa các nhóm học sinh.
- Sử dụng và phối hợp linh hoạt các hình thức dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi
mới tạo được hứng thú học tập cho học sinh, học sinh tham gia các hoạt động học một
cách hào hứng, tích cực, sáng tạo.
- Như vậy, trong một tiết học, học sinh vừa luyện kể (luyện nói), vừa luyện viết đoạn
văn (văn bản), nên việc giáo viên vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học trong dạy
Tập làm văn và nhiệm vụ cần thiết.
3. Luôn chú trọng "tích hợp - lồng ghép" khi dạy phân môn tập làm văn lớp 3.
Khi dạy tập làm văn giáo viên cần hiểu rõ tính tích hợp giữa các phân môn trong
môn Tiếng Việt như: Tập đọc, kể chuyện, Chính tả, luyện từ và câu, tập viết để giảng
dạy và tạo đà cho học sinh học tập tốt phân môn Tập làm văn. Mối quan hệ này thể
7
hiện rõ trong cấu trúc của sách giáo khoa: các bài học được biên soạn theo chủ đề, chủ
điểm, hai đơn vị học xoay quanh một chủ điểm ở tất các các phân môn.
4. Dạy học theo quan điểm giao tiếp.
- Dạy học theo quan điểm giao tiếp là hình thành cho học sinh kỹ năng diễn đạt thông
qua các bài học, hình thành thói quen ứng xử trong giao tiếp hàng ngày với thầy cô,
cha mẹ, bạn bè và mọi người xung quanh.
- Vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm này, giáo viên tạo cho học sinh
nhiều cơ hội thực hành, luyện tập, không quá nặng về lý thuyết như phương pháp dạy

học truyền thống. Do vậy học sinh hào hứng tham gia vào các hoạt động học tập, tích
cực sáng tạo trong làm văn. Việc hình thành và rèn luyện các kỹ năng nghe - nói - đọc
- viết cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn đảm bảo đạt được hiệu quả tối
ưu.
- Bên cạnh việc rèn luyện kỹ năng nghe - nói học sinh rèn kỹ năng viết: nắm kỹ thuật
viết, luật viết câu văn, đoạn văn hoàn chỉnh, đúng về ngữ pháp, bố cục văn cảnh hoặc
môi trường giao tiếp. Mỗi bài văn của học sinh không đơn thuần là kể, tả ngắn về con
người, sự vật, sự việc mà thông qua đó thể hiện suy nghĩ, cảm xúc, sự đánh giá, thái
độ yêu - ghét, trân trọng hay phê phán của các em. Thông qua bài viết của các em
người đọc hiểu được tâm tư tình cảm của các em về một vấn đề nào đó.
- Bổ trợ cho việc rèn kỹ năng nghe - nói trong tiết Tập làm văn, phần kể chuyện của
tiết tập đọc kể chuyện cũng chú trọng đến rèn kỹ năng giao tiếp.
- Tóm lại, học sinh rèn luyện khả năng quan sát, nói - viết, rút ra những nét điển hình,
đặc trưng của từng vùng miền, thấy được vẻ đẹp đáng yêu, đáng tự hào của mỗi vùng
miền, từ đó hình thành nuôi dưỡng tình cảm gắn bó, yêu thương, ý thức gữ gìn, xây
dựng quê hương đất nước.
- Ngoài ra, giáo viên cần chú trọng vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm
giao tiếp, khơi dậy ở các em những cảm xúc, đánh thức tiềm năng cảm thụ văn học và
có nhu cầu thể hiện, bày tỏ sự cảm thụ đó với người khác. Như vậy, mỗi bài nói, bài
viết sẽ chính là tâm hồn tình cảm của các em, các em sẽ thêm yêu văn , yêu cái hay,
cái đẹp, yêu Tiếng Việt, giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
5. Dạy học hướng dẫn vào học sinh và chú trọng hình thức dạy học cá nhân.
8
- Dạy tập làm văn theo hướng tập trung vào học sinh không phải chỉ tìm ra một câu trả
lời có sẵn mà học sinh phải đưa ra được câu trả lời trên cơ sở suy nghĩ và hiểu biết của
chính các em. Quá trình tư duy đó đòi hỏi học sinh phải vận dụng những vốn tri thức,
hiểu biết phù hợp với vấn đề đặt ra trong câu hỏi; phân tích, sắp xếp những tri thức đó,
đưa ra với vấn đề đặt ra trong câu hỏi; phân tích, sắp xếp những tri thức đó, đưa ra
những kết luận và chọn phương án trả lời tốt nhất. Nói ngắn gọn lại: học sinh tìm ra
câu trả lời qua việc thu thập, sàng lọc thông tin và phân tích dữ kiện.

- Như vậy thông qua một tiết tập làm văn đã phát huy tính độc lập sáng tạo của học
sinh, giáo viên chỉ là người tổ chức, định hướng cho học sinh cách làm bài.
6. Dạy học phối kết hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp
- Các hoạt động ngoài khoá giúp học sinh có những hiểu biết ngoài kiến thức được
học trong chương trình chính khoá. Do đó việc phối kết hợp với các hoạt động ngoài
giờ lên lớp là rất cần thiết. Qua các hoạt động ngoài giờ, học sinh được rèn luyện bằng
nhiều hình thức khác nhau, có nội dung liên quan đến bài học của các em. Giáo viên
giảng dạy cần có sự kết phối hợp chặt chẽ với giáo viên tổng phụ trách, thông qua các
buổi chào cờ nói về gương người tốt việc tốt, tổ chức các hoạt động: thi ca hát tập diễn
các tiểu phẩm, thi kể chuyện - văn nghệ, thi đọc thơ, thi các môn năng khiếu
- Hoặc thông qua buổi lễ khai giảng học sinh có thể viết những cảm xúc, những kỷ
niệm đẹp của các em về ngày đầu tiên đi học (bài học tuần 6)
- Hay qua buổi lễ kết nạp đội viên TNTP Hồ Chí Minh, học sinh có nguyện vọng viết
đơn vào Đội, sinh hoạt trong các câu lạc bộ, tổ chức của Đội Ví dụ: tham dự hội thi
tìm hiểu về Đội.
+ Từ thực tế đó, học sinh sẽ có thêm hiểu biết về Đội TNTP Hồ Chí MInh, giúp các
em viết tốt hơn Đơn xin vào đội (tiết tập làm văn - tuần 2) .
7. Dạy tập làm văn theo hướng đổi mới ở tất cả các khối lớp
- Nội dung kiến thức chương trình sách giáo khoa mới biên soạn theo chủ đề, chủ
điểm, nâng cao dần về mức độ và lượng kiến thức qua từng lớp học. Do đó để đạt
được hiệu quả tốt trong giảng dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới cần thực
hiện đồng bộ việc vận dụng đổi mới phương pháp ở tất cả các khối lớp trước (lớp 1 -
2) và tiếp theo (lớp 4 - 5) Cụ thể:
9
- Đối với lớp 1: Dạy học sinh tập nói thành câu, nói theo chủ đề, nội dung, nhìn tranh
nói thành câu.
- Đối với lớp 2: Dựa trên nền tảng kiến thức học sinh đạt được ở lớp 1, nâng cao với
mức độ vừa phải: kể lại câu chuyện đã học, nói - viết thành câu, đưa ra các mẫu câu
(Ai là gì? Ai làm gì? Ai như thế nào? ) viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu.
- Đối với lớp 3: Luyện nghe, luyện nói, luyện viết: mẫu câu rộng, bao quát hơn; yêu

cầu về câu cao hơn; câu đúng ngữ pháp, biết sử dụng biện pháp tu từ, so sánh nhân
hoá, câu văn giàu hình ảnh. Đặc biệt phần luyện viết với số lượng câu văn tăng lên (5
- 7 câu), đã chú ý đến kết cấu đoạn văn và diễn đạt cảm xúc trong câu văn, đoạn văn.
- Đối với lớp 4: Học sinh luyện nói câu chuyện đã nghe, đã đọc, xây dựng cốt truyện
có nhân vật, kể chuỵên dựa trên cốt truyện có sẵn hoặc tưởng tượng; luyện viết: câu
thành phần phụ, sử dụng biện pháp tu từ, nhân hoá theo nhiều kiểu khác tiến tới viết
thành bài văn.
- Đối với lớp 5: Học sinh luyện nói hoàn chỉnh về câu (câu ghép, cấc kiểu câu ghép),
sử dụng nhiều biện pháp tu từ trong bài viết, viết thành bài văn hoàn chỉnh với số
lượng câu tuỳ theo bố cục nội dung của bài. Học sinh biết bộc lộ cảm xúc trong khi tả,
kể, viết.
* Tóm lại, kiến thức ở các lớp có mối quan hệ lôgíc: kế thừa, mở rộng, nâng cao. Do
đó muốn dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới còn cần phải đổi mới tất cả các
khối lớp.
VII. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG:
Qua thời gian vận dụng và thực hiện kinh nghiệm trên kết quả kiểm tra của lớp tôi
phụ trách trong năm học 2012 -2013 đã có những bước phát triển đáng kể như sau:
Thời điểm Số bài
Điểm kiểm tra
1 – 2 3 – 4 5 – 6 7 – 8 9 – 10
Giữa kì I 25 2 3 8 7 5
Cuối kì I 25 1 2 8 8 6
Giữa kì II 25 / 1 8 10 6
Cuối kì II 25 / / 8 10 7
- Vì được tổ chức dưới nhiều hình thức nên học sinh tham gia rất tích cực, lớp học
sinh động và học sinh luôn phát huy được tính tích cực trong học tập.
- Học sinh ngày càng yêu thích giờ học hơn, không còn chán ngán trong các tiết học
Tập làm văn.Với kết quả trên, tôi nhận thấy chất lượng học tập của học sinh tiến bộ rõ
10
rệt, số học sinh yếu cuối năm không còn, số học sinh giỏi thì tăng dần theo thời gian.

Như vậy việc tổ chức dạy tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới của tôi đã có kết
quả khả thi.
C. KẾT LUẬN
I. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC
- Với các phương pháp trên không chỉ áp dụng cho phân môn tập làm văn mà còn có
thể áp dụng cho nhiều môn học khác, chất lượng học tập sẽ được nâng cao. Học sinh
cảm nhận được mỗi ngày đến trường là một niềm vui, các em không còn lo sợ mỗi khi
đến lớp.
- Đề tài này không dừng lại ở khối 3 mà có thể triển khai áp dụng vào các khối lớp
trong nhà trường, xây dựng tích hợp các kiến thức liên quan với nhau giữa các môn
học. - Thông qua dạy thử nghiệm theo hướng trên, tôi đã thu được rất nhiều kết quả
khả quan: học sinh tập hào hứng hơn, mạnh dạn hơn, vốn từ của học sinh phong phú
hơn câu văn giàu hình ảnh. Tiến hành khảo sát theo những tiêu chí ban đầu đề ra đối
với khối lớp 3. Từ những kết quả nêu trên, tôi rút ra những bài học kinh nghiệm sau
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Dạy Tập làm văn theo phương pháp "tích hợp - lồng ghép" các phân môn trong
môn Tiếng Việt. Biết kết hợp mối quan hệ chặt chẽ về yêu cầu kiến thức phân môn
Tập làm văn của các khối lớp.
2. Chú trọng phương pháp dạy học theo quan điểm giao tiếp, rèn kỹ năng nghe - nói -
đọc - viết cho học sinh.
3. Giáo viên biết tổ chức tốt cho học sinh cách quan sát tranh, cách dùng từ, giọng kể,
lời nhân vật, nói viết thành câu.
4. Động viên khuyến khích học sinh tự học, học theo phương pháp tự tìm tòi. Giáo
viên tổ chức, phối hợp linh hoạt các hình thức và phương pháp dạy học theo hướng
đổi mới. Dạy học hướng tập trung vào học sinh, coi học sinh là chủ thể của hoạt động,
tổ chức các hoạt động giúp ác em chiếm lĩnh tri thức và rút ra kết luận phù hợp với bài
học.
5. Giáo viên biết cách phối hợp hoạt động học tập với các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
* Nội dung trên đây nhằm giới thiệu đến thầy cô " Một số phương pháp dạy tập
làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới". mà tôi đã thực hiện và thấy đạt hiệu quả.

11
Mong các thầy cô tham khảo và góp thêm ý kiến để cách tổ chức được hoàn
chỉnh và đạt hiệu quả cao hơn.
Xác nhận, đánh giá,xếp loại của đơn vị
………………………………………
………………………………………
………………………………………
………………………………………
………………………………………
Thủ trưởng đơn vị

Láng Lớn, ngày 10 tháng 12 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SK-GP của
bản thân tôi viết, không sao chép nội
dung của người khác.
Người viết
Nguyễn Thanh Tuấn
12
MỤC LỤC
A. Phần mở đầu
I/Lí do chọn đề tài
II/ Mục đích và phương pháp nghiên cứu
III/ Giới hạn của đề tài
IV/Các giả thuyết nghiên cứu
V/ cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn
VI/ Kế hoạch thực hiện
B. Phần nội dung
I/ Thực trạng và những mâu thuẫn
II/ Các biện pháp giải quyết vấn đề.
1.Tổ chức tốt việc quan sát tranh, hướng dẫn học sinh cách dùng tư, giọng kể,

điệu bộ khi làm bài nghe, nói, viết.
2. Sử dụng linh hoạt các hình thức hoạt động trong tiết dạy Tập làm văn
3. Luôn chú trọng "Tích hợp - lồng ghép" khi dạy phân môn Tập Làm Văn
lớp 3.
4. Dạy học theo quan điểm giao tiếp
5. Dạy học hướng tập trung vào học sinh và chú trọng hình thức dạy học
cá nhân.
6. Dạy học phối kết hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp
7. Dạy tập làm văn theo hướng đổi mới ở tất cả các khối lớp
III/ Hiệu quả áp dụng
C . KẾT LUẬN
I/ Ý nghĩa của đề tài đối với công tác
II/ Bài học kinh nghiệm.
13
14

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×