Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Luận văn PHÁT TRIỂN bền VỮNG TRONG NÔNG NGHIỆP ở TỈNH HƯNG yên HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.57 KB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
PHẠM THỊ MY
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG NÔNG NGHIỆP
Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
TRONG NÔNG NGHIỆP 10
1.1. Phát triển bền vững trong nông nghiệp và những nội dung cơ
bản của nó 10
1.2. Các yếu tố cấu thành nông nghiệp phát triển bền vững và nhân
tố ảnh hưởng tới phát triển bền vững trong nông nghiệp 17
1.3. Một số mô hình xây dựng nông nghiệp phát triển bền vững ở
các nước 28
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
TRONG NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH HƯNG YÊN 40
2.1. Những tiền đề và điều kiện cho phát triển bền vững trong nông
nghiệp của tỉnh Hưng Yên 40
2.2. Thực trạng phát triển bền vững trong nông nghiệp ở tỉnh Hưng
Yên thời kỳ 2008 – 2013 44
Chương 3
GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
BỀN VỮNG Ở TỈNH HƯNG YÊN TRONG THỜI GIAN TỚI 77
2


3.1. Những quan điểm cơ bản trong phát triển nông nghiệp bền
vững ở tỉnh Hưng Yên thời kỳ 2011 - 2020 77
3.2. Một số giải pháp cơ bản phát triển bền vững trong nông nghiệp
ở tỉnh Hưng Yên 82
KẾT LUẬN 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO 109
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCH Ban chấp hành
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
GTSX Giá trị sản xuất
HTCT Hệ thống chính trị
HTX Hợp tác xã
KHCN Khoa học công nghệ
LLSX Lực lượng sản xuất
MTTQ Mặt trận Tổ quốc
QHSX Quan hệ sản xuất
UBND Ủy Ban Nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa.
KTTT Kinh tế trang trại
KHKT Khoa học kỹ thuật
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển bền vững là mục tiêu, nhu cầu cấp bách đối với mọi nền kinh
tế của các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt, trong những năm gần đây thế giới
đang trải qua nhiều cuộc khủng hoảng: khủng hoảng năng lượng, nguyên liệu,
khủng hoảng tài chính, khủng hoảng môi trường, từ đó xuất hiện tình trạng
biến đổi khí hậu toàn cầu, đói nghèo đe dọa cuộc sống của nhân loại hiện tại
và tương lai, mà nguyên nhân chủ yếu là phát triển thiếu bền vững. Vì vậy, tại
Hội nghị thượng đỉnh Trái đất về môi trường và phát triển bền vững được tổ

chức năm 1992 ở Rio de Janerio (Braxin), các nhà hoạt động kinh tế, xã hội,
môi trường cùng với các nhà chính trị đại diện cho 179 nước tham gia Hội
nghị đã thống nhất về quan điểm phát triển bền vững. Coi phát triển bền vững
là trách nhiệm chung của các quốc gia, của toàn nhân loại.
Nói đến phát triển bền vững là nói đến sự phát triển hài hòa cả ba mặt
kinh tế - xã hội - môi trường. Đó là sự phát triển không chỉ tăng trưởng kinh
tế mà phải đảm bảo các mục tiêu ổn định xã hội, giữ gìn môi trường sinh thái,
đáp ứng nhu cầu về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của cả thế hệ hôm
nay mà không ảnh hưởng chất lượng cuộc sống của thế hệ mai sau.
Trong phát triển bền vững, thì phát triển nông nghiệp bền vững có vai
trò quan trọng đối với nước ta. Bởi lẽ, Việt Nam là một nước nông nghiệp,
gắn liền với nền văn minh lúa nước. Lịch sử phát triển kinh tế - xã hội nước ta
đã cho thấy, sự phát triển, tiến bộ và phồn vinh của đất nước không thể bỏ
qua, tách rời sự phát triển của nông nghiệp. Cho nên, phát triển nông nghiệp
4
bền vững luôn được Đảng và nhà nước ta đặt ở vị trí trọng tâm trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội. Nhiều chủ trương, đường lối của Đảng về phát
triển nông nghiệp, nông thôn đã được ban hành, như Nghị quyết Trung Ương
5 khóa IX về CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn, gần đây nhất là ngày
5/08/2008, Hội nghị lần thứ bẩy BCH Trung ương khóa X, đã ban hành Nghị
quyết số 26 -NQ/TW về “nông nghiệp, nông dân, nông thôn”. Trong đó xác
định: “Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại,
bền vững, sản xuất hàng hóa có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng
cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt
cũng như lâu dài” các chủ trương của Đảng đã được Nhà nước thể chế hóa
bằng các chính sách và được các cấp, các ngành triển khai trong thực tế.
Trong định hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam của Chính Phủ
cũng đã khẳng định phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn là một nội
dung quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam. Thậm chí
đây là nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển bền vững

ở nước ta.
Hưng Yên là một tỉnh nông nghiệp, nằm trong cái nôi của nền văn
minh lúa nước khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng. Tỉnh có diện tích tự
nhiên 92.309 ha trong đó diện tích đất nông nghiệp là 61.037 ha. Với hơn 70
% dân số sống ở nông thôn và hơn 50% lao động tham gia lĩnh vực nông
nghiệp. Tỉnh nằm giữa vùng kinh tế trọng điểm, thuộc vùng khí hậu nhiệt đới
gió mùa, có hệ thống sông ngòi phong phú, là cửa ngõ phía Đông của thủ đô
Hà Nội có đường giao thông thuận lợi. Với điều kiện như vậy, Hưng Yên
hoàn toàn có thể khai thác lợi thế để phát triển một nền nông nghiệp toàn diện
bền vững. Tuy nhiên, trên thực tế phát triển nông nghiệp ở Hưng Yên còn
nhiều bất cập: trình độ và chất lượng lao động thấp, quá trình CHH – HĐH
hóa nông nghiệp nông thôn diễn ra chậm, lao động thủ công vẫn chiếm ưu
5
thế, tỉ lệ thất nghiệp trong nông nghiệp vẫn cao, nhiều diện tích đất đai bỏ
hoang không canh tác, sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún, đầu ra của các sản
phẩm nông sản không ổn định, công nghiệp chế biến chưa phát triển, tình
trạng ô nhiễm môi trường do chăn nuôi, do sử dụng thuốc trừ sâu… diện tích
đất nông nghiệp bị thu hẹp dần… đặt ra nhiều thách thức cho ngành nông
nghiệp ở tỉnh Hưng Yên. Vì vậy, làm thế nào để phát triển bền vững nông
nghiệp ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay là vấn đề đặt ra không chỉ
với địa phương mà là trách nhiệm chung của cả nước. Việc nghiên cứu nhằm
góp phần tìm hướng giải quyết cho vấn đề này là một nội dung có ý nghĩa
thiết thực cả về mặt lý luận và thực tiễn. Do đó, tác giả chọn vấn đề: “Phát
triển bền vững trong nông nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay” làm đề tài luận
văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Một số công trình khoa học nghiên cứu như:
+ “CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam, con đường và
bước đi” Đề tài KX - 02 - 07 do GS.TS Nguyễn Kế Tuấn làm chủ nghiệm.
Đây là công trình đề cập chủ yếu đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp nông thôn ở nước ta thời gian qua; đề xuất phương hướng thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời
gian tới. Tuy nhiên công trình mới chỉ đề cập đến khía cạnh phát triển nông
nghiệp nông thôn bền vững trong quá trinh công nghiệp hóa.
+ Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (2003) do PGS.TS
Nguyễn Sinh Cúc chủ biên, Nxb Thống kê. Công trình này đã khái quát một
cách tổng quan quá trình đổimới, phát triển nông nghiệp, nông thôn từ 1986
đến năm 2002; đặt ra một số vấn đề cần quan tâm trong phát triển nông
nghiệp, nông thôn thời gian tới.
+ Nông nghiệp Việt Nam trong phát triển bền vững, Nxb Chính trị
6
Quốc gia (2004), doTS Nguyễn Từ chủ biên. Đây là cuốn sách với nhiều bài
viết có giá trị bàn về vị trí và vai trò của ngành nông nghiệp trong sự phát
triển kinh tế bền vững chung của đất nước.
Đề tài “Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam”, Vũ Văn Nâm,
luận văn Thạc sỹ kinh tế. Đây là đề tài đã nêu khái quát về phát triển nông
nghiệp bền vững ở Việt Nam nói chung, chưa đề cập sâu tới các vùng, miền
và địa phương cụ thể,
Mặc dù, có nhiều công trình nghiên cứu về phát triển nông nghiệp bền
vững ở các góc độ khác nhau nhưng chưa có công trình nào đặt vấn đề nghiên
cứu cụ thể về nông nghiệp phát triển bền vững ở tỉnh Hưng Yên hiện nay
dưới góc độ kinh tế chính trị. Nói như vậy, đây là một đề tài mới, lần đầu tiên
đề cập một cách đầy đủ và hệ thống về phát triển bền vững trong nông nghiệp
ở tỉnh Hưng Yên hiện nay.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn tình hình phát triển bền
vững trong nông nghiệp ở tỉnh Hưng Yên giai đoạn hiện nay trên các góc độ:
Phát triển kinh tế, ổn định xã hội, bảo vệ tài nguyên môi trường ở tỉnh Hưng
Yên hiện nay.

- Đề xuất quan điểm, định hướng và những giải pháp cơ bản để phát
triển bền vững trong nông nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Nghiên cứu nông nghiệp phát triển bền vững của tỉnh Hưng Yên, tìm ra
những hạn chế và nguyên nhân để có những giải pháp nâng cao hiệu quả
trong việc phát triển bền vững trong nông nghiệp của tỉnh Hưng Yên. Với
mục tiêu nêu trên, luận văn hướng vào trả lời các câu hỏi sau:
7
Thế nào là phát triển bền vững trong nông nghiệp ?Nội dung của phát
triển bền vững trong nông nghiệp là gì? Những nhân tố cấu thành đến nông
nghiệp phát triển bền vững và những yếu tố tác động đến phát triển bền vững
trong nông nghiệp? Thế giới đã phát triển nông nghiệp bền vững như thế nào?
Việt Nam nói chung và tỉnh Hưng Yên nói riêng có thể vận dụng, học tập
những kinh nghiệm gì của họ? Thực tế những cơ hội và khó khăn, thách thức
của nông nghiệp Hưng Yên trong việc tiếp cận mô hình phát triển bền vững?
Và đâu là giải pháp cho những khó khăn này?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy đối tượng nghiên cứu là ngành sản xuất nông nghiệp bao
gồm: trồng trọt, chăn nuôi và các yếu tố có liên quan đến phát triển nông
nghiệp bền vững ở tỉnh Hưng Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu phát triển nông nghiệp bền vững ở tỉnh Hưng Yên
dưới góc độ kinh tế chính trị, không đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề có
tính vi mô của từng ngành cụ thể.
Đề tài nghiên cứu nông nghiệp phát triển bền vững giới hạn trong phạm
vi tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2008 - 2013.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam. Đồng thời
tiếp thu những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước
về phát triển nông nghiệp bền vững.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Luận văn dựa trên cơ sở thực tiễn là quy hoạch tổng thể phát triển kinh
8
tế - xã hội tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2010 - 2020 theo nghị quyết số 217/NQ -
HĐND ngày 13/12/2010 của HĐND tỉnh Hưng Yên, chiến lược phát triển tỉnh
Hưng Yên đến năm 2020, quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn tỉnh
Hưng Yên giai đoạn 2011 - 2015 định hướng đến năm 2020. Sử dụng các báo
cáo của Sở tài nguyên môi trường tỉnh Hưng Yên, Sở Lao động thương binh
xã hội tỉnh Hưng Yên và các báo cáo có liên quan khác.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, trừu tượng hóa khoa học.Ngoài ra, sử dụng phương pháp phân tích hệ
thống, thống kê, so sánh, tổng kết thực tiễn, điều tra xã hội học.
6. Những đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm rõ và cung cấp những căn cứ khoa học về phát triển
bền vững trong nông nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp có tính khả thi để các cấp chính quyền trong
tỉnh Hưng Yên vận dụng trong hoạch định chính sách; chỉ đạo thực hiện có
hiệu quả mục tiêu phát triển bền vững trong nông nghiệp theo chương trình
nghị sự 21 về định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, kết cấu của luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
TRONG NÔNG NGHIỆP

1.1. Phát triển bền vững trong nông nghiệp và những nội dung cơ
bản của nó
1.1.1. Khái niệm phát triển bền vững và phát triển bền vững trong
nông nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm phát triển bền vững
Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất năm 1992 tổ chức tại Rio Janeiro đã
đưa ra khái niệm vắn tắt về phát triển bền vững và được nhiều quốc gia sử
dụng đó là: “Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng những nhu
cầu của hiện tại mà không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế
hệ mai sau”. Hay nói cách khác: “Phát triển bền vững đó là sự phát triển hài
hòa cả về kinh tế, văn hóa xã hội, môi trường ở các thế hệ nhằm không ngừng
nâng cao chất lượng sống của con người”.
1.1.1.2. Khái niệm về phát triển bền vững trong nông nghiệp
- Theo G.A. Cô - dơ - lốp và S.P.Pe - Rơ - Vu - Sin và các tác giả của
cuốn Từ điển kinh tế do Nhà xuất bản Chính Trị quốc gia Liên Xô xuất bản
năm 1953, trong mục từ “nông nghiệp”, sau khi định nghĩa Nông nghiệp là
một nghành kinh tế quan trọng, còn cho rằng:
“Trong nông nghiệp việc sản xuất sản phẩm không những gắn liền
với quá trình kinh tế, mà cũng gắn liền với các quá trình tự nhiên
của tái sản xuất. Muốn kinh doanh nông nghiệp một cách đúng
đắn, điều quan trọng là hiểu biết và khéo vận dụng các quy luật
kinh tế của sự phát triển xã hội và các quy luật sinh vật học của sự
phát triển động vật và thực vật” [43,trang 385].
10
Cuốn từ điển này được viết và xuất bản trước khi nhân loại đề cập đến
khái niệm phát triển bền vững nhiều năm.Các tác giả cũng không hề đề cập
một từ nào về phát triển bền vững, nhưng nếu căn cứ vào những nội dung của
phát triển bền vững ngày nay, thì thực chất ở đây đã bàn về phát triển bền
vững trong nông nghiệp.
Theo quan điểm hiện đại về phát triển bền vững thì với cách đặt vấn đề

của tác giả “việc sản xuất sản phẩm không những gắn liền với các quá trình
kinh tế, mà cũng gắn liền với quá trình tự nhiên của tái sản xuất” và muốn
kinh doanh nông nghiệp tốt phải “hiểu biết” và “khéo sử dụng các quy luật
kinh tế của sự phát triển xã hội và các quy luật sinh học của sự phát triển
động vật và thực vật”. Bởi vì, khi một sự vật, hiện tượng hay quá trình vận
động tuân theo các quy luật kinh tế, xã hội, tự nhiên, tức là tuân thủ sự đòi hỏi
khách quan của sự phát triển thì thường đạt hiệu quả và do đó tồn tại và phát
triển ổn định, lâu dài, bền vững.
Theo Bill Mollison và Remy Mia slay thì nông nghiệp bền vững được
định nghĩa như sau: “việc thiết kế những hệ thống cư trú lâu bền của con
người: đó là một triết lý và một cách tiếp cận về việc sử dụng đất tạo ra mối
liên hệ chặt chẽ giữa tiểu khí hậu, cây hàng năm, cây lâu năm, súc vật, đất
nước và những nhu cầu của con người xây dựng những cộng đồng chặt chẽ
và có hiệu quả” [58]. Trong khái niệm này, các tác giả cũng đề cập đến vấn
đề kinh tế (cây hàng năm, cây lâu năm, súc vật, nhu cầu của con người, đến
vấn đề xã hội (xây dựng những cộng đồng), đến môi trường (sử dụng đất, khí
hậu). Theo tác giả, định nghĩa này chưa đạt đến tầm khái quát và hệ thống,
còn thuần túy từ góc nhìn của các nhà nông nghiệp, đặc biệt chưa làm rõ các
vấn đề kinh tế, xã hội, môi trường này cần đạt đến độ như thế nào thì sẽ là
nông nghiệp bền vững.
11
Theo GS,TS Võ Tòng Xuân - hiệu trưởng trường đại học An Giang thì:
“Có thể hiểu ngắn gọn khái niệm sản xuất nông nghiệp bền vững là
chúng ta cần chọn một biện pháp sản xuất để cây trồng, vật nuôi
của chúng ra tiếp tục cho chúng ta mỗi năm một lãi, chất lượng
nguồn nước và đất đai hàng năm vẫn được duy trì tốt để thế hệ con
cháu chúng ta tiếp tục được hưởng cái lợi tự đất và môi trường
nước….[24]
Khái niệm này thiên về các giải pháp kỹ thuật để sản xuất nông nghiệp
phát triển bền vững, chưa có cái nhìn tổng quan về phát triển một nền nông

nghiệp bền vững.
Theo tác giả Châu Minh Thương:
“Nông nghiệp bền vững là một hệ thống trong đó con người tồn tại và
sử dụng những nguồn năng lượng không độc hại, tiết kiệm và tái sinh
năng lượng, sử dụng nguồn tài nguyên phong phú của thiên nhiên mà
không liên tục phá hoại những nguồn tài nguyên đó. Nông nghiệp bền
vững không chỉ bảo vệ những hệ sinh thái đã có trong tự nhiên mà
còn tìm cách khôi phục những hệ sinh thái đã bị suy thoái” [14].
Quan niệm này cũng thiên về giải pháp kỹ thuật để nông nghiệp phát
triển bền vững.
Cổng thông tin điện tử của Chính Phủ, đã thống kê 10 khái niệm về
phát triển nông nghiệp bền vững, trong đó đáng lưu ý là các khái niệm số 6, 7
và 9. Khái niệm số 6 cho rằng: Phát triển nông nghiệp bền vững là sự phát
triển đáp ứng nhu cầu tăng trưởng chung của nền kinh tế nhưng không làm
suy thoái môi trường tự nhiên - con người, mà đảm bảo trên mức nghèo đói
của người nông thôn. Khái niệm số 7: Phát triển nông nghiệp bền vững là
đảm bảo an ninh lương thực, tăng cải tổ kinh tế, khắc phục nghèo đói và tạo
điều kiện tăng tốc độ công nghiệp hóa.
12
Khái niệm số 9: Phát triển nông nghiệp bền vững là cực đại hóa phúc
lợi hiện tại không làm giảm thiểu các phúc lợi ấy trong tương lai. Các khái
niệm này đã đề cập đến những giác độ khác nhau của phát triển nông nghiệp
bền vững, nhưng còn sa vào các nội dung cụ thể, chưa bao phủ, bao quát hoặc
khái quát hóa tới mức bỏ qua những nội dung cơ bàn của phạm trù.
Ta hiểu phát triển bền vững trong nông nghiệp là phát triển ngành nông
nghiệp trong trạng thái phát triển ổn định tăng trưởng cả về quy mô và tốc độ.
Hơn nữa, sự phát triển này được duy trì bởi các trạng thái cân bằng, trong đó
xác lập mối quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên. Ở đây, con người là
một bộ phận của tự nhiên, hoạt động theo các quy luật của tự nhiên không chỉ
khai thác tự nhiên mà còn hòa nhập vào tự nhiên, duy trì bồi bổ tự nhiên, ngăn

ngừa những tai biến dẫn đến phá hoại tự nhiên. Ngoài ra, sự hài hòa giữa con
người với tự nhiên chỉ được xác lập thực sự trong điều kiện sự hài hòa về lợi
ích giữa con người cới nhau trong một trật tự xã hội, bảo đảm cho loài người
như một bộ phận tự nhiên thống nhất. Với ý nghĩa đó, Phát triển bền vững
trong nông nghiệp là sự phát triển trong đó kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài
hòa giữa ba mặt của sự phát triển bao gồm kinh tế, xã hội và môi trường
trong nông nghiệp, nông thôn. Nghĩa là phải bảo đảm được hiệu quả lâu dài
về mặt kinh tế; không gây ra phân hóa giàu nghèo đồng thời không gây ra
những tệ nạn nghiêm trọng về mặt xã hội; sử dụng hợp lý các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, không làm cạn kiệt và hủy hoại chúng nhằm thỏa mãn
được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm ảnh hưởng tới các thế hệ
tương lai.
1.1.2. Nội dung của phát triển bền vững trong nông nghiệp
1.1.2.1. Phát triển bền vững trong nông nghiệp về kinh tế
Phát triển bền vững nông nghiệp về kinh tế là sự phát triển đảm bảo
tăng trưởng, ổn định, lâu dài về mặt kinh tế của nông nghiệp, góp phần tích
13
cực vào phát triển kinh tế của quốc gia cộng đồng.
Mục tiêu của phát triển bền vững về kinh tế là đạt được sự phát triển ổn
định với cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu nâng cao đời sống của người dân,
tránh được sự suy thoái và gánh nặng nợ nần cho thế hệ tương lai. Điều đó
được thể hiện:
- Sản xuất nông nghiệp phải đáp ứng nhu cầu xã hội về sản xuất nông
nghiệp gồm: gia tăng sản lượng, làm tăng giá trị sản phẩm hàng hóa, hàng hóa
sản xuất ra đáp ứng một phần nhu cầu sử dụng của người dân, chất lượng sản
phẩm phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của thị trường, trước hết là đảm bảo
tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Hiệu quả kinh tế của sản xuất nông nghiệp ngày càng cao, người nông
dân phải có sự đầu tư năng suất lao động, năng suất ruộng đất và năng suất
cây trồng, đảm bảo sản xuất ra một khối lượng hàng hóa lớn, đáp ứng được

yêu cầu tiêu dùng.
- Sử dụng hiệu quả các nguồn lực lao động, vốn, lựa chọn hình thức sản
xuất phù hợp để sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên, tăng năng suất.
Tăng trưởng là một yếu tố không thể thiếu trong phát triển bền vững
nói chung, và phát triển bền vững trong nông nghiệp nói riêng. Có tăng
trưởng cao, ổn định mới giải quyết được các vấn đề của xã hội do dân số tăng,
mức sống và nhu cầu tăng cùng các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội
khác….Nhưng tăng trưởng cao, bền vững không phải dựa vào việc khai thác
kiệt quệ các nguồn lực (vốn, đất đai, sức lao động…) mà phải dựa trên việc
ứng dụng các thành tựu mới về công nghệ sinh học; bảo quản và chế biến,
phát triển nông nghiệp sinh thái, bảo vệ thực vật. Muốn vậy, phải đẩy mạnh
CNH, HĐH trong sản xuất nông nghiệp….để có năng suất, chất lượng, hiệu
quả mà vẫn đảm bảo nuôi dưỡng, tái tạo, phát triển các nguồn lực cho sự phát
triển lâu dài.
14
Phát triển bền vững trong nông nghiệp là phát triển nền nông nghiệp,
trong đó, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn lực nhưng vẫn đảm bảo
tăng trưởng. Các nguồn lực chủ yếu cho phát triển bền vững trong nông
nghiệp bao gồm: vốn, sức lao động, đất đai, khoa học công nghệ. Sử dụng tiết
kiệm, có hiệu quả nguồn vốn thể hiện trước tiên ở chính sách đầu tư đúng
hướng, tập trung, không dàn trải và tăng cường quản lý không để tham nhũng,
thất thoát nguồn vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Đối với sức lao động, sử dụng tiết kiện, có hiệu quả chính là việc bố trí và
tổ chức sản xuất hợp lý, đảm bảo trong điều kiện lực lượng lao động trong nông
nghiệp giảm do tăng cường cho công nghiệp, dịch vụ và các ngành nghề khác
nhưng trong nông nghiệp vẫn phát triển. Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn lực
đất đai là nâng cao hệ số sử dụng đất, thực hiện trên một diện tích đất được quay
vòng sử dụng nghiều nhất và hiệu quả cao nhất nhưng không làm thoái hóa đất,
ô nhiễm môi trường đất. Sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn lực khoa học -
công nghệ là việc ứng dụng các thành tựu của nguồn lực này vào sản xuất tạo ra

năng suất, hiệu quả nhưng không lạm dụng, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái,
sức khỏe con người, chống lại các quy luật của tự nhiên.
Phát triển bền vững trong nông nghiệp là nền sản xuất nông nghiệp có
cơ cấu kinh tế hợp lý. Nói đến cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp là nói đến cơ
cấu giữa chăn nuôi và trồng trọt. Trong trồng trọt lại phân ra cơ cấu giữa cây
lương thực, cây rau mầu…trong chăn nuôi có cơ cấu giữa chăn nuôi gia súc,
gia cầm, thủy sản…cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý là cơ cấu đảm bảo tỷ
trọng phù hợp giữa chăn nuôi và trồng trọt, giữa các loại cây trồng, giữa chăn
nuôi các loại con…trên cơ sở lợi thế cạnh tranh và sự cân đối trong phát triển
nông nghiệp ở từng vùng, từng địa phương.
1.1.2.2. Phát triển bền vững trong nông nghiệp về xã hội
Phát triển bền vững trong nông nghiệp về xã hội đó chính là sự đóng
15
góp cụ thể của nông nghiệp cho phát triển xã hội, đảm bảo sự công bằng trong
phát triển.
Phát triển bền vững trong nông nghiệp là phát triển nền sản xuất
bảo đảm được công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập, tạo
được cơ sở vật chất cho phát triển nông thôn mới. Đây là nội dung rất
quan trọng của phát triển bền vững trong nông nghiệp, vì nông nghiệp là
ngành sử dụng nhiều lao động, nhưng lao động nông nghiệp lại có tính
chất thời vụ, thu nhập thấp, điều kiện sinh sống ở nông thôn khó khăn,
cho nên hiện tượng bỏ nghề nông đi tìm một công việc khác có thu nhập
cao hơn là một xu thế trong sự phát triển của xã hội, nhất là thời kỳ phát
triển công nghiệp. Xét cả về phương diện lý luận, trong mối quan hệ lợi
ích và thực tế ở các nước và Việt Nam đã chứng minh điều này. Vì thế,
một nội dung rất quan trọng và cũng là yêu cầu để phát triển bền vững
trong nông nghiệp là phải vừa đảm bảo việc làm cho người lao động nông
nghiệp có mức sống không được chênh lệch thấp quá so với mức sống
trung bình của cư dân đô thị và thường xuyên được cải thiện
Phát triển bền vững về xã hội sẽ đảm bảo cuộc sống của người nông

dân đạt kết quả ngày càng cao, nâng cao thu nhập, đảm bảo cuộc sống gia
đình, cải thiện chất lượng cuộc sống, góp phần xóa đói, giảm nghèo, giảm
khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp và nhóm xã hội, giảm các tệ nạn
xã hội, nâng cao trình độ văn minh về đời sống vật chất và tinh thần của
người nông dân.
Điều đó thể hiện ở các yếu tố sau:
+ Sử dụng hợp lý lao động, phát triển kinh tế nông nghiệp phải đi đôi
với giải quyết việc làm cho người lao động.
+ Phát triển kinh tế phải đi đôi với xóa đói giảm nghèo, đảm bảo ổn
định xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.
16
Phát triển bền vững trong nông nghiệp là phát triển một nền nông nghiệp
trong đó đòi hỏi trình độ của người lao động ngày càng cao. Yêu cầu của nông
nghiệp phát triển bền vững là sự phát triển vừa đảm bảo mục tiêu tăng trưởng
kinh tế vừa đảm bảo mục tiêu ổn định xã hội và bảo vệ môi trường. Trong khi
đó, người lao động là chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp. Do đó, muốn
phát triển bền vững trong nông nghiệp người lao động phải có trình độ kiến thức
khoa học kỹ thuật, kiến thức chính trị - xã hội, kiến thức bảo vệ môi trường nhất
định. Những kiến thức đó giúp cho họ ứng dụng vào trong sản xuất để phát triển
nông nghiệp bền vững. Đến lượt nó, sự phát triển bền vững trong nông nghiệp
lại đặt ra yêu cầu đòi hỏi người lao động có trình độ cao hơn.
1.1.2.3. Phát triển nông nghiệp bền vững về môi trường
Là phải khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên
nhiên, phòng ngừa ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường
Để phát triển bền vững trong nông nghiệp thì môi trường để phát triển
nông nghiệp cần đảm bảo các yếu tố như: duy trì độ màu mỡ của đất, độ ô
nhiễm của không khí, độ ô nhiễm của nguồn nước.
Phát triển nông nghiệp bền vững về môi trường là phát triển hàng hóa
nông sản đảm bảo an toàn cho người sử dụng không dư lượng thuốc bảo vệ
thực vật.

1.2. Các yếu tố cấu thành nông nghiệp phát triển bền vững và nhân tố
ảnh hưởng tới phát triển bền vững trong nông nghiệp
1.2.1. Các yếu tố lực lượng sản xuất trong cấu thành nông nghiệp
phát triển bền vững
- Trình độ phát triển và ứng dụng KHCN vào sản xuất, lưu thông và
chế biến nông phẩm hàng hóa. KHCN là một yếu tố của LLSX, ngày càng có
vai trò to lớn và trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi trong sản
17
xuất và trong đời sống, đúng như C.Mác dự đoán: “Khoa học trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, thành lực lượng sản xuất độc lập”[22,trang 145].
Trong nông nghiệp, yếu tố KHCN giữ vai trò rất quan trọng, quyết định đến
vấn đề năng suất, hiệu quả, bền vững. Bởi vì, nông nghiệp có một đặc điểm là
chịu sự tác động lớn của yếu tố thiên nhiên, kể cả sản xuất và bảo quản, chế
biến. Mức độ lệ thuộc vào thiên nhiên cũng sẽ giảm dần. Một nền nông
nghiệp tự nhiên (phụ thuộc hoàn toàn vào thiên) là nền nông nghiệp có trình
độ phát triển thấp, không bền vững và chịu tác động mù quáng của các quy
luật tự nhiên. Sự phát triển đó không từ nội tại nền nông nghiệp mà lệ thuộc
hoàn toàn vào yếu tố bên ngoài (thiên nhiên). Sự phát triển của KHCN giúp
con người ngăn ngừa được những tai biến thiên nhiên, làm chủ được thiên
nhiên, hạn chế được sự lệ thuộc của nông nghiệp vào yếu tố thiên nhiên, cho
phép phát triển nông nghiệp một cách chủ động, hiệu quả, tăng tính ổn định,
giữ được tốc độ phát triển theo hướng bền vững.
- Trình độ phát triển kỹ năng về khoa học công nghệ của người lao
động và nhà quản lý là một yếu tố quan trọng của LLSX trong nền nông
nghiệp phát triển bền vững
Nói đến LLSX, thì yếu tố quan trọng hàng đầu là người lao động với kỹ
năng lao động của họ (bao gồm cả lao động trực tiếp và lao động gián tiếp),
mà đối với nông nghiệp là người nông dân, những người lãnh đạo quản lý
HTX, lãnh đạo chỉ đạo sản xuất, lãnh đạo ứng dụng các thành tựu KHCN vào
sản xuất…Đây là chủ thể của quá trình phát triển, C.Mác đã viết “lực lượng

sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, người lao động”
[7,trang 42]. Lao động thuần túy, cơ bắp, không có kiến thức KHCN chỉ thích
ứng với nền nông nghiệp tự nhiên. Nông nghiệp phát triển bền vững phải dựa
trên cơ sở khoa học công nghệ phát triển cao. Nhưng để hiểu và đưa KHCN
vào sản xuất lại phụ thuộc vào trình độ nhận thức, tay nghề, khả năng ứng
18
dụng các thành tựu đó vào sản xuất của người lao động; khả năng tổ chức
phát triển KHCN và chỉ đạo đưa KHCN vào sản xuất của các nhà lãnh đạo,
quản lý. Vì vậy, đòi hỏi của việc phát triển bền vững trong nông nghiệp là
trình độ phát triển kỹ năng KHCNcủa người lao động và nhà quản lý càng
cao….
- Phát triển và hoàn thiện kết cấu hạ tầng nông nghiệp nông thôn
(điện, đường, trường, trạm, cơ giới hóa, thủy lợi hóa…)
Kết cấu hạ tầng có thể hiểu là những tư liệu lao động cấu thành LLSX
trong nông nghiệp. Theo C.Mác, tư liệu lao động là một trong những tiêu thức
cơ bản để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau. “Những thời đại kinh tế
khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản
xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào” [7,trang 269]. sự phát
triển kết cấu hạ tầng với tư cách là công cụ lao động giúp người lao động
trong nông nghiệp “nối dài bàn tay” và nhân lên sức mạnh lao động con
người; với tư cách là cơ sở vật chất phục vụ đời sống, thì sự phát triển kết cấu
hạ tầng giúp người nông dân – lực lượng lao động nông nghiệp yên tâm hơn
với nơi cư trú của mình là nông thôn và ngành nghề đã gắn bó với họ. Sự lạc
hậu, yếu kém của kết cấu hạ tầng nông nghiệp sẽ cản trở sự phát triển nông
nghiệp bền vững.
1.2.2. Các yếu tố quan hệ sản xuất trong cấu thành nông nghiệp phát
triển bền vững
- Mối quan hệ giữa quyền sử hữu và quyền sử dụng đối với tìa nguyên
(đất đai, nguồn nước…) và các nguồn lực khác được giải quyết tốt.
Quyền sử dụng là thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người

trong việc thực hiện quyền được khai thác, sử dụng của cải trong xã hội.
19
Trong nông nghiệp, quyền sở hữu dược thể hiện là quyền sở hữu đất đai,
quyền sử dụng được thể hiện ra là quyền sử dụng đất đai. Ở Việt Nam, thực hiện
sự nghiệp đổi mới, đã có sự tách bạch tương đối giữa 2 quyền sở hữu và quyền
sử dụng. Trong đó, đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân, Nhà nước thống nhất
quản lý, nhưng Nhà nước giao quyền sử dụng lâu dài cho hộ nông dân. Người
nông dân được toàn quyền sử dụng, chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa
kế, thế chấp đất đai theo quy định của pháp luật trong thời hạn Nhà nước giao
cho quyền sử dụng. Việc tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đã giải
quyết 2 vấn đề cơ bản cho phát triển bền vững trong nông nghiệp: một là, quyền
sở hữu đất đai vẫn là toàn dân, cho phép Nhà nước có thể sử dụng quyền sở hữu
đất đai này để can thiệp vào khi thấy quyền sử dụng dược dùng không đúng mục
đích, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nông nghiệp, hai là, người nông
dân với quyền sử dụng đất đai được luật pháp hóa, đã giải quyết được vấn đề cơ
bản của nông nghiệp là trả lại tư liệu sản xuât (đất đai) cho người nông dân, mối
quan hệ lợi ích được xác lập, cho phép người nông dân với những kinh nghiệm,
kỹ năng vốn có được toàn quyền khai thác nguồn lực đất đai cho phát triển nông
nghiệp toàn diện để thu địa tô chênh lệch II. Chính nhờ chính sách này, mà tạo
được bước đột phá trong phát triển nông nghiệp ở Việt Nam. Từ chỗ thiếu lương
thực cơ bản, Việt Nam phải nhập khẩu sang xuất khẩu lương thực mỗi năm từ 3
– 4 triệu tấn. Tuy nhiên, mỗi quan hệ giữa 2 quyền này nếu nhận thức và sử
dụng không đúng sẽ ảnh hưởng đế phát triển nông nghiệp bền vững. Khi Nhà
nước dùng quyền sử hữu can thiệp quá sâu như: giao quyền sử dụng trong thời
hạn quá ngắn, không ổn định, hạn chế quyền lợi của quyền sử dụng… dẫn đến
người được quyền sử dụng không đồng thời khai thác và bồi dưỡng tiềm năng
của đất đai, giảm hiệu quả sử dụng các nguồn lực (đất đai, rừng, nước…)nhưng
nếu buông lỏng quản lý quyền sở hữu, dẫn đến nhiều vi phạm trong thực hiện
quyền sử dụng như: dùng quyền sử dụng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
20

nghiệp sang làm nhà ở, phát triển tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ sai quy định…
làm thu hẹp diện tích đất nông nghiệp ảnh hưởng đến an ninh lương thực; khai
thác tài nguyên bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường nước….Do vậy, để phát triển
bền vững trong nông nghiệp phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu
và quyền sử dụng, chuyển đổi mục đích sử dụng sao cho lợi ích người nông dân
gắn bó chặt chẽ với quyền sử dụng, họ được toàn quyền khai thác tư liệu sản
xuất này theo quy định của pháp luật để phục vụ cho mục đích của họ; Nhà nước
bảo đảm quyền sở hữu để đất đai không cho sử dụng sai mục đích. Tức là phải
thực hiện giao đất lâu dài cho họ nông dân, còn Nhà nước tăng cường quản lý để
cho quyền sử đụng được thực hiện đúng mục đích.
- Các loại hình sở hữu trong nông nghiệp phát triển đa dạng và phù hợp
Nông nghiệp là lĩnh vực ở trình độ phát triển của LLSX chậm nhất so
với các lĩnh vực khác, tương ứng với nó phải tồn tại nhiều hình thức sở hữu
đa dạng với nhiều thành phần kinh tế khác nhau: kinh tế hộ gia đình cá thể,
kinh tế tiểu chủ, trang trại, kinh tế HTX; kinh tế Nhà nước (các nông, lâm
trường quốc doanh), kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước.
Kinh tế hộ gia đình là hình thức kinh tế cá thể,phù hợp với yêu cầu khai
thác có hiệu quả các tiềm năng về đất đai, vốn, sức lao động và tay nghề cá nhân
nhằm phát triển sản xuất ở những nơi có trình độ LLSX thấp,lạc hậu. Đó là
những tổ chức kinh tế của từng gia đình nông dân không tham gia HTX mà hoạt
động sản xuất, kinh doanh dựa vào vốn, sức lao động của bản thân và gia đình.
Kinh tế tiểu chủ, trang trại giống như kinh tế hộ gia đình, nhưng lớn
hơn về quy mô, sức sản xuất. Có tích tụ, tập trung sản xuất, thuê mướn lao
động, theo hướng sản xuất TBCN.
Kinh tế HTX là tổ chức hợp tác của những người lao động liên kết góp
vốn, góp sức, hoạt động theo nguyên tắc: “tự nguyện, dân chủ, bình đẳng,
21
cùng có lợi” để sản xuất, kinh doanh nông nghiệp và các ngành nghề khác
theo hướng dẫn của Nhà nước.
Kinh tế Nhà nước là các nông, lâm trường quốc doanh do nhà quản lý

và tổ chức sản xuất.
Kinh tế Tư bản tư nhân và kinh tế Tư bản nhà nước là những loại hình
doanh nghiệp tư nhân và những loại hình doanh nghiệp có vốn của tư nhân và
vốn của Nhà nước hoạt động trong nông nghiệp.
Sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là để phù hợp với sự phát triển
không đồng đều của LLSX nhằm thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững. Ở
Việt Nam hiện nay, các nông, lâm trường quốc doanh kiểu cũ sản xuất không
hiệu quả đã chuyển đổi theo hình thức khoán, giao rừng cho người lao động.
Nhà nước chỉ nắm vai trò quản lý; các loại hình kinh tế tư bản tư nhân, tư bản
nhà nước chưa phát triển ở nông nghiệp. Loại hình kinh tế hộ gia đình, hộ xã
viên, cá thể, phát triển mạnh, đây được coi là chủ thể chủ yếu của mô hình kinh
tế nông nghiệp, nông thôn; các loại hình kinh tế hợp tác dịch vụ (thay thế cho
các loại hình HTX sản xuất trước đây) là tổ chức HTX của người nông dân đóng
góp cổ phần, làm nhiệm vụ cung ứng những dịch vụ mà hộ gia đình không làm
được và làm không hiệu quả và cùng với chính quyền địa phương chăm lo sự
nghiệp phúc lợi xã hội và thực hiện nguyên tắc “tự nguyện, dân chủ, cùng có
lợi”các mô hình kinh tế trang trại đang phát triển ở nhiều nơi.
Việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các mô hình tổ chức kinh tế
trong nông nghiệp cho phù hợp với trình độ của LLSX sẽ thúc đẩy sản xuất
trong lĩnh vực này phát triển nhiều hơn, ổn định hơn và bền vững hơn. Thực
tiễn hơn 20 năm đổi mới của Việt Nam trên lĩnh vực nông nghiệp đã chứng
minh điều đó, từ một đất nước thiếu lương thực, phải nhập khẩu lương thực,
đến nay có xuất khẩu.
22
Thị trường hàng hóa trong nông nghiệp phát triển. Sự phát triển, mở rộng
thị trường cho phép mở ra khả năng tiêu thụ các sản phẩm nông sản hàng hóa mà
người nông dân tạo ra. Sự gia tăng nhu cầu của thị trường là động lực mạnh mẽ
thúc đẩy ngành nông nghiệp mở rộng sản xuất, thực hiện thâm canh, tăng vụ
cung cấp nhiều sản phẩm cho xã hội. Đồng thời, dưới sự tác động của quy luật
giá trị, quy luật cạnh tranh, buộc người sản xuất nông nghiệp phải biết khai thác

những lợi thế cạnh tranh, lựa chọn lĩnh vực sản xuất phù hợp, thường xuyên ứng
dụng KHCN, nhạy bén, năng động để tạo ra những sản phẩm nông nghiệp có
năng suất, chất lượng, hiệu quả đáp ứng ngày một tốt hơn yêu cầu của xã hội.
Như vậy, phát triển thị trường giúp sản xuất nông nghiệp không chỉ giải
quyết lương thực cơ bản cho người nông dân, mà còn tạo ra nhiều sản phẩm
hàng hóa phục vụ cho nhu cầu phát triển khác. Thị trường mở ra khả năng vô
cùng rộng lớn, cho phép phát triển tối đa năng lực sản xuất nông nghiệp chứ
không còn bó hẹp trong sản xuất manh mún, “tự cấp, tự túc” nữa, từ đó thúc đẩy
nông nghiệp tăng trưởng. Tăng trưởng là yếu tố cấu thành trong phát triển bền
vững. Cho nên, phát triển bền vững trong nông nghiệp không thể thiếu vai trò
của thị trường. Thông qua phát triển thị trường còn tạo ra sự giao lưu kinh tế,
văn hóa giữa các vùng, các địa phương trong nước và quốc tế, qua đó có điều
kiện học hỏi, tiếp thu những tri thức mới, những kinh nghiệm hay vào sản xuất,
nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của người dân.
Để phát triển thị trường hàng hóa trong nông nghiệp, vai trò của Nhà
nước rất quan trọng. Vai trò của Nhà nước thể hiện ở chỗ Nhà nước đề các
chủ trương, đường lối, cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy kinh tế thị trường
hàng hóa nông nghiệp phát triển và quản lý nền kinh tế thị trường hàng hóa
trong nông nghiệp phát triển theo đúng quỹ đạo của Nhà nước.
23
1.2.3. Các yếu tố về môi trường tự nhiên và xã hội cấu thành nông
nghiệp phát triển bền vững
Môi trường tự nhiên và xã hội cấu thành nội dung cơ bản nhất của nền
nông nghiệp phát triển bền vững, trong đó mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên được biểu hiện ở thái độ tích cực của con người đối với tự nhiên. Sự
phân biệt giữa nền nông nghiệp phát triển bền vững với không bền vững
chính là ở mối quan hệ này. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên không bao giờ thực hiện đơn lẻ mà là hành vi mang tính xã hội. Do đó,
nền nông nghiệp phát triển bền vững không thể không bao hàm mối quan hệ
giữa con người với con người, trong đó những quan hệ lành mạnh tích cực với

nhau trở thành điều kiện sống và tồn tại cho nền nông nghiệp phát triển bền
vững, thể hiện ở các điều kiện cơ bản sau:
- Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững và có hiệu quả các
nguồn tài nguyên thiên nhiên (khai thác đi lền với bổi dưỡng tự nhiên, giảm
thiểu và đi đến loại trừ ô nhiễm môi trường sống).
Các hoạt động khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững và có
hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên cho nền nông nghiệp phát triển bền
vững bao gồm: Chống tình trạng suy thoái đất nông nghiệp, sử dụng hiệu quả
và bền vững tài nguyên đất; bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài
nguyên nước; bảo vệ rừng, thực hiện các giải pháp tái tạo rừng, phủ xanh đất
trống, đồi núi trọc; quản lý việc sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, phân
bón, rác thải, chất thải từ nội tạng động thực vật ở những nơi chế biến; bảo
tồn đa dạng sinh học, thực hiện các biện pháp giảm nhẹ những ảnh hưởng có
hại do biến đổi khí hậu, tích cực phòng chống, thiên tai, phát triển nền nông
nghiệp sinh thái…
- Thành thị hóa nông thôn, xây dựng nông thôn văn minh loại trừ
những tiêu cực gây ô nhiễm môi trường xã hội. Nông thôn là môi trường sống
24
của nông dân, chủ thể của nền nông nghiệp phát triển bền vững. Phát triển
nông nghiệp bền vững thì đồng thời phải phát triển nông thôn bền vững. Xây
dựng nông thôn bền vững bao gồm các hoạt động: phát triển, hoàn thiện kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn, thực hiện thành thị hóa nông thôn;
tích cực xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông
dân; bài trừ các hủ tục lạc hậu, các tệ nạn xã hội, xây dựng nông thôn văn
minh….các hoạt động này tạo cho nông dân có cuộc sống ổn định gắn bó với
nông thôn, phát triển nông nghiệp bền vững.
- HTCT ở nông thôn vững mạnh. Việc tổ chức thực hiện xây dựng nông
nghiệp phát triển bền vững là ở cơ sở. HTCT ở nông thôn bao gồm cơ quan
hành chính (chính quyền), tổ chức đảng, các đoàn thể chính trị - xã hội là chủ
thể trực tiếp lãnh đạo, đưa phát triển bền vững vào trong cuộc sống. Cho nên

HTCT ở cơ sở là cực kỳ quan trọng. Vai trò của HTCT ở nông thôn thể hiện ở
chỗ trực tiếp tổ chức cho nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển nông nghiệp bền vững
vào thực tiễn cuộc sống. Các chủ trương, đường lối, chính sách dù có đúng
nhưng khâu thực hiện không tốt thì cũng chỉ dừng lại trên sách vở; đó chưa
tính đến thực hiện sai có thể dẫn tới phá hoại. Sự vững mạnh của HTCT ở
nông thôn là yếu tố chính trị - xã hội bảo đảm cho việc tổ chức thực hiện phát
triển bền vững tron nông nghiệp đạt được mục đích.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển bền vững trong nông nghiệp
Nông nghiệp phát triển bền vững chịu tác động của nhiều nhân tố,
nhưng khái quát lại có 03 nhóm nhân tố chính ảnh hưởng như sau:
1.2.4.1. Nhóm nhân tố về điều kiện tự nhiên
Những nhân tố về điều kiện tự nhiên bao gồm: điều kiện đất đai,thời
tiết, khí hậu, nguồn nước, rừng, khoáng sản và các yếu tố sinh học khác…có
ảnh hưởng rất lớn đến phát triển nông nghiệp bền vững, nhất là đối với các
25

×